Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2025

 GIÁO PHẬN CẦN THƠ

HỘI ĐỒNG MỤC VỤ - BAN PHỤNG VỤ

CÁC VIỆC THỰC HÀNH PHỤNG VỤ CẦN THỐNG NHẤT

Dựa theo Quy Chế Sách Lễ Roma năm 2002 và gợi ý của UBPT/HĐGMVN về vài việc thực hành cần được Đức Giám Mục giáo phận phê chuẩn để thực hiện chung trong giáo phận. Ban Phụng Vụ giáo phận xin nêu lên các việc thực hành cụ thể, là kết quả của ngày Hội Thảo Mục VỤ (ngày 23.10.2023 tại Trung Tâm Mục Vụ) của Linh Mục Đoàn GP. Cần Thơ, như sau:

I. Chuẩn bị và trang trí nơi cử hành Thánh Lễ:

1. Cần bố trí một Giá Sách gần ghế chủ tọa để bắt đầu Thánh lễ và có thể kết thúc Thánh lễ[1]. Chỉ khi không thể bố trí được vì cấu trúc cung thánh không tiện, thì mới khởi sự Thánh lễ tại bàn thờ.

2. Sử dụng 1 Thánh Giá duy nhất có tượng Chúa Kitô chịu đóng đinh cho dân được tập họp nhìn thấy rõ, ngay cả khi không cử hành phụng vụ[2].

3. Bông hoa, đèn nến không đặt trên bàn thờ, mà đặt bên cạnh hay gần bàn thờ.

4. Linh mục không mặc áo lễ màu hồng trong lễ hôn phối.

5. Logo năm mục vụ không treo trong cung thánh, cần treo ngoài nhà thờ hoặc nơi sinh hoạt giáo xứ.

6. Không treo câu đối trên cung thánh. Không chưng “lục bình” trong cung thánh.

7. Để hình ảnh các Thánh vào các lễ riêng (nếu có) qua một bên trên cung thánh, nhưng không quá cầu kỳ.

II. Khi cử hành Thánh lễ:

1. Thinh lặng: Cần giữ thinh lặng trước khi dọc Kinh Cáo Mình, trước Lời Nguyện Nhập Lễ, sau Bài Giảng và sau Rước lễ[3].

2. Tòa giảng:

2.1                  Linh mục giảng tại tòa giảng hoặc tại nơi khác thích hợp[4], trong gian cung thánh.

2.2                  Không rao lịch hoặc đọc thông báo nơi tòa giảng. Các nhà thờ cần có giá sách riêng dùng cho việc này.

2.3                  Những ngày lễ lớn và Chúa nhật thì hát đáp ca tại tòa giảng hoặc tại ca đoàn.

2.4                  Giảng lễ Thiếu nhi: Có thể đối thoại với các em[5].

2.5                  Lời Nguyện Tín Hữu là thành phần của nghi thức Thánh lễ, cách riêng, theo nghi thức mới, phải đọc trong các lễ An Táng[6] và Hôn Phối (sau nghi thức cử hành hôn phối)[7].

3. Xông hương hoặc xá hương:

3.1                  Dùng thứ nào chỉ dùng một thứ mà thôi trong cùng một thánh lễ.

3.2                  Xông hương thì theo hướng dẫn của Quy Chế Sách Lễ Roma số 276-277.

3.3                  Xá hương trước bàn thờ 3 lần, trước ảnh tượng và di ảnh 1 lần.

3.4                  Cần tập cho giúp lễ biết cách xông hương cách cung kính, chính xác.

4. Các thừa tác viên trong Thánh lễ

4.1                   Linh mục đồng tế: không nhập đoàn đồng tế khi Thánh lễ đã bắt đầu.

4.2                   Lễ hôn phối: hai người kết hôn có thể đọc các bài đọc và hát đáp ca trong Thánh lễ, cần được chuẩn bị thật chu đáo, lễ phục gọn gàng,  xứng hợp, tránh trình diễn, phô trương.

4.3                   Lễ an táng: người thân có thể đọc các bài đọc, nhưng rất cần chuẩn bị chu đáo, mặc lễ phục sạch sẽ, gọn gàng, xứng hợp.

III. Những thực hành khác:

1. Rao ý lễ: khi có nhiều người xin dâng lễ thì không cần rao tên người xin. Có thế rao ý lễ sau lời chào chúc của linh mục đầu Thánh lễ[8] hoặc thời điểm khác, áp dụng tùy nơi.

