SUY NIỆM LỜI CHÚA LỄ LÁ
TUẦN THÁNH VÀ PHỤC SINH
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT LỄ LÁ, NĂM B
Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Mc 14, 1-15, 47
* SUY
NIỆM TRƯỚC RƯỚC LÁ
1. Hôm
nay cùng với GH chúng ta tưởng niệm cuộc khải hoàn vào thành thánh Giêrusalem
của Chúa Giêsu, trước khi Người bước vào cuộc khổ nạn và chết trên thập giá.
Tin
mừng cho chúng ta biết lần đầu tiên Chúa Giêsu đã đồng ý để cho dân chúng chào
đón Ngài như là một vị Vua. Dân chúng cuồng nhiệt đến độ cởi cả áo mình ra để
trải trên đường cho Chúa đi qua, tay thì liên tục vẫy cành lá, miệng thì không
ngớt tung hô: “Hoan hô Chúa! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!
Vạn tuế Con vua Đavít!”. Dân chúng thực sự đã tôn vinh Đức Giêsu là
Vua, là Chúa nên họ đã chào đón Đức Giêsu như là một thần tượng vĩ đại của họ
vậy.
Qủa
thật Đức Giêsu là thần tượng, nhưng là thần tượng của hy sinh đến cùng vì
yêu thương con người. Mặc cho người đời có lật lọng tráo trở, thay lòng đổi dạ,
đổi trắng thay đen để rồi kết tội, chế giễu, nguyền rủa, đánh đòn, đóng đinh
Ngài vào thập giá thì Ngài vẫn cứ một lòng một dạ yêu thương con người cho đến
cùng.
Xin
Chúa cho chúng ta cảm nhận được tình yêu cao vời của Chúa mà sẵn sàng tin nhận
Đức Giêsu là Vua thật của lòng mình và là Thần Tượng duy nhất của cuộc đời ta.
Nhờ đó ta mới can đảm dấn thân hiệp hành theo Chúa trên con đường hy
sinh phục vụ mọi người bằng một tình yêu nhưng không, cho dẫu bản
thân mình phải chịu nhiều thiệt thòi và thương đau. Amen.
Anh
chị em thân mến, với những tâm tình đó,
Giờ
đây chúng ta hãy noi gương dân thành Giêrusalem mà hoan hỷ lên đường
nghênh đón Đức Kitô!
2. Nếu ví đời người là một cuộc hành trình, thì cuộc hành trình dương thế của Chúa Giêsu khá ngắn, chỉ vỏn vẹn có 33 năm. Trong đó có đến 30 năm Ngài sống ẩn dật tại miền quê Nagiaret, chỉ còn lại 3 năm sau hết, Ngài mới bôn ba khắp các nẻo đường Palestin để thi hành sứ mạng loan báo tin mừng, đem ơn cứu độ cho trần gian. Tuy nhiên đoạn hành trình ngắn ngủi ấy lại hết sức quan trọng. Bởi lẽ trên chặng đường cuối cùng ấy, Chúa Giêsu đã phải đối mặt với biết bao gian lao thử thách, cùng với những cung bậc cảm xúc vui buồn đan xen.
-
Vui vì khi tiến vào
thành thánh Giêrusalem, Ngài được dân chúng đón chào hồ hởi như một
vị Vua. Họ đã cầm những cành lá reo hò tung hô bằng những
mỹ từ tuyệt hảo: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh
Chúa!” (Tv 118,2b) Họ sẵn sàng cởi áo choàng mình
ra và chặt những nhành lá chiến thắng trải đường cho Đức Giêsu cưỡi lừa
con đi qua...
- Buồn vì
cho dẫu Đức Giêsu là một vị Vua đúng nghĩa, "Vua của hòa bình", "Vua chân lý",
"Vua của Tình Yêu". một vị Vua sẵn sàng sống và chết cho
tình yêu. Một vị Vua "đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người" ( Mc 10,45). Tuy nhiên, Ngài lại bị nhân thế chối từ, loại bỏ và giết chết, bởi lẽ Ngài không đáp ứng lại những yêu sách trần tục theo quan niệm ích kỉ của họ.
Lễ
Lá là dịp mời gọi chúng ta sống lại những cảm xúc vui buồn cùng với Chúa
Giêsu. Vui vì chúng ta may mắn tin vào Đức Giêsu là Vua
tình yêu. Buồn vì chúng ta thấy mình chưa sống hết tình với Chúa.
Chưa dám tiến bước trên con đường hy sinh phụng sự
Chúa; chưa tích cực sống hết tình và hết mình cho tha nhân theo gương Vua tình yêu. Buồn vì chúng ta chưa cảm nhận được niềm vui Tin mừng do Chúa mang đến nên còn ngại ngùng hiệp hành bước theo Chúa trên hành trình sống và minh chứng niềm
tin của mình.
Xin Chúa cho chúng ta cảm nhận được tình yêu cao vời của Chúa mà sẵn sàng tin nhận Đức Giêsu là Vua thật của lòng mình và là Thần Tượng duy nhất của cuộc đời ta. Nhờ đó ta mới can đảm dấn thân hiệp hành theo Chúa trên con đường hy sinh phục vụ mọi người bằng một tình yêu nhưng không, cho dẫu bản thân mình phải chịu nhiều thiệt thòi và thương đau. Amen.
3. Nghi thức làm phép và rước lá chiều hôm nay, gợi lên trong tôi hai suy nghĩ: tích cực và tiêu cực về hình ảnh của chiếc lá:
- Suy nghĩ tiêu
cực: Nhìn vào chiếc lá
ta thấy “có mặt trái mặt phải”. Điều này khiến ta nghĩ đến sự lật
lọng, tráo trở, thay lòng đổi dạ của con người. Thật vậy dân Do Thái ngày xưa, có
lúc thì hò reo tung hô Chúa là Vua, sau đó thì hò hét đòi đóng đinh Chúa Giêsu vào
thập giá; hôm nay thì yêu mến đến độ cởi cả áo ra để trải đường cho Chúa đi
qua, nhưng liền sau đó lại căm ghét lên án và hò hét đòi đóng đinh Ngài vào
thập giá.
Các tông đồ cũng
vậy, các ông đã thay lòng đổi dạ: Giuđa thì dùng nụ hôn để bán đứng Thầy mình;
Phêrô trước đó thì thề sống chết với Thầy nhưng sau đó lại chối bay, chối biến
là không biết Thầy.
Vậy còn lòng dạ chúng
ta đối với Chúa và với người khác thì sao? Chúng ta có thay lòng đổi dạ hay một
lòng một dạ yêu mến và trung tín với Chúa, với nhau cho đến cùng không hay chúng
ta cũng thay lòng đổi dạ khi hoàn cảnh đổi thay?
- Suy nghĩ tích
cực: để khuyến khích,
vận động con người yêu thương giúp đỡ nhau trong những lúc khó khăn hoạn nạn,
người đời thường hay nói “lá lành đùm lá rách”. Điều này
đúng với Chúa Giêsu. Bởi cho dẫu con người có lật lọng tráo trở, có thay lòng
đổi dạ thế nào đi nữa, thì Chúa Giêsu vẫn một lòng một dạ yêu thương con người đến
cùng. Lòng Chúa luôn mở rộng như chiếc lá để đùm bọc, cưu mang, ôm ấp nhân loại
khổ đau. Chúa đã chấp nhận mang lấy những bệnh tật, đau khổ và tội lỗi của con
người, sẵn sàng sinh nơi hang đá bò lừa, chấp nhận sống nghèo và chết đau
thương trên thập giá không mảnh vải che thân chỉ vì yêu thương chúng ta, chết
thay cho chúng ta và để cứu chuộc chúng ta.
Tạ ơn Chúa là
chiếc "lá lành đùm lá rách" là chúng ta. Xin cho mỗi chúng ta
đừng bao giờ trở thành “lá mặt lá trái”, nhưng hãy trở nên “lá lành đùm lá
rách” mà một lòng một dạ trung thành với Chúa và yêu thương nhau đến cùng, như
Chúa đã yêu thương và dành tất cả cho chúng ta.
Với những tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy noi gương dân thành Giêrusalem cầm lá trên tay mà hoan hỷ lên đường nghênh đón Đức Kitô!
* SUY
NIỆM TRONG THÁNH LỄ
Suy
niệm 1: ĐƯỜNG THẬP GIÁ, CON ĐƯỜNG TÌNH
Phụng
vụ Lời Chúa Lễ Lá hôm nay đã khắc họa đậm nét về dung mạo của một vị TC Giàu
Lòng Thương Xót dành cho chúng ta nơi Đức Giêsu Kitô:
-
Bài đọc 1, trích sách tiên tri Isaia: cho chúng ta
thấy rõ dung dạo của Người Tôi Trung TC. Người tôi trung này rất hiền lành và
khiêm nhượng trong lòng. Người đã đón nhận mọi sĩ nhục do người đời đối xử với
Người. Hình ảnh người tôi trung ấy mà ngôn sứ Isaia trình bày ấy không ai khác
đó chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Chúa Giêsu trong cuộc thương khó đã
phải chịu đánh đòn, bị chế nhạo, bị hành hạ, bị lăng nhục… bởi người đời, nhưng
Người đã chấp nhận tất cả chỉ vì vâng lời Chúa Cha và yêu thương nhân loại đến
cùng.
-
Bài đọc II, trích thư thánh Phaolô tông đồ gửi cho tín hữu Philipphê: Trong
đoạn thư này, thánh Phaolô trình bày cho biết Đức Giêsu chính là Ngôi Hai TC
làm người. Ngài không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với TC. Trái lại,
Người đã tự hủy mình ra không ngang qua việc mặc lấy thân phận tôi đòi, từ bỏ
trời cao xuống thế làm người để ở cùng chúng ta, nhằm cảm thông và chia sẻ kiếp
người với chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Qua cái chết đau thương trên thập giá,
Người đã chuộc lại tội lỗi cho nhân loại, đã phục hồi chức vị làm con TC mà con
người chúng ta đã đánh mất kể từ khi ông bà nguyên tổ phạm tội trong vườn địa
đàng năm xưa.
-
Bài thương khó hôm nay khá dài: trình thuật về
cuộc khổ nạn và cái chết đau thương của Chúa Giêsu trên thập tự giá. Trong biến
cố đau thương này, Tin mừng nêu bật những vấn đề xảy ra trong cuộc sống thường
ngày của nhân thế:.
Nếu
nhìn vào những năm tháng êm đềm khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin mừng, ai cũng
nghĩ rằng Giuđa, Phêrô và các tông đồ… chính là những người bạn tâm giao với
Thầy Giêsu, thì lẽ nào lại phản bội lại Thầy mình. Nhưng tình người thật trái
ngang, lòng người dễ đổi thay. Chính những môn đệ thân tín của Chúa Giêsu là
Giuđa Iscariô lại nhẫn tâm bán thầy; Phêrô thì nhác đảm chối bỏ thầy; còn
các môn đệ khác thì trốn chạy biệt tâm đang lúc Thầy mình gặp hoạn nạn; cả như
môn đệ Mar-cô cũng sợ hãi và bỏ chạy đến “tuột quần” khi Thầy mình bị bắt. Đúng
là như người đời đã nói: “khi hoạn nạn mới biết ai là bạn.”.
Nhưng
cũng thật an ủi vì cuộc đời vẫn còn đó những con người sẵn sàng sống trung tín
với thầy Giêsu. Tình yêu của họ thật tuyệt vời, đáng trân quý biết bao. Trong
số ấy phải kể đến tông đồ Gioan đã can đảm theo Chúa Giêsu đến tận chân thập
giá; như Mẹ Maria sẵn sàng thông phần đau khổ với con mình trên mọi nẻo đường;
như bà Maria Mađalêna, bà Maria mẹ của Giacôbê hậu và của Giuse, bà
Salômê… họ không ngần ngại bước theo Chúa đến cùng trên con đường thập
giá. Nổi bật nhất là khuôn mặt của ông Simon, quê ở Xy-rê-nê;
bà Vê-rô-ni-ca và ông Giu-se quê ở Arimathia dẫu không hề
quen biết Chúa Giêsu, nhưng họ lại sẵn lòng giúp đỡ Người với hết khả năng của
mình.
Nhưng
có lẽ điểm nhấn mà bài thương khó hôm nay muốn hướng đến
chính là tình yêu như trời biển mà TC dành cho nhân loại chúng
ta. Vì yêu thương nhân loại quá đỗi nên TC đã sẵn lòng ban Con Một của Ngài cho
chúng ta, để ở cùng chúng ta nên Người được gọi là “Đấng Emmanuel”.
Người đã chấp nhận mặc lấy thân phận con người, trở nên đồng thân, đồng phận và
đồng tử với chúng ta ngoại trừ tội lỗi, hầu cứu chuộc chúng ta khỏi án chết đời
đời trong đau khổ. Qủa đúng như lời thánh Gioan tông đồ đã nói: “Không
có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hi sinh
tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13).
Xin
cho mầu nhiệm thập giá, mầu nhiệm của tình yêu, một tình yêu hy sinh phục vụ
đến chết và chết trên thập giá được thấm nhập vào trong từng suy nghĩ, lời nói
và hành động của chúng ta, để mong sao dung mạo của một vị TC Giàu Lòng Thương
Xót ấy cũng được khắc họa qua đời sống khiêm nhường, hy sinh và tận tâm phục vụ
nơi mỗi người kitô hữu chúng ta hàng ngày trong cuộc sống.Amen.
Suy
niệm 2: “THƯƠNG KHÓ VÌ KHÓ THƯƠNG”
Tin
mừng hôm nay, tường thuật lại cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Nguyên nhân
dẫn đến cuộc “Thương khó” của Chúa Giêsu là vì Người trở nên “khó thương” đối
với nhiều người, thuộc mọi thành phần trong xã hội:
1.
Khó thương đối với dân Do Thái
Nhiều
lần dân chúng đã nhiệt liệt vỗ tay, tét đùi khi chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu
thực hiện: Trừ quỷ câm ( Lc11,1 4-23), cứu chữa con trai của viên sĩ quan ngoại
giáo (Ga 4,43-54), chữa người bất toại 38 năm được khỏi bên bờ hồ Bết-da-tha
(Ga,1-16), cho người mù từ lúc mới sinh được xem thấy (Ga 9,1-38) và cho
La-da-rô sống lại (Ga1,1-45).
Mới
hôm nào họ được no lòng thoả dạ khi chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra
nhiều, nuôi năm ngàn người ăn no nê.
Trước
đây, họ đã nức tiếng khen ngợi về những lời giảng dạy khôn ngoan của Chúa
Giêsu và tin nhận: “ông này thật là vị ngôn sứ”; kẻ khác
rằng “ông này là Đấng Kitô.” (Ga 7,40). Họ kháo nhau: “Ông
này không học hành gì mà sao lại thông thạo chữ nghĩa thế!” (Ga 7,15).
Và
mới đây, đám đông dân chúng thành Giêrusalem nô nức phấn khởi, trải áo choàng,
chặt những nhánh lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng
reo hò tung hô, họ dành cho Người một nghi lễ đón rước như là một vị vua vĩ đại
của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavít”; “Vạn tuế Đấng nhân
danh Thiên Chúa mà đến”. Thế mà liền sau đó họ lại chống đối, lên án
và la hét đòi "đóng đinh nó vào thập giá".
Trước
đây, Chúa Giêsu là thần tượng được dân chúng ngưỡng mộ yêu mến, thì trong
thời điểm “thương khó” này, Người lại trở thành nhân vật “khó thương” đối với
họ.
2.
Khó thương đối với giới chức lãnh đạo tôn giáo
- Vì
Chúa Giêsu đụng chạm đến uy tín họ:
Chúa
Giêsu nhiều lần lên án gắt gao lối sống giả hình của giới chức tôn giáo. Chỉ
chích họ giữ đạo hình thức, không có tâm tình yêu mến. Vạch mặt những việc
đạo đức giả của họ làm, cốt để lòe mắt thiên hạ. Khiến cho uy tính của họ
càng lúc bị lu mờ đi.
