Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2025

 GIÁO PHẬN CẦN THƠ

HỘI ĐỒNG MỤC VỤ - BAN PHỤNG VỤ

CÁC VIỆC THỰC HÀNH PHỤNG VỤ CẦN THỐNG NHẤT

Dựa theo Quy Chế Sách Lễ Roma năm 2002 và gợi ý của UBPT/HĐGMVN về vài việc thực hành cần được Đức Giám Mục giáo phận phê chuẩn để thực hiện chung trong giáo phận. Ban Phụng Vụ giáo phận xin nêu lên các việc thực hành cụ thể, là kết quả của ngày Hội Thảo Mục VỤ (ngày 23.10.2023 tại Trung Tâm Mục Vụ) của Linh Mục Đoàn GP. Cần Thơ, như sau:

I. Chuẩn bị và trang trí nơi cử hành Thánh Lễ:

1. Cần bố trí một Giá Sách gần ghế chủ tọa để bắt đầu Thánh lễ và có thể kết thúc Thánh lễ[1]. Chỉ khi không thể bố trí được vì cấu trúc cung thánh không tiện, thì mới khởi sự Thánh lễ tại bàn thờ.

2. Sử dụng 1 Thánh Giá duy nhất có tượng Chúa Kitô chịu đóng đinh cho dân được tập họp nhìn thấy rõ, ngay cả khi không cử hành phụng vụ[2].

3. Bông hoa, đèn nến không đặt trên bàn thờ, mà đặt bên cạnh hay gần bàn thờ.

4. Linh mục không mặc áo lễ màu hồng trong lễ hôn phối.

5. Logo năm mục vụ không treo trong cung thánh, cần treo ngoài nhà thờ hoặc nơi sinh hoạt giáo xứ.

6. Không treo câu đối trên cung thánh. Không chưng “lục bình” trong cung thánh.

7. Để hình ảnh các Thánh vào các lễ riêng (nếu có) qua một bên trên cung thánh, nhưng không quá cầu kỳ.

II. Khi cử hành Thánh lễ:

1. Thinh lặng: Cần giữ thinh lặng trước khi dọc Kinh Cáo Mình, trước Lời Nguyện Nhập Lễ, sau Bài Giảng và sau Rước lễ[3].

2. Tòa giảng:

2.1                  Linh mục giảng tại tòa giảng hoặc tại nơi khác thích hợp[4], trong gian cung thánh.

2.2                  Không rao lịch hoặc đọc thông báo nơi tòa giảng. Các nhà thờ cần có giá sách riêng dùng cho việc này.

2.3                  Những ngày lễ lớn và Chúa nhật thì hát đáp ca tại tòa giảng hoặc tại ca đoàn.

2.4                  Giảng lễ Thiếu nhi: Có thể đối thoại với các em[5].

2.5                  Lời Nguyện Tín Hữu là thành phần của nghi thức Thánh lễ, cách riêng, theo nghi thức mới, phải đọc trong các lễ An Táng[6] và Hôn Phối (sau nghi thức cử hành hôn phối)[7].

3. Xông hương hoặc xá hương:

3.1                  Dùng thứ nào chỉ dùng một thứ mà thôi trong cùng một thánh lễ.

3.2                  Xông hương thì theo hướng dẫn của Quy Chế Sách Lễ Roma số 276-277.

3.3                  Xá hương trước bàn thờ 3 lần, trước ảnh tượng và di ảnh 1 lần.

3.4                  Cần tập cho giúp lễ biết cách xông hương cách cung kính, chính xác.

4. Các thừa tác viên trong Thánh lễ

4.1                   Linh mục đồng tế: không nhập đoàn đồng tế khi Thánh lễ đã bắt đầu.

4.2                   Lễ hôn phối: hai người kết hôn có thể đọc các bài đọc và hát đáp ca trong Thánh lễ, cần được chuẩn bị thật chu đáo, lễ phục gọn gàng,  xứng hợp, tránh trình diễn, phô trương.

4.3                   Lễ an táng: người thân có thể đọc các bài đọc, nhưng rất cần chuẩn bị chu đáo, mặc lễ phục sạch sẽ, gọn gàng, xứng hợp.

III. Những thực hành khác:

1. Rao ý lễ: khi có nhiều người xin dâng lễ thì không cần rao tên người xin. Có thế rao ý lễ sau lời chào chúc của linh mục đầu Thánh lễ[8] hoặc thời điểm khác, áp dụng tùy nơi.

2. Rao lịch, thông báo nên sau Lời Nguyện Hiệp Lễ (hoặc trước lễ), nhưng ngắn gọn[9].

3. Việc chúc lành cho trẻ em đang khi trao Mình Thánh Chúa: Không phải là nghi thức phụng vụ, tùy thói quen từng nơi, miễn sao không kéo dài thời gian Rước lễ, không khuyến khích thực hành.

4. Ca đoàn không rước lễ sau khi Thánh lễ kết thúc.

5. Trang phục của thừa tác viên đọc sách thánh có thể mặc áo Alba; hoặc nữ mặc áo dài, năm mặc áo sơ-mi bỏ vào quần (Chúa nhật và lễ Trọng nên thắt Cà-vạt).

IV. Bí tích và á bí tích:

1. Sách nghi thức bí tích và á bí tích UB. Phượng Tự/HĐGMVN đang dọn lại (cần chờ).

2. Linh mục mặc áo Alba và đeo dây Stola khi cử hành các bí tích và á bí tích. Không đeo dây Stola trên áo dòng hoặc áo sơ-mi khi có thể mặc áo Alba.

3. Trong nghi thức an táng: sử dụng nhang hoặc hương (chọn 1 trong 2).

4. Không được làm phép phần mộ trong nhà thờ.

 

Chuẩn nhận của Đức Giáo Mục Giáo Phận                              Ban phụng vụ

+ Stêphanô TRI BỬU THIÊN. GM                                  Hội Đồng Mục Vụ Giáo Phận

                           Ấn ký.                                        Trung Tâm Mục Vụ 23.10.2023

 

 

Ý NGHĨA VÀ THỰC HÀNH NGHI THỨC

DÂNG LỄ VẬT TRONG THÁNH LỄ

Lm. Gs. Lê Ngọc Ngà, Gp. Cần Thơ

Hỏi: Việc dâng lễ vật trong thánh lễ được Hội Thánh quy định thế nào? Người dâng lễ vật đứng ở vị trí nào khi dâng lễ, cần thống nhất về mặt mỹ quan.

Trả lời:

I. Cùng đọc Quy chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma (QCSL)

Số 73. Khi bắt đầu phần Phụng vụ Thánh Thể, thì các lễ vật được đem lên bàn thờ; những lễ vật này sẽ trở nên Mình và Máu Đức Kitô.  
Trước hết phải chuẩn bị bàn thờ hay bàn ăn của Chúa, tâm điểm nơi diễn ra toàn bộ phần phụng vụ Thánh Thể: trải khăn thánh, đặt khăn lau chén, sách lễ và chén lễ, trừ khi chén lễ được dọn ở bàn phụ.
Tiếp đến là đem lễ vật lên: nên để giáo dân dâng bánh và rượu, linh mục hay phó tế nhận tại một nơi thuận tiện, rồi chính linh mục đặt lên bàn thờ. Mặc dầu ngày nay giáo dân không còn mang bánh rượu của mình đến để dùng vào việc phụng vụ như xưa, nhưng việc dâng lễ vật vẫn giữ được giá trị và ý nghĩa thiêng liêng của nó.           
Cũng được nhận tiền bạc hay các phẩm vật khác, do tín hữu mang đến hay được quyên ngay trong nhà thờ để giúp người nghèo hay nhà thờ. Những phẩm vật này được đặt ở một nơi xứng hợp ngoài bàn thờ.

Số 74. Khi đoàn rước lễ vật tiến lên, thì hát ca tiến lễ (x. số 37b) và kéo dài bài hát ít là cho tới khi đặt lễ vật trên bàn thờ. Quy luật về cách hát ca tiến lễ cũng giống như cách hát ca nhập lễ (x. số 48). Luôn có thể hát ca tiến lễ cả khi không có rước lễ vật.

Số 140. Nên để cho các tín hữu biểu lộ sự tham dự bằng việc dâng bánh rượu dùng vào việc tế lễ, hoặc những phẩm vật khác dùng để đáp ứng các nhu cầu của nhà thờ và cứu trợ người nghèo. Linh mục nhận các lễ vật tín hữu dâng, với sự trợ giúp của thừa tác viên giúp lễ hoặc một thừa tác viên khác. Bánh và rượu dùng trong Thánh lễ thì trao cho linh mục, ngài đặt trên bàn thờ; còn các phẩm vật khác thì đặt nơi khác thích hợp (x. số 73).

Số 295. Cung thánh là nơi đặt bàn thờ, nơi công bố lời Chúa, và là nơi linh mục, phó tế và các thừa tác viên khác thi hành phận vụ. Cung thánh phải được tách biệt cách thích hợp khỏi lòng nhà thờ, bằng cách được nâng cao hơn, hoặc nhờ một cấu trúc và sự trang trí đặc biệt. Cung thánh phải rộng rãi đủ để việc cử hành Thánh Thể có thể diễn tiến và được nhìn thấy cách dễ dàng.

II. Nguồn gốc và ý nghĩa thần học của việc dâng lễ vật

Ngay từ thời Giáo Hội sơ khai, tín hữu mang bánh, rượu và những của cải vật chất khác đến cộng đoàn phụng vụ, để vừa cử hành Thánh Thể vừa chia sẻ cho người nghèo (x. 1Cr 16,1–2). Dần dần, truyền thống này được thanh luyện: bánh và rượu trở thành lễ phẩm chính để thánh hiến, còn các phẩm vật khác dành cho việc bác ái.

Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma khẳng định: “Các tín hữu dâng bánh và rượu… kèm theo chính họ, để được dâng hiến với Chúa Kitô” (số 73). Như thế, nghi thức dâng lễ vật là hành vi hiệp dâng đời sống: lao nhọc, niềm vui, nỗi khổ của cộng đoàn được đặt lên bàn thờ, chuẩn bị cho việc biến đổi thành Mình và Máu Đức Kitô.

Bàn thờ, trung tâm phụng vụ Thánh Thể, là vừa bàn tiệc vừa bàn tế lễ: nơi Đức Kitô dâng chính mình, và cộng đoàn tham dự vào hy tế đó.

III. Quy định phụng vụ

QCSL chỉ dẫn rõ: giáo dân tiến dâng lễ phẩm, linh mục hay phó tế nhận tại “một nơi thuận tiện”, rồi chính linh mục đặt bánh và rượu trên bàn thờ. Như vậy:

Người dâng lễ, linh mục hay phó tế tiếp nhận “nơi thuận tiện”.

Bánh và rượu thì trao cho chủ tế, rồi sau đó, ngài dâng và đặt trên bàn thờ.

Các phẩm vật khác (hoa, nến, tiền, quà bác ái) được đặt tại vị trí thích hợp ngoài bàn thờ.

Nghi thức này không phải “phần phụ”, nhưng nối kết bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể (QCSL 74–76).

Trong thực hành, có khi người dâng lễ vật đi thẳng lên cung thánh, có khi chỉ trao ở bậc tam cấp. Vậy đâu là cách đúng?

QCSL 140 chỉ nói: “Giáo dân có thể mang bánh, rượu và những lễ vật khác lên… và trao cho linh mục hoặc phó tế ở một nơi thuận tiện.” Như vậy, Giáo Hội không buộc phải trao trực tiếp trên cung thánh.

Nguyên tắc phụng vụ: cung thánh là nơi dành cho thừa tác viên bàn thờ (linh mục và giúp lễ), còn giáo dân chỉ lên khi có vai trò đặc biệt (đọc sách, hát thánh vịnh, đọc lời nguyện tín hữu trên giảng đài). Người dâng lễ vật không buộc phải bước lên cung thánh.

Do đó, cách thích hợp là:

Người dâng lễ vật tiến lên chân cung thánh, dâng lễ vật cho linh mục hoặc phó tế. Sau đó, chính linh mục hay phó tế mang lễ vật lên bàn thờ.

Điều này vừa giữ mỹ quan phụng vụ, vừa tránh tình trạng người dâng lễ quay lưng hay “quay mông” xuống cộng đoàn, gây phản cảm và làm mất đi nét trang nghiêm.

Mỹ quan: có ca tiến lễ, đoàn dâng lễ vật tiến lên trong trật tự. Cử chỉ cúi chào qua lại giữa đoàn dâng và chủ tế làm nổi bật tính cộng đoàn và hiệp thông. Trang phục: người dâng lễ mặc chỉnh tề, tôn nghiêm, không phô trương.

IV. Đề nghị thực hành cụ thể

Một lối cử hành hài hòa có thể như sau:

1. Đoàn dâng lễ tiến lên theo lối chính, dừng lại tại chân tam cấp cung thánh.

2. Linh mục chủ tế cùng thừa tác viên giúp lễ tiến ra, cúi chào đoàn dâng lễ.

3. Từng người dâng lễ phẩm:

Bánh và rượu: chủ tế nhận, trao cho người giúp lễ, rồi sau đó, chính ngài dâng dâng và đặt trực tiếp trên bàn thờ.

Các lễ phẩm khác: chủ tế nhận, trao cho giúp lễ đặt ở vị trí ngoài bàn thờ.

4. Khi dâng lễ vật và tiếp nhận xong, chủ tế và đoàn dâng lễ cúi chào rồi về chỗ. Đoàn dâng lễ không đứng thành hàng trên cung thánh để dâng các lễ phẩm khác cùng lúc với chủ tế dâng bánh rượu.

5. Do đó, khi chủ tế cùng thừa tác viên trở về bàn thờ để tiếp tục phụng vụ Thánh Thể, thì đoàn dâng lễ cũng trở về chỗ ngồi.

Kết luận

Nghi thức dâng lễ vật mang chiều kích thần học sâu xa: nơi đó, cộng đoàn cùng với linh mục hiệp dâng chính mình trong hy tế của Đức Kitô. Thực hành đúng quy định vừa làm sáng tỏ ý nghĩa này, vừa giữ vẻ mỹ quan và tính trang nghiêm. Đây là dịp giáo dục đức tin hữu hiệu: Thánh Thể không chỉ quy tụ cộng đoàn quanh bàn thờ, mà còn thúc đẩy họ sống bác ái qua việc chia sẻ cụ thể cho người nghèo.

Tóm lại, điểm mạnh của cách thực hành này:

1. Giáo dân không đứng trên cung thánh, nhưng dưới chân bậc tam cấp cung thánh “nơi thuận tiện” để dâng; chỉ thừa tác viên mới đưa bánh rượu lên bàn thờ.

2. Trang nghiêm và thẩm mỹ: tránh cảnh người dâng lễ tạo thành hàng ngang trên cung thánh, quay lưng về phía cộng đoàn ngay trước bàn thờ, tránh cảnh “áo dài tung bay phất phới” trước mặt cộng đoàn, giữ sự hài hòa và trang nghiêm.

3. Ý nghĩa chính của nghi thức: dâng bánh và rượu là hiến dâng “hoa màu ruộng đất và công lao của con người” để được Chúa thánh hiến “trở nên Mình Máu Chúa” ; các lễ phẩm khác thuộc lãnh vực bác ái.

 

ĐỀ NGHỊ NỘI DUNG CẦN BÀN THẢO THÊM CHO THỐNG NHẤT

TRONG CÁC CUỘC HỌP MỤC VỤ – NĂM 2025

1. Phân định ranh giới và tổ chức giáo xứ

- Cập nhật, điều chỉnh ranh giới, tên gọi và số giáo dân các giáo xứ theo thay đổi hành chính của Nhà nước (sáp nhập, đổi tên…).

2. Cử hành Phụng vụ Thánh Lễ

- Thống nhất việc thực hiện “chữ đỏ” theo luật phụng vụ, không thêm bớt hay thay đổi.

- Ban Phụng vụ ban hành văn bản hướng dẫn chung, cụ thể như:

+ Cần đặt thánh giá trên bàn thờ khi trên cung thánh đã có treo thánh giá lớn

+ Lời nguyện nhập lễ: Đọc “Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con…” (không đọc “đến muôn thuở muôn đời”).

+ Cách xướng bài đọc: Không đọc “Bài đọc 1” hay “Bài đọc 2” mà đọc “Bài trích sách…”.

+ Lời nguyện tín hữu: Người xướng không thêm “Chúng ta cùng cầu xin Chúa” sau mỗi ý nguyện; chỉ lên giọng cuối mỗi lời nguyện.

+ Cử chỉ chúc bình an: Chủ tế cúi đầu chúc bình an ngay khi đọc “Bình an của Chúa…”; không cúi đầu sau lời mời “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”.

+ Dâng của lễ: Thống nhất cách thức giáo dân tiến dâng lễ theo hướng dẫn của Ban Phụng vụ.

+ Pha nước vào rượu: Khi đồng tế có nhiều chén rượu, chỉ pha nước vào chén chính

+ Lời mời trước Kinh Tiến Lễ: Chủ tế vẫn đọc “Hy lễ của tôi và của anh chị em…” (không đọc “của chúng tôi…”).

+ Ban phép lành cuối lễ an táng trong nhà thờ hay sau khi cử hành nghi thức hạ huyệt nơi đất thánh?

+ Lấy Mình Thánh Chúa từ Nhà Tạm:

Giáo sĩ: đặt MTC trên bàn thờ trước khi chủ tế đọc “Đây Chiên Thiên Chúa…”.

Tu sĩ/giáo dân: đặt MTC trên bàn thờ sau khi chủ tế rước lễ xong.

+ Đặt tay chúc lành cho trẻ nhỏ: Cần bàn thống nhất. Có thể dành riêng sau Thánh Lễ (ví dụ: khi hát kết lễ, các em lên cung thánh để nhận phép lành).

+ Công thức chúc kết lễ: “Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an”.  Không thêm bớt.

+ Công bố “Đó là Lời Chúa” khi nào?

Trong Thánh Lễ: sau Tin Mừng, chủ tế/phó tế nâng sách và hát/nói “Đó là Lời Chúa”.

Ngoài Thánh Lễ (giờ chầu, kinh tối…): cần làm rõ quy định có bắt buộc hát/nói “Đó là Lời Chúa” hay không.

+ Tắt/mở đèn tại Đài Đức Mẹ và Thánh Giuse để tập chú về bàn thờ chính:

Trong Thánh Lễ: tắt sau bài hát nhập lễ; mở sau phép lành cuối lễ.

Trong Giờ Chầu: tắt đèn khi đặt MTC, mở đèn khi kết thúc chầu.

3. Các kinh đọc trong Thánh Lễ Chúa Nhật

- Cần thống nhất các kinh/hát trước và sau Thánh Lễ, dựa trên bản dịch chính thức của HĐGMVN (khi chưa có bản chính thức, Ban Phụng vụ tạm đề nghị bản kinh chung để áp dụng đồng nhất).

- Ví dụ:

+ Kinh Cám Ơn: “…ngày (đêm) hôm nay” hay “…qua ngày (qua đêm) hôm nay…”

+ Kinh 10 Điều Răn: “…tóm về hai điều này mà nhớ (chớ)”, hay “tóm lại hai này mà nhớ (chớ)…”.

4. Sứ mạng Loan báo Tin Mừng

- Quy định chung về việc mua đất, thành lập giáo điểm mới; điều kiện và tiến trình nâng giáo điểm lên giáo xứ.

5. Mục vụ trừ quỷ

- Bổ nhiệm một linh mục phụ trách trừ quỷ trong giáo phận; quy định rõ thẩm quyền và nguyên tắc thực hiện nghi thức theo Giáo luật.

- Định hướng mục vụ đối với các nhóm “trừ quỷ” của giáo dân (như nhóm Bảo Lộc).

6. Các trường hợp bí tích liên quan cha Truyền

- Đề xuất hướng giải quyết mục vụ cho những người đã lãnh nhận bí tích từ cha Truyền (trong tình trạng cha đã bị huyền chức).

7. Linh mục rời bỏ giáo vụ

- Cách xử lý khi một số linh mục rời bỏ giáo vụ, không còn liên hệ với giáo phận; đề xuất thủ tục Giáo luật và các hỗ trợ cần thiết.

8. Xây dựng nhà thờ và cơ sở mục vụ

- Xác định nguyên tắc, quy định cụ thể về xây dựng, sửa chữa; minh bạch nguồn kinh phí thu–chi.

- Phân định công trình nào do Tòa Giám Mục hỗ trợ kinh phí, công trình nào do họ đạo tự lo.

 



[1] QCSL, số 50. 124.

[2] QCSL., số 117. 308

[3] QCSL., số 45.

[4] QCSL., số 136.

[5] Huấn Thị về Lễ Thiếu nhi (Directoire de Messes d’enfant), số 48, Bộ Phụng Tự, ban hành ngày 1/11/1973.

[6] Nghi Thức An Táng, luật chữ đỏ, sô 70;

[7] Nghi Thức Hôn Phối, luật chữ đỏ, số 69.

[8] QCSL., số 50.

[9] QCSL., số 90.

 LỜI KHAI MẠC THÁNG MÂN CÔI-NĂM 2025

Ông bà và anh chị em thân mến,

Trong niềm vui và tâm tình con thảo, hôm nay chúng ta hân hoan bước vào tháng 10 – Tháng Mân Côi, tháng mà Hội Thánh đặc biệt kính nhớ Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Hội Thánh và cũng là Mẹ của từng người chúng ta.

Năm 2025 là Năm Thánh Hy Vọng, và chủ đề mà chúng ta cùng suy niệm trong suốt tháng này qua tràng chuỗi Mân Côi là:
“Cùng Mẹ Maria loan báo Tin Mừng Hy Vọng của Chúa Giêsu.”

Lần chuỗi Mân Côi không chỉ là một việc đạo đức quen thuộc, nhưng là hành trình chiêm ngắm các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu cùng với Mẹ Maria, nhờ đó chúng ta được củng cố đức tin, tăng thêm lòng cậy trông và bừng lên ngọn lửa yêu mến Chúa.

Khi đọc Mân Côi, chúng ta học nơi Mẹ Maria tinh thần lắng nghe, suy niệm và đem Tin Mừng vào cuộc sống, để rồi, như Mẹ, chúng ta trở nên những sứ giả loan báo Tin Mừng Hy Vọng cho mọi người trong gia đình, khu xóm, họ đạo và xã hội hôm nay.

Ước mong Tháng Mân Côi này giúp mỗi người chúng ta nối kết mật thiết hơn với Chúa Giêsu, học sống phó thác, khiêm nhường và dấn thân phục vụ, để qua đó, niềm hy vọng của Chúa được lan tỏa khắp nơi.

Xin Mẹ Maria đồng hành, nâng đỡ và hướng dẫn chúng ta trong hành trình đức tin, để chúng ta thực sự trở nên khí cụ của Hy Vọng và Bình An cho thế giới hôm nay.

Với tâm tình đó, giờ đây chúng ta cùng nhau trang trọng khai mở Tháng Mân Côi 2025, và sốt sắng dâng lên Mẹ những tràng chuỗi Mân Côi, như lời ca khen, tạ ơn và như khí cụ loan báo Tin Mừng Hy Vọng của Chúa Giêsu.

Thứ Năm, 25 tháng 9, 2025

 SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXVI THƯỜNG NIÊN

Lm. Nguyệt Giang

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN-NĂM C

Am 6,1a.4-7; 1Tm 6,11-16; Lc 16,19-31 

Dẫn nhập:

Phụng vụ Lời Chúa tiếp tục mời gọi chúng ta nhìn lại đời sống đức tin và tình bác ái.

Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể dụ ngôn người phú hộ sống xa hoa nhưng vô tâm trước nỗi khổ của anh Ladarô nghèo khó đang nằm ngay trước cửa nhà mình.

Qua câu chuyện ấy, Chúa nhắc nhở mỗi người chúng ta: hạnh phúc đích thực không hệ tại của cải vật chất, nhưng ở tấm lòng biết chia sẻ, yêu thương, và sống công bình bác ái với tha nhân.

Xin Chúa giúp chúng ta biết mở rộng tâm hồn để đón nhận Lời Chúa, nhận ra Chúa hiện diện nơi những anh chị em nghèo khổ, bệnh tật và cô đơn, để yêu thương phục vụ họ như chính Đức Kitô đã yêu thương phục vụ chúng ta.

Suy niệm 1: KHÔN NGOAN SỬ DỤNG TIỀN CỦA

Để giúp chúng ta hiểu hơn về sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi xin thuật lại cuộc đối thoại khá lý thú giữa hai ông bạn thân ngồi uống cà phê như sau:

- Ông A khoe: “Tôi là người đạo đức lắm: không cờ bạc, không rượu chè, không vay nợ, không nói xấu ai, không đụng tới tài sản của ai, không hại ai hết!”

- Ông B nghe xong gật gù: “Quá tốt! Vậy chắc ông lên thiên đàng thẳng cẳng rồi!” 

- Ông A mỉm cười đắc ý.

- Nhưng ông B nói tiếp: “Khoan đã, nãy giờ, tôi chỉ nghe ông nói toàn là ‘không làm điều này, không vi phạm điều kia’, mà không nghe ông nói “đã làm điều gì hết”. Vậy ông có ‘làm’ gì cho ai chưa? Ông có giúp ai, chia sẻ với ai, an ủi ai chưa? Vì đạo đức không chỉ là tránh điều xấu, mà còn là làm điều tốt đó, ông ạ!” 

- Ông A cứng họng, ngồi lặng thinh.

Câu chuyện thú vị trên phần nào đánh động chúng ta: Bởi lẽ cũng có nhiều người trong chúng ta tưởng mình “quá tốt” vì thấy mình không làm điều gì xấu cả. Nhưng Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng: vào Nước Trời không chỉ nhờ tránh điều ác, mà còn phải làm điều thiện, biết chạnh lòng thương xót trước nỗi khổ của tha nhân.

Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể lại dụ ngôn về ông phú hộ và anh Lazarô nghèo khổ. Nếu xét theo tiêu chuẩn thế gian, ông phú hộ quả là mẫu người “không tì vết”: không trộm cắp, không gian lận, không nói xấu ai, không lấn chiếm đất đai, không ăn chơi trụy lạc. Sống được như ông thời nay xem ra quá tốt!

Nhưng phải chi trái đất này chỉ một mình ông thì quá tốt. Phải chi xã hội này mọi người đều giàu có như ông thì số phận ông đâu có hẵm hiêu và đau đớn đến thế. Tất cả cũng bởi tại vì cái anh Lazarô nghèo nàn và bệnh tật chết tiệt đang hiện diện trên thế gian này, nên làm cho cuộc sống giàu sang, sung sướng của ông trở nên lo sợ và bất an. 

Lo sợ không bởi trộm cắp rình rập cướp bóc, nhưng vì phải chia sẻ với người nghèo; bất an không do ăn uống quá độ làm gan sơ cứng hay huyết áp tăng cao mà vì tiếng van xin giúp đỡ của người nghèo luôn vang vọng bên tai ông.

Quy luật của cuộc đời biến đổi không dò. Hôm qua là chủ nay lại là tớ; hôm qua giàu có nay lại nghèo khổ. Hôm qua là sung sướng thoải mái nhưng nay lại gian lao, bất hạnh…

Cuộc đời của ông phú hộ và Lazarô cũng xoay chuyển bất ngờ sau cái chết. Giàu có, sung sướng, tiện nghị, yến tiệc linh đình nhưng thiếu bác ái cho đi lại trở thành vực sâu u tối, giam hãm ông muôn đời trong đau khổ và vô vọng.

Chấp nhận đau khổ, bệnh tật, nghèo nàn, khốn cùng nhưng không hề than van trách móc, trái lại một mực tin tưởng và phó thác vào tình thương của Chúa, tất cả những điều ấy lại trở thành bậc thang đưa dẫn Lazarô lên tận đỉnh vinh quang, đến nỗi khoảng cách từ Lazarô đến nhà phú hộ giờ đây trở thành vực thẳm ngàn trùng, không thể nào qua lại được.

Chúa cũng sẽ xét xử chúng ta về những việc làm bác ái mà ta đã làm hay không làm cho tha nhân theo như lời Chúa đã phán khi đến ngày ta ra trình diện trước tòa Chúa: “...Hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc hãy vào hưởng vinh quang cùng Ta. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm. 

Như thế, ông phú hộ bị phạt không vì ông ta lắm tiền nhiều của, cũng không vì ông ăn sang mặc đẹp. Nhưng ông ta bị phạt bởi vì ông không biết chạnh lòng thương xót người anh em nghèo khổ của mình là Lazaro bằng những việc làm bác ái cụ thể.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết sử dụng tiền bạc và của cải Chúa ban cách khôn ngoan, để mang lại ích lợi cho mình và cho tha nhân. Xin cũng cho chúng ta, dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, biết sống tin tưởng và phó thác vào tình thương của Chúa, với niềm hy vọng được hạnh phúc nước trời như Lazarô nghèo khó năm xưa. Amen.


Suy niệm 2:

Các bài đọc hôm nay giúp chúng ta nhìn lại một giai đoạn lịch sử đau thương của dân Chúa và rút ra bài học cho đời sống đức tin hôm nay.

1. Bài đọc I: Cũng nên nhắc lại bố cảnh lịch sử của đất nước Do Thái. Sau khi vua Salômôn qua đời, vì chính sách hà khắc của Rơkhápam, mười chi tộc phía Bắc tách ra lập Vương quốc Israel với vua Giêrôbôam. Để giữ dân, ông cho xây đền thờ ở Bêthen và Đan, dựng tượng bê vàng. Điều này đã đưa dân đến chỗ thờ ngẫu tượng, sống buông thả theo lối dân ngoại. Vương quốc Giuđa ở miền Nam tuy còn Đền Thờ Giêrusalem nhưng đời sống đạo cũng sa sút, chỉ còn hình thức. Kết cục: cả hai vương quốc đều bị xâm lăng và dân bị lưu đày.

Hình ảnh ấy cho thấy: khi con người quay lưng lại với Thiên Chúa, chạy theo của cải và khoái lạc, tất yếu phải gánh hậu quả đau thương.

Sứ điệp ngôn sứ Amốt vang lên như lời cảnh tỉnh. Xuất thân là một mục đồng bình thường, ông được sai đến vương quốc phía Bắc để tố cáo những người giàu chỉ biết hưởng thụ, bóc lột người nghèo, bỏ bê việc phụng thờ Thiên Chúa. Ông cảnh báo: “Khốn cho những kẻ sống vô tâm, say sưa rượu chè… Thiên Chúa sẽ không quên tội ác họ làm.”

Đó cũng là lời nhắc cho chúng ta: đừng để lòng mình ngủ quên trong tiện nghi vật chất, nhưng hãy biết quan tâm đến Thiên Chúa và người nghèo.

2. Bài đọc II: Thánh Phaolô khuyên Timôtêô trau dồi các nhân đức tin, mến, nhẫn nại, hiền hòa..., những nhân đức ấy làm nên một người Kitô hữu trưởng thành giữa xã hội đầy cám dỗ.

3. Bài Tin Mừng: Chúa Giêsu kể dụ ngôn ông phú hộ và anh nghèo Lagiarô. Ông phú hộ mặc gấm vóc lụa là, yến tiệc linh đình, nhưng vô cảm trước người nghèo ngay trước cửa nhà mình. Sau khi chết, ông phải chịu cực hình. Ngược lại, Lagiarô tuy nghèo nhưng tín thác vào Chúa nên được hưởng hạnh phúc Nước Trời.

Chúa Giêsu không lên án người giàu chỉ vì họ giàu, cũng không ban thưởng chỉ vì người kia nghèo, nhưng Ngài nhìn vào thái độ sống: biết chia sẻ hay khép kín; tín thác hay than trách.

4. Sứ điệp cho chúng ta hôm nay

Dù ở hoàn cảnh nào, chúng ta được mời gọi:

- Tạ ơn Chúa và sử dụng ơn ban một cách chính đáng.

- Mở lòng chia sẻ bác ái với người nghèo khổ, bất hạnh chung quanh.

- Đừng đặt niềm cậy trông vào của cải chóng qua nhưng biết quay về với Chúa ngay khi còn thời gian. Đừng chờ đến khi chết mới nhận ra đâu là chỗ dựa vững chắc, lúc ấy đã muộn.

Hãy để Lời Chúa hôm nay đánh thức tâm hồn chúng ta, để chúng ta sống đức tin cách chân thật, giàu lòng thương xót như Chúa chỉ dạy chúng ta.


Suy niệm 3: (LỄ THIẾU NHI)

Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta: không chỉ tránh điều xấu, mà còn phải biết mở lòng xót thương, chia sẻ cơm áo cho những ai nghèo khổ như La-da-rô.

Xin Chúa giúp chúng ta cử hành Thánh lễ với tâm hồn khiêm tốn, quảng đại và biết sống yêu thương với mọi người, nhất là những ai nghèo khổ.

Cha kể cho các con nghe một câu chuyện nho nhỏ:

Có một bạn nhỏ được cha mẹ cho tiền tiêu vặt mỗi ngày. Bạn ấy chỉ biết mua bánh kẹo cho mình, trong khi ngay trước cổng trường có một em bé nghèo ngồi bán vé số mà không đủ tiền ăn sáng. Mỗi lần đi ngang, bạn ấy chẳng để ý, cứ ăn bánh ngon một mình. Cho tới một hôm, bạn bị đau bụng phải nằm viện, không ai thăm, chỉ có em bán vé số ghé vào hỏi thăm. Lúc đó bạn mới thấy mình đã vô tâm với người bên cạnh. 

Câu chuyện đó giúp chúng ta hiểu hơn về Lời Chúa hôm nay.

- Bài đọc I: Tiên tri Amos trách những người giàu sang chỉ biết vui chơi, hưởng thụ mà không quan tâm đến người đau khổ, cũng như bỏ bê việc phụng thờ Thiên Chúa. Vì thế tiên tri Amos cảnh báo nặng lời: “Khốn cho những kẻ sống vô tâm, say sưa rượu chè… Thiên Chúa sẽ không quên tội ác họ làm.”

- Bài đọc II: Thánh Phaolô khuyên người môn đệ thân tín của mình là Timôthêô và cũng khuyên cả chúng ta nữa, đó là hãy theo đuổi sự công chính, yêu thương, hiền lành, và giữ vững đức tin trong thời gian chờ Chúa đến.

- Bài Tin Mừng: Chúa Giêsu kể dụ ngôn về nhà phú hộ và anh Ladarô nghèo. Ông nhà giàu mặc đẹp, ăn uống thừa thãi mà không hề giúp Ladarô đang đói trước cửa nhà ông. Sau khi chết, Ladarô được hạnh phúc, còn ông nhà giàu phải chịu cực hình.

Như vậy, qua ba bài đọc hôm nay, Chúa muốn dạy chúng ta những bài học quan trọng sau đây:

1. Chúa không lên án việc làm giàu chính đáng và cũng không chê ghét người giàu. Nhưng Ngài chỉ cảnh báo mọi người: nếu chỉ biết nghĩ đến mình, sống ích kỷ, không yêu thương người nghèo khổ, thì sẽ phải hối hận như nhà phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay.

2. Cho dẫu nhà phú hộ không làm điều gì ác, nhưng lỗi lớn nhất của ông ta là vô tâm trước Ladarô nghèo khổ. Thấy người khổ mà không động lòng thương, không trợ giúp, là một tội nặng, có thể làm ta xa Chúa.

3. Còn anh Ladarô nghèo khổ được Chúa yêu thương và ban thưởng hạnh phúc thiên đàng là vì ông kiên nhẫn chấp nhận số phận nghèo khổ của mình mà không oán trách Chúa và không ghen tỵ với người giàu. Mặt khác, Ladarô luôn tin tưởng và cậy trông vào Chúa. Đó cũng là gương mẫu cho chúng ta.

Giờ đây, các con hãy nghĩ xem: Trong lớp, trong xóm mình, có bạn nào nghèo, yếu, hay bị chọc ghẹo không?

Các con đã bao giờ chia sẻ tập vỡ, bút mực, bánh trái... giúp những người bạn nghèo chưa?

Các con hãy nhớ: mỗi lần các con giúp đỡ một ai đó kém may mắn hơn mình là các con đang giúp cho chính Chúa Giêsu.

Vì thế, Cha mời các con trong tháng 10 này thực hành ba điều nhỏ:

- Biết chia sẻ: Bớt một món đồ chơi, một cái bánh để cho bạn nghèo.

- Quan tâm, yêu thương: Không chế giễu, chê cười những người bạn khuyết tật, yếu kém, nhưng biết yêu thương nâng đỡ, khích lệ bạn mình.

- Thực hành đức tin: Cầu nguyện mỗi ngày,  xin Chúa cho mình có được trái tim nhân hậu, biết sống hiền lành, nhẫn nại như lời Thánh Phaolô dạy Timôthêô.

Xin Chúa ban cho trái tim chúng ta biết yêu thương người nghèo, biết chia sẻ với những ai đang gặp khó khăn, để chúng ta sống đẹp lòng Chúa và được hưởng hạnh phúc đời này cũng như đời sau. Amen.

 

Suy niệm 4:

Trong xã hội hôm nay, chúng ta dễ dàng bắt gặp những hình ảnh đối lập: bên này là những bữa tiệc linh đình, bên kia là những con người nhặt ve chai ngoài chợ; bên này là những người đi du lịch nước ngoài, bên kia là những gia đình chật vật trả tiền học cho con. Thậm chí trên các trang báo, chúng ta thấy những vụ việc gây xôn xao: có nơi cán bộ dùng tiền công để tổ chức tiệc tùng xa hoa, trong khi nhiều vùng quê đang chịu cảnh thiếu thốn, lũ lụt, trẻ em phải học trong trường dột nát. Những hình ảnh và sự kiện ấy làm ta chạnh lòng, và cũng rất gần với dụ ngôn Chúa Giêsu kể hôm nay: ông nhà giàu và anh Ladarô nghèo khổ.

Bài đọc I: Tiên tri Amos lên án những kẻ giàu sang ở Sion chỉ biết ăn uống, ca hát, hưởng thụ mà “chẳng thương hại gì đến nỗi băn khoăn của Giuse”. Hậu quả là họ sẽ bị lưu đày. Lời cảnh báo của tiên tri Amos giúp ta hiểu rằng: Thiên Chúa không chê ghét sự giàu sang, nhưng Người lên án sự thờ ơ, ích kỷ và bất công. Điều này cũng là lời cảnh báo cho chúng ta hôm nay, khi nhìn quanh xã hội mình.

- Bài đọc II: Thánh Phaolô nhắn nhủ Timôthêô – và cũng nhắn nhủ mỗi chúng ta – hãy theo đuổi công chính, đạo đức, đức tin, đức ái, nhẫn nại, hiền lành, và “chiến đấu trong cuộc chiến đấu chính nghĩa của đức tin”. Đây chính là con đường để không bị cuốn vào lối sống hưởng thụ và vô tâm.

- Bài Tin Mừng: Chúa Giêsu kể dụ ngôn về nhà phú hộ và Ladarô để cảnh tỉnh chúng ta. Nhà phú hộ không hề đánh đập Ladarô, nhưng ông vô tâm trước nỗi khổ của anh. Sự vô tâm ấy khiến mọi sự bị đảo ngược sau cái chết: Ladarô được ủi an, còn nhà phú hộ kia phải chịu đau khổ nơi hỏa ngục.

Tóm lại những thông điệp quan trọng lời Chúa muốn gửi đến chúng ta hôm nay:

1. Giàu có không phải là tội. Chúa Giêsu không lên án người giàu, Ngài chỉ kết án lối sống ích kỷ, dửng dưng, không chia sẻ. Tài sản là hồng ân Chúa ban để xây dựng sự sống, không phải để đóng kín trái tim.

2. Tội vô cảm, thờ ơ. Ông nhà giàu không trực tiếp làm hại Ladarô, nhưng ông đã sống như thể Ladarô không hiện hữu. Sự vô cảm này cũng là “căn bệnh xã hội” hôm nay: thấy tai nạn mà quay lưng, thấy người nghèo mà giả vờ không thấy. Ngay tại Việt Nam, chúng ta vẫn đọc thấy tin trẻ em vùng cao không đủ áo ấm, người già neo đơn không ai thăm nom… và không ít người lướt qua như không thấy. Đó là điều Chúa Giêsu cảnh báo.

3. Chiến đấu cuộc chiến của đức tin. Thánh Phaolô nhắc chúng ta: chỉ khi có đức tin sống động, có lòng bác ái thật sự, chúng ta mới thoát khỏi cám dỗ của tiện nghi, hưởng thụ, và biết mở lòng ra cho người khác. Đức tin không chỉ là lời tuyên xưng miệng lưỡi, mà là hành động yêu thương cụ thể.

4. Đừng đợi phép lạ. Nhà phú hộ xin Abraham cho Ladarô hiện về với anh em mình, nhưng Abraham nói: “Họ đã có Môsê và các tiên tri”. Nghĩa là: chúng ta đã có Lời Chúa, có giáo huấn Hội Thánh, có biết bao dấu chỉ, không thể viện cớ “không biết”. Nếu không nghe Lời Chúa hôm nay, thì dù có phép lạ chúng ta cũng không tin.

Anh chị em thân mến,

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay như tấm gương soi chính đời sống của chúng ta. Giữa một xã hội chênh lệch giàu nghèo, dễ sinh vô cảm, Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta sống tỉnh thức, sống chia sẻ, chiến đấu cho đức tin bằng những việc bác ái cụ thể. Khi đó, của cải trở thành phúc lành chứ không thành án phạt.

Xin Chúa cho chúng ta một trái tim biết nhìn, biết chạnh thương, để một ngày kia Chúa cũng nhìn đến chúng ta và nói: “Hãy vào hưởng niềm vui của chủ ngươi”.

Xin Chúa giúp chúng ta lắng nghe Lời Chúa, nhận ra anh chị em nghèo khổ quanh mình, và quảng đại chia sẻ yêu thương, nhờ đó ta mới xứng đáng được Chúa ban thưởng hạnh phúc muôn đời. Amen.


Suy niệm 5:

Có một anh thanh niên trẻ mới trúng số độc đắc. Anh sung sướng mua xe sang, xây nhà đẹp, mỗi ngày tiệc tùng với bạn bè. Một hôm, đang ngồi ăn ở nhà hàng năm sao, khi thấy bên ngoài có cụ già co ro bán vé số. Anh nghĩ thầm “tội nghiệp quá cụ quá”, nhưng liền sau đó, anh kéo màn xuống để khỏi nhìn thấy. Bạn anh hỏi: “Sao lại kéo màn?”. Anh trả lời: “Để khỏi khó chịu khi đang ăn!”.

Cả bàn cười ồ lên và có vẽ ngạc nhiên trước thái độ của anh ta. Câu chuyện ấy có thể là “bức tranh mini” trong đời sống xã hội chúng ta: Khi giàu có người ta cũng rất dễ “kéo màn” lại để khỏi thấy cảnh nghèo khổ, “kéo màn” để che lấp trách nhiệm của mình trước nỗi thống khổ của người khác.

Bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu cho chúng ta thấy hai bức tranh: giàu và nghèo, phúc và hoạ, qua dụ ngôn người phú hộ và anh nghèo La-da-rô.

- Ông phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, đắm chìm trong hưởng thụ, sáng mắt trước tiền bạc nhưng lại “đui mù” trước cảnh nghèo khó ngay trước cửa nhà mình. Đó là một thảm kịch muôn thuở: giàu vật chất nhưng nghèo tình thương.

- Anh La-da-rô thì trái lại, nghèo đói, bệnh tật, nằm trước cổng nhà phú hộ, hy vọng nhặt được mẩu bánh vụn rơi xuống, nhưng chẳng ai cho ăn. Thân phận anh thậm chí còn thua cả con chó của phú hộ.

Anh La-da-rô hôm nay chính là những người nghèo khổ đang ngồi xin bên lề đường, trước cửa nhà ta. Đó là hình ảnh Đức Kitô đang quằn quại trên thập giá, chờ sự an ủi và giúp đỡ của ta.

Nghèo vật chất còn có thể được giúp đỡ; nghèo tình thương mới là đáng sợ. Và ân sủng Thiên Chúa khó đổ xuống trên tâm hồn nào còn đóng kín trước người nghèo.

- Chúa Giêsu dạy: “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Phúc không hệ tại ở nhiều của cải, mà ở chỗ tâm hồn có Chúa. Có Chúa, dù nghèo hay giàu, khổ cực hay sung sướng, đều là phúc thật. Anh La-da-rô được phúc vì anh biết phó thác, chấp nhận cảnh nghèo mà không oán trách, nên được phần thưởng đời sau.

- Người phú hộ gặp hoạ, không phải vì ông giàu, mà vì ông sống dửng dưng với người nghèo ngay trước cửa nhà mình. Hoạ đời này còn có thể biến thành phúc cho ai biết nhẫn nhục và sám hối; hoạ đời sau thì không. Khoảng cách biến đổi hoạ thành phúc chỉ có trong đời này mà thôi.

Anh chị em thân mến,

Qua dụ ngôn hôm nay, Đức Giêsu mời gọi chúng ta trải rộng tình thương của Ngài nơi những anh chị em nghèo khó, để biến hoạ thành phúc cho chính mình. Giàu chưa phải là hoạ, nghèo cũng chưa chắc là phúc. Hoạ hay phúc tuỳ ở tâm hồn chúng ta có bóng dáng của Thiên Chúa trong tâm hồn mình hay không. (St).


Suy niệm 6: BẮC NHỊP CẦU-ĐỪNG ĐÀO VỰC THẲM VÔ CẢM

Có một vị doanh nhân giàu có đến dự lễ khánh thành cây cầu mới ở vùng quê. Trước giờ cắt băng, một em bé bán vé số lấm lem tiến lại gần:

- “Chú mua giúp con một tờ, biết đâu trúng độc đắc?”

- Ông cười: “Nếu chú trúng thì chú sẽ xây thêm cây cầu nữa!”

- Cậu bé hồn nhiên đáp: “Dạ, nếu con trúng con cũng xây cầu, nhưng con xây trước cửa nhà chú để chú khỏi đi xa, gặp người nghèo cũng dễ hơn!”

Mọi người cười ồ lên, khiến ông doanh nhân đỏ mặt. Ông chợt nhận ra: mình vừa góp tiền xây cầu ngoài đường, nhưng có lẽ mình chưa bắc được “cây cầu” trong lòng mình đến với người nghèo.

Câu chuyện vui ấy gợi ta nhớ đến dụ ngôn: ông phú hộ và anh La-da-rô nghèo khổ hôm nay. Đó là hai con người, hai thế giới đối lập, và một “vực thẳm” vô hìn, nhưng sâu hun hút: vực thẳm của vô cảm.

1. Ông phú hộ giàu sang

- Ăn mặc lụa là gấm vóc, tiệc tùng linh đình.

- Ông không công khai làm điều ác, nhưng cũng không làm điều thiện: dửng dưng trước khổ đau ngay trước cửa nhà mình.

- Sự khép kín ấy đã tự đào một “vực thẳm” ngăn cách ông với tha nhân và với chính Thiên Chúa.

2. Anh La-da-rô nghèo khó

- Đói khát, ghẻ lở, chỉ có chó liếm ghẻ.

- Anh lại được Chúa nhắc đích danh: La-da-rô nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”.

- Anh tượng trưng cho những người nghèo bị lãng quên, nhưng được Thiên Chúa yêu thương, nâng đỡ.

3. Đảo ngược sau cái chết

- Anh La-da-rô được yên nghỉ trong lòng Áp-ra-ham.

- Ông phú hộ chịu cực hình, khát nước, van xin nhưng không còn cơ hội.

- “Vực thẳm” mà ông phú hộ tự đào trong đời đã trở thành vực thẳm đời đời.

4. Sứ điệp Lời Chúa gửi đến cho chúng ta

- Tội không chỉ tránh làm điều xấu mà còn phải làm điều tốt.

- Người nghèo không chỉ để ta “bố thí” mà còn mời ta hoán cải, sống công bình và liên đới.

- Cái chết đặt dấu chấm hết cho mọi cơ hội. Vì thế ngay hôm nay chính là lúc để chúng ta sống yêu thương và chia sẻ.

Trong gia đình, họ đạo, khu xóm của chúng ta, luôn có những “La-da-rô” đang chờ bàn tay và tấm lòng của chúng ta: người già neo đơn, trẻ em thiếu thốn, bệnh nhân, người lầm lỡ…Mở lòng sẻ chia không chỉ bằng tiền bạc mà cả thời gian, sự hiện diện, lời nâng đỡ.

Hãy tự hỏi: tôi đang giống ai hơn, ông phú hộ hay anh La-da-rô? Tôi đang xây “vực thẳm” hay đang bắc “nhịp cầu” yêu thương?

Anh chị em thân mến,

Dụ ngôn hôm nay không nhằm kết án người giàu nhưng cảnh báo sự vô cảm. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta “bắc nhịp cầu” yêu thương, để ngay hôm nay Thiên Đàng đã manh nha giữa chúng ta.

Trong tuần này, mỗi gia đình, mỗi cá nhân được mời gọi:

- Dành một phần nhỏ thu nhập hoặc thời gian để giúp một người nghèo cụ thể (mua một bữa ăn, thăm bệnh nhân, tặng quần áo cũ, đóng góp vào quỹ bác ái của họ đạo…).

- Tham gia hay nâng đỡ các nhóm bác ái của họ đạo: thăm viếng bệnh nhân, phát quà cho người khó khăn, nấu cháo ở bệnh viện, bữa cơm 0 đồng…

- Cầu nguyện và tập nhìn thấy Chúa nơi những “La-da-rô” quanh ta để trái tim bớt vô cảm, mở ra yêu thương.

Xin Chúa ban ơn giúp mỗi người nhận ra Chúa nơi những anh chị em nghèo khổ, để rồi ngày sau chúng ta cũng được nghe lời Ngài: “Hãy đến, thừa hưởng Nước Trời đã dọn sẵn cho con”.

 

Thứ hai: Đn 7,9-10.13-14; Ga 1,47-51

KÍNH CÁC TỔNG LÃNH THIÊN THẦN MI-CA-EN, GAP-RI-EN VÀ RA-PHA-EN

Suy niệm 1: 

Hiệp hành cùng Giáo Hội, hôm nay chúng ta hân hoan cử hành thánh lễ mừng kính các tổng lãnh Thiên Thần: Micaen, Gabrien và Raphaen. Các ngài là tạo vật cao quý nhất do Thiên Chúa tạo dựng. Nhưng vì mang tính thiêng liêng nên ta không thấy được. Các ngài được diễm phúc túc trực ngay bên tòa Thiên Chúa để ca khen, chúc tụng và tôn vinh TC. Đồng thời các ngài cũng chính là sứ giả được Thiên Chúa sai đến với con người nhằm thông truyền những ý định của Thiên Chúa, cũng như cứu giúp con người chống lại sức mạnh của ma quỷ.

Xin cho chúng ta luôn yêu mến và năng tưởng nhớ đến các Tổng Lãnh Thiên Thần và liên kết mật thiết với các ngài để chống lại những cám dỗ do ma quỷ gây ra.

Dựa vào nền tảng Thánh Kinh, GH dạy cho ta biết: TC tạo dựng vũ trụ này gồm 2 thế giới. Thế giới hữu hình vật chất và một thế giới vô hình thiêng liêng. Và tạo vật quan trọng nhất được TC dựng nên trong thế giới hữu hình là con người. Còn tạo vật cao quý nhất được TC tạo nên trong thế giới vô hình là các Thiên Thần.

Thánh Kinh cũng mạc khải cho biết có vô số các Thiên Thần, trong đó gồm có thần lành là các Thiên Thần và thần dữ là Luxiphe. Luxiphe cũng là tổng lãnh Thiên Thần nhưng vì đã bất tuân và chống lại Thiên Chúa nên gọi là Satan. 

Các Thiên Thần chính là những sứ giả thần linh phục vụ Thiên Chúa và giúp đỡ con người.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác quyết với Nathanael về sự hiện hữu và hoạt động của các Thiên Thần trong thế giới, trong GH và trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Khi nói: “Thật, Ta nói thật với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người.”

Có vô số các Thiên Thần nhưng Thánh Kinh chỉ nhấn mạnh đến tên ba vị Tổng Lãnh Thiên Thần là Micael, Gabriel và Raphael. Cả 3 tổng lãnh đều có âm cuối là “el”. Trong tiếng Do Thái là “El” có nghĩa là Thiên Chúa.

- Tổng lãnh thiên thần Micael. Tiếng Do Thái có nghĩa “ai bằng Thiên Chúa”.  Vì thế, sứ mạng của ngài là chiến đấu chống lại Satan, kẻ có tham vọng muốn trở nên như Thiên Chúa, và xúi dục con người chúng ta hướng chiều về ham muốn ấy như nó (x. St 3); Vì thế Satan luôn cám dỗ con người đứng dưới cờ nó để tranh giành quyền ảnh hưởng thay cho Thiên Chúa.

Sách Khải Huyền tường thuật cuộc chiến thắng khải hoàn của ngài và của các thiên thần trong cuộc chiến đấu chống lại Luxiphe (x. Kh 12, 7-12a). Chính vì thế, ảnh tượng của ngài luôn là vị tổng lãnh Thiên Thần uy dũng, tay cầm gươm, chân đạp đầu con rắn, vốn là hình ảnh của Satan.

Trong truyền thống GH còn tin rằng ngài là vị đặc biệt bảo vệ Mình Thánh Chúa, bảo vệ Đức Giáo Hoàng và GH. Ngài cũng luôn hiện diện với những người đang hấp hối để giúp họ chiến đấu trong trận chiến cuối cùng chống lại thần dữ và dẫn đưa các linh hồn qua đời đến trước tòa Thiên Chúa.

- Tổng lãnh thiên thần Gabriel. Tiếng Do Thái có nghĩa là “sức mạnh của Thiên Chúa”. Ngài được biết đến nhiều nhất, vì chính ngài, với tư cách là sứ giả truyền đạt tin vui của Thiên Chúa cho nhân loại. Trong chương 8 của sách ngôn sứ Đa-ni-en, cho biết điều đó. Trong tân ước ngài mang đến cho con người những sứ điệp của niềm vui trọng đại qua việc truyền tin cho cho ông Dacaria, cho thánh Giuse và cho Đức Mẹ Maria.

- Tổng lãnh Thiên Thần Raphael. Tiếng Do Thái có nghĩa là “Thiên Chúa chữa trị”. Bởi vì, ngài có sứ vụ, thay mặt Thiên Chúa chữa lành tất các bệnh hoạn tật nguyền của loài người. Trong sách Tôbia (Tb 12,15), Ngài là bạn đồng với Tôbia con và đã chữa mù mắt cho Tôbia cha được sáng. Truyền thống của Giáo Hội hiểu đoạn Tin Mừng sau đây: “Thỉnh thoảng có thiên thần Chúa xuống khuấy nước lên; khi nước khuấy lên, ai xuống trước, thì dù mắc bệnh gì đi nữa, cũng được khỏi” (Ga 5,1-4) là hoạt động của Tổng Lãnh Thiên Thần Raphael.

Như thế TC dựng nên các Thiên Thần để phụng sự Chúa; đồng thời cũng là để giúp đỡ con người. Vì thế chúng ta hãy luôn biết kết hiệp mật thiết với các Tổng Lãnh Thiên Thần để dâng lên TC tâm tình ngợi khen, chúc tụng, tạ ơn không ngừng. Đồng thời xin cho chúng ta cũng biết năng tưởng và cầu xin với các Tổng Lãnh Thiên Thần luôn ở bên gìn giữ, che chở và cứu giúp chúng ta khỏi những cơn gian nan khốn khó.


Suy niệm 2:

Có một bà cụ già phải sang đường giữa dòng xe cộ. Một cậu học sinh nhỏ nắm tay bà dắt qua an toàn, rồi lặng lẽ biến mất. Bà thầm nghĩ: “Đúng là một… thiên thần nhỏ!”.

Câu chuyện ấy cho thấy: Thiên Chúa vẫn sai đến với chúng ta những “thiên thần” đời thường để nâng đỡ, bảo vệ, đem tin vui và chữa lành.

Hôm nay mừng kính các Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, Gabriel, Raphael, Lời Chúa nhắc chúng ta về sự hiện diện và sứ mạng của các sứ giả Thiên Chúa.

Ngôn sứ Đanien thấy Đấng Lão Thành uy nghi trên ngai xét xử muôn dân; bên cạnh là Con Người lãnh nhận quyền thống trị vĩnh cửu, xung quanh là muôn thần thánh chầu chực. Những hình ảnh đó nói cho ta biết:

- Thiên Chúa quyền năng và công minh.

- Các Thiên Thần phụng thờ và thi hành lệnh Thiên Chúa:  bảo vệ và hướng dẫn dân Ngài.

1. Tổng Lãnh Thiên Thần Micae: Nghĩa là “Ai bằng Thiên Chúa?” Ngài là vị thủ lãnh đạo binh trên trời, chiến đấu chống Satan, bảo vệ Hội Thánh và mỗi người chúng ta.

- Bài Tin Mừng:  Đức Giêsu nói với Nathanael: Thật, Ta nói thật với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người. Hình ảnh này gợi lại giấc mơ của Giacóp về chiếc thang nối trời và đất. Chiếc thang ấy chính là Đức Giêsu. Các Thiên Thần “lên xuống” biểu lộ sự thông hiệp giữa trời và đất nơi Người.

2. Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel với sứ mạng loan báo Tin Mừng cho Dacaria, cho Đức Maria, và mời gọi chúng ta hôm nay cũng trở thành sứ giả Tin Mừng trong gia đình, xóm đạo, môi trường sống.

3. Tổng Lãnh Thiên Thần Raphael: nghĩa là “Thiên Chúa chữa lành”. Ngài đã được sách Tôbia mô tả như người bạn đồng hành trung tín, hướng dẫn và chữa lành bệnh tật. Hình ảnh này củng cố niềm tin hco chúng ta. Bởi vì Thiên Chúa luôn quan tâm chữa lành mọi bệnh tật phần xác lẫn tâm hồn chúng ta nhờ ân sủng nơi các “thiên thần” Ngài sai đến.

Mừng kính các Tổng Lãnh Thiên Thần hôm nay, chúng ta được nhắc nhở:

- Ý thức có Thiên Thần bên cạnh, nhất là Thiên Thần Bản Mệnh.

- Noi gương các Thiên Thần: phụng thờ, phục vụ, loan báo Tin Mừng.

- Trở nên “thiên thần” cho nhau: bảo vệ người yếu thế (Micae), mang tin vui (Gabriel), chữa lành và nâng đỡ (Raphael).

Xin các Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, Gabriel, Raphael cầu bầu cho chúng ta, để chúng ta biết sống kết hợp với Đức Kitô, “Chiếc thang” nối trời với đất, và trở thành khí cụ bình an, tin vui và chữa lành cho mọi người. Amen.

 

Suy niệm 3: THIÊN LINH HUYỀN NHIỆM

“Ngàn ngàn hầu hạ Ngài, vạn vạn túc trực Ngài”.

William. J. Bryan nói, “Quả dưa hấu có sức hút từ mặt đất gấp 200.000 lần so với trọng lượng của nó. Nó lấy vật liệu từ đâu để tô màu cho mình; rồi sau đó, hình thành một tầng trắng, một tầng đỏ, và dát dày bằng những hạt đen! Nếu bạn có thể giải thích cho tôi bí ẩn của quả dưa hấu, tôi sẽ giải thích cho bạn bí ẩn của Thiên Chúa, mà giữa Ngài với chúng ta, dày đặc các ‘thiên linh huyền nhiệm!’”.

Kính thưa Anh Chị em,

Thật thú vị, ý tưởng ‘quả dưa’ của Bryan được gặp lại trong Lời Chúa ngày lễ các Tổng Lãnh Thiên Thần. Qua đó, một nguyên tắc thần học được nhắc lại! Rằng, sự cứu rỗi luôn mang tính trung gian! Người không thể tự mình đến với Chúa; Chúa không tự mình đến với người! Trên hết, phải có Đức Kitô, Trung Gian Thiên Linh Huyền Nhiệm Tối Cao; và cùng Ngài, muôn vàn thần thánh và các trung gian khác. Vì khoảng cách giữa Chúa và người thì vô cùng, nên với vô vàn ‘thiên linh huyền nhiệm’, Thiên Chúa lấp đặc nó!

Bài đọc Đaniel mô tả sự dày đặc đó, “Từ trước nhan Ngài, một sông lửa cuồn cuộn chảy, ngàn ngàn hầu hạ Ngài, vạn vạn túc trực Ngài”. Đó là các ‘thiên linh huyền nhiệm’ Thiên Chúa đã tạo dựng; ngoài ra, còn có ‘các lớp’, ‘các tầng’ trung gian khác! Tin Mừng hôm nay nói các thiên thần “lên xuống” trên Con Người, mà giấc mơ Giacóp là hình ảnh tiền trưng, báo trước việc các ngài phục vụ Thiên Chúa, nhưng họ phục vụ Ngài vì chúng ta.

Đức Phanxicô nói, “Chiến đấu là một thực tế diễn ra hàng ngày trong đời sống Kitô hữu từ trong trái tim, trong cuộc sống, trong gia đình, trong Giáo Hội... Nếu không chiến đấu, chúng ta sẽ bị đánh bại! May thay, Chúa đã giao nhiệm vụ này chủ yếu cho các thiên thần, để chiến đấu và chiến thắng!”. Các thiên thần đã hiện diện từ buổi tạo dựng và suốt lịch sử cứu độ, loan báo ơn cứu độ dù xa hay gần và phục vụ việc hoàn thành kế hoạch của Thiên Chúa, dẫn dắt dân Chúa; loan báo các cuộc giáng sinh và các ơn gọi. Cuối cùng, Gabriel loan báo sự ra đời của Gioan Tiền Hô và chính Chúa Giêsu. Thánh Vịnh đáp ca thật ý nghĩa, “Lạy Chúa, giữa chư vị thiên thần, này con xin đàn ca kính Chúa!”.

Tin Mừng hôm nay minh hoạ vai trò trung gian của Philipphê khi ông dẫn Nathanael đến với Chúa Giêsu. Trong cái nhìn đức tin, Philipphê là một ‘thiên linh huyền nhiệm’, người đã dẫn Nathanael đến với Con Thiên Chúa, ‘Thiên Linh Huyền Nhiệm Tối Cao’. Và Chúa Giêsu đã mặc khải một cách cụ thể không dè giữ về các ngài, “Các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người”.

Anh Chị em,

“Ngàn ngàn hầu hạ Ngài, vạn vạn túc trực Ngài”. Trong cuộc sống, biết bao ‘thiên linh huyền nhiệm’ Chúa quan phòng đã chuẩn bị xa gần để bạn và tôi có thể nhận biết, yêu mến và phụng sự Ngài. Trước hết, cả triều thần thánh trên trời; tiếp đến là Mẹ Giáo Hội, trong đó, bao tâm hồn đạo đức; và này, ông bà, cha mẹ và bao con người, bao phương tiện. Như vậy, bên cạnh một triều thần vô hình, các thiên thần có cánh, còn có vô vàn các ‘thiên thần không cánh’. Họ là ‘các lớp’, ‘các tầng’ dày đặc phục vụ trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa vì mỗi người chúng ta. Hãy cảm tạ Thiên Chúa và biết ơn các ngài. Đến lượt chúng ta, bạn và tôi cũng hãy trở nên những ‘thiên linh huyền nhiệm!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con luôn trở nên một ‘thiên linh huyền nhiệm’ cho anh chị em con!”, Amen.

(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)

* Mùa thường niên: Lc 9,46-50

Tin Mừng hôm nay đề cập đến tinh thần, thái độ và cách hành xử cần phải có của người môn đệ Đức Giêsu.

Với hình ảnh cụ thể khi đặt đứa bé bên cạnh mình, Chúa Giêsu muốn chỉ dạy cho các môn đệ tinh thần và thái độ cần phải có của người làm lớn:

- Về tinh thần: Lẽ thường tình, ai trong chúng ta cũng thích làm lớn, đứng đầu, lãnh đạo như các môn đệ Chúa Giêsu khi xưa. Chúa Giêsu có lẽ cũng không nghiêm cấm các môn đệ ước muốn làm lớn. Nhưng điều Ngài quan tâm là làm lớn, đứng đầu với tinh thần nào mới quan trọng.

Để xứng đáng là người đứng đầu, lãnh đạo theo tinh thần của Chúa Giêsu mong muốn đó là phải biết sống khiêm tốn và tận tâm phục vụ mọi người. Phải luôn ý thức rằng chức vụ gắn liền với trách nhiệm. Khi người lãnh đạo biết hạ mình xuống để phục vụ người khác với tinh thần khiêm tốn vô vị lợi, thì chính lúc ấy hình ảnh và giá trị của người lãnh đạo mới trở nên cao đẹp và đáng được trân trọng! Ước mong trong đạo, ngoài đời đều có những vị lãnh đạo mang tinh thần ấy!

- Về thái độ: Theo khuynh hướng tự nhiên, ai trong chúng ta cũng thích liên hệ và tiếp đón những người có chức cao quyền trọng, giàu sang thế giá; còn những người thấp cổ bé miệng, cô thế cô thân, nghèo khổ thì ta có vẻ xem thường, khinh bỉ, không thích đón tiếp họ. Đó cũng chính là thái độ của các môn đệ xưa kia.

- Về cách hành xử: Chúa không muốn các môn đệ hành xử tiêu cực và loại trừ như thế, nhưng Chúa muốn các môn đệ hãy vì danh Chúa mà bao dung và quảng đại đón tiếp những ai bé nhỏ, nghèo hèn, bởi lẽ họ chính là hiện thân của Chúa. Tiêu chí trong ngày phán xét chính là đức ái. Phần thưởng hay hình phạt là tùy thuộc vào việc ta có quảng đại giúp đỡ những người nghèo khổ hay không?

Hy vọng mỗi người trong chúng ta đều có được thái độ ân cần, quảng đại và nhiệt tâm giúp đỡ mọi người, nhất là anh em nghèo khổ.

Qua cách hành xử độc đoán của tông đồ Gioan khi ra sức ngăn cấm người khác làm phép lạ trừ quỷ nhân danh Chúa chỉ vì người ấy không cùng phe nhóm của mình. Chúa Giêsu lại tiếp tục chỉ dạy cho các môn đệ về cách thế hành xử phải có của người môn đệ Người. Cách hành xử ấy phải dựa trên những nguyên tắc căn bản như: Trong những điều tốt thì ủng hộ chứ không cấm đoán; hợp tác chứ không chống đối; Và trong hết mọi sự cần nhớ rằng: "Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta".

Cách hành xử ích kỉ loại trừ của tông đồ Gioan ngày xưa cũng rất có thể là cách hành xử của người kitô hữu chúng ta ngày nay. Bởi lẽ nhiều khi chúng ta chỉ muốn Chúa ban ơn phúc cho riêng ta hay phe nhóm ta mà thôi; còn những người thuộc phe nhóm khác thì mong Chúa đừng bao giờ thi ân giáng phúc cho họ.

Xin Chúa hoán cải và biến đối lối suy nghĩ hẹp hòi ích kỷ này của chúng con. Mong lắm mọi người dù lương hay giáo, lớn hay nhỏ, hữu thần hay vô thần đều có được tinh thần tôn trọng những đặc sủng riêng biệt do CTT ban cho để cùng nhau chung tay thực hiện những điều thiện hảo với mong muốn mang đến niềm vui và hạnh phúc cho mọi người.

 

Thứ ba : Lc 9, 51-56

Nhớ Thánh Giê-rô-ni-mô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh

Suy niệm 1:

Tin mừng hôm nay nhấn mạnh đến tinh thần của người môn đệ cần phải có khi đi theo Đức Giêsu. Nếu tinh thần của Gia-cô-bê và Gio-an là tinh thần nóng nảy, bất đồng muốn báo thù và tiêu diệt khi bị dân làng Sa-ma-ri-a ngăn chặng không tiếp đón, thì tinh thần mà Chúa Giêsu muốn các tông đồ phải có đó là lòng nhân nhượng, bao dung và cứu sống, bởi lẽ mục tiêu Người đến trần gian là để cứu chữa: "Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta".

Đối với Chúa Giê-su quyền lực và khả năng Chúa ban cho con người không phải để đối đầu, chấn áp hay giết hại lẫn nhau cho hả cơn giận, nhưng là để yêu thương phục vụ, bao dung và tha thứ. Chính vì thế Chúa Giê-su đã không chọn lối ứng xử trả đủa ngay lập tức theo thói đời như phản ứng của Gia-cô-bê và Go-an. Trái lại, Người mời gọi các ông phải có lòng nhân từ tha thứ và sáng kiến tìm ra lối đường khác để thực hiện cho bằng được lộ trình lên Giêsusalem.

Xin cho chúng ta có được tinh thần quảng đại bao dung của Chúa, nhờ đó mà tránh được những xung đột đáng tiếc xảy ra trong đời sống hàng ngày; và trước những điều trái không may xảy đến trong đời sống, xin cho ta biết bình tâm và sáng suốt  tìm ra lối đường giải quyết êm đẹp theo ý Chúa muốn.

 

Suy niệm 2: 

Thánh Giêrônimô được biết đến như một trong những nhà nghiên cứu Kinh Thánh vĩ đại nhất trong lịch sử. Ngài đã dành cả cuộc đời để dịch Kinh Thánh từ tiếng Hy Lạp và tiếng Hê-brơ sang tiếng Latin, tạo nên bản Vulgata - một trong những bản dịch Kinh Thánh quan trọng nhất trong truyền thống Công giáo.

Thánh Giêrônimô nói đến vai trò trung tâm của Kinh Thánh trong đời sống đức tin, và mời gọi chúng ta chuyên cần đọc, suy niệm và sống theo Lời Chúa mỗi ngày.

Tầm quan trọng của việc học hỏi Lời Chúa: Thánh Giêrônimô đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu và dịch Kinh Thánh. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc học hỏi và hiểu biết sâu sắc Lời Chúa. Chúng ta cũng được mời gọi dành thời gian để đọc, suy niệm và tìm hiểu về Lời Chúa, để có thể sống trọn vẹn đức tin của mình.

Lời Chúa là ánh sáng soi đường: Kinh Thánh giống như một ngọn đèn soi sáng con đường chúng ta đi. Lời Chúa giúp chúng ta nhận ra ý nghĩa của cuộc sống, vượt qua những khó khăn và tìm thấy niềm vui đích thực.

Sống Lời Chúa trong đời sống hằng ngày: Việc đọc Kinh Thánh không chỉ dừng lại ở việc hiểu biết lý thuyết mà còn cần được thể hiện qua hành động. Chúng ta được mời gọi sống theo những gì chúng ta đã đọc và suy niệm, để trở nên những chứng nhân sống động của Tin Mừng.

Vậy chúng ta hãy:

 Dành thời gian đọc Kinh Thánh mỗi ngày: Hãy cố gắng dành ra một khoảng thời gian nhất định để đọc và suy niệm Lời Chúa.

Tham gia các lớp học Kinh Thánh: Các lớp học Kinh Thánh sẽ giúp chúng ta hiểu sâu hơn về Lời Chúa và trao đổi kinh nghiệm với những người khác.

Chia sẻ Lời Chúa với người khác: Hãy chia sẻ những điều mình đã học được từ Kinh Thánh với bạn bè, người thân và cộng đồng.

Sống theo Lời Chúa: Hãy để Lời Chúa hướng dẫn mọi hành động và quyết định của mình.

Tạ ơn Chúa vì đã ban cho chúng ta Lời của Ngài để soi dẫn hành trình đức tin của chúng ta. Xin Chúa giúp chúng ta luôn có lòng khao khát tìm hiểu và sống theo Lời Chúa mỗi ngày theo gương Thánh Giêrônimô, với mong muốn trở thành những người truyền bá Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người. Amen.

 

* TIỂU SỬ THÁNH GIÊRÔNIMÔ

Nói về thánh Giêrônimô, không Kitô hữu nào không nhớ câu nói nổi tiếng của Ngài: “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”.  Và để mừng kỷ niệm 1600 năm ngày mất của Thánh Gieronimo (340- 390) Linh mục, tiến sĩ Hội Thánh, Đức Thánh Cha Phanxico ban hành Tông Thư Scripturae Sacrat Affectus (Lòng Yêu Mến Kinh Thánh) gửi đến mọi Kitô hữu, nhất là những Kitô hữu giáo dân Việt Nam vì rất ít giáo dân VN quan tâm đến việc tìm hiểu, học hỏi và truyền bá Lời Chúa chứa đựng trong kho tàng Thánh Kinh.

Vậy nhân ngày kính vị thánh đặc biệt này, chúng ta tìm hiểu đôi chút về ngài qua nguồn tgpsaigon.net:

1. Đôi Dòng Lịch Sử

Giêrônimô sinh vào khoảng 347 trong xứ Dalmatia.

Lớn lên Giêrônimô du học ở Roma, học chuyên về sử và triết lý.

Giêrônimô có công tìm kiếm và mua sắm nhiều sách rất quí giá.

Lúc học ở Roma, Giêrônimô sống hơi buông thả một chút những lúc nào cũng giữ được lòng kính sợ Thiên Chúa.

Chính Đức Giáo Hoàng Liberrio rửa tội cho ngài.

Sau khi học xong, Giêrônimô có đi một vòng qua nước Pháp đến thành Trèves.

Cuối cùng thì Giêrônimô sang và ở luôn tại Antioche trong xứ Syria. Thời gian ở đây đánh dấu một bước ngoặt rất quan trọng trong việc hình thành ơn gọi nơi ngài. Ngài đã được chịu chức linh mục tại đây. Một đêm kia người mơ thấy Chúa hiện ra với mình.

Chúa hỏi:

- Giêrônimô, con là ai vậy?

Ngài trả lời:

- Con là con của Chúa, con là người có đạo.

Chúa trả lời lại:

- Nói láo! Phải nói con là của Cicêrô mới đúng.

Giêrônimô hiểu là ý Chúa muốn trách mình quá say mê Cicêrô - Cicêrô vừa là một nhà văn vừa là một nhà hùng biện rất nổi tiếng ở Roma - nên Giêrônimô quyết tâm sửa mình lại.

Ngay sau đó Giêrônimô bắt đầu học tiếng Hy lạp và Do thái với một mục đích duy nhất để có đủ khả năng dịch sách Kinh Thánh từ tiếng Hy Lạp ra tiếng Latinh.

Trong thời gian này Giêrônimô được Đức Thánh cha Damsus gọi Ngài về Roma một thời gian để làm thư ký riêng cho Ngài. Và cũng chính ở đây mà Ngài đã bắt đầu một công trình có một tầm vóc hết sức quan trọng cho Giáo hội: Ngài bắt đầu dịch Kinh Thánh bằng tiếng Hy Lạp sang tiếng Latinh.

Ở Roma được một thời gian, có lẽ vì cảm thấy Roma không phải là chỗ thích hợp cho công việc quá đặc biệt này cho nên Ngài đã trở lại xứ Palestine, vào sống một cuộc đời thầm lặng trong một tu viện ở Belem. Ngài sống tại đây suốt 34 năm trời...vừa tiếp tục học hỏi, tra cứu thêm để phục vụ Chúa trong các tác phẩm chống lạc giáo và nhất là để hoàn thành việc chuyển ngữ toàn bộ bộ Kinh Thánh sang tiếng Latinh.

Sau này chính Công Đồng Triđentinô đã tu sửa bản dịch này và đến nay vẫn được coi là văn bản chính thức của Giáo hội Công giáo Rôma.

Ngài là bạn rất thân của thánh Augustino. Chính thánh Augustinô cũng đã có nhiều lần nhắc đến Ngài như một người bạn và như một bậc thầy.

Theo cuốn niên sử ông Prosper thì thánh Giêrônimô qua đời quãng năm 420, hưởng thọ 92 tuổi tại Bethlehem.

Mặc dầu qua đời ở Palestina vào thời hỗn chiến, thánh Giêrônimô đã được toàn thể thế giới công giáo tôn sùng ngay từ mấy năm sau khi ngài tạ thế. Ở Rôma, người ta kính thánh nhân đặc biệt tại Đại Giáo Đường Đức Bà Cả. Dưới đời Đức Giáo Hoàng Bônifaciô VIII (1294-1303), thánh nhân được suy tôn bậc tiến sĩ ngang hàng với thánh Grêgôriô cả, thánh Âu Tinh và thánh Ambrôsiô, tức bốn vị giáo phụ ở Tây phương.

2. Bài Học.

- Dám hy sinh vì Chúa.

Bỏ cả sở thích riêng của mình. Khi được Chúa “cảnh cáo” dù chỉ là trong một giấc mơ, Giêrônimô đã sửa lại lỗi lầm của mình ngay. Đây là một điều rất khó nhưng Giêrônimô đã làm được.

Hy sinh cả cuộc đời cho Lời của Chúa. Chúng ta hãy cứ tưởng tượng xem một công trình lớn - là công trình chuyển ngữ Kinh Thánh tử tiếng Hy Lạp sang tiếng La tinh- như vậy mà hầu như chỉ có một mình ngài thực hiện thì thời giờ và công sức phải bỏ ra lớn đến mức độ như thế nào.

Để có một chút so sánh thì chúng ta hãy nhìn vào Giáo hội Việt Nam của chúng ta. Giáo hội công giáo Việt Nam đã tạm gọi là đã có hơn 4 thế kỷ nay. Vậy mà chỉ mới đây chúng ta mới có một tin vui là nhóm Phụng Vụ Giờ Kinh cho ra đời trọn bộ Kinh Thánh bằng tiếng Việt đầu tiên. Trước đây đã có một số bản những bản này có quá nhiều hạn chế và thiếu sai sót.

Phải đợi nhiều năm trời Giáo Hội Việt Nam mới có được bộ Kinh Thánh có tầm cỡ và xứng đáng như thế.

Vậy mà một mình Thánh Giêrônimô đã làm được công việc vĩ đại đó. Giáo hội dùng bản dịch của Ngài suốt từ thời đó cho đến nay. Điều đó đã tự khẳng định về tầm quan trọng và chỗ đứng của nó trong lịch sử Giáo hội.

- Tiếp đến Thánh Giêrônimô đã biết chọn thật đúng nhu cầu của Giáo hội và đã làm hết sức mình để đáp ứng lại nhu cầu đó.

Vào hoàn cảnh lúc bấy giờ, người ta đã thấy thời đại của văn hóa Hy lạp đang suy tàn và thời đại văn minh Tây phương đi lên.

Phải nói Giêrônimô là một con người rất thức thời. Hiểu được những nhu cầu của Giáo hội và đáp ứng lại một cách hết sức tốt đẹp. Đây là bài học chung cho cả Giáo hội. Công đồng Vaticanô khi cho chuyển ngữ các bàn văn Phụng vụ bằng tiếng Latinh sang tiếng địa phương cũng nhắm chiều hướng này.

Hơn nữa ngày từ năm 1933 dưới triều Đức Giáo Hoàng Piô XI mà thánh Giêrônimô đã nghĩ đến việc phát động phong trào nghiên cứu và tìm hiểu Kinh thánh thì phải coi đây là sáng kiến và công việc hết sức mới mẻ mà mãi về sau Giáo Hội mới thấy sự sức cần thiết của công việc này. Bởi vậy, khi nhắc đến huân công và thiên tài dịch bộ Kinh Thánh của ngài, giáo sư M.J. Lagrange, một nhà nghiên cứu và chú giải Thánh kinh nổi tiếng của Giáo Hội hôm nay đã viết rằng: “Đó là một trong những sự nghiệp đáng thán phục nhất của trí óc nhân loại

Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta biết yêu mến Lời Chúa với tất cả tấm lòng của chúng ta .

Xin được kết thúc bằng lời chú giải của thánh Ép-rem, phó tế, về sách Tin Mừng tổng hợp.”Lạy Chúa, ai nào hiểu nổi dù chỉ một lời trong các lời Chúa phán. Như những kẻ khát nước uống nơi mạch suối, chúng con bỏ đi nhiều hơn là thu vào, bởi lẽ lời Chúa có muôn màu muôn vẻ, tuỳ theo nhận thức khác nhau của những người học hỏi. Chúa tô điểm cho lời Người bằng nhiều màu sắc, để ai học hỏi đều tìm thấy ở đó điều mình ưa thích. Người thiết lập nhiều kho tàng châu báu trong lời của mình, để ai trong chúng ta khai thác ở đâu thì nên giàu ở đó.

Lời Chúa là cây sự sống cung cấp cho bạn quả phúc từ mọi phần cây, tựa như tảng đá xưa trong sa mạc đã nứt ra để ban nước thiêng cho mọi thành phần dân Chúa, như thánh Phao-lô tông đồ nói : Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, cùng uống một thức uống linh thiêng. Vậy ai lãnh được phần nào trong kho tàng của Chúa thì đừng tưởng trong lời Chúa chỉ có bấy nhiêu thôi, nhưng phải nghĩ rằng mình chỉ thấy được có một trong nhiều điều chứa chất ở đó. Cũng đừng vì chỉ gặp được và lãnh nhận có một phần đó thôi mà coi nhẹ và bảo rằng lời Chúa nghèo nàn và cằn cỗi, nhưng bởi không thể lãnh hội hết nên hãy cảm tạ vì sự phong phú của lời Chúa.

Bạn hãy thưởng thức món bạn ăn và đừng buồn vì bạn không ăn hết được. Kẻ khát thì vui khi được uống và chẳng buồn vì không uống cạn được suối. Hãy để suối làm cho bạn đã khát, chứ đừng để cơn khát của bạn uống cạn suối, vì nếu bạn hết khát mà suối không cạn thì khi bạn lại khát, bạn có thể uống nữa. Còn nếu như bạn hết khát mà suối cũng cạn luôn thì việc bạn uống cạn suối sẽ trở nên tai hoạ cho bạn.

Hãy cảm tạ vì những gì bạn đã nhận được và đừng buồn vì phần còn lại quá nhiều. Cái bạn đã lãnh và đã tìm được là phần của bạn; ngoài ra cái còn lại là gia nghiệp bạn sẽ được hưởng. Điều mà trong một giờ bạn không lãnh được vì bạn yếu đuối thì bạn vẫn có thể lãnh nhận trong những giờ khác, nếu bạn kiên trì. Đừng vì tà ý mà cố gắng uống một hơi cho cạn cái không thể uống cạn một hơi, cũng đừng vì ngu dốt mà không uống cái bạn có thể uống từ từ. Amen.

Lạy thánh Giêrônimô, xin mở miệng chúng con để chúng con luôn ca ngợi và nói lời Chúa vì chỉ lời Chúa mới làm cho chúng con đi đúng đường và hạnh phúc.

Lm.Giuse Đinh Tất Quý

 

KHÔNG BIẾT KINH THÁNH LÀ KHÔNG BIẾT ĐỨC KI-TÔ

Trích lời tựa sách chú giải ngôn sứ I-sai-a của thánh Giê-rô-ni-mô, linh mục.

Vâng lệnh Đức Ki-tô truyền : Hãy nghiên cứu Kinh Thánh và cứ tìm thì sẽ thấy, giờ đây tôi trả món nợ tôi mắc, kẻo phải cùng với người Do-thái nghe lời sau đây : Các ông lầm vì không biết Kinh Thánh cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. Quả vậy, nếu Đức Ki-tô là quyền năng và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa như thánh Phao-lô tông đồ nói, thì ai không biết Kinh Thánh là không biết Đức Ki-tô.

Bởi thế, tôi sẽ bắt chước chủ nhà kia lấy ra từ kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ và bắt chước vị hôn thê nói trong sách Diễm ca : Từ đầu mùa cho đến cuối mùa, em dành hết cho anh, hỡi người em yêu dấu. Vậy tôi trình bày sách I-sai-a để cho thấy tác giả không chỉ là ngôn sứ nhưng còn là người loan báo tin mừng và là tông đồ nữa. Quả thật, chính ông đã nói về mình và về các sứ giả khác cũng loan báo tin mừng : Đẹp thay bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an. Thiên Chúa cũng nói với ông như nói với một vị tông đồ : Ta sẽ sai ai đây ? Ai sẽ đi đến với dân này ? Và ông thưa : Dạ, con đây, xin sai con đi.

Xin đừng ai nghĩ rằng tôi muốn tóm gọn nội dung cuốn sách này trong một bài giảng ngắn, vì cuốn Sách Thánh này chứa toàn bộ những điều bí nhiệm về Chúa. Sách tiên báo Đấng Em-ma-nu-en sinh bởi Đức Trinh Nữ, Đấng làm những việc lẫy lừng và những dấu lạ, Đấng đã chết, được mai táng và đã từ âm phủ trỗi dậy : Người là Đấng cứu độ muôn dân. Tôi nói gì được về môn vật lý, luân lý và luận lý ? Tất cả những gì thuộc Sách Thánh, những gì miệng con người có thể nói ra, giác quan có thể cảm nhận, đều được chứa trong sách ấy. Về những mầu nhiệm trong sách đó, thì chính tác giả làm chứng như sau : Đối với các ngươi, thị kiến toàn là những lời ghi trong sách niêm phong. Người ta trao sách cho kẻ biết đọc và bảo : “Đọc đi !” Nhưng hắn nói : “Đọc sao được, sách đã niêm phong rồi !” Lại đưa sách cho kẻ không biết đọc và nói : “Đọc đi !” Hắn liền bảo : “Tôi nào đâu biết chữ !”

Nếu ai thấy điều nói trên là chưa đủ thì hãy nghe thánh Phao-lô tông đồ nói : Về các ngôn sứ, chỉ nên có hai hoặc ba người lên tiếng thôi, còn những người khác thì phân định. Nếu có ai ngồi đó được ơn mặc khải, thì người đang nói phải im đi. Vì lý do gì họ có thể im được, bởi lẽ nói hay im là việc của Thánh Thần nói qua các ngôn sứ ? Vậy, nếu họ hiểu được những điều họ nói, thì tất cả những điều đó đều là khôn ngoan và hợp lý ; không phải là tiếng nói chuyển qua không khí đập vào tai họ, nhưng là tiếng Thiên Chúa nói trong tâm hồn các ngôn sứ, theo lời một ngôn sứ khác như sau : Thần sứ đang nói với tôi và Chúng ta được kêu lên trong lòng “Áp-ba, Cha ơi”, lại nữa Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán.

(PVGK-Giờ Kinh Sách) 

 

Thứ tư: Is 66,10-14c; Mt 18, 1-5.10

KÍNH THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊ-SU, TRINH NỮ, TIẾN SĨ HỘI THÁNH. BỔN MẠNG CÁC XỨ TRUYỀN GIÁO.

Dưới trần gian tranh giành địa vị, chức quyền đã đành. Trên trời mà còn tranh quyền đoạt lợi quả là một điều đáng trách. Thế mà các môn đệ xưa kia lại đưa lối suy nghĩ ấy vào chốn vĩnh cửu, nên các ngài đã không ngần ngại đặt vấn đề với Chúa Giêsu: "ai là người lớn nhất trong nước trời?".  

Chúa Giêsu không trả lời cho các ông biết ai là người lớn nhất trong Nước Trời, nhưng Chúa lại cho biết điều kiện cần phải có để được vào Nước Trời. Điều kiện ấy chính là phải trở nên như trẻ nhỏ. Không phải chúng ta hóa kiếp trở lại làm trẻ nhỏ, nhưng Chúa muốn chúng ta phải có tinh thần trẻ nhỏ.

Vì trẻ nhỏ có tâm hồn đơn sơ, ngay chính. Chúa muốn chúng ta cũng có tấm lòng đơn sơ và ngay chính như các trẻ nhỏ. Đừng mưu mô, lọc lừa, gian tham vì bất cứ lý do nào. Biết rằng sống đơn sơ, ngay chính thời nay phải chịu rất nhiều thiệt thòi, ngay cả bị cho là dại khờ và bị ngưởi khác xem thường nữa.

Vì trẻ nhỏ luôn biết tin tưởng, phó thác. Biết mình bé nhỏ, yếu đuối không có khả năng sống tự lập nên lúc nào trẻ nhỏ cũng tin tưởng phó thác vào sự che chở, đỡ nâng của người lớn. Chúa cũng muốn chúng ta tin tưởng, phó thác vào tình thương và quyền năng của Chúa, cho dẫu cuộc sống của ta còn nhiều gian lao thử thách.

Vì trẻ nhỏ sống khiêm nhường, vâng phục. Trẻ em tự biết mình còn nhiều thiếu xót nên lúc nào cũng khiêm tốn lắng nghe và làm theo những lời chỉ dạy của cha mẹ, thầy cô... Chúa cũng muốn chúng ta có lòng khiêm nhường như Mẹ Maria mở lòng lắng nghe và thực thi thánh ý của Chúa. Chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa qua tiếng nói lương tâm, qua những biến cố vui buồn trong đời sống, qua sự hướng dẫn của GH, nhất là qua việc học hỏi và suy niệm Lời Chúa hàng ngày.

Tóm lại, Chúa muốn chúng ta áp dụng tinh thần của trẻ thơ vào trong đời sống mình. Ai sống được tinh thần như thế thì mới được vào Nước Trời và xứng đáng được gọi là người lớn nhất trong nước Chúa.

Đây cũng là con đường mà chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giê-su đã áp dụng cho trong đời sống mình. Thánh Têrêsa là một vị thánh rất trẻ, cuộc đời của ngài chỉ vỏn vẹn 24 tuổi thanh xuân. Ngài đã chọn cho mình con đường nên thánh, đường vào Nước Trời bằng tinh thần thơ ấu thiêng liêng. Ngài yêu Chúa như một đứa bé yêu mến cha mẹ. Ngài làm những việc rất ư là tầm thường nhưng với tấm lòng phi thường. Thân xác ngài mỏng manh yếu đuối, nhiều bệnh tật nhưng tình yêu ngài dành cho Chúa, cho mọi người, đặc biệt là cho các linh hồn trong luyện ngục thì thật lớn lao vĩ đại.  Ngài thánh hóa tất cả những việc làm bổn phận hàng ngày với tình yêu dâng hiến dành cho Chúa, cho việc truyền giáo và cho phần rỗi các linh hồn.

Noi gương thánh nữ, chúng ta hãy sống tinh thần bé nhỏ: luôn tin tưởng cậy trông vào tình thương Chúa; khiêm tốn nhận ra giới hạn của mình để biết lắng nghe, làm theo ý Chúa; sẵn sàng hy sinh âm thầm phục vụ mọi người nhất là những người nghèo khổ với lòng yêu mến chân thành.

Xin cho chúng ta luôn nhớ rằng trước mặt Chúa, chúng ta chỉ là những người con bé nhỏ, không có Chúa ta chẳng làm được việc gì và nếu chúng con có làm được việc gì đi nữa, tất cả cũng là hồng ân Chúa ban.  Xin cho chúng ta hằng biết phó thác cả cuộc đời mình vào bàn tay uy quyền của Chúa tựa như đứa bé nương tựa vào lòng mẹ để tận hưởng hơi ấm tình thương và bình an của Chúa trao ban.

 

* THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU

“Vâng lời, cầu nguyện và hy sinh” là chương trình sống của Têrêsa. Thánh nữ có một lòng khao khát chịu đau khổ vì yêu mến Thiên Chúa. Têrêsa có tinh thần can đảm của một nữ anh thư đích thực. Thánh nữ viết: “Xin Chúa hãy cho con được chịu tử đạo hoặc trong tâm hồn, hoặc ngoài thể xác-hoặc tốt hơn, cả hai!”

Thánh nữ Tê-rê-sa chào đời ngày 2.1.1873 tại Alençon nước Pháp. Trong gia đình có 5 chị em, Têrêsa là con gái út.

Vào tháng 4.1888, Têrêsa vào đan viện Cát Minh ở Lisieux lúc được 15 tuổi và nhận tên là Têrêsa Hài Đồng Giêsu.

Chúng ta biết được con đường nội tâm của thánh nữ nhờ vào quyển “Lịch sử một tâm hồn” và “Các lời nói” do bà chị ruột cũng là bề trên sưu tập. Têrêxa đi vào cái trọn vẹn, cái vĩ đại: chị muốn yêu mến Chúa Giêsu hơn bất cứ ai trên thế giới; chị muốn dâng mình cho tình yêu nhân từ của Chúa như của lễ toàn thiêu; chị muốn yêu tất cả mọi người, như Chúa Giêsu đã yêu. Chống lại kêu ngạo, chị luôn nhận thức mình hoàn toàn bất lực và nếu có làm được gì, đó là do sức mạnh tình yêu của Chúa ban cho.

Chị đã sống đời khiêm tốn, đơn sơ theo tinh thần Tin Mừng và hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa theo “con đường thơ ấu”. Chị cũng đã dùng lời nói và gương sáng để hướng dẫn các tập sinh trong Dòng. 

Chị qua đời ngày 30 tháng 9 năm 1897 trong niềm khao khát được hiến dâng mạng sống để các linh hồn được ơn cứu độ và Hội Thánh được tăng triển.

Đức Thánh Cha Piô XI nâng Têrêxa lên hàng hiển thánh năm 1925 và đặt làm thánh quan Thầy cho các xứ truyền giáo. 

Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã tuyên nhận thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là Tiến sĩ Hội Thánh năm 1997. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu dạy cho chúng ta biết “con đường thơ ấu” của ngài. Để theo con đường này, mỗi ngày chúng ta hãy vui vẻ dâng những hy sinh nhỏ mọn của chúng ta lên Đức Chúa Giêsu. Chúng ta hãy vượt qua chính mình để đối xử thật tốt với những người khó tính. Nếu cảm thấy bị tổn thương, thay vì bực mình khó chịu, chúng ta hãy dâng lên Đức Chúa Giêsu những bực dọc ấy.

 

Thứ năm: Xh 23,20-23; Mt 18,1-5.10

Nhớ các Thiên Thiền Hộ Thủ

Suy niệm 1: 

Dựa trên nền tảng Thánh Kinh, Giáo lý Hội Thánh Công Giáo dạy biết Thiên Chúa dựng nên vũ trụ này gồm hai thế giới, hữu hình và vô hình. Thế giới vô hình là thế giới thiêng liêng, mắt phàm không nhìn thấy được, trong thế giới thiêng liêng đó có các Thiên Thần.

Thiên Chúa dựng nên các Thiên Thần một mặt để túc trực bên toà Thiên Chúa để đêm ngày thờ phượng, chúc tụng và tôn vinh Thiên Chúa thay cho muôn vật muôn loài; mặt khác là để thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa để thông truyền ý muốn Thiên Chúa, bảo vệ và giúp đỡ con người. 

Thiên Chúa dựng nên hằng vô số các Thiên Thần, trong đó có 3 Tổng Lãnh Thiên Thần là: Mi-ca-en, Gáp-ri-en và Ra-phen-en mà Hội Thánh đã mừng kính vào ngày 29 tháng 09 vừa qua.

Riêng hôm nay cùng với Hội Thánh, chúng ta kính nhớ các Thiên Thần Bản Mệnh hay còn gọi là Thiên Thần Hộ Thủ. Thiên Chúa đã ban cho mỗi người chúng ta một Thiên Thần Bản Mệnh riêng. Vị Thiên Thần này luôn gìn giữ bảo vệ chúng ta khỏi mọi sự hãm hại của ma quỷ; giúp chúng ta tránh xa mọi cám dỗ ma quỷ ở mọi nơi mọi lúc.

Vị Thiên Thần Hộ Thủ là một người bạn đồng hành yêu thương và như một vệ sĩ vô hình luôn ở bên cạnh chúng ta, đồng hành với chúng ta suốt cuộc đời dương thế cho đến khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay.

Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giê-su nhắc đến vị Thiên Thần này. Từ đó Chúa muốn nhắc nhở chúng ta về phẩm giá cao quý của con người dù họ là ai và hãy tôn trọng nhân phẩm, giá trị mỗi người, chớ khinh thường bất cứ ai, nhất là những con người bé nhỏ nghèo hèn, vì mỗi người đều mang hình ảnh Thiên Chúa, là con Thiên Chúa và được Thiên Chúa ban cho một vị Thiên Thần bảo vệ, gìn giữ. Đồng thời, qua đó Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy trở nên như trẻ nhỏ. Vì trẻ nhỏ có tâm hồn đơn sơ trong trắng như Thiên Thần. Trẻ nhỏ biết mình yếu đuối mỏng manh nên luôn tin tưởng phó thác vào tình thương của Chúa.

Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa, vì Chúa đã thương ban cho mỗi người chúng con một vị Thiên Thần Hộ Thủ. Xin cho chúng con luôn nhớ tới Thiên Thần Hộ Thủ và  tích cực cộng tác với ngài để chống lại những cám dỗ của ma quỷ. Đồng thời xin Chúa cũng giúp chúng con biết  ý thức tôn trọng phẩm giá của con người, nhất là những con người bé nhỏ nghèo hèn mà sẵn sàng đón tiếp và phục vụ họ vì danh Chúa.

 

Suy niệm 2: VÂNG NGHE CÁC THIÊN THẦN

“Ma quỉ đã tung ra một mạng lưới ảo tưởng trên chúng ta, mạng lưới này tuy vô hình, nhưng rất mãnh liệt. Nó làm cho ta yêu chuộng giây phút chóng qua hơn sự sống vĩnh cửa, khuyến dụ ta chạy theo sự vô định hơn chân lý, nó bảo ta chỉ có thể yêu mến tạo vật bằng cách thờ lạy chúng mà thôi” (Triết gia Raissa Maritain).

Khắc tinh của ma quỷ là các hiệp sĩ thiên thần hộ thủ, những người bạn thân vô hình được Thiên Chúa sai đến ở bên cạnh, hộ giúp ta đêm ngày. Vai trò của các ngài là giúp ta phá đi mạng lưới ảo tưởng, đưa ta đến môi trường của sự thật giải thoát của Tin Mừng Nước Trời. Các ngài nhắc nhở ta cài “phần mềm” sự sống vĩnh cửu trong mọi việc ta làm, phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân trong mọi dự tính đời ta.

Các ngài tựa như những hiệp sĩ vô hình. Luôn tích cực chu toàn nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. Tuy nhiên để hoàn thành nhiệm vụ, các ngài cũng mời gọi chúng ta cộng tác. Nếu ta ngoan ngoãn vâng theo sự soi sáng hướng dẫn của các ngài, dù phải trầy da tróc vẩy, ta cũng sẽ thoát khỏi vòng vây của quỷ ma và đạt đến cùng đích đời mình là hạnh phúc muôn đời bên Chúa.

Vì thế, ta hãy tập lắng nghe tiếng nhắc nhở của thiên thần hộ thủ, và ngoan ngoãn làm theo sự điều hướng của các ngài, dù phải hy sinh ý riêng và sở thích của mình.

Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã sai các thiên thần hộ thủ nâng đỡ chúng con trên hành trình đi về quê trời. Xin cho chúng con biết vâng theo sự hướng dẫn của các ngài, và cảnh tỉnh trước những hiểm họa do ma quỷ, xác thịt và thế gian đang cản trở bước đường của chúng con. Amen.

 

* Mùa thường niên: Lc 10,1-12

Suy niệm 1:

Bản chất của Hội Thánh là truyền giáo, Hội Thánh không còn là Hội Thánh nữa nếu như Hội thánh không truyền giáo. Chính Chúa Giê-su, trước khi về cùng Thiên Chúa Cha, Người đã trao sứ mạng truyền giáo cho Hội Thánh mà đại diện là các Tông Đồ.“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin Mừng”.

Không phải đợi đến khi Chúa về trời, Người mới trao sứ mạng này cho các Tông Đồ mà ngay trong khi Người còn đang thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng, Người cũng đã sai phái các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng.

Bài Tin Mừng hôm nay, tường thuật lại việc Chúa Giê-su sai 72 môn đệ đi loan báo Tin Mừng. Khi thi hành sứ vụ loan báo tin mừng, Chúa muốn các ngài phải đặt mối ưu tư truyền giáo lên hàng đầu, đừng quá bận tâm những chuyện vật chất khi truyền dạy: “đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép; cứ ăn những gì người ta dọn lên”

Trải qua mọi thời, ở mọi nơi, Hội Thánh không ngừng thực hiện sứ mạng cao cả này. Từ 12 Tông Đồ, Hội Thánh Chúa đã phát triển và lan rộng đến mọi nơi trên thế giới. Đến nay người Công giáo có khoảng 1 tỷ 313 triệu người, chiếm tỷ lệ 17,7% dân số thế giới (Phòng Báo chí Tòa Thánh, 6/3/2019). Cách riêng trên đất nước Việt Nam chúng ta trải dài từ bắc tới nam đến nay chỉ có 27 giáo phận, 3.288 giáo xứ, 6.951.999 giáo dân, 5,842 linh mục. Một con số còn rất khiêm tốn, do đó Hội Thánh rất mong con cái mình biết lưu tâm vào tham gia vào sứ vụ truyền giáo.

Đừng cho rằng truyền giáo là sứ vụ chỉ dành riêng cho hàng giáo sỹ và những nhà chuyên môn. Không phải như thế! Mỗi người tín hữu, khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội đều được mời gọi tham dự vào 3 chức vụ của Hội Thánh đó là: ngôn sứ, tư tế và vương giả. Với chức vụ ngôn sứ, mỗi người tín hữu buộc phải thi hành bổn phận truyền giáo tùy theo bậc sống và khả năng của mình.

Mục đích truyền giáo là giới thiệu Chúa cho mọi người, giúp mọi người tin vào Chúa và đón nhận tin mừng cứu độ của Chúa. Là một tín hữu bình thường, chúng ta phải có sự hiểu biết sâu xa về Chúa qua việc không ngừng học hỏi thánh kinh, trau dồi kiến thức giáo lý. Vì làm sao ta có thể giới thiệu một người cho người khác nếu ta không hiểu không biết Chúa là ai? Bên cạnh việc giới thiệu Chúa cho người khác, chúng ta còn phải làm chứng cho Chúa bằng chínhh đời sống hằng ngày, đừng để đời sống của chúng ta phản chứng lại những gì chúng ta loan báo trên môi miệng. Vì ngày hôm nay người ta cần chứng nhân hơn thầy dạy, mặc dù thầy dạy cũng rất cần.

Vậy trước tiên chúng ta can đảm tuyên xưng mình là người tin theo Chúa, đừng vì những lợi ích vật chất mà ta chối bỏ niềm tin của mình.

Tiếp theo, chúng ta can đảm sống cho những giá trị Tin Mừng như: sự thật, công bằng, bác ái…mặc dù đôi lúc vì những giá trị này mà chúng ta phải chịu thiệt thòi, hiểu lầm.

Cuối cùng chúng ta phải thực hành niềm tin của chúng ta. Làm sao người ta có thể tin có Chúa khi thấy một người Công Giáo không thực hành niềm tin và lòng bác ái. Có ai đó đã thốt lên “Tôi tin có đạo Công Giáo nhưng tôi không tin người Công Giáo” thật là đau lòng! Vậy mỗi người trong chúng ta hãy thao thức ưu tư về sứ vụ truyền giáo. Thao thức lo âu chưa đủ, Chúa còn muốn chúng ta hãy có những hành động cụ thể tùy theo bậc sống với hết khả năng của mình.

Lạy Chúa, Chúa đã từng băn khoăn khắc khoải “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”, Chúa muốn mỗi người hãy là những tay thợ gặt lành nghề. Xin Chúa ban thêm cho chúng con sự can đảm và lòng hăng say giới thiệu Chúa cho những người chung sống và làm việc với chúng con bằng chính cuộc sống chứng tá của chúng con. Xin cho chúng con biết cùng cộng tác với Hội Thánh trong sứ mạng truyền giáo với hết khả năng và sức lực mà Chúa ban và xem đó như là công việc “sống còn” của chúng con và của Gíao hội.

 

Suy niệm 2:

Công đồng Vatican II đã khẳng định rõ rằng: “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành là truyền giáo” (Ecclesia peregrinans natura sua missionaria est, Ad gentes 2). Sẽ không còn là Giáo Hội nữa nếu như Giáo Hội không truyền giáo. Chính Chúa Giê-su, trước khi về cùng Thiên Chúa Cha, đã trao lại sứ mạng truyền giáo cho Giáo Hội qua các tông đồ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin Mừng”(Mc 16,15). Nhưng không phải đợi đến khi về trời, Chúa mới trao sứ mạng này cho các Tông Đồ, mà ngay khi còn ở tại thế, Chúa đã từng sai phái không chỉ 12 tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng, mà Người còn chỉ định thêm 72 môn đệ nữa. Vì đây là sứ mạng quan trọng nên trước khi sai 72 môn đệ lên đường thi hành sứ vụ truyền giáo, Chúa Giêsu đã căn dặn các ông nhiều điều:

1. Gắn bó mật thiết với Chúa bằng cầu nguyện: Ý thức Thiên Chúa mới chính là chủ mùa gặt. Nên Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. Bởi vì chỉ có Chúa mới đánh động lòng người và làm cho người ta tin vào Chúa; chứ con người không có khả năng làm được điều đó.

2. Tin tưởng và phó thác vào Chúa: Khi thi hành sứ vụ loan báo tin mừng, Chúa muốn các môn đệ phải tuyệt đối tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa, đừng quá nương tựa vào tiền bạc vật chất: “Ðừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép…”. Cũng đừng quá sợ hãi khi phải đối mặt với những hiểm nguy “như chiên con đi vào giữa bầy sói”.

3. Sống tinh thần siêu thoát: Bằng lòng với cuộc sống hiện tại, không so đo tính toán, đứng núi này trông núi nọ: “Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Ðừng đi hết nhà nọ đến nhà kia”. Sẵn sàng cắt đứt mọi liên hệ với những ai không đón tiếp mà không hề vương vấn hay tiếc nối: “vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Ðại Thiên Chúa đã đến gần”.

4. Khiêm tốn cộng tác với nhau: Để loại trừ tính kiêu căng tự mãn, nhưng biết khiêm tốn đón nhận và hợp tác làm việc với anh em trong tinh thần hiệp thông, Chúa đã “sai các ông cứ từng hai người một”. Chính nhờ biết sống hiệp nhất với nhau nên lời chứng của các môn đệ đáng tin cậy và có sức mạnh lay động người nghe.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã từng băn khoăn khắc khoải khi nhìn thấy “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Hôm nay, cánh đồng truyền giáo vẫn còn bao la bát ngát. Vì thế, Chúa cũng muốn sai mỗi người chúng con ra đi khỏi vùng ngoại biên đi đến vùng đất mới, môi trường mới và gặp gỡ những con người mới để loan báo niềm vui tin mừng. Xin cho chúng con ý thức được những điều mà Chúa đã căn dặn các môn đệ xưa kia mà áp dụng vào đời sống chúng con hôm nay, khi thi hành sứ mạng truyền giáo.

 

Thứ sáu: Lc 10,13-16

Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người. Người luôn hiền hậu và khiêm nhường, giàu lòng thương xót với mọi người, ngay cả tim đèn leo lét Người không nỡ dập tắt; cây lau bị ngã, Người không nỡ bẻ gãy. Thế nhưng tại sao Người lại quở trách nặng lời với các thành: Corozain, Bethsaiđa và Capharnaum? Để hiểu được điều này, chúng ta hãy để tâm lắng nghe lời Chúa nói với chúng ta trong bài tin mừng hôm nay.

Chúa Giê-su xuống thế làm người, sau 30 năm sống ẩn dật, Người ra đi rao giảng Tin Mừng, mạc khải Thiên Chúa Cha, kêu gọi mọi người sám hối và tin vào Tin Mừng. Những thành như Corozain, Bethsaiđa hay Capharnaum là những thành được diễm phúc nghe lời giáo huấn của Chúa, được chứng kiến những phép lạ Chúa làm. Nhưng những người ở đây lại lòng chai dạ đá, cứng đầu cứng cổ, không chịu ăn năn sám hối, canh tân đời sống mà lại khước từ những lời giáo huấn của Chúa. Thế là Chúa phải thốt lên những lời quở trách xem ra rất nặng nề: “khốn cho ngươi”. Giả như Chúa đến rao giảng cho những thành dân ngoại như Tyrô và Siđon thì hẳn họ đã chú tâm lắng nghe mà ăn năn sám hối từ lâu rồi. Vì thế mà Chúa cho biết trong ngày phán xét những thành đó sẽ được xét xử khoan hồng hơn những thành đã được Chúa rao giảng Tin Mừng và kêu gọi sám hối.

Vì sao dân chúng ở những thành này lại không chịu ăn năn sám hối và tin theo Chúa. Có thể vì họ quá biết về Chúa Giê-su. Một người xuất thân từ một gia đình nghèo ở một làng quê hẻo lánh, là con của một bác thợ mộc tầm thường... Do bởi cái nhìn định kiến như thế nên họ đã không nhận ra Đức Giê-su là Con Thiên Chúa. Cũng rất có thể họ tự hào mình là dân riêng của Thiên Chúa, là con cháu của tổ phụ Abraham, đương nhiên họ sẽ được Thiên Chúa nâng lên đến tận trời.

Có thể những lời khiển trách của Chúa Giê-su dành cho những thành như Corozain, Bethsaiđa hay Capharnaum cũng là những lời dành cho chúng ta hôm nay. Bởi nhờ bí tích Rửa Tội, chúng được Chúa chọn làm dân riêng của Chúa, được diễm phúc lắng nghe Lời Chúa chỉ dạy, nhất là được đón nhận chính Mình và Máu Chúa vào trong cung lòng. Thế nhưng đời sống của chúng ta nhiều khi chẳng khác gì một người không biết Chúa, có khi còn tệ hơn nữa. Lắm khi ta cũng bon chen, tranh giành, lọc lừa, mưu mô xảo quyệt theo kiểu người đời, cũng như dễ dàng khước từ những lời giáo huấn của Chúa và GH để sống theo ý riêng của mình.

Xin Chúa cho chúng ta biết nhận ra những lầm lỗi, thiếu sót của mình để khiêm tốn đón nhận những lời hướng dẫn của Chúa qua giáo huấn của GH và các vị mục tử mà thật tâm sám hối về những thiếu sót, tội lỗi của mình để đời sống sao cho phù hợp với thánh ý của Chúa.

 

Thứ bảy:  Br 4,5-12.27-29; Lc 10,17-24

Nhớ Thánh Phanxicô Assisi

Các môn đệ trở về sau khi ra đi loan báo Tin Mừng, lòng đầy hớn hở vui mừng vì thành quả đã đạt được. Nhưng Chúa bảo các ngài chớ vội mừng về những thành quả đó. Vì sao vậy? Có thể Chúa chưa hoàn thành sứ mạng cứu chuộc nhân loại mà Thiên Chúa Cha giao phó nên quyền lực ma quỷ và sự dữ vẫn còn hoành hành thế gian; cũng có thể Chúa không muốn các môn đệ tự cao tự mãn về những gì các ngài làm được. Chúa muốn các ngài hãy vui mừng vì phần thưởng dành cho các ngài ở trên trời.

Thật vậy! Quê thật của chúng ta, đích điểm của cuộc đời chúng ta là ở Nước Thiên Đàng. Cuộc sống ở trần gian chỉ là một cuộc lữ hành. Cho dù ở trần gian này có hạnh phúc thế nào đi nữa, rồi cũng sẽ qua, của cải vật chất có nhiều bao nhiêu, tất cả cũng sẽ hết khi ta nhắm mắt xuôi tay. Của cải trần gian chỉ là phương tiện cho ta sử dụng, ta phải sử dụng làm sao để đạt được Nước Trời mai sau.

Tất cả những điều trên, không phải ai cũng hiểu được. Chỉ những ai có tâm hồn đơn sơ bé nhỏ mới hiểu được những mạc khải của Thiên Chúa. Không phải Thiên Chúa không mạc khải cho những nhà thông thái, nhưng vì họ tự cho họ hiểu biết hết mọi sự, họ không cần ai dạy bảo và hướng dẫn. Ơn Thiên Chúa ban giống như mưa từ trời, ai biết đem đồ ra hứng thì mới lấy được nước mưa. Một ly nước đã đầy làm sao có thể đổ thêm nước vào nữa, có đổ vào thì nó cũng tràn ra ngoài; tâm hồn của một người đã bị lấp đầy những sự hiểu biết thế gian và đầu óc con người bị nhét đầy bởi tính tự cao tự mãn thì làm sao hiểu được những điều cao siêu mà Thiên Chúa mạc khải.

Các môn đệ là những người có phúc. Vì các môn đệ đang sống với Chúa, lắng nghe những lời giáo huấn của Chúa. Chúa Giê-su chính là mạc khải cuối cùng và là mạc khải trọn vẹn của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Điều mà các ngôn sứ và vua chúa thời xưa hằng mong ước. Ngày xưa, trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa mạc khải cho dân Ít-ra-en qua các ngôn sứ, các ngôn sứ chỉ loan báo Đấng Cứu Thế là Chúa Giê-su sẽ xuất hiện trong tương lai và các ngài hằng ao ước Đấng Cứu Thế sẽ đến vào thời các ngài. Nhưng mơ ước cũng chỉ là ước mơ.

Phúc của các môn đệ cũng là phúc của mỗi người chúng ta. Ngày hôm nay chúng ta sống trong thời Tân Ước, chúng ta không còn phải chờ đợi một mạc khải nào nữa từ Thiên Chúa. Chính Chúa Giê-su đã đến, Người chính là mạc khải trọn vẹn và cuối cùng của Thiên Chúa và Người đã mạc khải Thiên Chúa cho chúng ta, như có lần Người đã từng phán: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”.  Thế mà nhiều khi chúng ta lại còn đi tìm kiếm những mạc khải khác, chúng ta tin vào những ma thuật bói toán, những tiên đoán này, nọ vì niềm tin của chúng ta đặt nơi Thiên Chúa chưa thật vững mạnh.

Lạy Chúa, xin Người củng cố và gia tăng thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con cảm thấy hạnh phúc được gọi Thiên Chúa là Cha, cảm nhận Chúa thật gần gũi và luôn hiện diện với chúng con trong cuộc sống hằng ngày. Còn gì hơn, khi chúng con được nghe chính Chúa dạy dỗ và hướng dẫn, được chính Chúa nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Chúa mỗi khi tham dự thánh lễ, điều mà bao người mơ ước mà không được.

Xin Chúa cũng soi lòng mở trí giúp chúng con hiểu rằng cuộc sống ở trần gian này chỉ là tạm bợ, chóng qua, đích điểm và mục đích cuối cùng của chúng con chính là phần thưởng Nước Trời, để chúng con luôn biết sống  theo thánh ý Chúa.

 

* Thánh Phanxicô Assisi: Một Di Sản Vượt Thời Gian

Thánh Phanxicô Assisi, vị thánh bảo trợ của Italia, đã để lại một dấu ấn sâu sắc trong lịch sử nhân loại. Thông qua quan niệm về sự bình đẳng giữa con người và mọi thụ tạo, cùng với triết lý sống đơn sơ, khiêm nhường, ngài đã mang đến một luồng gió mới cho tư tưởng nhân loại.

1. Mọi thụ tạo đều là anh chị em

Quan điểm độc đáo nhất của Thánh Phanxicô là việc ngài xem mọi sinh vật, từ con người đến muông thú, cây cỏ, đều là anh chị em. Điều này không chỉ thể hiện một tình yêu thương vô bờ bến đối với thiên nhiên mà còn là một cách nhìn nhận sâu sắc về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ.

Quan điểm này dựa trên niềm tin rằng mọi sự vật đều được tạo ra bởi một Đấng Tạo Hóa duy nhất. Vì vậy, tất cả chúng ta đều là anh em dưới một mái nhà chung.

Quan niệm này đã ảnh hưởng sâu sắc đến cách thức con người đối xử với môi trường và động vật. Nó là tiền đề cho các phong trào bảo vệ môi trường và nhân quyền sau này.

2. Triết lý sống khó nghèo, buông bỏ

Bên cạnh tình yêu đối với thiên nhiên, Thánh Phanxicô còn được biết đến với lối sống cực kỳ đơn giản, khiêm nhường. Ngài sẵn sàng từ bỏ mọi của cải vật chất để sống một cuộc đời hoàn toàn phụ thuộc vào ân ban của Thiên Chúa.

- Thánh Phanxicô coi khó nghèo là một con đường để đến gần Chúa hơn. Bằng cách từ bỏ những ham muốn vật chất, tiền bạc, tiện nghi để có thể tập trung vào những giá trị tinh thần, thiêng liêng cao cả hơn.

- Ngài khôn chỉ  buông bỏ tài sản vật chất mà còn buông bỏ những chấp niệm, những ràng buộc của cuộc sống. Điều này giúp con người đạt được sự tự do nội tâm và hạnh phúc đích thực.

3. Lời kinh hòa bình

Một trong những di sản nổi tiếng nhất của Thánh Phanxicô là lời kinh hòa bình. Lời kinh này thể hiện mong muốn thiết tha của ngài về một thế giới hòa bình, nơi mọi người sống trong tình yêu thương và hiệp nhất với nhau.

Lời kinh hòa bình không chỉ là một lời cầu nguyện mà còn là một lời kêu gọi hành động. Nó nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm của mỗi người trong việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.

4. Di sản vượt thời gian

Thánh Phanxicô Assisi đã sống cách đây hàng ngàn năm (ngài sinh năm 1182) nhưng những tư tưởng của ngài vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay. Quan điểm về tình yêu thương, sự khiêm nhường và hòa bình của ngài luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi người, bất kể tôn giáo hay quốc tịch nào.

 

* Những Bài Học Từ Thánh Phanxicô:

- Yêu thương mọi sinh vật: Hãy mở rộng trái tim để yêu thương tất cả mọi người và mọi sinh vật.

Sống đơn giản: Hãy tập trung vào những giá trị tinh thần và giảm thiểu sự phụ thuộc vào vật chất.

Buông bỏ: Hãy học cách buông bỏ những chấp niệm, những ràng buộc để tìm thấy sự tự do nội tâm.

Hướng tới hòa bình: Hãy làm mọi điều có thể để xây dựng một thế giới hòa bình và yêu thương.

Thánh Phanxicô Assisi là một tấm gương sáng về tình yêu thương và lòng bác ái. Cuộc đời và những lời dạy của ngài vẫn luôn là nguồn cảm hứng cho những ai đang tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống.

Lạy Chúa, xin hãy biến con thành khí cụ của bình an.

Ở nơi có hận thù, xin con gieo tình yêu thương.

Ở nơi có thương tổn, xin con gieo sự tha thứ.

Ở nơi có nghi ngờ, xin con gieo đức tin.

Ở nơi có tuyệt vọng, xin con gieo niềm hy vọng.

Ở nơi có bóng tối, xin con gieo ánh sáng.

Ở nơi có buồn sầu, xin con gieo niềm vui.

Lạy Chúa, xin cho con được an ủi người khác, hơn là được người khác an ủi.

Xin cho con được hiểu, hơn là được hiểu.

Xin cho con được yêu thương, hơn là được yêu.

Vì khi con cho đi, chính là lúc con nhận lại.

Khi con tha thứ, chính là lúc con được tha thứ.

Khi con chết cho chính mình, chính là lúc con được sống lại. Amen. (St).

 

* KINH HÒA BÌNH

Lm. Nguyễn Trung Tây

Kinh Hòa Bình do thánh Phanxicô thành Assisi viết. Người này, theo như ngôn từ của ngày hôm nay, là một vị thiếu gia. Là con của một gia đình buôn bán gấm vóc thành Assisi, thiếu gia Phanxicô không thiếu thốn bất cứ điều gì, tình yêu, sự nghiệp và danh vọng. Nhưng thiếu gia lại biết sâu thẳm trong tâm hồn, anh chàng không hạnh phúc. Mà nếu mình không hạnh phúc, thì mình biết, Trời biết và Đất cũng biết.

Ngày rồi cũng tới, thiếu gia Phanxicô quyết định trả lại bố mẹ tất cả những gì thuộc về anh ta: y phục trên người, địa vị thiếu gia, và sự nghiệp buôn bán. Thế là thiếu gia Phanxicô trở thành người hành khất. Ngày ngày tu sĩ bình bát đi ăn xin vào tấm lòng tử tế của thiên hạ. Thế đấy, thật là không thể ngờ, khi buông bỏ tất cả, chỉ còn sở hữu một bộ tu phục và một bình bát, thiếu gia một thời Phanxicô chạm được niềm hạnh phúc. Và cũng qua chính kinh nghiệm của bản thân, thánh Phanxicô mới biết,

 khi cho đi, đó cũng chính là lúc nhận được;

- khi “quên mình”, đó cũng chính là lúc “gặp lại bản thân”;

khi hiến tặng cuộc sống, đó cũng là lúc “nhận lãnh” tràn đầy trên đôi bàn tay trống rỗng của đời tu sĩ khất thực.

Nói một cách khác, tu sĩ bình bát Phanxicô hiểu rằng, trong cuộc sống này, nếu có con đường dẫn tới đau khổ, thì cũng có con đường dẫn tới hạnh phúc. Con đường dẫn tới hạnh phúc theo như thánh Phanxicô là ban tặng mà không tính toán, là cảm thông mà không lên án, là chia xẻ mà không giữ lại tính toán cho riêng mình.

Bởi thế, đối với người hành khất Phanxicô, hạnh phúc là một chọn lựa. Khi tôi chọn lựa ban tặng mà không tính toán, tôi không còn chọn lựa đau khổ nữa, nhưng tôi đang thật sự chọn lựa hạnh phúc.

 

* THÁNH PHAN-XI-CÔ ÁT-XI-DI

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Cuộc đời của bất cứ vị thánh nào trong Giáo Hội cũng đều bắt đầu bằng cuộc sám hối. Sám hối của các thánh có nghĩa là nhìn vào Chúa để bắt chước Chúa hơn là nhìn vào mình để ngao ngán, chán nản mà không muốn vươn tiến. Mỗi thánh đều có một cung cách sống, đều có một hướng đi riêng biệt, muôn vẻ,muôn mầu, muôn sắc, nhưng tựu trung, tất cả đều có một mẫu số chung là trở nên giống Chúa Kitô. Thánh Phanxicô Átxidi là vị sáng lập Dòng Anh Em Hèn Mọn cũng không đi ra ngoài đường lối của Chúa. Ngài phó thác, tin,cậy, yêu mến Chúa để càng ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu.

- Một Cuộc Ðời Ngắn Ngủi-Một Con Người Giống Chúa

Thánh Phanxicô Átxidi chỉ sống cuộc đời trần thế có 45 năm. Nhưng cuộc đời của Ngài là cả một bài ca. Một bản nhạc với những dòng nhạc, với những cung bậc, hòa nên một bản trường ca tình yêu tuyệt vời.

Người ta trong nhiều thế kỷ đã không ngớt ca ngợi thánh nhân vì con người lạ lùng của thánh nhân giữa cuộc đời. Ngay anh em trong Dòng cũng không nhận ra Ngài có gì đặc biệt mà sao lạ lùng thu hút mọi người.

Thánh nhân đã rất khiêm nhượng, sự khiêm tốn của một tâm hồn thánh thiện đã nhìn ra con người đầy khiếm khuyết, đầy tội lỗi của mình và có làm được gì là do ân huệ nhưng không của Chúa, đã biến cái tầm thường nên cái phi thường, đã biến cái đơn sơ, nhỏ bé nên cái vĩ đại khôn lường. Vì thế, tình yêu của Phanxicô Átxidi là một tình yêu mang tính cụ thể, thánh nhân yêu mọi người, mọi vật, Ngài biến mọi sự vật, mọi thụ tạo nên sinh động và có nhân tính. Ngài yêu tất cả vì Ngài thấy Thiên Chúa nơi tất cả mà trung tâm là Chúa Giêsu. Thánh nhân yêu thương mọi người với tất cả con tim của mình, với cả cuộc đời mình vì chính Chúa đã chết cho nhân loại trong đó có cả Phanxicô Átxidi. Tình yêu của Phanxicô Átxidi là tình yêu mang tính vui tươi, thoải mái, Ngài sống trong niềm vui vì lúc nào Ngài cũng mang Chúa trong con người của mình, Ngài đồng hóa mọi sự và nhân cách hóa tất cả để tất cả ca ngợi Chúa trong niềm vui.

Thánh nhân sinh ở Átxidi khoảng năm 1182. Cha Ngài là ông Bê-na-đô là một thương gia tơ sợi nổi tiếng và mẹ Ngài là bà Pi-ca,một người đạo đức, thánh thiện đã hun đúc Ngài nên một vị thánh thời danh. Cuộc nổi loạn của những người lê dân chống lại những nhà quí tộc. Thánh nhân bị bắt và bị giam cầm trong suốt một năm trời ròng rã. Ngài bị một căn bệnh hiểm nghèo và được Chúa cứu chữa, ngài được khỏi bệnh và Chúa đã cảm hóa Ngài với câu: " Lạy Cha chúng tôi ở trên trời ".

Năm 1206 (24 tuổi) thánh nhân quyết định rũ bỏ bụi trần, từ bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu, dù rằng bị người cha già hết sức phản đối, thánh nhân rất thương cha nhưng không dám làm trái ý Chúa. Thánh nhân phân phát tất cả của cải mình có cho những người nghèo, Ngài chỉ giữ lại một chiếc áo choàng cũ kỹ, rồi ra đi rao giảng Tin Mừng. Ðược Chúa thúc đẩy, soi sáng, thánh nhân đã lập Dòng anh em hèn mọn.

Thời gian sau đó, Ngài lui về Alverne, một nơi thật cô liêu phía Bắc Átxidi để ăn chay, cầu nguyện và sống tình thân với Thiên Chúa. Chúa yêu thương Ngài cách đặc biệt, nên trong lúc Ngài xuất thần, Ngài nhìn thấy Tổng Lãnh Thiên Thần Séraphim và một ảnh chuộc tội. Tỉnh dậy, Ngài đã được Chúa in năm dấu thánh trên người lúc đó là năm 1224. Chỉ hai năm sau đó, Ngài lâm trọng bệnh. Trước khi ra đi về với Chúa, thánh nhân khuyên nhủ anh em trong Dòng giữ đức khó nghèo tuyệt đối và trung thành với Giáo Hội Chúa Kitô. Thánh nhân qua đời vào ngày 4.10.1226. Ðức Thánh Cha Grê-gô-ri-ô đã tôn Ngài lên bậc hiển thánh.

- Thánh Phan-xi-cô  át-xi-di nói gì cho ta?

Cuộc đời của thánh nhân là mẫu gương của tình yêu. Ngài là vị thánh của tình yêu, một tình yêu cụ thể, tận tình và vui tươi. Thánh nhân đã làm toát lên hương thơm nhân đức. Sự khó nghèo Ngài thực hiện nơi cuộc đời của Ngài hoàn toàn phù hợp với mối phúc thứ nhất của Chúa Giêsu. Ngài đã sống tận cùng cái khó nghèo như hy lễ tạ ơn Thiên Chúa. Thánh nhân đã sống cái điên rồ của thập giá. Ngài không thích mặt nạ mà mọi sự luôn phải theo ý của Chúa. Ngài luôn trung thành với Tin Mừng, với giáo lý chân chính của Chúa và của Hội Thánh. Ngài sống cái tầm thường của cuộc đời nhưng nó là cái lớn lao của nước trời. Thánh nhân đã biết biến cuộc đời khó nghèo của mình trở thành hồng phúc cho mình và cho mọi người. Thánh nhân đã nói lên tất cả tình yêu của mình cho mọi người, một tình yêu không bôi sáp mà là tình yêu, trung thực, hy sinh, quên mình. Thánh nhân đã gửi cho nhân loại một sứ điệp dễ chấp nhận nhất: sứ điệp của tình yêu, sứ điệp thập giá.

"Lạy Chúa, Chúa đã soi sáng cho thánh Phanxicô chọn cuộc đời hèn mọn khó nghèo để trở nên hình ảnh sống động của Ðức Kitô. Xin cho chúng con hằng noi gương thánh nhân để lại mà thiết tha gắn bó cùng Chúa, và hăm hở bước theo Ðức Kitô, lòng chan chứa an vui và đầy tràn yêu mến" (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Phan-xi-cô Át-xi-di ngày 4/10).

  G IÁO PHẬN CẦN THƠ HỘI ĐỒNG MỤC VỤ - BAN PHỤNG VỤ CÁC VIỆC THỰC HÀNH PHỤNG VỤ CẦN THỐNG NHẤT Dựa theo Quy Chế Sách Lễ Roma năm 2002 ...