2. Rao lịch, thông báo nên sau Lời Nguyện Hiệp Lễ (hoặc trước lễ), nhưng ngắn gọn[9].

3. Việc chúc lành cho trẻ em đang khi trao Mình Thánh Chúa: Không phải là nghi thức phụng vụ, tùy thói quen từng nơi, miễn sao không kéo dài thời gian Rước lễ, không khuyến khích thực hành.

4. Ca đoàn không rước lễ sau khi Thánh lễ kết thúc.

5. Trang phục của thừa tác viên đọc sách thánh có thể mặc áo Alba; hoặc nữ mặc áo dài, năm mặc áo sơ-mi bỏ vào quần (Chúa nhật và lễ Trọng nên thắt Cà-vạt).

IV. Bí tích và á bí tích:

1. Sách nghi thức bí tích và á bí tích UB. Phượng Tự/HĐGMVN đang dọn lại (cần chờ).

2. Linh mục mặc áo Alba và đeo dây Stola khi cử hành các bí tích và á bí tích. Không đeo dây Stola trên áo dòng hoặc áo sơ-mi khi có thể mặc áo Alba.

3. Trong nghi thức an táng: sử dụng nhang hoặc hương (chọn 1 trong 2).

4. Không được làm phép phần mộ trong nhà thờ.

 

Chuẩn nhận của Đức Giáo Mục Giáo Phận                              Ban phụng vụ

+ Stêphanô TRI BỬU THIÊN. GM                                  Hội Đồng Mục Vụ Giáo Phận

                           Ấn ký.                                        Trung Tâm Mục Vụ 23.10.2023

 

 

Ý NGHĨA VÀ THỰC HÀNH NGHI THỨC

DÂNG LỄ VẬT TRONG THÁNH LỄ

Lm. Gs. Lê Ngọc Ngà, Gp. Cần Thơ

Hỏi: Việc dâng lễ vật trong thánh lễ được Hội Thánh quy định thế nào? Người dâng lễ vật đứng ở vị trí nào khi dâng lễ, cần thống nhất về mặt mỹ quan.

Trả lời:

I. Cùng đọc Quy chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma (QCSL)

Số 73. Khi bắt đầu phần Phụng vụ Thánh Thể, thì các lễ vật được đem lên bàn thờ; những lễ vật này sẽ trở nên Mình và Máu Đức Kitô.  
Trước hết phải chuẩn bị bàn thờ hay bàn ăn của Chúa, tâm điểm nơi diễn ra toàn bộ phần phụng vụ Thánh Thể: trải khăn thánh, đặt khăn lau chén, sách lễ và chén lễ, trừ khi chén lễ được dọn ở bàn phụ.
Tiếp đến là đem lễ vật lên: nên để giáo dân dâng bánh và rượu, linh mục hay phó tế nhận tại một nơi thuận tiện, rồi chính linh mục đặt lên bàn thờ. Mặc dầu ngày nay giáo dân không còn mang bánh rượu của mình đến để dùng vào việc phụng vụ như xưa, nhưng việc dâng lễ vật vẫn giữ được giá trị và ý nghĩa thiêng liêng của nó.           
Cũng được nhận tiền bạc hay các phẩm vật khác, do tín hữu mang đến hay được quyên ngay trong nhà thờ để giúp người nghèo hay nhà thờ. Những phẩm vật này được đặt ở một nơi xứng hợp ngoài bàn thờ.

Số 74. Khi đoàn rước lễ vật tiến lên, thì hát ca tiến lễ (x. số 37b) và kéo dài bài hát ít là cho tới khi đặt lễ vật trên bàn thờ. Quy luật về cách hát ca tiến lễ cũng giống như cách hát ca nhập lễ (x. số 48). Luôn có thể hát ca tiến lễ cả khi không có rước lễ vật.

Số 140. Nên để cho các tín hữu biểu lộ sự tham dự bằng việc dâng bánh rượu dùng vào việc tế lễ, hoặc những phẩm vật khác dùng để đáp ứng các nhu cầu của nhà thờ và cứu trợ người nghèo. Linh mục nhận các lễ vật tín hữu dâng, với sự trợ giúp của thừa tác viên giúp lễ hoặc một thừa tác viên khác. Bánh và rượu dùng trong Thánh lễ thì trao cho linh mục, ngài đặt trên bàn thờ; còn các phẩm vật khác thì đặt nơi khác thích hợp (x. số 73).

Số 295. Cung thánh là nơi đặt bàn thờ, nơi công bố lời Chúa, và là nơi linh mục, phó tế và các thừa tác viên khác thi hành phận vụ. Cung thánh phải được tách biệt cách thích hợp khỏi lòng nhà thờ, bằng cách được nâng cao hơn, hoặc nhờ một cấu trúc và sự trang trí đặc biệt. Cung thánh phải rộng rãi đủ để việc cử hành Thánh Thể có thể diễn tiến và được nhìn thấy cách dễ dàng.

II. Nguồn gốc và ý nghĩa thần học của việc dâng lễ vật

Ngay từ thời Giáo Hội sơ khai, tín hữu mang bánh, rượu và những của cải vật chất khác đến cộng đoàn phụng vụ, để vừa cử hành Thánh Thể vừa chia sẻ cho người nghèo (x. 1Cr 16,1–2). Dần dần, truyền thống này được thanh luyện: bánh và rượu trở thành lễ phẩm chính để thánh hiến, còn các phẩm vật khác dành cho việc bác ái.

Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma khẳng định: “Các tín hữu dâng bánh và rượu… kèm theo chính họ, để được dâng hiến với Chúa Kitô” (số 73). Như thế, nghi thức dâng lễ vật là hành vi hiệp dâng đời sống: lao nhọc, niềm vui, nỗi khổ của cộng đoàn được đặt lên bàn thờ, chuẩn bị cho việc biến đổi thành Mình và Máu Đức Kitô.

Bàn thờ, trung tâm phụng vụ Thánh Thể, là vừa bàn tiệc vừa bàn tế lễ: nơi Đức Kitô dâng chính mình, và cộng đoàn tham dự vào hy tế đó.

III. Quy định phụng vụ

QCSL chỉ dẫn rõ: giáo dân tiến dâng lễ phẩm, linh mục hay phó tế nhận tại “một nơi thuận tiện”, rồi chính linh mục đặt bánh và rượu trên bàn thờ. Như vậy:

Người dâng lễ, linh mục hay phó tế tiếp nhận “nơi thuận tiện”.

Bánh và rượu thì trao cho chủ tế, rồi sau đó, ngài dâng và đặt trên bàn thờ.

Các phẩm vật khác (hoa, nến, tiền, quà bác ái) được đặt tại vị trí thích hợp ngoài bàn thờ.

Nghi thức này không phải “phần phụ”, nhưng nối kết bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể (QCSL 74–76).

Trong thực hành, có khi người dâng lễ vật đi thẳng lên cung thánh, có khi chỉ trao ở bậc tam cấp. Vậy đâu là cách đúng?

QCSL 140 chỉ nói: “Giáo dân có thể mang bánh, rượu và những lễ vật khác lên… và trao cho linh mục hoặc phó tế ở một nơi thuận tiện.” Như vậy, Giáo Hội không buộc phải trao trực tiếp trên cung thánh.

Nguyên tắc phụng vụ: cung thánh là nơi dành cho thừa tác viên bàn thờ (linh mục và giúp lễ), còn giáo dân chỉ lên khi có vai trò đặc biệt (đọc sách, hát thánh vịnh, đọc lời nguyện tín hữu trên giảng đài). Người dâng lễ vật không buộc phải bước lên cung thánh.

Do đó, cách thích hợp là:

Người dâng lễ vật tiến lên chân cung thánh, dâng lễ vật cho linh mục hoặc phó tế. Sau đó, chính linh mục hay phó tế mang lễ vật lên bàn thờ.

Điều này vừa giữ mỹ quan phụng vụ, vừa tránh tình trạng người dâng lễ quay lưng hay “quay mông” xuống cộng đoàn, gây phản cảm và làm mất đi nét trang nghiêm.

Mỹ quan: có ca tiến lễ, đoàn dâng lễ vật tiến lên trong trật tự. Cử chỉ cúi chào qua lại giữa đoàn dâng và chủ tế làm nổi bật tính cộng đoàn và hiệp thông. Trang phục: người dâng lễ mặc chỉnh tề, tôn nghiêm, không phô trương.

IV. Đề nghị thực hành cụ thể

Một lối cử hành hài hòa có thể như sau:

1. Đoàn dâng lễ tiến lên theo lối chính, dừng lại tại chân tam cấp cung thánh.

2. Linh mục chủ tế cùng thừa tác viên giúp lễ tiến ra, cúi chào đoàn dâng lễ.

3. Từng người dâng lễ phẩm:

Bánh và rượu: chủ tế nhận, trao cho người giúp lễ, rồi sau đó, chính ngài dâng dâng và đặt trực tiếp trên bàn thờ.

Các lễ phẩm khác: chủ tế nhận, trao cho giúp lễ đặt ở vị trí ngoài bàn thờ.

4. Khi dâng lễ vật và tiếp nhận xong, chủ tế và đoàn dâng lễ cúi chào rồi về chỗ. Đoàn dâng lễ không đứng thành hàng trên cung thánh để dâng các lễ phẩm khác cùng lúc với chủ tế dâng bánh rượu.

5. Do đó, khi chủ tế cùng thừa tác viên trở về bàn thờ để tiếp tục phụng vụ Thánh Thể, thì đoàn dâng lễ cũng trở về chỗ ngồi.

Kết luận

Nghi thức dâng lễ vật mang chiều kích thần học sâu xa: nơi đó, cộng đoàn cùng với linh mục hiệp dâng chính mình trong hy tế của Đức Kitô. Thực hành đúng quy định vừa làm sáng tỏ ý nghĩa này, vừa giữ vẻ mỹ quan và tính trang nghiêm. Đây là dịp giáo dục đức tin hữu hiệu: Thánh Thể không chỉ quy tụ cộng đoàn quanh bàn thờ, mà còn thúc đẩy họ sống bác ái qua việc chia sẻ cụ thể cho người nghèo.

Tóm lại, điểm mạnh của cách thực hành này:

1. Giáo dân không đứng trên cung thánh, nhưng dưới chân bậc tam cấp cung thánh “nơi thuận tiện” để dâng; chỉ thừa tác viên mới đưa bánh rượu lên bàn thờ.

2. Trang nghiêm và thẩm mỹ: tránh cảnh người dâng lễ tạo thành hàng ngang trên cung thánh, quay lưng về phía cộng đoàn ngay trước bàn thờ, tránh cảnh “áo dài tung bay phất phới” trước mặt cộng đoàn, giữ sự hài hòa và trang nghiêm.

3. Ý nghĩa chính của nghi thức: dâng bánh và rượu là hiến dâng “hoa màu ruộng đất và công lao của con người” để được Chúa thánh hiến “trở nên Mình Máu Chúa” ; các lễ phẩm khác thuộc lãnh vực bác ái.

 

ĐỀ NGHỊ NỘI DUNG CẦN BÀN THẢO THÊM CHO THỐNG NHẤT

TRONG CÁC CUỘC HỌP MỤC VỤ – NĂM 2025

1. Phân định ranh giới và tổ chức giáo xứ

- Cập nhật, điều chỉnh ranh giới, tên gọi và số giáo dân các giáo xứ theo thay đổi hành chính của Nhà nước (sáp nhập, đổi tên…).

2. Cử hành Phụng vụ Thánh Lễ

- Thống nhất việc thực hiện “chữ đỏ” theo luật phụng vụ, không thêm bớt hay thay đổi.

- Ban Phụng vụ ban hành văn bản hướng dẫn chung, cụ thể như:

+ Cần đặt thánh giá trên bàn thờ khi trên cung thánh đã có treo thánh giá lớn

+ Lời nguyện nhập lễ: Đọc “Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con…” (không đọc “đến muôn thuở muôn đời”).

+ Cách xướng bài đọc: Không đọc “Bài đọc 1” hay “Bài đọc 2” mà đọc “Bài trích sách…”.

+ Lời nguyện tín hữu: Người xướng không thêm “Chúng ta cùng cầu xin Chúa” sau mỗi ý nguyện; chỉ lên giọng cuối mỗi lời nguyện.

+ Cử chỉ chúc bình an: Chủ tế cúi đầu chúc bình an ngay khi đọc “Bình an của Chúa…”; không cúi đầu sau lời mời “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”.

+ Dâng của lễ: Thống nhất cách thức giáo dân tiến dâng lễ theo hướng dẫn của Ban Phụng vụ.

+ Pha nước vào rượu: Khi đồng tế có nhiều chén rượu, chỉ pha nước vào chén chính

+ Lời mời trước Kinh Tiến Lễ: Chủ tế vẫn đọc “Hy lễ của tôi và của anh chị em…” (không đọc “của chúng tôi…”).

+ Ban phép lành cuối lễ an táng trong nhà thờ hay sau khi cử hành nghi thức hạ huyệt nơi đất thánh?

+ Lấy Mình Thánh Chúa từ Nhà Tạm:

Giáo sĩ: đặt MTC trên bàn thờ trước khi chủ tế đọc “Đây Chiên Thiên Chúa…”.

Tu sĩ/giáo dân: đặt MTC trên bàn thờ sau khi chủ tế rước lễ xong.

+ Đặt tay chúc lành cho trẻ nhỏ: Cần bàn thống nhất. Có thể dành riêng sau Thánh Lễ (ví dụ: khi hát kết lễ, các em lên cung thánh để nhận phép lành).

+ Công thức chúc kết lễ: “Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an”.  Không thêm bớt.

+ Công bố “Đó là Lời Chúa” khi nào?

Trong Thánh Lễ: sau Tin Mừng, chủ tế/phó tế nâng sách và hát/nói “Đó là Lời Chúa”.

Ngoài Thánh Lễ (giờ chầu, kinh tối…): cần làm rõ quy định có bắt buộc hát/nói “Đó là Lời Chúa” hay không.

+ Tắt/mở đèn tại Đài Đức Mẹ và Thánh Giuse để tập chú về bàn thờ chính:

Trong Thánh Lễ: tắt sau bài hát nhập lễ; mở sau phép lành cuối lễ.

Trong Giờ Chầu: tắt đèn khi đặt MTC, mở đèn khi kết thúc chầu.

3. Các kinh đọc trong Thánh Lễ Chúa Nhật

- Cần thống nhất các kinh/hát trước và sau Thánh Lễ, dựa trên bản dịch chính thức của HĐGMVN (khi chưa có bản chính thức, Ban Phụng vụ tạm đề nghị bản kinh chung để áp dụng đồng nhất).

- Ví dụ:

+ Kinh Cám Ơn: “…ngày (đêm) hôm nay” hay “…qua ngày (qua đêm) hôm nay…”

+ Kinh 10 Điều Răn: “…tóm về hai điều này mà nhớ (chớ)”, hay “tóm lại hai này mà nhớ (chớ)…”.

4. Sứ mạng Loan báo Tin Mừng

- Quy định chung về việc mua đất, thành lập giáo điểm mới; điều kiện và tiến trình nâng giáo điểm lên giáo xứ.

5. Mục vụ trừ quỷ

- Bổ nhiệm một linh mục phụ trách trừ quỷ trong giáo phận; quy định rõ thẩm quyền và nguyên tắc thực hiện nghi thức theo Giáo luật.

- Định hướng mục vụ đối với các nhóm “trừ quỷ” của giáo dân (như nhóm Bảo Lộc).

6. Các trường hợp bí tích liên quan cha Truyền

- Đề xuất hướng giải quyết mục vụ cho những người đã lãnh nhận bí tích từ cha Truyền (trong tình trạng cha đã bị huyền chức).

7. Linh mục rời bỏ giáo vụ

- Cách xử lý khi một số linh mục rời bỏ giáo vụ, không còn liên hệ với giáo phận; đề xuất thủ tục Giáo luật và các hỗ trợ cần thiết.

8. Xây dựng nhà thờ và cơ sở mục vụ

- Xác định nguyên tắc, quy định cụ thể về xây dựng, sửa chữa; minh bạch nguồn kinh phí thu–chi.

- Phân định công trình nào do Tòa Giám Mục hỗ trợ kinh phí, công trình nào do họ đạo tự lo.

 



[1] QCSL, số 50. 124.

[2] QCSL., số 117. 308

[3] QCSL., số 45.

[4] QCSL., số 136.

[5] Huấn Thị về Lễ Thiếu nhi (Directoire de Messes d’enfant), số 48, Bộ Phụng Tự, ban hành ngày 1/11/1973.

[6] Nghi Thức An Táng, luật chữ đỏ, sô 70;

[7] Nghi Thức Hôn Phối, luật chữ đỏ, số 69.

[8] QCSL., số 50.

[9] QCSL., số 90.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  G IÁO PHẬN CẦN THƠ HỘI ĐỒNG MỤC VỤ - BAN PHỤNG VỤ CÁC VIỆC THỰC HÀNH PHỤNG VỤ CẦN THỐNG NHẤT Dựa theo Quy Chế Sách Lễ Roma năm 2002 ...