- Vì
Chúa Giêsu đã đụng chạm đến quyền lợi vật chất của họ:
Thu
nhập kinh tế của hàng ngũ giới chức tôn giáo chủ yếu nhờ vào việc buôn bán và đổi
tiền nơi đền thờ. Đặc biệt vào những ngày lễ lớn, nguồn thu nhập của họ và con
cháu họ rất lớn. Vậy mà Chúa Giêsu dám động đến nồi cơm của họ. Ngài đã đi vào
đền thờ đánh đuổi những con buôn và lật tung những bàn đổi tiền của họ. Người
còn thách thức: “Cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ
xây dựng lại.” Và tự xưng mình là Con Thiên Chúa (x. Mt 26,61; Mc
14,58).
Có
lẽ vì những lý do trên mà Chúa Giêsu đã trở nên nhân vật “khó thương” trong con
mắt của hàng lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ. Nên không lạ gì, họ quyết tâm lên
án tử Chúa Giêsu.
3.
Khó thương đối với giới chức lãnh đạo chính quyền
Để
tạo được sự đồng thuận đối với giới chức chính quyền, giới chức tôn
giáo đã gắn Chúa Giêsu vào tội chính trị. Họ tố cáo Chúa Giêsu đã xách
động dân chúng chống lại chính quyền: “Chúng tôi phát giác ra tên này
xách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xêda,
lại còn xưng mình là Mêsia, là vua nữa.” (Lc 23, 2).
Do
đó, Chúa Giêsu bị xem là nhân vật nguy hiểm đối với giới chức lãnh đạo của đế
quốc Rôma, vì có âm mưu lật đổ chính quyền và lãnh đạo dân chúng nổi dậy làm
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Chúa Giêsu đương nhiên trở thành đối tượng
nguy hiểm đối với các giới chức chính quyền. Nên cần phải tìm cách tiêu diệt
ngay!
4.
Khó thương đối với chính các môn đệ của mình
-
Chúa Giêsu đã trở nên khó thương trong mắt của môn đệ Giuđa: Giuđa, một
con người được Chúa yêu thương và chọn gọi làm môn đệ Ngài. Được Chúa dạy dỗ và
cho chứng kiến bao phép lạ Chúa làm. Được Chúa tín nhiệm giao cho làm thủ quỹ,
giữ túi tiền. Nhưng vì tham lam tiền của, say cuồng theo đuổi mục
tiêu chính trị là giải phóng dân tộc nên Giuđa đã phản lại thầy mình. Ông dùng
một cái hôn xảo trá để bán đứng thầy. Trong mắt ông, Chúa Giêsu đã
trở nên ông thầy “khó thương”, đáng để cho ông lợi dụng.
-
Phêrô cũng chẳng hơn gì! Tự hào về lòng trung tín đối với thầy: “Dù mọi
người có bỏ thầy, thì con sẽ không bỏ thầy”. Vậy mà ông đã dễ
dàng chối bỏ thầy mình trước một cô đầy tớ. Chẳng những chối một lần mà cả đến
ba lần. Không chỉ chối thầy mà còn chối bỏ cả nguồn gốc, quê hương xứ sở của
mình nữa. Với Chúa Giêsu, trong cuộc thương khó đã trở nên “khó thương” đối với
Phêrô thế sao!
-
Cũng như Giuđa và Phêrô, các tông đồ khác cũng đã được Chúa Giêsu hết lòng
thương yêu, dạy bảo. Được Chúa ban cho diễm phúc đồng thân, đồng phận với Chúa.
Nhưng vì sợ đồng tử nên các ông đã bỏ thầy mình trong lúc hoạn nạn, để chạy
thoát thân. Ôi, thầy Giêsu "khó thương" đến thế sao!
5.
Khó thương đối với cả chúng ta nữa:
Nếu
xưa kia, Chúa Giêsu trở nên “khó thương” trong mắt mọi người, thuộc mọi thành
phần. Từ giới chức tôn giáo đến quan chức lãnh đạo đời. Từ dân chúng bình dân
đến giới trí thức kinh sư, luật sĩ. Từ những bà con làng xóm đến những môn đệ
thân tín. Thì ngày nay, Chúa Giêsu cũng có thể trở nên “khó thương” đối với
nhiều người trong chúng ta:
-
Như Giuđa, Chúa Giêsu trở nên “khó thương” đối với chúng ta. Bởi vì Ngài không
đáp ứng được những yêu sách đòi hỏi của chúng ta, khi ngăn cản lòng
tham lam và những việc làm giả dối của chúng ta.
-
Giống như Phêrô, Chúa Giêsu trở nên “khó thương” với chúng ta, vì Ngài bắt tôi
phải trung thành với Ngài trong việc tuân giữ Lề Luật và Giáo huấn của
Ngài. Ngài còn đòi hỏi tôi phải thể hiện niềm tin trước mặt mọi người. Trong
khi tôi đang sống trong xã hội vô thần. Ôi khó biết bao!
-
Như giới chức tôn giáo, tôi cảm thấy khó chịu. Bởi vì lời dạy của Ngài
ngăn cản lối sống gian dối và giả hình của tôi. Đã lên án tính kiêu căng tự mãn
và công kính mạnh mẽ đến những việc làm sai trái của tôi.
-
Cũng giống như giới chức chính quyền, nhiều lúc tôi không có chút cảm
tình với Chúa Giêsu. Bởi Ngài chính là đối tượng nguy hại, ảnh
hưởng đến cuộc đời tôi. Chính vì Ngài mà tôi bị loại ra khỏi
hàng ngũ lãnh đạo xã hội. Vì Ngài mà tôi mất đi cơ hội ngồi vào chiếc ghế quyền
lực chính trị. Vì Ngài mà tôi mất đi việc béo bở…. Vì thế tôi cần phải đánh
chéo tên Giêsu trên văn bản và loại trừ Người ra khỏi cuộc đời tôi.
-
Tệ hại hơn, giống như đám đông dân chúng, tôi cũng nông nổi nhẹ dạ, dễ nghe
theo dư luận, hùa theo đám đông lúc thì vỗ tay ủng hộ đạo thánh
Chúa, lúc thì gào thét đả đảo Giáo Hội Chúa. Vì chức quyền,
danh vọng, tiền bạc… tôi sẵn sàng bất trung với Chúa và vì lợi ích mau qua tôi
sẵng sàng chống lại Thiên Chúa.
Một
nỗi buồn thấm thía, sao Chúa lại trở nên “khó thương” và bị bạc bẽo đến mức như
vậy!
Suy
niệm 3:
Ngày
xưa, có 2 anh em nọ sống trong cùng một căn nhà. Người anh rất tốt lành, siêng
năng làm việc và kính sợ TC. Còn đứa em thì lọc lừa, gian manh, và phạm đủ mọi
thứ tội ác. Một đêm nọ, đứa em chạy về nhà, quần áo đính đầy máu. Nó tự thú với
người anh: “em đã phạm tội giết người”. Vài phút sau đó,
căn nhà đã bị cảnh sát bao vây, không còn cách nào trốn thoát được. Đứa em
rất sợ hãi nói rằng: “em không có ý giết người” và “em cũng không muốn
chết”. Ngay lúc đó có tiếng cảnh sát gõ cửa. Người anh liền cởi quần áo
mình ra cho đứa em mặc vào và lấy bộ quần áo đang dính đầy máu của đứa em
mặc vào mình. Sau đó cảnh sát xông vào nhà, cồng tay người anh và bắt đi
giam giữ chờ ngày xét xử. Sau cùng người anh đã bị tòa kết án tử hình,
chết thay cho đứa em.
Câu
chuyện trên giúp chúng ta hiểu được phần nào về tình yêu tột cùng mà Chúa Giêsu
dành cho nhân loại chúng ta. Tuy Người vô tội, nhưng
Người lại sẵn sàng mặc lấy thân phận tội lỗi con người chúng ta và đã
chấp nhận chịu chết đau thương trên thập giá để đền tội thay cho chúng
ta.
Chúng
ta vừa nghe lại bài thương khó khá dài, trình thuật lại cuộc khổ nạn
và cái chết thảm thương của Chúa Giêsu. Khi để tâm theo dõi và
suy niệm cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta nhận
ra rằng không ai trong chúng ta là vô tội trước cái
chết của Chúa Giêsu.
REMBRANDT,
một hoạ sĩ tài danh thế giới, người Hoà Lan đã vẽ lại bức
tranh về “Ba Cây Thập Tự” rất nổi tiếng. Những ai có
dịp đến chiêm ngắm bức tranh này thì đều bị thu hút vào 3 cây
thập giá. Bởi giữa hai cây thập giá treo 2 tên gian phi là
thập giá treo Chúa Giêsu được vươn cao hơn. Và bên dưới chân thập giá của
Chúa Giêsu là cả một rừng người, nhưng lạ thay trên khuôn mặt ai
nấy đều tỏ lộ một vẻ căm thù và oán hận. Đặc biệt trong số những khuôn mặt đó lại có cả khuôn
mặt của chính tác giả bức tranh ấy.
Qua tác
phẩm đó, một mặt tác giả Rembrandt như muốn nói với chúng ta
rằng: không ai là vô tội trước cái chết đau thương của Đức Giêsu trên
thập giá. Có thể tôi là Giuđa, Phêrô, Philatô, Caipha, quân lính, đám đông hay
những nhà chức trách trong đạo ngoài đời…tất cả đều tham gia vào vụ án giết
Chúa Giêsu. Mặt khác tác giả cũng nói cho ta hiểu rằng vì quá yêu thương chúng
ta nên Chúa Giêsu đã xuống thế làm người, mặc lấy thân phận tôi
đòi, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi để gánh lấy tội lỗi
và chết thay cho chúng ta, cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Nên mỗi người
trong chúng ta đều là hiện thân của Chúa. Vì thế, khi ta giúp đỡ cho ai đó,
là chúng ta đang giúp cho chính Chúa vậy.
Ngày
nay chung quanh chúng ta vẫn còn đó những Đức Kitô nơi những người nghèo khổ,
bệnh tật. Họ là những người mắc bệnh nan y không tiền chữa trị; họ là
những người bị vụ khống, bị tù đày cách bất công; họ là những người đau
khổ què quặt, đui mù, câm điếc không cơm ăn áo mặc, không chốn nương thân...Đó
chính là những hình ảnh của Chúa Giêsu đang bị bỏ rơi trên thập giá, đang
mong đợi chúng ta an ủi và giúp đỡ họ cách tận tình.
Chúng
ta thường tự hỏi, với khả năng hạn hẹp và giới hạn của mình, ta có thể làm được
gì? Chắc hẳn ta không thể làm được những điều vĩ đại để làm tan
biến hết những khổ đau cho tha nhân, nhưng chúng ta vẫn có thể thực hiện
những điều bé nhỏ làm vơi đi một phần gánh nặng của anh chị em mình bằng
những hành động cụ thể như: cảm thông với những ai nghèo
khổ giống như các phụ nữ Giêrusalem xưa đã đi
theo và khóc thương Chúa Giêsu trên con đường thập giá. Chúng ta
có thể trợ giúp tha nhân như ông Simon đã kê vai vác đỡ
thập giá nặng nề với Chúa. Chúng ta có thể an ủi những
ai đau khổ như bà Vêrônica trao khăn cho Chúa lau mặt khi đẩm mồ hôi
và máu. Chúng ta cũng có thể lên tiếng bênh vực những ai đang
gặp bất công như người trộm lành bên hữu
Chúa. Chúng ta cũng có thể cảm thông với sự đau khổ
của anh em mình như Mẹ Maria, như môn đệ Gioan và các bà
đạo đức…Tất cả họ đã hiệp hành theo Chúa đến cùng và đã kiên trung đứng
dưới chân thập giá Chúa cho đến giây phút cuối cùng để đồng cảm, an ủi, đỡ nâng.
Xin
cho chúng ta khi bước vào tuần thánh, biết can đảm chết đi cho con người cũ
của mình với những tính hư nết xấu và tội lỗi và sống lại con người mới
trong Chúa Kitô bằng cách tích cực tham gia vào các việc đạo đức chung, siêng
năng cầu nguyện, chu toàn tốt giờ kinh hôm kinh mai nơi gia đình, thường xuyên
đến nhà thờ tham dự thánh lễ và rước lễ sốt sắng, nhất là biết nhiệt tâm làm
việc bác ái tông đồ nhằm đáp lại phần nào tình yêu mà Chúa dành cho ta. Nhờ
thế, ta mới xứng đáng đáng được Chúa ban dồi dào ân sủng, phúc lành, niềm vui
phục sinh như lời Chúa đã hứa ban cho người trộm lành có
lòng ăn năn hối cải vì đã đặt trọn niềm tin yêu vào Chúa. Amen.
Suy
niệm 4:
Hôm
nay Chúa nhật Lễ Lá, là ngày Giáo Hội kỷ niệm dân Do Thái ngày xưa đã đón Đức
Chúa Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem cách long trọng, và để mở đầu cho cuộc
thương khó của Đức Chúa Giê-su vì yêu thương nhân loại mà phải chịu chết trên
thánh giá. Ý nghĩa của ngày lễ Lá là như thế, nhưng tâm tình của bạn và tôi
cũng như của những người Ki-tô hữu khác trong thánh lễ này lại mang tâm trạng
khác, tôi xin chia sẻ với bạn những tâm tình này:
1.
Tình cảm của con người.
Bạn
có thấy tình cảm của con người không, cụ thể là người Do Thái đối với Đức Chúa
Giê-su đó, hôm nay tình cảm họ dành cho Ngài thật dạt dào trân trọng, họ tôn
sùng Ngài cách cuồng nhiệt, và nếu giờ phút ấy Đức Chúa Giê-su xách động quần
chúng đứng lên lật đổ nhà vua, đuổi quân Rô-ma ra khỏi đất nước, thì chắc quần
chúng vẫn nghe theo, nhưng Đức Chúa Giê-su không làm như thế, bởi vì Ngài biết
lòng dạ của người dân, tình cảm của con người hay thay đổi, nay trắng mai đen,
nay hoan hô mai đả đảo.
Tình
cảm của dân Do Thái hôm qua cũng là tình cảm của bạn và tôi hôm nay, giống nhau
như đúc ở sự hay thay đổi: thích thì hoan hô, không thích thì đả đảo, dù cho
đối tượng là người tốt hay người vô tội.
2.
Sự khiêm hạ và hiền hòa của Đức Chúa Giê-su.
Trước
một đám người cuồng nhiệt hoan hô mình, Đức Chúa Giê-su biết đó chỉ là sự phấn
chấn nhất thời của họ, và ngày mai chính họ sẽ lên án mình cách bất công, nhưng
Ngài vẫn cứ đón nhận lời tung hô của họ mà không cau có, dỗi hờn hay chỉ trích.
Thái độ hiền hòa ngồi trên mình lừa mẹ tiến vào thành Giê-ru-sa-lem của Đức
Chúa Giê-su đã nói lên tất cả sự khiêm cung của Ngài, chính những lời tung hô
“vạn tuế con Vua Đa-vít” “Đấng ngự đến nhân danh Chúa” của người Do Thái như
một lời tiên tri ứng nghiệm nơi Ngài, Đấng Thiên Chúa làm người.
Sự
khiêm cung và hiền hòa của Đức Chúa Giê-su là một bài học cho chúng ta, khi
chúng ta biết bạn bè chơi khăm mình thì nhất định sẽ nổi giận và không thèm
tham gia với họ, khi chúng ta biết những lời khen ngợi của mọi người chỉ là lời
khen giả tạo và hàm ý chê bai, thì chúng ta đùng đùng nổi giận...
Bạn
thân mến,
Chúa
nhật lễ lá là bắt đầu tuần thánh mà cao điểm là Tam Nhật Vượt Qua, Giáo Hội cho
chúng ta nghe tường thuật bài Thương Khó của Đức Chúa Giê-su trong ngày chúa
nhật Lễ Lá, là để cho bạn và tôi cùng chia sẻ với những đau khổ của Ngài đã
chịu vì yêu thương bạn và tôi, cũng như yêu thương nhân loại. Và cũng để cho
bạn và tôi học được bài học khiêm tốn và hiền hòa nơi Đức Chúa Giê-su, Đấng
từng tuyên bố mình là Đấng hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.
Xin
Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài,
csjb.
Suy
niệm 5:
Bài tin
mừng rước lá hôm nay, thuật lại sự kiện Đức Giê-su khải hoàn vào
thành Giê-ru-sa-lem như một vị Vua Thiên Sai, Ngài được dân chúng theo sau
hoan hô như đón mừng một ông vua khải hoàn vào thành, hầu ứng nghiệm
lời sấm của ngôn sứ Gia-ca-ri-a.
Vào thời
Đức Giê-su, nhiều người Do thái đang chờ mong Đấng Thiên Sai đến để
lãnh đạo dân đánh đuổi quân Rô-ma ra khỏi bờ cõi Do thái và thiết lập
một Triều Đại Mới, giống như triều đại của vua Đa-vít và vua Sa-lô-mon
xưa. Nhưng thực ra sứ mệnh cứu thế của Đức Giê-su không phải như dân Do
thái đang trông đợi.
Người là
Đấng Thiên Sai nhưng là ông Vua “Mục Tử tốt lành, hiền hậu và khiêm
nhường”. Người đã xưng mình là Vua trước mặt quan Tổng Trấn Phi-la-tô, khi hai
tay đang bị trói, thân thể bị đòn đánh tan nát; khi phải đứng trước tòa án như
một tội nhân. Danh hiệu Vua của Chúa Giê-su được ghi bằng dòng chữ viết tắt
“INRI” gắn trên cây thập giá, nghĩa là : “Giê-su Na-da-rét Vua dân Do thái”.
Đức Giê-su
chính là Vua nhưng không phải như một ông Vua trần tục, đòi được người khác hầu
hạ, nhưng là ông Vua Mục Tử Tốt Lành, hiền hậu và khiêm nhường :
-
Là Vua Mục Tử : Người biết rõ đàn chiên,
yêu thương mọi con chiên và chăm sóc từng con, nhất là sẵn sàng đi tìm những
con đi hoang, băng bó những con bị thương tích, âu yếm và vác chúng trên vai mà
đưa về đàn. Ngày nay Người yêu thương đàn chiên Hội Thánh và yêu đến tột cùng,
khi thiết lập bí tích Thánh Thể để ở với Hội Thánh mọi ngày và trở nên lương
thực thần linh nuôi dưỡng Hội Thánh. Người cũng nêu gương khiêm nhường cho
chúng ta, và mời gọi chúng ta hãy học nơi Người sự hiền lành và khiêm nhường
trong lòng.
-
Là Vua Hòa Bình : Người không ngồi trên ngựa
chiến uy quyền khải hoàn vào thành thánh Giê-ru-sa-lem, nhưng khiêm tốn ngồi
trên con lừa. Người đến không để kết án và trừng phạt tội nhân, nhưng để
yêu thương, tha thứ cho những tội nhân thực lòng sám hối ăn năn như tha
tội người trộm lành trên cây thập tự.
Người là
Vua Mục Tử bảo vệ đàn chiên và sẵn sàng chịu chết để cho chiên được sống và
sống dồi dào.
Vậy chúng
ta ngày hôm nay sẽ làm gì để đáp lại tình thương vô biên của Vua Giê-su ?
+ Siêng
năng cầu nguyện : Lý do Tông
đồ Phê-rô sa ngã và hèn nhát chối Thầy ba lần là vì quá tự tin vào
sức riêng hơn tin cậy vào ơn Chúa, đã ăn uống no say và không theo lời Thầy
dạy :” Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”.
+ Luôn vâng
theo thánh ý Chúa Cha : Khi
gặp rủi ro, bệnh tật và những điều trái ý cực lòng, chúng ta hãy xin
vâng theo ý Chúa Cha. Tránh đi coi bói toán, tin vào bùa phép và các
thứ mê tín khác… Hãy xin Chúa thêm sức mạnh giúp chúng ta chấp nhận
những đau khổ không thể tránh khỏi, coi đau khổ gặp phải như phương thế
để đền tội mình và góp phần cứu rỗi anh em.
+ Không
cố tình phạm tội như Giu-đa,
vì sẽ bị phạt chung số phận với ma quỷ như lời Chúa phán : “Khốn cho kẻ
nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì hơn”.
+ Sẵn
sàng tha thứ cho những ai có lỗi với mình như lời kinh
Lạy Cha dạy, noi gương Chúa Giê-su đã tha thứ cho Phê-rô sau khi ông chối Thầy
ba lần; hãy năng cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ làm hại mình noi gương
Chúa Giê-su đã xin Cha tha cho những kẻ làm khốn mình.
+ Luôn
giữ bình tĩnh và dùng tình thương để hoán cải kẻ thù, noi
gương Chúa Giê-su đã ứng xử với Giu-đa khi anh ta hôn mặt để nộp Người cho kẻ
thù.
+ Kiên
nhẫn chịu đựng khi bị khích bác, noi gương
Chúa Giê-su đã im lặng chịu đựng trước những lời hò hét đả đảo của đám đông
cuồng nộ.
+ Thực
lòng sám hối và tin yêu Chúa noi gương kẻ
trộm lành trên cây thập tự khi trách bạn : “Mi chịu cùng một án, mà mi
chẳng sợ Thiên Chúa sao ? Phần chúng ta, bị như thế này là đích đáng, vì xứng
với tội ta đã làm. Còn ông Giê-su này đâu có làm điều gì xấu ?” và cầu
xin Chúa Giê-su : “Lạy ông Giê-su. Khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến
tôi cùng”. Chúa Giê-su đã lập tức tha tội và ban ơn cứu độ cho anh khi phán: “Ta
bảo thật. Ngay hôm nay anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với Ta”.
+ Quyết
tâm loại
trừ tính ghen tị, ganh ghét : Sau
cùng, mỗi người chúng ta hãy quyết tâm loại trừ tính ganh ghét những ai hơn
mình, để tránh phạm thêm tội ác khác như các đầu mục Do Thái xưa đã ganh ghét
và giết hại Chúa Giê-su. (St)
Suy niệm 6:
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay là cánh cửa mở ra tuần Thương Khó,
kiể niệm lại cuộc thương khó của Chúa Giê-su đã chịu vì tội lỗi của nhân loại
và của mỗi chúng ta. Trong tuần này Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng nhau chia sẻ
những đau khổ của Chúa Giê-su đã chịu từ khi vào thành Giê-ru-sa-lem cho đến
khi Ngài trút hơi thở cuối cùng trên thập giá.
Nếu ai trong chúng ta đã từng bị hiểu lầm, đã từng bị kết
án cách bất công, hay đã hơn một lần nếm mùi nhục nhã trước những người đã chịu
ơn mình, nhưng bây giờ lại phản bội, đấu tố hãm hại lại mình, thì mới cảm nhận
được thế nào đau khổ trong tâm hồn của Chúa Giê-su.
Mới đó, Ngài đã được đặt trên mình lừa con tiến vào thành
thánh Gierusalem và được dân chúng cởi áo lót đường đi, được tung hô: “vạn
tuế, vạn tuế”, và được tuyên xưng là “Đấng nhân danh Thiên Chúa mà
đến...” thật oai hùng như một vị vua. Nhưng liền sau đó, Chúa Giê-su
lại phải đau buồn đến nỗi linh hồn Ngài phải chết được, vì thấy rằng chính
những con người cầm những cành lá tung hô vạn tuế Ngài trước đó, thì nay lại
vung nắm tay la hét chống đối và tố cáo Ngài trước tòa án Phi-la-tô: “đóng
đinh nó vào thập giá”.
Khi suy gẫm về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta,
mới cảm nhận được nhân tình thế thái là dường nào! Trách người không bằng trách
mình, rất có thể chúng ta cũng đối xử như thế đối với Chúa. Đó là khi chúng ta
cũng hùa theo hiệu ứng của đám đông la to hét lớn đòi đóng đinh Chúa của chúng
ta vào thập giá mỗi khi chúng ta cố tình phạm tội, hay không dám can đảm sống
và làm chứng cho niềm tin của mình. Chắc chắn khi ấy Chúa Giê-su rất đau khổ
bởi vì Ngài nhìn thấy chúng ta đang sống nhưng tâm hồn như đã chết, vì sa vào
những cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt.
Trong suốt những năm ở trần gian, Chúa Giê-su đã không
ngừng thi ân giáng phúc cho những người Do Thái, nhưng Ngài đã phí công vô ích,
bởi lẽ những người mà Ngài đã hết lòng yêu thương, ban ơn giáng phúc, giờ đây
lại nhẫn tâm kết án tử cho Ngài. Nhưng Ngài lại không oán hận, bởi Ngài tin
chắc rằng với máu Ngài đổ ra, với những cực hình mà Ngài phải chịu, và với cái
chết nhục nhã trên thập giá, Ngài sẽ cứu chuộc chúng ta là những người đang
sống nhưng tâm hồn đã chết, sẽ cùng được sống lại với Ngài.
Bài Thương Khó mà chúng ta vừa nghe, đã khiến cho nhiều tâm
hồn tội lỗi trở lại đường ngay nẻo chính, nó cũng đã đánh động nhiều tâm hồn
kiêu ngạo chỉ biết kết án tha nhân giờ biết khiêm tốn kết án chính mình.
Trong Tuần Thánh này chúng ta học hỏi Chúa Giê-su những bài học cao quý sau: không oán trách người hiểu lầm mình, không trả thù những kẻ vô ơn, không giận ghét người bạc nghĩa, không nói xấu người chỉ trích mình.v.v... đó những là việc làm tích cực nhất của chúng ta cần phải thể hiện trong đời sống thường ngày để xoa dịu nỗi đau của Chúa phãi chịu và chúng ta, và đó cũng chính là tâm tình cần phải có của mỗi chúng ta vì chúng ta được mang danh của Ngài, là kitô hữu trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội. (St)
Suy niệm 7: LỄ LÁ THẬT LÀ LẠ
Chúa Nhật Lễ Lá cho thấy dân
chúng cuồng nhiệt reo hò tung hô Đức Giêsu là vua là Chúa long trọng tiến vào
thành Giêrusalem. Và chính Ngài cũng khẳng định mình là vua. Nhưng thật là lạ:
Ngài là Chúa mà quá đỗi khiêm nhường, Ngài là vua mà lại chịu đau thương tột độ.
1. Khiêm nhường. Khi Chúa tiến vào thành, dân chúng reo hò tung hô: Vạn tuế
con vua Đavít! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa ngự đến! Dân chúng tôn vinh Đức
Giêsu là vua, là Chúa, vậy mà Ngài lại khiêm nhường cưỡi trên con lừa con vào
thành. Bài đọc 2 nói rõ: Ngài đích thực là Thiên Chúa mà lại khiêm nhường hoàn
toàn trút bỏ vinh quang để mặc lấy thân nô lệ giống người trần thế. Ngài lại
còn hạ mình đến nỗi bằng lòng chịu chết. Là vua Chúa mà quá đỗi khiêm nhường.
2. Đau thương. Đức Giêsu là vua là Chúa nhưng không chăm lo cho mình vinh
thân phì gia, mà lại hy sinh quên mình chăm lo nhân loại. Thay vì trừng phạt
nhân loại tội lỗi, thì Chúa Giêsu lại gánh lấy tất cả những đau thương của nhân
loại vào thân mình: Ngài sẵn lòng chịu phản bội, vu cáo, nhục mạ, nguyền rủa, kết
án, đánh đòn, đóng đinh vào thánh giá. Chúa gánh lấy mọi đau thương để bày tỏ
tình yêu thương đích thực là hy sinh quên mình để đem hạnh phúc sự sống cho người
mình yêu.
Cuộc rước của Lễ Lá diễn tả
chúng ta bước vào Tuần Thánh, bước đi theo con đường Chúa đi. Đó là con đường
khiêm nhường và đau thương, con đường của hủy mình ra không và hy sinh quên
mình. Đó là con đường của tình yêu thương đích thực. Đấy là lối sống của hạt giống
chịu vùi sâu trong bùn, chịu mục nát chết đi, để rồi sinh nhiều bông hạt. Sống
mầu nhiệm Vượt Qua là như thế. Amen.
Lm. Nguyễn Xuân Trường
Thứ hai: Lc 1, 26-38
25/ 03: LỄ TRUYỀN
TIN
Cùng với Giáo Hội,
hôm nay chúng ta long trọng mừng Lễ Truyền Tin. Kỷ niệm biến cố Thiên Thần
Gabriel truyền tin cho Đức Maria, khởi đầu cho chương trình cứu độ đầy yêu
thương của Thiên Chúa dành cho con người.
Để thực hiện chương
trình cứu độ, Thiên Chúa đã chọn gọi Đức Maria cộng tác trong việc cưu mang và
sinh hạ Đấng Cứu Thế và Đức Maria đã đáp lời bằng hai tiếng “xin vâng”. Xin cho
chúng ta cũng biết noi gương Đức Maria khiêm tốn và ngoan ngoãn vâng theo thánh
ý Chúa trong mọi hoàn cảnh, để chương trình cứu độ của Chúa nơi ta được hoàn
thành tốt đẹp.
Mỗi khi đọc kinh
Kính mừng, chúng ta nhắc lại lời truyền tin của sứ thần Gabriel cho Đức Maria
xưa: “kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phước lạ hơn
mọi người nữ…”; cũng đồng nghĩa với lời Thiên Thần chào Đức Maria: “Mừng
vui lên, Đấng đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng bà…”.
Lời truyền tin này
là một lời chào chúc quý giá và mang giá trị hết sức cao cả. Bởi lẽ có ơn phúc
nào cao lớn cho bằng ơn phúc được Thiên Chúa ở cùng (chính Chúa là nguồn mọi ơn
phúc và Đấng ban ơn phúc. Được Thiên Chúa ở cùng thì có mọi ơn phúc nơi mình
rồi). Và có hạnh phúc nào lớn bằng hạnh phúc được Thiên Chúa ưu ái chọn làm Mẹ
Thiên Chúa. (được chọn làm mẹ vua đã là vinh dự và ơn phúc quá lớn rồi huống
chi là Mẹ Vua Trời).
Ý thức sứ mạng cao
quý ấy trong vui mừng khôn tả vượt trí hiểu, Đức Maria đã bối rối và tự hỏi lời
chào ấy có ý nghĩa như thế nào? Sau khi được nghe Thiên Thần giải thích, Đức
Maria biết đó là ý định Thiên Chúa, dù không hiểu hết nhưng Đức Maria vẫn khiêm
tốn ngoan ngoãn vâng phục.
Có nhiều điều xảy ra
trong đời sống vượt ngoài trí hiểu và khả năng chúng ta, chúng ta thấy không
thể thực hiện được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi chuyện đều có thể. Từ
không Chúa đã tạo thành vũ trụ vạn vật chỉ bằng lời phán truyền. Chỉ cần bùn
đất Chúa đã tác tạo nên con người và bằng hơi thở Chúa đã làm cho con người trở
nên giống hình ảnh TC. Và với quyền năng bà chị họ Isave son sẻ đã mang thai và
sinh con. Như thế thì việc Đức Maria cưu mang Đấng Cứu Thế mà vẫn đồng trinh là
chuyện rất đổi bình thường với quyền năng của TC. Điều quan trọng là chúng ta
sẵn sàng để Chúa hành động nơi chúng ta như Đức Maria không?.
Tuy Thiên Chúa quyền
năng làm được mọi sự. Nhưng Thiên Chúa lại yêu thích con người cộng tác với
Chúa. Để chọn gọi dân riêng, Chúa đã mời gọi tổ phụ Abraham cộng tác, và
Abraham đã vâng lời bỏ xứ sở ra đi theo ý định Thiên Chúa. Thế là một dân riêng
của Chúa đã hình thành. Để cứu dân tộc Israel ra khỏi kiếp nô lệ bên Ai cập,
Thiên Chúa đã mời gọi Môsê cộng tác, dù sợ hãi về sự kém cỏi của mình, Môsê vẫn
vâng phục ý muốn của Chúa. Thế là cuộc giải phóng đã hoàn tất. Để cứu độ nhân
loại, Thiên Chúa chọn Đức Maria, một người thiếu nữ bình thường, nghèo khó làm
mẹ Đấng Cứu Thế và Mẹ đã ngoan ngoãn tin tưởng vâng nghe. Thế là chương trình
cứu độ từ ngàn đời của Thiên Chúa được thực hiện. Để cứu độ mỗi chúng ta, Chúa
cũng mời gọi chúng ta hợp tác với Chúa. Như thánh Augustinô đã nói: “Chúa dựng
nên con Chúa không cần con, nhưng để cứ độ con Chúa cần con cộng tác”.
Xin cho chúng ta
tích cực cộng tác vào ơn cứu độ của Chúa để cứu chính mình và tha nhân.
* Gợi ý
thêm:
Trước ơn phúc lớn
lao, Đức Maria đã bối rối và muốn tìm hiểu xem sự việc sẽ xảy đến như thế nào?
Một khi nhận biết là ý định của Thiên Chúa, Đức Maria sẵn sàng vâng theo chứ
không hề nghi ngờ, hay kém tin.
Trước những thử
thách, thất bại, đau buồn trong cuộc sống, nhiều lúc đức tin chúng ta cũng bị
lung lay nên sinh ra nghi ngờ và than trách Chúa, ít khi chúng ta bắt chước Đức
Maria tìm hiểu xem Chúa muốn gì qua những biến cố vui buồn, thành công thất
bại, hạnh phúc hay bất hạnh ấy trong cuộc sống.
Ta hãy tin rằng mỗi
biến cố đều có sứ điệp rất quan trọng Chúa muốn gởi đến ta và mong ta đọc ra
thánh ý của Chúa mà chấn chỉnh lại đời sống mình. Chúa luôn đi ngang qua cuộc
đời chúng ta, nhưng chúng ta lại không gặp Ngài. Chúa luôn đồng hành với ta,
nhưng ta lại không nhận ra Ngài. Chúa hằng gõ cửa nhà chúng ta, nhưng ta lại
không nhận ra tiếng Ngài.
Xin cho chúng ta
biết để tâm suy niệm các biến cố trong đời mà nhạy bén nhận ra lòng thuơng xót
của Chúa như Đức Maria. Amen
(Viết theo Hạt Giống Nẩy Mầm, của cha Carôlô Hồ Bặc Xái)
* Suy niệm Mùa Chay: Ga 12, 1-11
“Ai
là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?...Ai thi hành ý muốn Cha tôi,…người ấy là anh chị
em tôi, là mẹ tôi.” (Mt 12,48-49). Gia
đình của Chúa là gia đình đức tin. Người thân của Chúa là những ai yêu mến và
sống Lời Chúa. Gia đình Bêtania là gia đình đức tin vì mỗi người
trong gia đình này đều thể hiện niềm tin của mình cách tích cực với hết khả
năng của mình. Do đó họ xứng đáng là anh chị em của Chúa và được Chúa yêu
thương.
Xin
cho mỗi thành viên trong gia đình chúng ta, biết yêu Chúa với hết lòng qua
những việc làm cụ thể trong tuần thánh này, để xứng đáng là gia đình đức
tin.
Tin
mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu đến làng Bêtania, (cách Giêrusalem độ
chừng 3km) để dùng bữa cơm tối tại nhà La-da-rô, người được Chúa Giêsu cho sống
lại.
Trong
bữa ăn tối thân tình này, ta nhận ra một mẫu gia đình cần phải có để
xứng đáng hưởng ơn cứu độ của Chúa.
- Mác-ta: Vốn
là con người năng động “lăng xăng nhiều việc”. Hôm nay lại đuợc Chúa Giêsu
viếng thăm và ở lại dùng bữa. Trong tâm tình biết ơn, vì Chúa đã cho La-da-rô
em mình sống lại nên đã chuẩn bị bữa tiệc chu đáo thết đãi Chúa.
- Maria: Tin
Mừng cho biết là người thích ở bên chân Chúa để nghe Chúa dạy bảo. Cô cũng là
cô gái tội lỗi đi tìm Chúa và gặp Chúa đang dự tiệc tại nhà ông Si-mon. Cô mang
đến một cái bình bằng đá ngọc quý, đựng nước hoa hảo hạng, cô đến quỳ bên chân
Chúa rồi đập cả bình để đổ hết nước hoa trên chân Chúa, khiến cả nhà thơm ngào
ngạt, rồi cô lấy tóc mà lau. Tin mừng hôm nay thánh Gioan cho biết, vì lòng yêu
mến Chúa nên cô đã lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá mà xức
chân Chúa Giêsu, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà sực mùi thơm.
- La-da-rô: Người
được Chúa thương, được Chúa cho sống lại. Anh là chứng nhân sống động cho mọi
người tin Chúa. Anh được ngồi đồng bàn cùng với Chúa.
Một
gia đình có ba người, mỗi con người mỗi tính cách, mỗi người thể hiện tình yêu
của mình nơi Chúa Giêsu mỗi cách thế khác nhau:
-
Mác-ta, không ngại vất vả làm việc nhiệt tâm để lo bữa ăn chu đáo cho Chúa và
các môn đệ.
-
Ma-ri-a, không sợ tốn hao tiền của vì Chúa. Cô không ngại thể hiện mọi cử chỉ
khiêm tốn nhất, để nói lên lòng kính yêu Chúa.
-
La-da-rô, người được gọi là bạn của Chúa Giêsu. Anh được Chúa thương mến cho
sống lại. Trong bữa tiệc, anh được ngồi bên Chúa. Chứng tỏ anh cũng đã yêu Chúa
hết lòng.
Một
gia đình toàn những con người chân tình, hết lòng yêu thương Chúa thì làm sao
Chúa không thương mến.
Xin
cho mọi gia đình Công giáo, biết bắt chước mẫu gương của gia đình Bê-ta-ni-a
hết lòng yêu mến Chúa. Sẵn sàng hy sinh làm tất cả vì tình yêu Chúa. Nhất là
trong tuần thánh này biết sẵn sàng hy sinh thời giờ, công việc riêng, để sống
thân tình với Chúa qua việc tham dự đầy đủ và tích cực các nghi thức phụng vụ.
Đồng thời cũng sẵn sàng hy sinh cả tiền của, công sức để góp phần vào việc tổ
chức các nghi lễ trong tuần thánh được trang trọng nơi giáo xứ mình.
Thứ
ba: Ga 13,21-33.36-38
Xã
hội xưa nay đều lên án những kẻ phản bội, bất trung. Ai cũng đều căm ghét những
kẻ “ăn cháo đá bát”. Nhưng bất trung và phản bội vẫn tồn tại trong xã hội con
người, rất có thể trong đó có cả chúng ta. Xin cho ta được lòng trung thành tin
yêu Chúa.
Thiên
Chúa là “Tình Yêu” nên khi tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa thì Người đã
muốn cho con người sống yêu thương nhau “như Chúa yêu”. Nên có
thể nói tình yêu chính là bản chất cốt yếu nhất làm nên con người. Nhưng tình
yêu lại thiêng liêng nhiệm mầu nên cần có những dấu chỉ để biểu tỏ. Mà một
trong những dấu chỉ căn bản để biểu tỏ tình yêu chính là lòng “trung
tín”.
Thế
nhưng, trong thời đại hôm nay, hai chữ “trung tín” hình như đã xuống
cấp trầm trọng, ngay trong đời sống hôn nhân và gia đình trước nay vốn dĩ được
xem là thành trì vững chắc nhất, bất khả xâm phạm, vậy mà cũng bị rạn nứt
và đỗ vỡ. Có nhiều nguyên nhân gây nên sự đỗ vỡ trong đời sống hôn nhân và gia
đình, nhưng có lẽ nguyên nhân lớn nhất vẫn là vì con người ngày nay quá đề cao
cái tôi của mình, say mê tiền bạc và thích chạy theo danh vọng. Từ đó đưa đến
sự bất trung với nhau, gây ra đau khổ và bất ổn trong đời sống gia đình và xã
hội.
Tin
mừng hôm nay cho biết, cũng vì quá đam mê tiền bạc và chạy theo theo danh vọng
mà tông đồ Giu-đa Ít-ca-ri-ốt đã xa dần tình yêu Chúa, để rồi cuối cùng ông đã
nhẫn tâm bán đứng Thầy mình.
Bằng
cử chỉ “chấm chung” chén, vốn dĩ là cử chỉ thể hiện tình yêu,
nhưng với Giu-đa thì đó lại là “cái chấm dối trá” của sự phản
bội.
Sự
phản bội của tông đồ Giu-đa đáng bị lên án và trừng phạt đích đáng. Tuy nhiên
khi lên án ông ta, chúng ta cũng cần nghĩ đến bản thân mình. Rất có thể chúng
ta cũng trở thành kẻ phản bội Chúa giống như Giu-đa nếu chúng ta cố tình loại
bỏ TC ra khỏi cuộc đời của mình để nhắm mắt chạy theo sức hấp dẫn của tiền bạc,
của cải, danh vọng và lạc thú.
Xin
Chúa thương tha thứ vì những lần chúng ta đã phản bội lại Chúa. Nguyện xin Chúa
ban thêm tình yêu vào tâm hồn chúng ta, để chúng ta luôn biết sống trung tín
với Chúa và luôn trung thành với nhau trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Thứ
tư: Mt 26,14-25
Suy niệm 1:
Bài
tin mừng hôm nay cũng gần giống bài tin mừng hôm qua, thuật lại những tình tiết
diễn ra của bữa tiệc ly. Nhưng Tin mừng hôm nay nhấn mạnh đến nỗi buồn của Chúa
Giêsu khi biết Giuđa là kẻ phản bội. Chúa cũng sẽ rất buồn nếu ta phạm tội
phản bội lại tình thương của Người.
Nhân loại chúng ta vừa trải qua cơn đại dịch đại dịch Covid-19 trong lo sợ và đau buồn. Bởi lẽ đại dịch này đã gây ra biết bao tổn thất về
kinh tế, sức khỏe và cướp đi rất nhiều mạng sống con người.
Tin
mừng hôm nay cũng diễn tả nỗi buồn xé lòng của Chúa Giêsu khi phải chứng kiến
người môn đệ thân tín của mình là Giuđa Ítcariô đã bị lây nhiễm bởi loại Virus
độc hại, đó là Virus của tiền bạc và danh vọng. Loại Virus này tuy không gây
tổn thương đến hai lá phổi, nhưng lại làm xơ cứng con tim, khiến cho ông mất đi
cả nhân tính khi nhẫn tâm phản bội lại người Thầy đã hằng tin tưởng yêu mến ông
hết lòng.
Dẫu
biết Giuđa phản bội, nhưng Chúa Giêsu vẫn một lòng yêu thương ông cho đến cùng.
Trong bữa tiệc ly, Người đã dùng những cử chỉ và lời nói nhẹ nhàng, tế nhị nhằm
thức tỉnh Giuđa từ bỏ ý định đen tối. Nhưng vì quá đam mê chạy theo mục đích cá nhân nên ông không còn lắng nghe được tiếng Thầy. Thế là ông đã quyết định nộp Thầy mình với giá 30 đồng. Thật đau buồn biết bao!
Người đời thường nói: “Nỗi đau lớn nhất không phải vì biết được sự phản bội của người thân mà là vì phải tiếp tục yêu thương họ.” Đúng vậy, Giuđa là người môn đệ được Đức Giêsu tín nhiệm và yêu thương ông hết lòng. Vậy mà giờ đây ông lại nhẫn tâm phản bội lại tình nghĩa Thầy trò. Dẫu vậy, nhưng Chúa Giêsu vẫn tôn trọng quyền tự do của ông và tiếp tục yêu thương ông cho đến cùng. Đúng là “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí ”. Nỗi đau chồng chất nỗi đau!
Đạo
lý Việt Nam chúng ta thường coi hành động lừa thầy phản bạn là một
tội ác về luân lý, không thể dung thứ. Nhưng với Chúa Giêsu thì lại không bao
giờ thất vọng về con người. Cho dẫu con người chúng ta xấu xa và tội lỗi tới đâu đi
nữa, thì tình yêu Chúa đối với ta không hề suy giảm đổi thay. Người vẫn yêu
thương và sẵn sàng tha thứ cho ta nếu chúng ta biết ăn năn sám hối.
Xin Chúa cho chúng ta biết cảm nếm được nỗi đau chồng chất mà Chúa Giêsu phải chịu vì tội lỗi chúng ta. Và mong sao cho tất cả chúng ta đừng có ai mắc phải lỗi lầm của Giuđa là phản bội lại tình yêu Chúa.
Suy niệm 2:
Tin Mừng hôm
nay cho ta thấy được tấm lòng của Chúa Giêsu dành cho Giuđa trước
khi ông phản bội Ngài.
Chúa Giêsu đau buồn: “Kẻ giơ tay cùng chấm dĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy” (Mt
26,23).
Ngài tiếc xót: “Khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà kẻ đó đừng sinh ra còn hơn” (Mt
26,24). Các nhà chú giải bảo đừng dựa vào câu này để nói Chúa Giêsu muốn nguyền
rủa Giuđa. Thực ra, Ngài đang nói theo giọng điệu của những bài ai ca.
Ngài
vẫn tôn trọng: vừa
trả lời thẳng cho Giuđa biết hắn là kẻ phản bội, vừa kín đáo không nói lớn kẻo
người khác biết lòng dạ hắn.
Chúng ta hãy
dừng lại một chút để suy gẫm về trường hợp của Giuđa và nhận thấy rằng: phạm
tội là cả một quá trình đi từ nhẹ tới nặng.
Truyện: Có một câu truyện
ngụ ngôn kể rằng: Lúc ông Noe trồng nho, Satan tò mò để ý và mon men đến gạ
chuyện.
- Ông trồng gì đấy?
- Cây nho.
- Thế, trồng nho thì được
cái gì?
- Trái nho trông rất đẹp
mắt, ăn vào ngon tuyệt, còn nước ép lên men sẽ làm ngây ngất tâm hồn.
- Vậy thì tôi sẽ giúp ông.
Satan đi bắt một con chiên,
giết đi và đổ máu nó vào gốc cây nho. Hắn cũng giết một con sư tử, một con khỉ
và một con heo, rồi cũng đổ hết máu những con vật ấy vào gốc cây nho. Cây nho
hút hết những thứ ấy mà lớn lên.
Từ khi đó, mỗi lần người ta
uống một chút rượu, họ trở nên hiền lành và duyên dáng như con chiên. Nếu tăng
“đô” lên, họ sẽ mạnh mẽ và hung hăng như sư tử. Nếu cứ thế tiếp tục, họ sẽ trở
nên ngổ ngáo, vô tư múa nhảy như con khỉ. Và nếu, chẳng may, không chịu dừng ở
đó, thì kết cuộc họ sẽ không khác gì như con heo (Frech Legend).
Không ai
phạm tội trọng trong một sớm một chiều. Phạm tội là cả một quá trình từ nhẹ tới
nặng, do để mình bị khống chế bởi những giá trị trên thế gian mà bưng tai bịt
mắt trước những lời mời gọi và nhắc nhở âm thầm của Chúa.
Trường hợp Giuđa
Iscariot là một ví dụ. Ông đã được Chúa Giêsu yêu thương gọi làm môn đệ, chọn
làm tông đồ; hắn còn được Chúa tín nhiệm giao giữ tiền; nhưng đồng tiền đã dần
dần kống chế hắn (xem bài Tin Mừng ngày thứ hai: “Y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những thứ người ta bỏ vào quỹ
chung” (Ga12,6). Chúa Giêsu đã nhiều lần tế nhị đánh thức lương tâm hắn,
nhưng hắn cũng không hồi tâm. Cuối cùng hắn đã đi ra lao mình vào bóng đêm.
Xin Chúa đừng
để chúng ta sống trong sự tự mãn mà mù quáng và cũng đừng để chúng ta sa vào những
lợi lộc vật chất mà chống lại lời nhắc nhở của Chúa. Nhưng xin cho chúng ta biết
noi gương thánh Phaolô tông đồ biết khiêm tốn nhận ra những lầm lỗi của mình mà
quay về với Chúa và dùng phần còn lại của cuộc đời mình để cộng tác chặt chẽ với
ơn Chúa, đến độ có thể nói như ngài: “Nhờ ơn Chúa tôi được như ngày nay. Ơn
Chúa đã không trở nên vô ích nơi tôi. Ước được như vậy!”. (St)
* TÌM
HIỂU THÊM: Mt 26, 14-25
1. Giu-đa nộp Đức Giê-su (Mc 14: 10 -11; Lc
22: 3-6)
14 Bấy
giờ, một người trong Nhóm Mười Hai tên là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, đi gặp các thượng
tế15 mà nói: "Tôi nộp ông ấy cho quý vị, thì quý vị muốn
cho tôi bao nhiêu. "Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc.16 Từ
lúc đó, hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giê-su.
Họ
quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc
Giá
hợp đồng là 30 quan tiền, là giá bán của một người nô lệ theo luật cũ đã quy
định (Xh 21,32) Nếu bò húc tôi tớ nam nữ, thì người ta sẽ đưa cho
chủ của nạn nhân ba mươi đồng bạc.
Qua
đoạn Tin Mừng này Thánh Matthêu cho thấy, chính Thiên Chúa bị dân người ruồng
bỏ. Đức Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa bị người ta rao bán với giá của một tên nô
lệ.
2. Chuẩn
bị ăn lễ Vượt Qua (Mc 14: 12 -16; Lc 22: 7-13)
17 Ngày
thứ nhất trong tuần bánh không men, các môn đệ đến thưa với Đức Giê-su:
"Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu? "18 Người
bảo: "Các anh đi vào thành, đến nhà một người kia và nói với ông ấy:
"Thầy nhắn: thời của Thầy đã gần tới, Thầy sẽ đến nhà ông để ăn mừng lễ
Vượt Qua với các môn đệ của Thầy."19 Các môn đệ làm y như
Đức Giê-su đã truyền, và dọn tiệc Vượt Qua.
3. Đức
Giê-su tiên báo Giu-đa sẽ nộp Thầy (Mc 14: 17 -21; Lc 22: 21 -23; Ga 13: 21
-30)
20 Chiều
đến, Đức Giê-su vào bàn tiệc với mười hai môn đệ.21 Đang bữa
ăn, Người nói: "Thầy bảo thật anh em, một người trong anh em sẽ nộp
Thầy."
20 Chiều
đến, Đức Giê-su vào bàn tiệc với mười hai môn đệ.21 Đang bữa
ăn, Người nói: "Thầy bảo thật anh em, một người trong anh em sẽ nộp
Thầy."
22 Các
môn đệ buồn rầu quá sức, lần lượt hỏi Người: "Thưa Ngài, chẳng lẽ con sao?
" 23 Người đáp: "Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa
với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy.24 Đã hẳn Con Người ra đi theo như
lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra
thì hơn! "25 Giu-đa, kẻ nộp Người cũng hỏi: "Ráp-bi,
chẳng lẽ con sao? " Người trả lời: "Chính anh nói đó! "
- Diễn
biến của các sự việc trên đây: Việc mượn nhà của một người thân quen
và việc tiên báo Giuđa sẽ nộp Người, chứng tỏ Rabbi Giêsu biết rõ mọi chuyện sẽ
xảy đến cho mình.
- Chấm
chung một đĩa với thầy câu nói này gợi lại Thánh Vịnh 41 câu 10 “10 Cả
người bạn thân con hằng tin cậy, đã cùng con chia cơm sẻ bánh, mà nay
cũng giơ gót đạp con!”.
Ở
đây Đức Giêsu không chỉ rõ là ai, nhưng Ngài muốn tỏ bày nỗi niềm chua xót: Một
người đã cùng chia sẻ cuộc sống thân thiết với mình hằng ngày, và giờ đây đang
cùng ăn với mình, bề ngoài có vẻ hiệp thông, nhưng trong lòng thì rấp tâm phản
bội.
- Khốn
cho người nào nộp Con Người: chữ khốn ở đây cho thấy trước tình
trạng khốn nạn của Giuđa: Một con người tuyệt vọng. Sự tuyệt vọng có thể dẫn
đưa con người, hoặc hoá điên, hoặc tự sát. Giuđa rồi đây sẽ chọn con đường thứ
hai này. Rabbi Giêsu không nguyền rủa cũng chẳng lên án Giuđa, nhưng chỉ thương
hại đến thân phận của kẻ phản bội với một kết thúc bi thảm.
Gm. Stêphanô Tri Bửu Thiên
Thứ
năm Tuần Thánh: Ga 13,1-15
Anh
chị em thân mến, ba ngày: thứ năm, thứ sáu và thứ bảy Tuần Thánh được gọi là
Tam Nhật Vượt Qua và là đỉnh cao của năm phụng vụ.
Trong
thời gian cao điểm này, được bắt đầu bằng Thánh lễ Tiệc Ly chiều hôm nay, nhằm
nhắc lại việc Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể và trao ban thánh chức Linh mục
và truyền dạy giới luật yêu thương.
Mỗi
khi chúng ta hiệp dâng Thánh Lễ là mỗi lần chúng ta hiện tại hóa hy tế thập giá
của Chúa Giêsu trên đồi Golgotha xưa.
Giống
như các tông đồ năm xưa trong phòng tiệc ly, chiều hôm nay chúng ta cũng vây
quanh bên Chúa Giêsu bên bàn tiệc Thánh Thể. Xin Chúa cho chúng
ta có cùng một tâm tình, cùng một đức tin và cùng một lòng mến như các tông đồ
xưa, với mong muốn cảm nếm được tình Chúa yêu ta là dường nào.
Định luật tình yêu dạy cho ta hiểu rằng: yêu ai thì muốn ở gần người đó, yêu ai thì muốn hy sinh phục vụ cho người đó, yêu ai thì muốn trở nên một với người mình yêu. Tình yêu ấy được biểu tỏ cách rất cụ thể nơi Đức Giêsu qua bài trình thuật Tin mừng hôm nay:
- Yêu
ai thì muốn ở gần người đó
“Ngài
đã yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian; và Ngài yêu thương họ đến
cùng.” (Ga 13,1). “Đức Giêsu
biết giờ của người đã đến”, thời gian mà Người phải lìa bỏ thế gian mà trở
về cùng Thiên Chúa Cha.
Khoảng
thời gian còn lại không bao nhiêu nên Ngài muốn tận dụng thời điểm mừng đại lễ
vượt qua của người Do Thái để tổ chức bữa tiệc với các môn đệ theo đúng luật
định, vừa để tranh thủ giờ phút ngắn ngủi trong phòng tiệc ly ấm cúng để được ở
bên các môn đệ yêu dấu của Ngài.
Thánh
Gioan cho biết Đức Giêsu đã ao ước mãnh liệt được dùng bữa ăn này với các môn
đệ vì đây là bữa tiệc cuối cùng. Trong bữa tiệc, Chúa Giêsu đã không ngại lên
tiếng bộc lộ những tâm tình sâu kín về lòng yêu thương của Ngài dành cho các
môn đệ. Ngài gọi họ bằng những lời lẽ đầy thân thương: “những người con
bé nhỏ của Thấy”. Lòng bên lòng, Chúa Giêsu giãi bày tâm sự vừa thắm thiết
vừa đượm chất u buồn. Nhưng vượt trên hết là linh cảm về cái chết, với những
lời tiên báo về sự phản bội, bỏ rơi, sự hy sinh mà Ngài phải chịu. Cuộc trao
đổi thân tình dần dần đi đến kết thúc, trong khi những lời của Chúa Giêsu vẫn
tiếp tục tuôn ra một cách dịu dàng và cuốn hút, mặc dù có một chút căng
thẳng khác thường ẩn trong những lời ám chỉ nghiêm trọng của Ngài giữa sự sống
và sự chết. Tất cả những gì mà Chúa Giêsu thể hiện trong bữa tiệc ly là muốn
được ở bên các môn đệ cách thân tình nhất, để Ngài thể tình yêu của Ngài.
- Yêu
nhau là sẵn sàng hy sinh phục vụ
Yêu
thương bằng lời thì có thể coi là đầu môi trót lưỡi, yêu thương bằng thái độ có
thể bị coi là giả hình. Chỉ có yêu thương bằng hành động mới là tình yêu chân
thực. Chúa Giêsu không chỉ dạy các môn đệ của Ngài : “Các con hãy yêu
thương nhau như Thầy yêu thương chúng con” mà Chúa Giêsu còn thể hiện
tình yêu cụ thể bằng cách cúi xuống để rửa chân cho các môn đệ. Ngài không
ngần ngại cởi bỏ chiếc áo cao sang của Thiên Chúa; nhận lấy chiếc áo của phận
người tôi đòi để cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Rửa chân xong, Chúa Giêsu
ngồi vào bàn tiệc và dạy cho các môn đệ về bài học yêu thương bằng
cách phục vụ trong khiêm tốn: “Anh em gọi Thầy là “Thầy, là
“Chúa, điều đó phải lắm. Vậy Thầy là Thầy, là Chúa mà còn rửa chân cho anh em,
thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.”
Bằng
hy sinh khiêm tốn phục vụ, người ta đo lường được sự chân thành và mức độ của
tình yêu.
- Yêu
nhau người ta muốn nên một với người mình yêu
Khi
Yêu nhau người ta không dừng ở việc phục vụ trong hy sinh, nhưng người ta còn
muốn nên một với người mình yêu vì mình với ta tuy hai mà một mà. Vì lẽ đó,
Chúa Giêsu đã lập Bí Tích Thánh Thể, biến bánh thành Thịt và rượu thành Máu
Người để ở lại mãi với người mình yêu.
Người
đời trước khi đi xa, xưa nay thường để lại cho người thân bằng những kỉ vật,
bằng của hồi môn quý giá. Đối với Chúa Giêsu những kỉ vật những của hồi môn dù
cho quý giá mấy cũng tầm thường, không đủ nói lên hết tấm lòng yêu thương của
Chúa dành cho nhân loại. Nên Chúa muốn dùng kỉ vật hết sức đặc biệt và cao
trọng nhất, đó chính bản thân Chúa. Nhưng bản thân bằng xường thịt của Chúa chỉ
có thể trao ban một lần, không thể trao ban mãi. Vì thế, Chúa muốn lưu lại bản
thân Ngài bằng hình thức nhiệm mầu dưới hình bánh và rượu làm của ăn của uống
thiên liêng dưỡng nuôi linh hồn ta. Làm như thế Chúa muốn ở lại với các tông đồ
và với chúng ta luôn mãi. Đồng thời qua việc kết hiệp với Mình Chúa, Chúa lưu
truyền sự sống của Ngài trong thân thể và trở nên một trong chúng ta.
Để
thể hiện yêu thương các môn đệ đến cùng, Chúa Giêsu còn muốn các môn đệ trở nên
đồng hình đồng dạng với Ngài và là hiện thân của Ngài giữa trần gian. Vì thế
Chúa Giêsu trao ban thánh chức linh mục cho các môn đệ “các con hãy làm
việc này mà nhớ đến Thầy”. Trong thánh lễ, nhờ việc đặt tay trên bánh rượu
và đọc lời truyền phép như Chúa Giêsu đã làm trong bữa tiệc ly, Chúa sẽ hiện
diện nơi hình bánh rượu ấy, trở nên của ăn bổ dưỡng thân xác nuôi sống linh hồn
cho những ai đón nhận Ngài, bởi thế Chúa trở nên một với chúng ta.
Tham
dự cử hành nghi thức rửa chân và thánh lễ chiều thứ năm hôm nay, ước gì giúp ta
hiểu được bài học khiêm tốn phục vụ và tình thương đến cùng mà Chúa dành cho
chúng ta. Xin cho chúng ta cảm nhận sâu sắc tình Chúa mà nỗ lực hết sức mình để
đáp lại tình Chúa yêu thương bằng đời sống gắn bó thân tình với Chúa; bằng
những hy sinh phục vụ quên mình vì Chúa và tha nhân, nhất là luôn biết gắn kết
với Chúa nơi Bí Tích Thánh Thể để Chúa ở lại trong ta và ta được sống trong
Chúa bằng chính tình yêu viên mãn của Ngài. Amen.
CẦU NGUYỆN TRƯỚC THÁNH THỂ
Mẫu
1: KHI YÊU NGƯỜI TA MUỐN NÊN MỘT VỚI NHAU
Lạy
Chúa Giêsu Thánh Thể,
Khi
yêu nhau người ta không dừng lại ở việc phục vụ trong hy sinh, nhưng người ta
còn muốn nên một với người mình yêu : “mình với ta tuy hai mà một” là thế! Vì
lẽ đó, Chúa đã lập Bí Tích Thánh Thể, biến bánh thành Thịt và rượu thành Máu
Chúa để ở lại mãi với chúng con, những người được Chúa yêu.
Người
đời trước khi đi xa, xưa nay thường để lại cho người thân mình những kỉ vật quý
giá. Đối với Chúa những kỉ vật quý giá mấy cũng chỉ là tầm thường, không đủ nói
lên hết tấm lòng yêu thương Chúa dành cho nhân loại chúng con. Thế nên, Chúa đã
dùng cách thức hết sức đặc biệt và cao trọng, đó chính thân thể rất thánh của
Người để trao ban cho chúng con. Nhưng thân thể bằng xương thịt của Chúa cũng
chỉ có thể trao ban một lần chứ không thể nào trao ban và ở lại mãi với chúng
con. Vì thế, Chúa muốn lưu lại bản thân Ngài bằng hình thức nhiệm mầu dưới hình
bánh và hình rượu làm của ăn của uống thiêng liêng dưỡng nuôi linh hồn chúng
con. Làm như thế Chúa muốn ở lại với các tông đồ và với chúng con luôn mãi. Nhờ
việc kết hiệp mật thiết với Mình và Máu Chúa, mà sự sống bất diệt của Chúa được
tuôn chảy và lưu lại dồi dào trong thân thể chúng con vì Chúa đã trở nên một
trong chúng con.
Để
thể hiện tình thương với các môn đệ cho đến cùng, Chúa còn muốn các môn đệ trở
nên đồng hình đồng dạng với Ngài, trở nên hiện thân của Ngài giữa trần gian,
Chúa còn trao ban thánh chức linh mục cho các môn đệ khi phán rằng: “các
con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Vì thế mà trong mỗi thánh lễ,
khi linh mục đặt tay trên hình bánh và hình rượu rồi đọc lời truyền phép như
Chúa Giêsu đã làm trong bữa tiệc ly, thì lập tức hình bánh hình rượu ấy trở nên
Mình và Máu Chúa. Cho nên những ai đón nhận Mình và Máu Chúa thì sẽ được
Chúa bổ dưỡng thân xác nuôi sống linh hồn vì có Chúa ở cùng.
Tham
dự cử hành nghi thức Rửa Chân và Thánh Lễ chiều thứ năm hôm nay, ước gì chúng
ta hiểu được bài học khiêm nhường phục vụ đến cùng mà Chúa Giêsu đã dành cho
chúng ta. Xin cho chúng ta cảm nhận được sâu sắc tình Chúa yêu ta mà nỗ lực hết
mình đáp lại tình Chúa yêu thương bằng cách gắn bó mật thiết với Chúa; sẵn sàng
chấp nhận hy sinh để phụng sự Chúa và phục vụ anh em hết mình như tình Chúa yêu
ta; nhất là biết siêng năng tìm đến Chúa nơi bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể,
với mong muốn được Chúa ở lại trong ta và ta được sống trong Chúa mỗi ngày sâu
xa hơn. Amen.
Mẫu 2: SÁNG KIẾN CỦA TÌNH YÊU
Lạy
Chúa Giêsu Thánh Thể, chính vì biết giờ của Chúa đã đến, giờ phải
bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Nhưng vì Chúa yêu
thương quá đổi những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, nên
Chúa đã có những sáng kiến thật kì diệu để minh chứng cho tình yêu của Chúa
dành cho nhân loại chúng con qua việc: Thiết lập BTTT, trao ban chức LM
thừa tác và truyền dạy giới luật Yêu Thương.
-
Thiết lập nên bí tích Thánh Thể: Đây
là sáng kiến độc nhất vô nhị trong toàn thể vũ trụ này. Chỉ một mình
Chúa với tình yêu thương tận cùng mới có thể nghĩ ra cách thức để
được ở lại với nhân loại chúng con. Cách thức này gọi là tình yêu
hiến mình.
-
Trao ban chức Linh Mục thừa tác: Cũng chính
trong tình yêu, Chúa đã thông ban thánh chức Linh Mục cho một số
người do Chúa tuyển chọn, với mục đích duy trì sự hiện diện của Chúa
ở trần gian và thay mặt Chúa ban phát Mình và Máu Chúa để nuôi sống
chúng con trên đường lữ thứ trần gian. Cách thức này gọi là tình yêu
trao ban.
-
Truyền dạy giới luật yêu thương: Cuối
cùng với hành động quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ như một
người đầy tớ phục vụ cho chủ mình, Chúa như muốn để lại cho các môn
đệ và mỗi người chúng ta bài học tuyệt đẹp về việc hy sinh phục vụ khiêm
tốn và vô vị lợi. Cách thức này được gọi là yêu thương đến cùng.
Lạy
Chúa Giêsu Thánh Thể, đứng trước tình yêu hiến mình, trao ban
và phục vụ đến tận cùng của Chúa, xin cho chúng con cũng biết tích cực
đáp lại tình yêu của Chúa trong hy sinh hiến mình, trong trao ban phục
vụ bằng một tình yêu vô vị lợi theo gương Chúa. Cách đặc biệt xin cho chúng
con cảm nhận được nỗi buồn vô hạn của Chúa trong đêm nay trong vườn dầu để
chúng con dám can đảm tạm gác lại mọi công việc bộn bề trong cuộc sống mà quảng
đại hy sinh thời giờ đến với Chúa để “thức với Chúa một giờ” trong đêm
hôm nay. Amen.
Mẫu
3: YÊU ĐẾN CÙNG
Kính lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Trước lễ Vượt Qua, Chúa biết giờ của Chúa đã đến gần, giờ
phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Nhưng vì yêu thương những kẻ thuộc về Chúa
còn ở thế gian, và muốn yêu thương họ đến cùng. (x. Ga 13,1). Nên Chúa đã có những sáng kiến độc đáo và bất
ngờ qua việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể, trao ban thánh chức linh mục và ban
giới luật yêu thương.
Người đời quan niệm rằng: yêu thương thì phải làm điều
những tốt đẹp cho người mình yêu. Họa lắm là chấp nhận những đau khổ vì người
mình yêu. Nhưng tình yêu của Chúa còn vượt xa hơn nhiều. Chúa không chỉ làm
điều tốt lành và đón nhận những đau khổ vì người mình yêu, mà Chúa còn sẵn sàng
hiến dâng mạng sống vì mọi người trong chúng con.
- Qủa vậy, Chúa đã yêu thương nhân loại chúng con bằng một
tình yêu sáng tạo, với tình yêu sáng tạo, Chúa đã dựng nên chúng con nên giống
hình ảnh của Chúa, và rồi ban cho chúng con mọi ơn huệ dồi dào, bên trong cũng
như bên ngoài, tinh thần cũng như vật chất để chúng con được sống và sống dồi
dào.
- Như thế vẫn chưa đủ, Chúa còn chấp nhận trở nên người tôi
tớ đau khổ để gánh lấy hết tội lỗi chúng con và đóng đinh nó vào thập giá (x.
Is 52,14-15) bằng cái chết đau thương hầu cứu chuộc chúng con.
-
Thế vẫn chưa đủ, Chúa còn muốn ở lại mãi
với chúng con nên trong bữa tiệc ly Chúa đã thiết lập nên bí tích Thánh Thể và
trao ban thánh chức linh mục ngỏ hầu nối dài sự hiện diện của Chúa ở trần gian,
cũng như ở lại mãi trong tâm hồn của mỗi người trong chúng con cho đến ngày tận
thế.
-
Sau hết, vì muốn tất cả chúng con hiệp hành bước theo Chúa trên con đường tình,
nên Chúa đã trao ban cho chúng con giới
luật yêu thương mới: “là anh em hãy yêu thương nhau; như Thầy đã yêu
thương anh em” (Ga 13,34).
Sự mới mẻ của giới luật ấy chính là “yêu thương như
Thầy đã yêu.” Nghĩa là tình yêu của chúng con phải gập theo tình yêu của
Chúa. Tình yêu của Chúa phải là khuôn mẫu và nền tảng cho tình yêu của chúng
con. “Yêu như Chúa yêu” không chỉ dừng lại ở lý trí, cảm xúc hay ở đầu môi chót
lưỡi mà đòi buộc chúng con phải thể hiện bằng những hành động cụ thể trong hy
sinh phục vụ quên mình với lòng khiêm tốn, như chính Chúa đã noi gương cho chúng
con.
Lạy Chúa, ước gì trong gia đình cộng đoàn họ đạo chúng con,
đừng có ai gây cớ chia rẽ loại trừ nhau. Nhưng xin cho chúng con biết sống tinh
thần hiệp thông, cùng nhau tích cực và chủ động tham gia vào những công việc
chung của Họ đạo, với mong muốn xây dựng và phát triển gia đình họ đạo mỗi ngày
thêm vững mạnh và tốt đẹp hơn, bằng chính tình yêu như Chúa đã yêu.
Ước gì chúng con đừng trở thành gánh nặng thập giá của
nhau, nhưng luôn biết tích cực kê vai vác đỡ thập giá cho nhau, để nâng đỡ dìu dắt
nhau tiến bước trên con đường hiệp hành theo Chúa.
Ước gì mỗi người chúng con biết mở lòng ra để sống bao
dung, cảm thông và chia sẻ với nhau khi vui cũng như lúc buồn, theo như lời
thánh Phao-lô chỉ dạy: “Vui với người
vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15)
Sống được như thế, là chúng con đang đi đúng con đường tình
mà Chúa đã đi qua. Khi hiệp hành bước đi trên con đường tình ấy của Chúa, tin
rằng Chúa sẽ đưa dẫn chúng con đến bến bờ của niềm vui, hạnh phúc và bình an
đích thực.
Ước gì đêm nay, mỗi người trong chúng con dành chút thời gian để ở lại bên Chúa và thức với Chúa một giờ để chúng con cảm nhận được tình Chúa yêu con và nhận ra lối đường mà Chúa muốn chúng con bước đi trong Chúa với tâm tình yêu mến, biết ơn của những người môn đệ Chúa. Amen.
Thứ sáu Tuần Thánh: Ga 18, 1-19, 42
KHÔNG
AI VÔ CAN TRƯỚC CÁI CHẾT CỦA CHÚA
OB
và ACE thân mến, chúng ta vừa nghe lại bài tường thuật về cuộc thương khó của
Chúa Giêsu đã chịu vì tội lỗi chúng ta. Suy niệm về cuộc thương khó của Chúa,
chúng ta cảm thấy không ai trong chúng ta vô tội trước cái chết đau thương của
Chúa:
Có thể
ta là những Thượng tế, những biệt phái và Pharisêu muốn tiêu
diệt Chúa để Chúa đừng làm phiền, đừng nhắc nhở những sai
trái của ta.
Có
thể ta là dân chúng bàng quang, hoặc có tâm lý hùa theo đám đông
mà không dám nói lên chính kiến của mình, để bênh vực cho những
người anh em vô tội.
Có thể
ta là những tên lính đã đánh đòn, đóng đinh, hành hạ Chúa cho
hả cơn giận nơi những người anh em chúng ta tốt lành, hiền từ.
Có thể
ta là những người phụ nữ thành Giêrusalem khóc thương chỉ vì tội
nghiệp Chúa nơi những người khốn cùng, nghèo khó chứ chưa biết
phải làm sao để giúp cho họ đỡ khổ.
Có thể
ta là tên trộm dữ đã bao lần oán trách cuộc đời
và than trách Chúa khi thấy những điều trái ý xảy đến cho
chúng ta.
Hãy xin
cho chúng ta là Simon, sẵn sàng vác lấy thánh giá
Chúa qua việc chấp nhận thử thách gian khổ mà Chúa gửi đến và sẵn
sàng san sẻ nỗi đau với người khác.
Hãy xin
cho chúng ta biết noi gương Đức Mẹ mạnh dạn, can trường
bước theo Chúa Giêsu trên đường đau khổ mà không một
lời than thở, không một chút kêu ca.
Hãy xin
cho chúng ta là Gioan, đón lấy sứ mạng của Chúa trao
ban để sẵn sàng hiến thân phục vụ cho những chương trình,
hoạch định của Chúa.
Trên
hết, xin cho chúng ta giống như viên đại đội trưởng: “Thấy
sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên
Chúa”. (Lc 23,47).
Lạy
Chúa, đã biết bao lần chúng con ngước nhìn lên Chúa bị đóng
đinh, nhưng chúng con chưa xác tín niềm tin mạnh mẽ
vào Chúa; nhất là chưa dám sống chết vì niềm tin trước người đời. Xin Chúa tha
thứ và ban ơn oán cải sâu xa như tông đồ Phêrô khi xưa. Amen.
Suy
niệm 2: ĐAU KHỔ BIỂU TỎ TÌNH YÊU
Tam
nhật vượt qua, là dịp GH tưởng niệm tình yêu quá cao vời của Chúa dành cho nhân
loại, vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta.
Thứ
năm tuần thánh, GH tưởng niệm tình yêu hạ mình của Đức Giêsu biểu lộ qua việc
rửa chân và lập nên bí tích thánh thể để ban mình-máu Ngài làm lương thực thần
lương nuôi sống chúng ta.
Thứ
sáu tuần thánh, GH tưởng niệm tình yêu hiến mình của Đức Giêsu bằng cách tự
nguyện hy sinh chết trên thập giá để đền thay tội lỗi chúng ta.
Thứ
bảy tuần thánh, GH tiếp tục tưởng niệm tình yêu hòa mình của Đức Giêsu qua sự
phục sinh nhằm đem lại sự sống mới, sự sống đời đời cho chúng ta.
Như
vậy tam nhật vượt qua, GH muốn mời gọi chúng ta noi gương Chúa Giêsu, hãy sống
lại mầu nhiệm tình yêu hạ mình, hiến mình và hòa mình để phụng sự Chúa và
phục vụ mọi người theo mẫu gương của Đức Giêsu Kitô.
Cách
riêng hôm nay, thứ sáu tuần thánh, chúng ta được mời gọi tưởng niệm về tình yêu hiến mình của Chúa Giêsu trên thập giá.
Vậy
khi nhìn vào tình yêu tự hiến của Chúa Giêsu trên đỉnh cao thập giá, chúng ta
nhận ra những thông điệp nào?
Chắc
hẳn Chúa muốn gửi đến chúng ta nhiều thông điệp tùy theo cảm nhận của mỗi
người, cách riêng, tôi xin chia sẻ với cộng đoàn 2 cảm nhận sau đây:
1.
Không ai là vô tội trước cái chết của Chúa.
Trước
đây cũng như nhiều bạn trẻ, khi đứng nghe bài thương khó của Chúa Giêsu, tôi
cảm thấy mệt vì thấy mình chẳng liên can gì hết. Nhưng sau này khi đặt mình vào
vị trí của các nhân vật trong bài thương khó, tôi lại thấy thu hút vì nhận thấy
mình trong đó và phần nào cũng liên quan tới cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa
Giêsu.
-
Rất có thể tôi là Philatô đã không dám lên tiếng bênh vực cho công lý và sự
thật.
-
Rất có thể tôi là Giuđa khi đặt tiền bạc, công ăn việc làm ưu tiên hàng đầu,
bất chấp lề luật, giới răn của Chúa. Ngay cả sẵn sàng làm hại GH và người
khác.
-
Rất có thể tôi là Phêrô vì sợ hãi nên sẵn sàng chối bỏ Chúa trước mặt người
khác ở nơi công cộng.
-
Rất có thể tôi là Thượng tế kiêu căng khi cho ý của mình là hay nhất. Từ
đó tỏ ra khó chịu khi thấy người khác giỏi hơn mình, thành công hơn
mình. Nguy hiểm hơn nữa là kết bè lập nhóm để chống đối, tố
cáo hạ bệ người khác.
-
Rất có thể tôi là quân dữ khi nhẫn tâm chế diễu, đùa cợt, mỉm cười trên sự
đau khổ, thất bại của người khác.
-
Rất có thể tôi là người trộm dữ khi dám thách thức, nghi ngờ quyền năng của
Chúa cũng như không dám chấp nhận sự thật sai lầm về mình.
-
Rất có thể tôi là đám đông dân chúng không kiên định trong lập trường và chính
kiến nên dễ dàng thay lòng đổi dạ, sẵn sàng chạy theo sự dẫn
dắt của dư luận sai lầm để mưu tìm lợi ích cho mình.
2.
Không ai là xấu hoàn toàn, ai cũng có những điểm
sáng đáng trân quý.
-
Tựa như Mẹ Maria, lắm khi ta cũng can đảm đón nhận thập giá và
nghịch cảnh của cuộc sống để trung thành theo Chúa đến cùng với niềm tin
yêu và phó thác vào Chúa.
-
Tựa như ông Simon, trái tim ta cũng biết đồng cảm
và sẵn sàng kề vai chia sẻ gánh nặng thập giá với tha nhân,
chứ không phải lúc nào cũng vô cảm bỏ mặc người khác trong những lúc
gặp nguy khốn.
-
Tựa như bà Vêrônica nhiều lần ta cũng đã nhạy bén nhận ra
khuôn mặt của Chúa Giêsu nơi những người khốn khó, để rồi sẵn lòng an ủi, trợ giúp
họ với mong muốn làm vơi đi những gánh nặng mà họ phải chịu trong cuộc đời
này.
-
Hay giống như người trộm lành, nhiều lần ta cũng đã
khiêm tốn nhận thấy mình là kẻ yếu đuối, tội lỗi mà thành tâm đấm
ngực sám hối, xin ơn tha thứ của Chúa.
Ước
gì trong những ngày này, mỗi người chúng ta biết dành thời giờ để chiêm ngắm
Chúa Giêsu Đấng chịu đóng đinh trên thập giá mà nhận ra tội lỗi ghê gớm của
mình đã góp phần gây ra cái chết đau thương của Chúa trên thập
giá mà chê ghét chừa bỏ hầu đón nhận ơn được tình thương và
ơn tha thứ của TC, đấng giàu lòng thương xót.
Thứ
bảy tuần thánh.
Suy
niệm 1:
Tin
mừng đêm vọng phục sinh tường thuật lại sự kiện hai người phụ nữ Maria Mácđala
và Maria đến thăm mộ Chúa từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần. Hai bà chứng
kiến cảnh tượng đất chuyển động dữ dội và Thiên Thần Chúa từ trời xuống lăn
tảng đá đậy cửa mộ ra, rồi ngồi lên trên. Diện mạo Người như ánh chớp, y phục
nguời trắng như tuyết.
Lính
canh cũng như hai bà thấy vậy thì khiếp sợ. Tuy nhiên Thiên Thần chấn
an hai bà “đừng sợ” và nói: "Chúa Giêsu chịu đóng đinh, Người
không còn ở đây nữa. người đã sống lại như Lời Người phán trước…Hai bà vừa mừng
vừa sợ chạy về báo tin cho các tông đồ. Nhưng Chúa Giêsu đón hai bà lại. Hai bà
liền phục lạy và ôm chân Chúa. Chúa bảo hai bà về báo cho các môn đệ đến
Galilê. Họ sẽ gặp Người ở đó."
Trình
thuật của bài tin mừng đêm vọng phục sinh mà chúng ta vừa nghe muốn gởi đến
chúng ta hai sứ điệp quan trọng.
-
Sứ điệp I: Chúa phục sinh
mang đến niềm hy vọng
Sau
khi Chúa Giêsu chết, các môn đệ đều hoang mang và lo sợ. Chính vì thế mà ngay
khi phục sinh, Chúa Giêsu muốn chấn an các môn đệ của Người khi sai
sứ Thần Chúa hiện ra để trấn an nỗi lo sợ của hai người phụ nữ, qua đó
cũng muốn chấn an các môn đệ của Người là “đừng sợ!”
“Đừng
sợ!” thập giá của đau khổ, bởi từ nay thập giá sẽ trở thành thánh giá vinh
quang.
“Đừng
sợ!" những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn.
"Đừng
sợ!" thế lực ác thần là thế gian, xác thịt và ma quỷ vì từ nay chúng sẽ bị
đánh bại.
"Đừng
sợ!" thần chết vì Chúa Giêsu phục sinh đã giải thoát chúng ta khỏi tử
thần.
Vì
thế, từ nay ai tin nhận Người cũng sẽ chiến thắng vinh quang như thế.
-
Sứ điệp II: Hãy tích cực tham gia vào sứ vụ loan báo tin mừng phục sinh
Sau
khi nhận ra Chúa phục sinh, hai bà Maria Mácđala và Maria liền tiến
đến định ôm chân Chúa và bái lạy. Thì ngay lúc đó Chúa phục sinh lại trao ban
cho hai bà sứ mạng loan báo tin mừng phục sinh: “Hãy về báo cho anh em
của thày để họ đến Galilê. Họ sẽ gặp thầy ở đó”
Như
vậy sứ vụ loan báo tin mừng phục sinh là một nhiệm vụ cấp bách cần phải được
loan báo, đó chính là lệnh truyền của Chúa Giêsu Phục sinh. Thánh Phêrô và các
tông đồ của Chúa đã vâng nghe lệnh truyền ấy nên đã thực thi hành cách cực.
Điều này đã được diễn tả trong bài đọc 1, trích sách công vụ tông đồ (Cv
10,34.37-43).
Viên
quan bách quản Rô-ma, là người ngoại giáo, khi nghe biết về Chúa Giêsu phục
sinh, ông đã đến và xin thánh Phêrô làm phép rửa để ông và gia đình được gia
nhập cộng đoàn các tín hữu đầu tiên. Khi ấy thánh Phêrô đã nhắc lại cho ông xác
tín mạnh mẽ vào niềm tin căn bản là "Đức Giêsu đã phục
sinh".
Có
thể nói đây là điều căn bản mà tông đồ Phêrô rao giảng cho dân chúng. Thánh
Kinh gọi bài giảng truyền giáo này của tông đồ Phêrô là Keryma. Như vậy ta có
thể tóm lược bài giảng Keryma gồm 4 điểm chính sau:
1.
Tóm tắt cuộc đời của Đức Giêsu ở trần thế.
2.
Nói về cái chết của Đức Giêsu.
3.
Xác quyết sự kiện Đức Giêsu sống lại.
4.
Kêu gọi mọi người hãy tin vào Đức Giêsu là Thiên Chúa để được hưởng nhờ ơn cứu
chuộc.
Qủa
thật, Chúa Giêsu đã chịu khổ hình, chịu chết trên thánh giá và đã phục sinh đem
lại sự sống đời đời cho chúng ta. Đó là tin mừng lớn lao mà chúng ta đã tin
nhận. Tuy nhiên tin chưa đủ mà chúng ta còn có bổn phận loan báo niềm vui lớn
lao ấy cho mọi người ở khắp mọi nơi qua mọi thời đại.
Xin
Chúa cho chúng ta biết chết đi cho con người cũ với những tính hư tật xấu và
tội lỗi của mình để được sống lại con người mới nhờ vào sức mạnh và
quyền năng của Chúa Phục sinh. Đồng thời cũng xin cho chúng ta biết tích
cực thi hành sứ vụ loan báo tin mừng phục sinh đến cho mọi người với hết khả
năng của mình với mong muốn góp phần xua tan bóng tối của sợ hải, hận thù, chia
rẻ, ích kỉ, bất công và chết chóc do ma quỷ, thế gian và xác thịt
gây ra để mọi người đón nhận được ánh sáng tình thương, công bằng ,chân lý và
sự sống đích thực do Chúa Giêsu phục sinh đem đến. Amen.
Suy
niệm 2:
Phụng Vụ Lễ Vọng Phuc Sinh đêm nay khởi đầu bằng nghi thức
làm phép lửa mới và thắp nến Phục Sinh, nhằm diễn tả cuộc vượt qua của Đức
Giê-su từ bóng tối tử thần đến ánh sáng Phục Sinh.
Qủa thật Đức Giê-su chính là Ánh Sáng đã đến thế gian để
xua tan bóng tối như Người đã tuyên bố : “Tôi là ánh sáng thế gian, ai
theo Tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại
sự sống” (Ga 8,12). Và ánh sáng ấy đã được nêu bật qua nghi thức trong
phần đầu lễ tối nay.
- Lúc đầu, bóng tối bao trùm không gian Nhà thờ, bởi các
ngọn đèn đều bị tắt hết. Sau đó Chủ tế làm phép lửa mới ở cuối Nhà thờ và đã
dùng lửa ấy để thắp sáng cây nến Phục Sinh. Tiếp đến là nghi lễ rước nến
Phục Sinh cách long trọng.
Trong cuộc rước, Chủ tế cầm cây nến Phục Sinh rồi lần lượt
công bố ba lần: “Ánh Sáng Chúa Ki-tô” và mọi người đáp : “Tạ ơn Chúa”.
Lần thứ nhất được công bố ngay sau khi thắp lửa mới vào cây
nến Phục Sinh
Lần thứ hai được công bố khi chủ tế bước đến giữa nhà thờ.
Khi ấy ánh sáng từ cây nến phục sinh được thắp lên dần dần cho đến khi
vị chủ tế long trọng công bố
Lần thứ ba trước cung thánh, thì lập tức ánh sáng phục sinh
của Chúa được tỏa sáng khắp cả Nhà thờ.
Và rồi niềm vui Phục Sinh được thể hiện một cách long trọng
khi chủ sự công bố bài Tin Mừng Phục Sinh “Exultet”, nghĩa là “Mừng Vui Lên”.
Ánh ánh chân lý, tình yêu, niềm vui và sự sống của Chúa đã
chiếu giãi vào trần gian cách đây hơn 2000 năm. Thế mà ngày nay vẫn còn đó
nhiều người trong chúng ta đang sống trong bóng tối của nấm mồ tội lỗi, vẫn
muốn ở lì trong con người cũ cùng với các thói hư tật xấu, khiến họ chưa đón
nhận được niềm vui trọn vẹn của Chúa Phục Sinh.
Cuộc sống của nhiều người trong chúng ta vẫn còn bị đè nặng
bởi sự gian dối, ham mê tiền bạc của cải vật chất, khiến chúng ta không thể trở
thành người loan báo tin vui phục sinh cho anh chị em mình.
Nhiều gia đình tín hữu vẫn còn bị đè nặng bởi bóng tối của
sự cãi vã, giận hờn ganh ghét và ích kỷ, khiến cuộc sống gia đình của họ luôn
bị căng thẳng và u buồn. Cho nên rất cần sức mạnh của ánh sáng Chúa chiếu
giãi vào những nấm mồ tối tăm ấy, để họ đón nhận được ánh sáng phục sinh của
Chúa.
Mỗi tín hữu chúng ta không thể tuyên xưng Chúa phục sinh
với khuôn mặt buồn rầu thất vọng. Chúng ta cũng không thể nói về Chúa Phục Sinh
khi lời nói và hành động của chúng ta thiếu lòng bao dung, cảm thông trước nỗi
đau của anh chị em chung quanh mình. Niềm tin vào Chúa Phục Sinh phải là động lực thúc đẩy
chúng ta canh tân đổi mới nếp sống bản thân, gia đình mình thì mới mong đem lại
cho cuộc đời này một sức sống mới.
Nếu phiến đá trấn an ngoài cửa mộ đã không thể
cầm hãm được Đức Giê-su phục sinh. Và những băng vải, khăn liệm không tài
nào trói buộc được Ngài ở lại trong mồ đá, thì chúng ta cũng nên phá bỏ
những tảng đá của sự giận hờn, ghen ghét, hận thù...đang đè nặng tâm hồn chúng
ta; hãy để cho ánh sáng sự sống của Chúa phục sinh bừng lên xua tan bóng
tối âm u của thần chết, và ánh sáng tình yêu Chúa được vinh thắng khải
hoàn dù cuộc sống còn nhiều gian nan thử thách.
Niềm vui Phục sinh sẽ là quà tặng bất ngờ cho
chúng ta giống như Ma-ri-a Mác-đa-la đã nhận được khi gặp gỡ Chúa Phục
Sinh ở bên cạnh nấm mồ Chúa; và cho các môn đệ khi gặp lại Chúa tại xứ
Ga-li-lê.
Điều quan trọng là sau khi gặp gỡ Chúa, chúng ta hãy noi
gương bà Ma-ri-a Mác-đa-le-na cũng như các tong đồ hăng hái ra đi loan báo Tin
Mừng cho anh chị em mà chúng gặp gỡ hàng ngày.
Xin
Chúa Phục sinh gia tăng lòng mến nơi chúng ta, thôi thúc chúng ta sẽ mau
mắn ra đi tìm đến Chúa nơi Thánh kinh, trong Thánh lễ và nhận thấy
Chúa đang hiện diện nơi những anh chị em bệnh tật đau khổ, cũng như qua
các biến cố vui buồn xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Nhờ đó, chúng
con sẽ vui tươi phấn khởi và nhiệt tâm loan báo Tin Mừng Phục Sinh theo
gương Ma-ri-a Mác-đa-la và như các Tông đô khi xưa. Amen. (St)
Suy
niệm 3:
Có
thể nói thánh lễ đêm nay là thánh lễ quan trọng nhất vì là đêm
Mẹ của các đêm; vui nhất vì Chúa Giêsu đã phục sinh vinh quang
đem đến niềm hy vọng sống lại cho chúng ta, giá trị nhất vì sự
phục sinh của Đức Kitô đem đến ơn cứu chuộc cho toàn thể nhân loại, cách đặc
biệt là dài nhất vì có nhiều nghi thức, cho nên trong bài
giảng tối nay tôi chỉ nêu lên hai điểm quan trọng sau đây:
- Thứ
nhất: nói về ý nghĩa của đêm vọng phục sinh.
- Thứ
hai: nêu lên hai sứ điệp căn bản mà lời Chúa muốn nói với chúng ta.
1.
Ý nghĩa của đêm vọng phục sinh:
Phụng
vụ đêm nay được khởi đầu bằng nghi thức làm phép lửa mới và thắp nến Phục Sinh.
Nghi thức này nhằm diễn tả cuộc vượt qua của Đức Giê-su từ trong bóng tối của
sự chết đến Ánh sáng của sự sống.
Đức
Giê-su chính là Ánh Sáng thật đã đến trần gian để xua tan bóng tối của tội lỗi
và sự chết như Người đã tuyên bố: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo
Tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự
sống.” (Ga 8,12). Cho nên lúc đầu lễ, các đèn trong Nhà thờ đều được
tắt hết, bóng tối bao trùm khắp không gian. Sau đó, Chủ tế cử hành nghi thức
làm phép lửa mới ở cuối Nhà thờ và đã dùng ngọn lửa ấy để thắp sáng cây nến Phục
Sinh, rồi rước cây nến Phục sinh vào Nhà thờ cách long trọng. Trong cuộc
rước ấy, Chủ tế cầm cây nến Phục Sinh đưa lên cao và lần lượt công bố ba lần:
“Ánh Sáng Chúa Ki-tô”, mọi người cùng đáp : “Tạ ơn Chúa”.
Tại
cung thánh Nhà thờ khi chủ tế công bố lần thứ ba “Ánh sáng Chúa Ki-tô”, thì lập
tức tất cả đèn trong nhà thờ được bật lên sáng rực, đem đến niềm vui cho chúng
ta.
Nghi
thức ấy cho chúng ta hiểu rằng: Chúa Ki-tô chính thật là “ánh sáng đem
lại sự sống”. Cảm nhận được niềm vui lớn lao về ánh sáng sự sống do
Chúa đem đến, nên Giáo hội mời gọi cộng đoàn tín hữu chúng ta cùng hiệp lời với
chủ tế cất cao niềm vui Phục Sinh qua bài ca “Exultet”, nghĩa là “Mừng Vui
Lên!”.
ÔBACE
thân mến, Chúa Giêsu đã đến trần gian và đã thắp lên ánh sáng chân lý, tình yêu,
niềm vui và sự sống cách đây hơn 2000 năm. Thế mà ngày nay vẫn còn nhiều người
đang sống trong bóng tối của nấm mồ tội lỗi, bởi sự gian dối, hận thù, ham
mê danh vọng và tiền bạc vật chất…Nên vẫn còn đó những bóng tối của nghi ngờ,
cãi vã, giận hờn, ganh ghét và ích kỷ… khiến cho cuộc sống luôn bị căng thẳng
và u buồn. Cho nên rất cần đến ánh sáng phục sinh của Chúa chiếu giãi vào
những nấm mồ tối tăm ấy, để mọi người cảm nhận được niềm vui, bình an và hạnh
phúc thật sự trong tâm hồn.
2.
Vì thế mà bài Tin mừng hôm nay, Chúa muốn gửi đến với chúng ta hai sứ điệp
quan trọng:
- Sứ
điệp I: Chúa phục sinh là Đấng xua tan bóng tối của lo sợ.
Sau
khi Chúa Giêsu chịu chết, hầu hết các môn đệ đều hoang mang, sợ hãi. Chính vì
thế mà ngay khi phục sinh, Chúa Giêsu đã xua tan bóng tối của lo sợ nơi hai
người phụ nữ Maria Mácđala và Maria bằng lời chấn an: “đừng sợ!”
“Đừng
sợ!” Đừng sợ thập giá của đau khổ, bởi từ nay thập giá đã trở thành thánh giá
vinh quang.
“Đừng
sợ!" những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn.
"Đừng
sợ!" thế lực của ác thần là thế gian, xác thịt và ma quỷ vì từ nay chúng
đã bị đánh bại.
"Đừng
sợ!" thần chết vì Chúa Giêsu phục sinh đã chiến thắng tử thần.
Cho
nên, từ nay những ai tin nhận vào Chúa Giêsu phục sinh sẽ vượt thắng mọi nỗi sợ
hãi cho dẫu cuộc đời mình phải đối mặt với nhiều gian nan thử thách.
-
Sứ điệp II: Cần phải hăng say loan báo Tin mừng phục sinh.
Sau
khi nhận ra Chúa phục sinh, hai bà Maria Mácđala và Maria liền tiến
đến ôm chân Người và phục lạy. Nhưng Chúa Giêsu lại với các bà “Hãy đi
báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó, họ sẽ gặp Ta.” Điều
này cho thấy sứ vụ loan báo tin mừng phục sinh là một nhiệm vụ cấp bách cần
phải được thi hành ngay.
Thánh
Phao-lô trong bài thánh thư cũng đã xác quyết với chúng ta rằng: “nếu
chúng ta được liên kết với Người trong cùng một cái chết, giống như cái chết
của Người, thì chúng ta cũng được hợp nhất với Người trong sự sống lại giống
như vậy.” Tin nhận và chịu phép rửa trong Ðức Giêsu là cách
chúng ta liên kết với Chúa Kitô trong cùng một cái chết, nên chúng ta cũng sẽ
được sống lại với Người (x. Rm 6,3-4). Đó là niềm tin lớn nhất của
người kitô hữu chúng ta.
Vậy chúng
ta hãy mạnh dạng ra đi loan báo niềm tin ấy cho hết mọi người ở khắp mọi nơi
qua mọi thời đại không hề sợ hãi, để nhờ đó mọi dân nước đều tin nhận và chịu
phép rửa trong Chúa Kitô, ngỏ hầu tất cả đều đón nhận được sự sống mới do chính
Chúa Giêsu phục sinh đem đến.
Đêm
hôm nay, trên tay mỗi người Ki-tô hữu chúng ta khi tham dự thánh lễ đều cầm
trên tay mình một cây nến nhỏ, được thắp lên từ cây nến Phục sinh. Đó chính là
biểu tượng đức tin của chúng ta. Cây nến ấy rồi sẽ cháy hết và sẽ tắt, nhưng
đức tin của chúng ta vào Chúa Giêsu phục sinh cần được thắp sáng và cháy mãi,
cho dẫu những phong ba bảo táp có ập đến trong cuộc đời chúng ta.
Nguyện
xin ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô luôn được thắp lên trong tâm hồn của mỗi
chúng ta và cầu mong ánh sáng niềm vui, bình an và sự sống của Chúa Giêsu phục
sinh mang đến trần gian được chiếu sáng và lan tỏa đến hết mọi người ở khắp mọi
nơi. Amen.
CHÚC MỪNG PHỤC SINH
Trong niềm hân hoan mừng Chúa chúng ta Phục sinh khải hoàn,
Xin kính chúc quý Cha, quý Tu sĩ, quý ông bà và anh chị em luôn được an
bình, vui tươi, hạnh phúc trong Chúa Giêsu Phục Sinh và một mùa Phục Sinh tràn
đầy ân sủng, niềm vui và hy vọng. Nguyện xin tình yêu và bình an của Đấng Phục Sinh
ở cùng tất cả anh chị em.
Chúa đã sống lại! Chúc Mừng Phục Sinh! Alleluia! Alleluia!
RẢY NƯỚC THÁNH THAY SÁM
HỐI ĐẦU LỄ
CÁC CHÚA NHẬT MÙA PHỤC
SINH
X.
Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con (MPS. Al-le-lui-ia).
Đ.
Và ban ơn cứu rỗi cho chúng con (MPS. Al-le-lui-ia).
X.
Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện.
Đ.
Và cho tiếng con kêu lên tời Chúa.
X.
Chúa ở cùng anh chị em.
Đ.
Và ờ cùng cha.
Chúng
ta dâng lời cầu nguyện,
Lạy
Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin nhậm lời chúng con
và đoái thương sai Thánh Thiên Thần Chúa từ trời xuống, để canh giữ, nâng đỡ,
bảo vệ, viếng thăm, và bên vực mọi người sum họp trong nhà này. Chúng con cầu
xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen
X. Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời….
CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Cv 10,34a-37-43; Cl
3,1-4; Ga 20,1-9
Suy niệm 1: PHƯƠNG CÁCH
NHẬN RA CHÚA KITÔ PHỤC SINH
Hiệp
thông cùng Giáo Hội, hôm nay chúng ta hân hoan mừng trọng thể lễ Chúa Phục
sinh, kỉ niệm biến cố Đức Kitô đã chết và sống lại. Đây là mầu nhiệm nền tảng
và cao cả nhất của người Kitô hữu chúng ta. Bởi như lời thánh Phao-lô tông đồ
đã xác quyết: "Nếu Chúa Kitô không
sống lại thì niềm tin của chúng ta là hão huyền và lời rao giàng của chúng ta
là vô ích. Chúng ta là những người khờ dại nhất." (x.1Cr 15,12-19). Nhưng Đức Kitô
đã sống lại nên đem đến niềm vui, hy vọng cho chúng ta.
Vui
vì Đức Giêsu là người nên Ngài cũng đã chết thật nhưng Ngài là Thiên Chúa nên
Ngài đã sống lại thật, vì thế từ này sự chết không còn làm chủ được chúng ta
nữa.
Hy
vọng vì qua mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô, chúng ta tin rằng nếu chúng ta
cùng chết với Đức Kitô thì chúng ta cũng sẽ được cùng sống lại với Người.
Vậy xin Chúa thương củng cố đức tin nơi mỗi người chúng ta
để chúng ta kiên cường sống và làm chứng cho niềm tin của mình với niềm hy vọng
vào sự sống vĩnh cửu mai sau.
Truyện
kể:
Trong kho tàn truyện cổ tích, có một câu truyện lý thú sau
đây:
Mặt trăng và Mặt Trời tranh cãi với nhau về Trái Ðất. Mặt Trời
nói: “Lá và cây cối, tất cả đều màu xanh”. Nhưng Mặt Trăng thì lại cho rằng,
tất cả chúng mang một ánh bạc lấp lánh. Mặt Trăng nói
rằng, con người trên Trái Ðất thường ngủ. Còn Mặt Trời lại bảo con người luôn
hoạt động đấy chứ.
- Con người hoạt động, vậy
tại sao trên Trái Ðất lại yên ắng đến vậy? Mặt Trăng cãi.
- Ai bảo là trên Trái Ðất
yên lặng? – Mặt Trời ngạc nhiên – Trên Trái Ðất mọi
thứ đều hoạt động, và còn rất ồn ào, náo nhiệt nữa.
Và họ cãi nhau rất lâu,
cho đến khi Gió bay ngang qua.
- Tại sao các bạn lại cãi
nhau về chuyện này chứ? Tôi đã ở bên cạnh Mặt Trời khi Mặt Trời nhìn xuống Trái
Ðất, và tôi cũng đi cùng Mặt Trăng khi
Mặt Trăng xuất hiện. Khi Mặt Trời xuất hiện, mọi thứ là ban ngày, cây cối màu
xanh, con người hoạt đông. Còn khi Trăng lên, đêm về, mọi người chìm vào giấc
ngủ.
Nếu chỉ nhìn mọi việc dưới
con mắt của mình, thì mọi thứ chẳng có gì là hoàn hảo, trọn vẹn cả. Không thể
đánh giá Trái Ðất chỉ bằng con mắt của Mặt Trời hoặc
Mặt trăng được.
Cũng
vậy khi đánh giá một con người, một sự việc nào đó, không thể nhìn từ một phía…
Tin
mừng Phục Sinh thuật lại cho thấy ba cái nhìn khác nhau khi chứng kiến cùng một
sự kiện “Ngôi mộ trống”:
-
Ma-ri-a Ma-đa-lê-na cứ đinh ninh rằng xác Chúa Giêsu đã bị đánh cắp (Ga 20,
13-15).
-
Phêrô thì rất đỗi ngạc nhiên vì sự việc đã xảy ra (Lc 24,12).
-
Còn Gioan, người môn đệ Chúa Giê-su thương mến, thì tin chắc rằng Chúa Giêsu đã
sống lại như lời Ngài đã tiên báo (Ga 20,9).
Sở
dĩ có những cái nhìn khác nhau như vậy là vì họ có những tâm trạng khác nhau:
-
Maria Mac-đa-la, với tâm trạng thương
nhớ Chúa thiết tha. Có lẽ cả đêm dài bà không chợp mắt được. Bà ước ao trời mau
sáng để ra thăm mộ Chúa. Nhưng khi chứng kiến tảng đá đậy mộ bị lăn ra và xác
Chúa không còn trong mộ, bà đã hốt hoảng chạy về báo tin cho các môn đệ Chúa.
Tình thương của Maria Mác-đa-la dành cho Chúa Giêsu là một tình thương đáng
trân trọng. Nhưng nếu tình thương ấy chỉ dừng lại ở mức độ cảm tính thường tình
thì không có khả năng nhận ra sự phục sinh của Chúa.
-
Tông đồ Si-mon-Phêrô thì đang mang
nặng tâm trạng buồn rầu vì tội lỗi đè nặng tâm hồn, bởi đã chối Thầy. Cho nên
ông cũng không nhận ra gì hơn ngoài việc rất đổi ngạc nhiên khi chứng kiến
những mảnh băng vải và khăn che đầu được cuốn lại xếp riêng ra rất ngăn nắp;
cùng với ngôi mộ trống. Phải chăng lúc đó tâm trí của ông vẫn còn bị ám ảnh giờ
phút chối Chúa. Phải chăng lòng ông vẫn còn mang nặng nỗi u buồn về tội lỗi mà
mình đã nhát đảm gây ra. Ông còn phải có thời gian như là liều thuốc đặc trị để
chữa lành vết thương tâm hồn bất tín ấy để tiến đến niềm tin trọn vẹn vào Chúa
Giêsu phục sinh.
-
Cách riêng tông đồ Gioan, người môn đệ Chúa yêu cũng
là môn đệ rất yêu Chúa, nên khi chứng kiến những băng vải đặt bên trên ngôi mộ
trống, lập tức ông đã tin là Thầy mình sống lại như lời sách thánh đã tiên báo.
Vì
thế, để tin vào sự phục sinh của Chúa Giêsu, Gioan phải vượt lên trên tình cảm
tự nhiên như Maria Mac-đa-la, cũng như phải thắng vượt nỗi đau buồn mặc cảm tội
lỗi của Phêrô, để định hướng cái nhìn của mình vào sự kiện ngôi mộ trống bằng
tình yêu trong sáng dưới sự hướng dẫn của ánh sáng Lời Chúa. Chính cái nhìn này
đã giúp Gioan vững tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu. Như thế, cùng một sự
kiện nhưng lại có những cái nhìn khác nhau, khởi đi từ những tâm trạng khác
nhau.
Trong
cuộc sống hàng ngày, luôn có những biến cố vui buồn, sướng khổ, thành công thất
bại xảy ra…tựa như là dấu chỉ “ngôi mộ trống”. Vậy trước những
dấu chỉ đó ta có cái nhìn như thế nào?
Có
thể giống như Maria Mac-da-la, ta chỉ dừng lại ở cái nhìn do cảm tính tự nhiên
thúc đẩy nên khi đối diện với những biến cố ấy ta không nhận ra gì cả ngoài
những cảm xúc đau buồn khi gặp khó khăn, nghèo khổ, mất mác, thất bại và vui
mừng khi thành công, may mắn trong cuộc sống.
Có
thể chúng ta cũng giống như Phêrô, chẳng nhìn thấy gì hơn trước những biến cố
xảy ra trong đời sống vì quá tự ti mặc cảm bởi những lầm lỗi trong quá khứ của
mình.
Xin
Chúa cho chúng ta có được cái nhìn đức tin, được định hướng dưới ánh sáng lời
Chúa như thánh Gioan. Nhờ đó ta mới có thể nhận ra sự hiện của Chúa Giêsu phục
sinh trong mọi biến cố xảy ra trong cuộc đời chúng ta. Amen
Suy
niệm 2:
Trong
một cơ hội tình cờ, có ba người đại diện cho ba tôn giáo lớn là: Phật giáo, Hồi
giáo và Thiên Chúa giáo ngồi lại tranh luận với nhau, và ai cũng tự hào về đấng
sáng lập đạo của mình.
-
Người Phật tử nói: "Khi Đức Phật Thích Ca của chúng tôi chết, chúng tôi
đưa đi hỏa táng và hài cốt của Ngài hiện đang để trong chùa Xá Lợi (Xương
Phật), điều đó chứng tỏ đức Phật Thích Ca của chúng tôi hiện hữu."
-
Tiếp đến, Môn đồ Hồi giáo lên tiếng: "Khi Giáo Chủ Mahomét của chúng tôi
chết, ngài để lại cho chúng tôi nắm tóc và bộ râu, và đã được lưu giữ trong đền
thờ bên Árập. Điều đó chứng minh Giáo chủ chúng tôi có mặt trên trần gian
này."
Rồi
hai người hỏi tín hữu Kitô giáo: "Còn Chúa Giêsu của anh chết, Ngài có gì
lại làm bằng chứng không?".
-
Người tín hữu trả lời: Khi Chúa chúng tôi chết, Ngài để lại ngôi mộ trống, vì
Ngài không chết luôn như Giáo Chủ của các anh, Ngài đã sống lại ra khỏi mồ. Do
đó, chúng tôi không có mảnh xương, hài cốt như đức Phật Thích Ca; hay nắm tóc,
bộ râu như đức Giáo Chủ Mahomét.
Nếu
Chúa Giêsu của chúng tôi chết mà không sống lại, thì chúng tôi chẳng tôn thờ
Ngài. Các nhà truyền giáo cũng chẳng dại gì mà phải dấn thân vào những nơi xa
xôi để rao giảng Tin mừng. Các thánh tử đạo cũng chẳng bao giờ liều mình đổ máu
ra để làm chứng cho Đấng đã chết mà không sống lại!
Thật
vậy, Thánh Phaolô đã nói rằng: "Nếu Đức Kitô chết mà không sống
lại, thì đức tin của chúng ta chỉ là hão huyền và lời rao giảng cũng trở nên vô
ích…" (1,Cr.15,14-19).
Nếu
Đức Kitô chết mà không sống lại, thì Ngài không phải là con Thiên Chúa hằng
sống; việc Ngài hiến mình chịu chết là một điên rồ. Những phép lạ Ngài làm chỉ
là phù phép giả tạo. Toàn bộ giáo lý Ngài rao giảng đều sụp đổ.
Nếu
Đức Kitô chết mà không sống lại, chắc chắn các Bí tích phát sinh từ cạnh sườn
Ngài đều vô hiệu hoá. Giáo hội Ngài thiết lập sẽ không tồn tại. Và như vậy, sẽ
không có đạo Công Giáo, không có những ngôi thánh đường trên thế giới.
Nếu
Đức Kitô chết mà không sống lại, thì Ngài cũng chẳng hơn gì chúng ta, cùng lắm
thì như các vị đạo sư, chết là hết.
Nhưng,
Đức Kitô đã chết và đã sống lại, chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa hằng sống, như lời
Ngài nói: "Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy
lại” (Ga 10,18); “Ta là sự sống lại và là sự sống." (Ga
10, 25).
Thế
thì, Chúa Kitô sống lại Ngài mang lại cho chúng ta những gì?
-
Trước nhất, Ngài mang lại cho chúng ta niềm vui. Niềm vui này
khởi đi từ các tông đồ, "các ông vui mừng vì xem thấy Chúa" (Ga
20, 20), và cũng là niềm vui cho toàn thể dân thánh. Vui vì Chúa đã chiến thắng
tử thần "Ngài không bao giờ chết nữa" (Rm 6, 9). Vui
vì nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa, chúng ta được thông phần vào đời
sống mới, với tư cách là con cái Thiên Chúa, được đồng thừa tự với Đức Kitô.
Chúa
sống lại ban cho chúng ta niềm hy vọng. Hy vọng ngày mai đây khi
nhắm mắt lìa đời, chúng ta cũng được sống lại với Chúa, lúc đó ta sẽ gặp lại
những người thân đi trước chúng ta.
Chúa
sống lại ban cho chúng ta nguồn an ủi, vì Chúa đã vượt qua cái chết
bởi những đau khổ, đã nếm mùi cay đắng của một kiếp người rồi mới tiến đến vinh
quang.
Như
vậy, mọi việc lành chúng ta làm ở đời này đều sinh công ích. Mọi đau khổ của
chúng ta đều có giá trị vĩnh cửu đời sau, nếu chúng ta biết chấp nhận vì lòng
yêu mến Chúa.
Chúa
sống lại, Ngài muốn minh chứng cho chúng ta biết rằng: Ngài là Thiên Chúa giàu
lòng thương xót, đã chết đi để chúng ta được sống.
Chớ
gì mỗi năm mừng kỷ niệm Chúa Phục Sinh, là dịp nhắc nhở chúng ta sống lời mời
gọi của Thánh Phaolô: "Nếu anh em muốn sống lại với Đức Kitô, thì
anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời..." (Cl. 3,1).
Tìm
kiếm những sự trên trời, không phải là bỏ hết công ăn việc làm để rồi tối ngày
chỉ đi nhà thờ quỳ cầu nguyện liên lỉ, nhưng tìm kiếm những sự trên trời, theo
như lời thánh Phaolô khuyên nhủ đó là: "Dù anh em ăn, dù anh em
uống hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm vì vinh danh Chúa." (1Cr
10,31).
Mỗi
sáng khi thức dậy, người mà chúng ta nhớ đầu tiên phải là Chúa. Việc lo lắng
tìm kiếm trước tiên phải là Nước trời "Tiên vàn, các con hãy tìm
kiếm Nước Thiên Chúa trước..." (Mt 6, 33). Rồi cuối ngày trước
khi ngả lưng xuống ngủ, người nhớ cuối cùng cũng phải là Chúa, nếu có gì lầm
lỗi trong ngày xin Chúa thứ tha.
Nếu
ngày nào chúng ta cũng sống với tất cả ý thức như thế, là chúng ta đang tìm
kiếm những sự trên trời, đang sống Tin mừng Chúa Phục Sinh.
Anh chị em thân mến,
Mỗi
lần tham dự Thánh lễ, sau khi linh mục truyền phép chúng ta đồng thanh tung
hô: "Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên
xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến" (1Cr 11,26).
Thế
nào là loan truyền và tuyên xưng việc Chúa sống lại?
1.
Loan truyền bằng cách sống chứng nhân lòng thương xót đó là: đem yêu thương vào
nơi oán thù; đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem
chân lý vào chốn lỗi lầm.
2.
Tuyên xưng việc Chúa sống lại không phải bằng "đầu môi chót lưỡi"
nhưng bằng cách thay đổi lối sống của mình. Như các tông đồ, họ không còn sống
cho chính bản thân mình nữa, mà sống cho "Đấng đã chết và sống lại vì
chúng ta". Vì thế, họ sẵn sàng chịu đau khổ, chịu chết vì danh Chúa Phục
sinh.
Ngày
xưa, trong cuộc thương khó Chúa, các tông đồ hoảng sợ, đức tin lung lay
tận gốc rễ, nhưng nhờ Đức Mẹ củng cố niềm tin mà các ông được vững mạnh. Thì
bây giờ, giữa một thế giới có nhiều biến động và nhiều thách đố, nhiều khi làm
cho đức tin chúng ta bị lung lay chao đảo, thì hãy bắt chước các tông đồ mau
chạy đến với Đức Mẹ, người Mẹ của lòng thương xót, sẽ ra tay nâng đỡ phù trì,
giúp chúng ta can đảm làm chứng cho tin mừng phục sinh của Chúa.
Lạy
Nữ Vương thiên đàng, hãy vui mừng Alleluia. Vì Con Mẹ đã sống lại thật.
Alleluia. Xin cầu cho chúng con. Amen.
Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét