GIÁO PHẬN CẦN THƠ
HỘI ĐỒNG MỤC VỤ - BAN
PHỤNG VỤ
CÁC VIỆC THỰC HÀNH PHỤNG
VỤ CẦN THỐNG NHẤT
Dựa theo Quy Chế Sách Lễ Roma năm 2002 và gợi ý của UBPT/HĐGMVN về vài
việc thực hành cần được Đức Giám Mục giáo phận phê chuẩn để thực hiện chung
trong giáo phận. Ban Phụng Vụ giáo phận xin nêu lên các việc thực hành cụ thể,
là kết quả của ngày Hội Thảo Mục VỤ (ngày 23.10.2023 tại Trung Tâm Mục Vụ) của
Linh Mục Đoàn GP. Cần Thơ, như sau:
I. Chuẩn bị và trang trí
nơi cử hành Thánh Lễ:
1. Cần bố trí một Giá Sách gần ghế chủ tọa để bắt đầu Thánh lễ và có thể kết thúc Thánh lễ[1].
Chỉ khi không thể bố trí được vì cấu trúc cung thánh không tiện, thì mới khởi sự
Thánh lễ tại bàn thờ.
2. Sử dụng 1 Thánh Giá duy nhất có tượng Chúa Kitô chịu đóng đinh cho dân được tập họp nhìn thấy rõ,
ngay cả khi không cử hành phụng vụ[2].
3. Bông hoa, đèn nến không đặt trên bàn thờ,
mà đặt bên cạnh hay gần bàn thờ.
4. Linh mục không mặc áo lễ màu hồng trong lễ hôn phối.
5. Logo năm mục vụ không treo trong cung thánh, cần treo ngoài nhà thờ hoặc nơi sinh hoạt giáo xứ.
6. Không treo câu đối trên cung thánh. Không chưng “lục bình” trong cung thánh.
7. Để hình ảnh các Thánh vào các lễ riêng (nếu có) qua một bên trên cung
thánh, nhưng không quá cầu
kỳ.
II. Khi cử hành Thánh lễ:
1. Thinh lặng: Cần giữ thinh lặng trước khi dọc Kinh Cáo Mình, trước Lời Nguyện Nhập Lễ,
sau Bài Giảng và sau Rước lễ[3].
2. Tòa giảng:
2.1
Linh mục giảng tại
tòa giảng hoặc tại nơi khác thích hợp[4],
trong gian cung thánh.
2.2
Không rao lịch hoặc đọc
thông báo nơi tòa giảng. Các nhà thờ cần có giá sách riêng dùng cho việc này.
2.3
Những ngày lễ lớn và
Chúa nhật thì hát đáp ca tại tòa giảng hoặc tại ca đoàn.
2.4
Giảng lễ Thiếu nhi:
Có thể đối thoại với các em[5].
2.5
Lời Nguyện Tín Hữu là thành phần của nghi thức Thánh lễ, cách riêng, theo nghi thức mới, phải
đọc trong các lễ An Táng[6]
và Hôn Phối (sau nghi thức cử hành hôn phối)[7].
3. Xông hương hoặc xá
hương:
3.1
Dùng thứ nào chỉ dùng
một thứ mà thôi trong cùng một thánh lễ.
3.2
Xông hương thì theo
hướng dẫn của Quy Chế Sách Lễ Roma số 276-277.
3.3
Xá hương trước bàn thờ
3 lần, trước ảnh tượng và di ảnh 1 lần.
3.4
Cần tập cho giúp lễ
biết cách xông hương cách cung kính, chính xác.
4. Các thừa tác viên
trong Thánh lễ
4.1
Linh mục đồng tế: không nhập đoàn đồng tế khi
Thánh lễ đã bắt đầu.
4.2
Lễ hôn phối: hai người kết hôn có thể đọc các
bài đọc và hát đáp ca trong Thánh lễ, cần được chuẩn bị thật chu đáo, lễ phục gọn
gàng, xứng hợp, tránh trình diễn, phô
trương.
4.3
Lễ an táng: người thân có thể đọc các bài đọc,
nhưng rất cần chuẩn bị chu đáo, mặc lễ phục sạch sẽ, gọn gàng, xứng hợp.
III. Những thực hành khác:
1. Rao ý lễ: khi có nhiều người xin dâng lễ thì không cần rao tên người xin. Có thế
rao ý lễ sau lời chào chúc của linh mục đầu Thánh lễ[8]
hoặc thời điểm khác, áp dụng tùy nơi.
2. Rao lịch, thông báo nên sau Lời Nguyện Hiệp Lễ (hoặc trước lễ), nhưng ngắn gọn[9].
3. Việc chúc lành cho
trẻ em đang khi trao Mình Thánh Chúa: Không phải là nghi thức phụng vụ, tùy thói quen từng nơi, miễn sao
không kéo dài thời gian Rước lễ, không khuyến khích thực hành.
4. Ca đoàn không rước
lễ sau khi Thánh lễ kết thúc.
5. Trang phục của thừa
tác viên đọc sách thánh có thể mặc áo Alba; hoặc nữ mặc áo dài, năm mặc áo sơ-mi bỏ vào quần (Chúa nhật và lễ Trọng
nên thắt Cà-vạt).
IV. Bí tích và á bí
tích:
1. Sách nghi thức bí tích và á bí tích UB. Phượng Tự/HĐGMVN đang dọn lại (cần
chờ).
2. Linh mục mặc áo Alba và đeo dây Stola khi cử hành các bí tích và á bí
tích. Không đeo dây Stola trên áo dòng hoặc áo sơ-mi khi có thể mặc áo Alba.
3. Trong nghi thức an táng: sử dụng nhang hoặc hương (chọn 1 trong 2).
4. Không được làm phép phần mộ trong nhà thờ.
Chuẩn nhận của Đức
Giáo Mục Giáo Phận Ban phụng vụ
+ Stêphanô TRI BỬU
THIÊN. GM Hội Đồng Mục Vụ Giáo Phận
Ấn ký. Trung Tâm Mục Vụ 23.10.2023
Ý NGHĨA VÀ THỰC HÀNH NGHI THỨC
DÂNG LỄ VẬT TRONG THÁNH LỄ
Lm. Gs. Lê Ngọc Ngà, Gp. Cần Thơ
Hỏi:
Việc dâng lễ vật trong thánh lễ được Hội Thánh quy định thế nào? Người dâng lễ
vật đứng ở vị trí nào khi dâng lễ, cần thống nhất về mặt mỹ quan.
Trả
lời:
I.
Cùng đọc Quy chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma (QCSL)
Số
73. Khi
bắt đầu phần Phụng vụ Thánh Thể, thì các lễ vật được đem lên bàn thờ; những lễ
vật này sẽ trở nên Mình và Máu Đức Kitô.
Trước hết phải chuẩn bị bàn thờ hay bàn ăn của Chúa, tâm điểm nơi diễn ra toàn
bộ phần phụng vụ Thánh Thể: trải khăn thánh, đặt khăn lau chén, sách lễ và chén
lễ, trừ khi chén lễ được dọn ở bàn phụ.
Tiếp đến là đem lễ vật lên: nên để giáo dân dâng bánh và rượu, linh mục hay phó
tế nhận tại một nơi thuận tiện, rồi chính linh mục đặt lên bàn thờ. Mặc dầu
ngày nay giáo dân không còn mang bánh rượu của mình đến để dùng vào việc phụng
vụ như xưa, nhưng việc dâng lễ vật vẫn giữ được giá trị và ý nghĩa thiêng liêng
của nó.
Cũng được nhận tiền bạc hay các phẩm vật khác, do tín hữu mang đến hay được
quyên ngay trong nhà thờ để giúp người nghèo hay nhà thờ. Những phẩm vật này
được đặt ở một nơi xứng hợp ngoài bàn thờ.
Số
74. Khi
đoàn rước lễ vật tiến lên, thì hát ca tiến lễ (x. số 37b) và kéo dài bài hát ít
là cho tới khi đặt lễ vật trên bàn thờ. Quy luật về cách hát ca tiến lễ cũng
giống như cách hát ca nhập lễ (x. số 48). Luôn có thể hát ca tiến lễ cả khi
không có rước lễ vật.
Số
140. Nên để cho các tín hữu biểu lộ sự tham dự bằng việc dâng bánh rượu
dùng vào việc tế lễ, hoặc những phẩm vật khác dùng để đáp ứng các nhu cầu của
nhà thờ và cứu trợ người nghèo. Linh mục nhận các lễ vật tín hữu dâng, với sự
trợ giúp của thừa tác viên giúp lễ hoặc một thừa tác viên khác. Bánh và rượu
dùng trong Thánh lễ thì trao cho linh mục, ngài đặt trên bàn thờ; còn các phẩm
vật khác thì đặt nơi khác thích hợp (x. số 73).
Số 295. Cung
thánh là nơi đặt bàn thờ, nơi công bố lời Chúa, và là nơi linh mục, phó tế và
các thừa tác viên khác thi hành phận vụ. Cung thánh phải được tách biệt cách
thích hợp khỏi lòng nhà thờ, bằng cách được nâng cao hơn, hoặc nhờ một cấu trúc
và sự trang trí đặc biệt. Cung thánh phải rộng rãi đủ để việc cử hành Thánh Thể
có thể diễn tiến và được nhìn thấy cách dễ dàng.
II.
Nguồn gốc và ý nghĩa thần học của việc dâng lễ vật
Ngay
từ thời Giáo Hội sơ khai, tín hữu mang bánh, rượu và những của cải vật chất
khác đến cộng đoàn phụng vụ, để vừa cử hành Thánh Thể vừa chia sẻ cho người
nghèo (x. 1Cr 16,1–2). Dần dần, truyền thống này được thanh luyện: bánh và rượu
trở thành lễ phẩm chính để thánh hiến, còn các phẩm vật khác dành cho việc bác
ái.
Quy
Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma khẳng định: “Các tín hữu dâng bánh và rượu…
kèm theo chính họ, để được dâng hiến với Chúa Kitô” (số 73). Như thế,
nghi thức dâng lễ vật là hành vi hiệp dâng đời sống: lao nhọc, niềm vui, nỗi
khổ của cộng đoàn được đặt lên bàn thờ, chuẩn bị cho việc biến đổi thành Mình
và Máu Đức Kitô.
Bàn
thờ, trung tâm phụng vụ Thánh Thể, là vừa bàn tiệc vừa bàn tế lễ: nơi Đức Kitô
dâng chính mình, và cộng đoàn tham dự vào hy tế đó.
III.
Quy định phụng vụ
QCSL
chỉ dẫn rõ: giáo dân tiến dâng lễ phẩm, linh mục hay phó tế nhận tại “một nơi
thuận tiện”, rồi chính linh mục đặt bánh và rượu trên bàn thờ. Như vậy:
Người
dâng lễ, linh mục hay phó tế tiếp nhận “nơi thuận tiện”.
Bánh
và rượu thì trao cho chủ tế, rồi sau đó, ngài dâng và đặt trên bàn thờ.
Các
phẩm vật khác (hoa, nến, tiền, quà bác ái) được đặt tại vị trí thích hợp ngoài
bàn thờ.
Nghi
thức này không phải “phần phụ”, nhưng nối kết bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc
Thánh Thể (QCSL 74–76).
Trong
thực hành, có khi người dâng lễ vật đi thẳng lên cung thánh, có khi chỉ trao ở
bậc tam cấp. Vậy đâu là cách đúng?
QCSL
140 chỉ nói: “Giáo dân có thể mang bánh, rượu và những lễ vật khác lên… và trao
cho linh mục hoặc phó tế ở một nơi thuận tiện.” Như vậy, Giáo Hội không buộc
phải trao trực tiếp trên cung thánh.
Nguyên
tắc phụng vụ: cung thánh là nơi dành cho thừa tác viên bàn thờ (linh mục và
giúp lễ), còn giáo dân chỉ lên khi có vai trò đặc biệt (đọc sách, hát thánh
vịnh, đọc lời nguyện tín hữu trên giảng đài). Người dâng lễ vật không buộc phải
bước lên cung thánh.
Do
đó, cách thích hợp là:
Người
dâng lễ vật tiến lên chân cung thánh, dâng lễ vật cho linh mục hoặc phó tế. Sau
đó, chính linh mục hay phó tế mang lễ vật lên bàn thờ.
Điều
này vừa giữ mỹ quan phụng vụ, vừa tránh tình trạng người dâng lễ quay lưng hay
“quay mông” xuống cộng đoàn, gây phản cảm và làm mất đi nét trang nghiêm.
Mỹ
quan: có ca tiến lễ, đoàn dâng lễ vật tiến lên trong trật tự. Cử chỉ cúi chào
qua lại giữa đoàn dâng và chủ tế làm nổi bật tính cộng đoàn và hiệp thông.
Trang phục: người dâng lễ mặc chỉnh tề, tôn nghiêm, không phô trương.
IV.
Đề nghị thực hành cụ thể
Một
lối cử hành hài hòa có thể như sau:
1. Đoàn dâng lễ tiến lên theo lối chính, dừng lại tại chân tam cấp cung
thánh.
2. Linh mục chủ tế cùng thừa tác viên giúp lễ tiến ra, cúi chào đoàn
dâng lễ.
3. Từng người dâng lễ phẩm:
Bánh
và rượu: chủ tế nhận, trao cho người giúp lễ, rồi sau đó, chính ngài dâng dâng
và đặt trực tiếp trên bàn thờ.
Các
lễ phẩm khác: chủ tế nhận, trao cho giúp lễ đặt ở vị trí ngoài bàn thờ.
4. Khi dâng lễ vật và tiếp nhận xong, chủ tế và đoàn dâng lễ cúi chào
rồi về chỗ. Đoàn dâng lễ không đứng thành hàng trên cung thánh để dâng các lễ
phẩm khác cùng lúc với chủ tế dâng bánh rượu.
5. Do đó, khi chủ tế cùng thừa tác viên trở về bàn thờ để tiếp tục
phụng vụ Thánh Thể, thì đoàn dâng lễ cũng trở về chỗ ngồi.
Kết
luận
Nghi
thức dâng lễ vật mang chiều kích thần học sâu xa: nơi đó, cộng đoàn cùng với
linh mục hiệp dâng chính mình trong hy tế của Đức Kitô. Thực hành đúng quy định
vừa làm sáng tỏ ý nghĩa này, vừa giữ vẻ mỹ quan và tính trang nghiêm. Đây là
dịp giáo dục đức tin hữu hiệu: Thánh Thể không chỉ quy tụ cộng đoàn quanh bàn
thờ, mà còn thúc đẩy họ sống bác ái qua việc chia sẻ cụ thể cho người nghèo.
Tóm
lại, điểm
mạnh của cách thực hành này:
1. Giáo dân không đứng trên cung thánh, nhưng dưới chân bậc tam cấp
cung thánh “nơi thuận tiện” để dâng; chỉ thừa tác viên mới đưa bánh rượu lên
bàn thờ.
2. Trang nghiêm và thẩm mỹ: tránh cảnh người dâng lễ tạo thành hàng
ngang trên cung thánh, quay lưng về phía cộng đoàn ngay trước bàn thờ, tránh
cảnh “áo dài tung bay phất phới” trước mặt cộng đoàn, giữ sự hài hòa và trang
nghiêm.
3. Ý nghĩa chính của nghi thức: dâng bánh và rượu là hiến dâng “hoa
màu ruộng đất và công lao của con người” để được Chúa thánh hiến “trở nên Mình
Máu Chúa” ; các lễ phẩm khác thuộc lãnh vực bác ái.
ĐỀ NGHỊ NỘI DUNG CẦN BÀN THẢO THÊM CHO THỐNG NHẤT
TRONG CÁC CUỘC HỌP MỤC VỤ – NĂM 2025
1. Phân định ranh giới và tổ chức giáo xứ
- Cập nhật, điều chỉnh ranh giới, tên gọi và số giáo dân các giáo xứ theo
thay đổi hành chính của Nhà nước (sáp nhập, đổi tên…).
2. Cử hành Phụng vụ Thánh Lễ
- Thống nhất việc thực hiện “chữ đỏ” theo luật phụng vụ, không thêm bớt hay
thay đổi.
- Ban Phụng vụ ban hành văn bản hướng dẫn chung, cụ thể như:
+ Cần đặt thánh giá trên bàn thờ khi
trên cung thánh đã có treo thánh giá lớn
+ Lời nguyện nhập lễ: Đọc “Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Con
Chúa, Chúa chúng con…” (không đọc “đến muôn thuở muôn đời”).
+ Cách xướng bài đọc: Không đọc “Bài đọc 1” hay “Bài đọc 2” mà đọc “Bài
trích sách…”.
+ Lời nguyện tín hữu: Người xướng không thêm “Chúng ta cùng cầu xin Chúa” sau
mỗi ý nguyện; chỉ lên giọng cuối mỗi lời nguyện.
+ Cử chỉ chúc bình an: Chủ tế cúi đầu chúc bình an ngay khi đọc “Bình an
của Chúa…”; không cúi đầu sau lời mời “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”.
+ Dâng của lễ: Thống nhất cách thức giáo dân tiến dâng lễ theo
hướng dẫn của Ban Phụng vụ.
+ Pha nước vào rượu: Khi đồng tế có nhiều chén rượu, chỉ pha nước vào
chén chính
+ Lời mời trước Kinh Tiến Lễ: Chủ tế vẫn đọc “Hy lễ của tôi và của
anh chị em…” (không đọc “của chúng tôi…”).
+ Ban phép lành cuối lễ an táng
trong nhà thờ hay sau khi cử hành nghi thức hạ huyệt nơi đất thánh?
+ Lấy Mình Thánh Chúa từ Nhà Tạm:
Giáo sĩ: đặt MTC trên bàn thờ trước khi chủ tế đọc “Đây Chiên Thiên Chúa…”.
Tu sĩ/giáo dân: đặt MTC trên bàn thờ sau khi chủ tế rước lễ xong.
+ Đặt tay chúc lành cho trẻ nhỏ: Cần bàn thống nhất. Có thể dành riêng sau Thánh
Lễ (ví dụ: khi hát kết lễ, các em lên cung thánh để nhận phép lành).
+ Công thức chúc kết lễ: “Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an”. Không thêm bớt.
+ Công bố “Đó là Lời Chúa” khi nào?
Trong Thánh Lễ: sau Tin Mừng, chủ tế/phó tế nâng sách và hát/nói
“Đó là Lời Chúa”.
Ngoài Thánh Lễ (giờ chầu, kinh tối…): cần làm rõ quy định có bắt
buộc hát/nói “Đó là Lời Chúa” hay không.
+ Tắt/mở đèn tại Đài Đức Mẹ và Thánh Giuse để tập chú về bàn thờ chính:
Trong Thánh Lễ: tắt sau bài hát nhập lễ; mở sau phép lành cuối lễ.
Trong Giờ Chầu: tắt đèn khi đặt MTC, mở đèn khi kết thúc chầu.
3. Các kinh đọc trong Thánh Lễ Chúa Nhật
- Cần thống nhất các kinh/hát trước và sau Thánh Lễ, dựa trên bản dịch chính
thức của HĐGMVN (khi chưa có bản chính thức, Ban Phụng vụ tạm đề nghị bản kinh
chung để áp dụng đồng nhất).
- Ví dụ:
+ Kinh Cám Ơn: “…ngày (đêm) hôm nay” hay “…qua ngày (qua đêm) hôm nay…”
+ Kinh 10 Điều Răn: “…tóm về hai điều này mà nhớ (chớ)”, hay “tóm lại hai
này mà nhớ (chớ)…”.
4. Sứ mạng Loan báo Tin Mừng
- Quy định chung về việc mua đất, thành lập giáo điểm mới; điều kiện và tiến
trình nâng giáo điểm lên giáo xứ.
5. Mục vụ trừ quỷ
- Bổ nhiệm một linh mục phụ trách trừ quỷ trong giáo phận; quy định rõ thẩm
quyền và nguyên tắc thực hiện nghi thức theo Giáo luật.
- Định hướng mục vụ đối với các nhóm “trừ quỷ” của giáo dân (như nhóm Bảo
Lộc).
6. Các trường hợp bí tích liên quan cha Truyền
- Đề xuất hướng giải quyết mục vụ cho những người đã lãnh nhận bí tích từ cha
Truyền (trong tình trạng cha đã bị huyền chức).
7. Linh mục rời bỏ giáo vụ
- Cách xử lý khi một số linh mục rời bỏ giáo vụ, không còn liên hệ với giáo
phận; đề xuất thủ tục Giáo luật và các hỗ trợ cần thiết.
8. Xây dựng nhà thờ và cơ sở mục vụ
- Xác định nguyên tắc, quy định cụ thể về xây dựng, sửa chữa; minh bạch nguồn
kinh phí thu–chi.
- Phân định công trình nào do Tòa Giám Mục hỗ trợ kinh phí, công trình nào do
họ đạo tự lo.
[1]
QCSL, số 50. 124.
[2]
QCSL., số 117. 308
[3]
QCSL., số 45.
[4]
QCSL., số 136.
[5]
Huấn Thị về Lễ Thiếu nhi (Directoire de Messes d’enfant), số
48, Bộ Phụng Tự, ban hành ngày 1/11/1973.
[6]
Nghi Thức An Táng, luật chữ đỏ,
sô 70;
[7]
Nghi Thức Hôn Phối, luật chữ đỏ,
số 69.
[8]
QCSL., số 50.
[9]
QCSL., số 90.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét