SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXV THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN- NĂM C
Am 8,4-7; 1Tm 2,1-8; Lc 16,1-13
Suy niệm 1:
Làm thế nào để trở thành người
quản lý khôn ngoan và trung tín? Đó là sứ điệp lời Chúa hôm nay muốn nói với
chúng ta. Xin cho chúng ta biết tận dụng sự khôn ngoan mà Chúa ban để sinh lợi
nhiều hoa trái tốt lành nhằm hướng đến lợi ích cho tha nhân và mưu cầu hạnh
phúc nước trời cho chính mình.
Quản gia là người được ông chủ
rất tin tưởng trao phó tất cả tài sản cho quản gia trông coi. Nhiệm vụ của
người quản gia trung thành là vừa quản lý tốt tài sản, vừa khôn khéo làm gia
tăng tài sản cho ông chủ. Thế nhưng người quản gia mà Chúa Giêsu đề cập trong
đoạn Tin mừng hôm nay tuy khôn ngoan nhưng lại bất lương.
Anh ta khôn ngoan vì biết tận
dụng tài sản sẵn có của chủ để mưu tìm tư lợi cho mình thay vì cho chủ. Đến khi
chủ gia khám phá ra sự gian lận của anh ta và có ý định sa thải, thì một lần
nữa, anh lại khôn ngoan nghĩ ra cách để đáp cánh an toàn. Với sự nhanh nhẹn vốn
có, anh nghĩ ngay đến việc dùng tiền của gian dối để mua lấy bạn hữu, để sau
khi mất việc anh sẽ được nhiều người quí mến mà đón tiếp anh vào nương tựa nơi
nhà của họ.
Dù rất khôn ngoan nhưng anh vẫn
bị xem là kẻ bất lương vì 2 lý do: Thứ nhất anh ta đã không trung thực trong
vai trò quản gia vì anh đã từng dùng tài sản của chủ làm lợi cho mình. Thứ hai
anh ta đã làm sai nguyên tắc luân lý đòi buộc là dùng phương tiện xấu để đạt
được mục đích tốt.
Khi ca ngợi hành động khôn ngoan
của người quản gia bất lương này, Chúa Giêsu không có ý khuyến khích chúng làm
điều xấu để đạt đến mục đích tốt, nhưng Chúa muốn mời gọi chúng ta học nơi
người quản gia này sự khôn ngoan nhằm chuẩn bị cho tương lai xa và vững bền.
Chúng ta đang sống trong thời đại
mà đồng tiền được đặt lên làm Chúa tể khiến cho tất cả các giá trị đạo đức và
luân lý xuống cấp và bị xem thường, nên lời Chúa hôm nay chính là hồi chuông
báo động đánh thức cho những ai đang còn say mê chạy theo tiền bạc mà sống
trong tình trạng tội lỗi, xa rời tình người và bất trung với Chúa, thì hãy tỉnh
thức để nhận ra đâu là giá trị đích thực của con người mà chấn chỉnh lại đời
sống theo lời dạy của Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta biết luôn ý
thức xử dụng tốt những ân huệ Chúa ban: sức khỏe, thời giờ, tài năng, tiền của…
để sinh lợi nhiều hoa trái tốt lành cho mình, cho người mà dâng hiến cho Chúa,
nhờ đó mới xứng đáng được Chúa ban thưởng hạnh phúc đời này và đời sau.
Suy niệm 2:
Thời nào cũng vậy, tiền bạc luôn
có sức ảnh hưởng rất lớn trên cuộc sống con người. Nếu không thức tỉnh, chúng
ta sẽ dễ dàng rơi vào vòng xoáy của kim tiền mà quên đi những giá trị cao quý
khác. Đó chính là sứ điệp mà lời Chúa hôm nay muốn nói với mỗi người trong
chúng ta.
Dẫu biết rằng tiền của chỉ là
phương tiện, chứ không phải là mục đích tối hậu. Nhưng ai trong chúng ta cũng
mong muốn có được nhiều tiền. Bởi lẽ không có tiền, cuộc sống của ta sẽ trở nên
túng thiếu, cơ cực, đói khát và không thể thăng tiến được. Có tiền, ta mới có
được cuộc sống sung túc, thoải mái, an vui và được người khác nể trọng. Vì thế
mà nhân gian thường sánh ví đồng tiền ngang hàng với thần tiên, trời phật “tiền
là tiên là phật” là vậy!
Chính vì quá xem trọng đồng tiền
nên nhiều người ngày nay đã lao mình vào những việc làm bất chính như: tham
nhũng, lừa đảo, bất trung trong đời sống vợ chồng, buôn bán hàng cấm, hàng giả,
và sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm con người… để có thật nhiều tiền.
Sức mạnh của đồng tiền không chỉ
làm khuynh đảo các giá trị đạo đức của con người trong thời buổi kinh tế thị
trường hiện nay mà ngay từ thời tiên tri Amos, vào thế kỷ 7 truớc công nguyên,
tiền bạc đã là nguyên nhân làm biến chất biết bao người.
Trong bài đọc 1, tiên tri Amos đã lên án mạnh mẽ
lối sống suy thoái của những người giàu có. Vì tham tiền mà họ mong cho những
ngày nghỉ lễ mau qua. Vì tiền mà họ tìm đủ mọi cách để gian lận “làm
cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm”. Cũng vì tham tiền mà họ nhẫn
tâm khai thác và bóc lột sức lao động của những người nghèo đến tận xương tủy.
Vào thời Chúa Giêsu cũng thế, những Luật sĩ và
Biệt phái được xem là thành phần ưu tú của xã hội. Vậy mà vì lòng tham, họ đã
sẵn sàng buông mình theo dòng xoáy của kim tiền. Họ cố đọc kinh cho lâu giờ để
bòn rút những đồng tiền của các bà góa và không ngần ngại bẻ cong luật thu thuế
thập phân cách tùy tiện nhằm tư lợi cho mình.
Nhận thấy sức mạnh lôi cuốn của
đồng tiền là khó cưỡng, nên Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dùng dụ
ngôn về người quản gia bất lương để cảnh tỉnh chúng ta. Qua dụ ngôn người quản
gia bất lương ấy, Chúa Giêsu muốn chỉ cho thấy: Mặc dù anh ta là “con cái thế
gian”, thế mà anh ta còn biết sử dụng tiền của đời này một cách khôn khéo, bằng
cách cho đi của cải mình có, để đổi lấy sự bảo đảm cho tương lai vững bền mai này.
Còn chúng ta được xem là “con cái của sự sáng”, thì tại sao chúng ta lại không
biết dùng của cải thế gian Chúa ban, mà mua lấy bạn hữu và hạnh phúc nước trời?
Hãy làm theo lời dạy của Chúa Giêsu: “Thầy bảo cho anh em biết: hãy
dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ
đón tiếp các con vào nơi vĩnh cửu.” (Lc 16,9).
Như vậy để có được tình bạn hữu
và chiếm hữu được nước trời, Chúa Giêsu đòi buộc chúng ta phải có sự chọn lựa
dứt khoát giữa TC và tiền của: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên
Chúa, vừa làm tôi tiền của được”. Nếu ta biết đặt tiền của vào vị đầy tớ,
nhằm phục vụ cho những nhu cầu cần thiết giúp ta vươn đến những giá trị cao quý
là nước trời thì ta mới xứng đáng được gọi là người quản gia khôn ngoan đích
thực trước mặt TC. "Bởi vì Chúa là Đá tảng, là chiến lũy" (Tv
70,1-2) bền vững cho ta tựa nương. Nên có Chúa thì có tất cả, mất Chúa là mất
mọi sự.
Xin cho chúng ta luôn biết đặt
Chúa làm vị trí quan trọng nhất trong tâm trì và đời sống của Chúng ta. Để
trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, chúng ta luôn trung thành tin yêu Chúa, bởi
Người mới chính là lẽ sống, là gia nghiệp đích thực và là đấng đáng cho chúng
ta tôn thờ.
Suy niệm 3: GIỚI HẠN CỦA ĐỒNG
TIỀN
Lời Chúa hôm nay như tiếng chuông cảnh tỉnh mỗi người chúng ta về của cải trần gian không phải là điều tuyệt đối, nhưng chỉ là phương tiện giúp ta phục vụ tình yêu thương.
Xin Chúa Thánh Thần soi sáng tâm hồn để chúng ta biết lắng nghe và sống theo Lời Chúa cách khôn ngoan.
Người đời thường nói: “Có tiền
mua tiên cũng được”. Câu này cũng đúng phần nào. Bởi ai trong chúng ta cũng cần
tiền để mua thực phẩm, thuốc thang, quần áo, điện nước, xe cộ, nhà cửa, bằng
cấp, chức danh, sắc dục… Tuy nhiên không phải vì thế mà ta lại sẵn sàng đánh
đổi mọi thứ quý giá của cuộc đời mình để kiếm tiền bằng mọi cách thức. Bởi kinh
nghiệm cho thấy khi có nhiều tiền rồi, người ta mới ngộ ra rằng tiền bạc không
phải là tất cả.
Chuyện kể rằng:
Có một người rất keo kiệt, lúc
nào cũng chắt bóp, bo bo, chẳng dám ăn tiêu gì. Tích cóp cả đời, anh ta cũng để
dành được một gia tài lớn. Nhưng chẳng ngờ đời người như ánh chớp, tháng ngày
đã tận, một hôm Thần Chết đột nhiên xuất hiện đòi mạng anh.
Đúng lúc ấy, anh ta mới nhận ra
rằng mình chưa từng hưởng thụ chút gì từ số tiền đã tích cóp được, bèn nài nỉ:
“Tôi chia một phần ba tài sản của tôi cho ngài. Ngài chỉ cần cho tôi sống thêm
một năm để hưởng thụ thôi được chăng?”.
“Không được!”, Thần Chết lắc đầu,
nghiêm nghị nói.
“Vậy tôi biếu ngài một nửa nhé.
Ngài cho tôi nửa năm nữa, được không?”. Chàng trai tiếp tục khẩn khoản van lơn.
“Không được!”, Thần Chết vẫn
không đồng ý, phũ phàng từ chối.
Anh chàng lại nói: “Vậy thì tôi
xin giao hết của cải cho ngài. Chỉ cần ngài cho tôi sống thêm một ngày thôi,
vậy được chứ?”.
“Không được!”. Lần này, Thần Chết
vừa nói, vừa giơ cao chiếc lưỡi hái trên tay toan động thủ.
Người đàn ông tuyệt vọng, cầu xin
Thần Chết lần cuối cùng: “Xin ngài cho tôi một phút để viết di chúc!”.
Lần này, Thần Chết gật đầu. Anh
ta run rẩy, lấy bút viết ra dòng chữ trong nước mắt giàn giụa: Xin hãy ghi nhớ,
bao nhiêu tiền bạc cũng không mua nổi một ngày.
"Bao nhiêu tiền bạc cũng
không mua nổi 1 ngày", đó cũng chính là lời di chúc mà lời Chúa hôm nay
muốn gửi đến chúng ta.
Cho dẫu phụng vụ lời Chúa hôm nay
không hề lên án tiền bạc, cũng như chỉ trích những người có nhiều tiền của,
nhưng lại cảnh tỉnh chúng ta về thái độ quá xem trọng tiền bạc, đến nỗi đặt nó
lên làm ông chủ để tôn thờ.
Xin nhớ rằng: Tiền có thể mua
được nhiều thứ, nhưng không phải mọi thứ đều mua được bằng tiền:
Tiền mua được đồng hồ nhưng không
mua được thời gian.
Tiền mua được ngôi nhà nhưng
không mua được một tổ ấm.
Tiền mua được chiếc giường nhưng
không mua được giấc ngủ.
Tiền mua được thực phẩm nhưng
không mua được sự ngon miệng.
Tiền mua được thuốc uống nhưng
không mua được sức khỏe.
Tiền mua được máu nhưng không mua
được sự sống
Tiền mua hào quang nhưng không
mua được sắc đẹp.
Tiền mua được sách vỡ nhưng không
mua được kiến thức.
Tiền mua được sự hiểu biết nhưng
không mua được sự khôn ngoan.
Tiền mua được địa vị nhưng không
mua được sự nể trọng.
Tiền mua được sự huy hoàng nhưng
không mua được sự ấm áp.
Tiền mua được thú vui nhưng không
mua được niềm vui.
Tiển mua được người quen nhưng
không mua được bạn bè.
Tiền mua được tôi tớ nhưng không
mua được lòng trung thành”.
Tiền mua được thể xác nhưng không
mua được tình yêu…
Để biết mình có thái độ ra sao về
vấn đề tiền của, ta hãy thực lòng trả lời những câu hỏi dưới đây:
- Tôi có bị cám dỗ trước những
mánh khóe làm giàu nhanh chóng không?
- Tôi có được thoáng lắm trong
chuyện chi tiêu tiền nong không?
- Tôi có khuynh hướng làm bạn với
những người luôn nói về tiền bạc và những thứ mà họ sở hữu không?
- Tôi có nói dối hoặc làm những
chuyện phi pháp để kiếm tiền không?
- Tiền bạc có làm tôi cảm thấy
mình là người quan trọng không?
- Tôi có thường xuyên nghĩ về
tiền bạc không?
- Thái độ của tôi đối với tiền
bạc có ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe bản thân và cuộc sống gia đình không?
Nếu tôi trả lời “có” cho bất cứ
câu hỏi nào ở trên là ta biết mình đang ở trong tình trạng làm tôi cho tiền của
thay vì Thiên Chúa.
Xin nhớ rằng "tiền bạc là
đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu". "Tiền bạc là phương thế chứ không
phải là cùng đích". Do đó ta cần khôn ngoan đặt tiền bạc vào đúng vị trí
nó, để từ đó ta biết tránh đi những cách thế kiếm tiền bất chính, cũng như sáng
suốt xử dụng tiền của thế nào cho đúng với ý muốn của Chúa. Nhờ đó mà ta có được niềm vui,
bình an trong tâm hồn, nhất là sau này xứng đáng được Chúa ban thưởng hồng phúc
nước trời. (St).
Suy niệm 4:
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cập đến một thứ rất quen thuộc mà hầu như ai trong chúng ta cũng yêu thích, đó là “tiền bạc”.
Tiền bạc chỉ là một mảnh giấy, một vật làm bằng kim loại vô tri
vô giác, nhưng được con người chọn làm phương tiện đổi chác, sử dụng hàng ngày
trong cuộc sống. Vì thế, mà tiền bạc một vị trí quan trọng có khả năng làm đảo
lộn các bậc thang giá trị trong cuộc sống con người. Cho nên, thánh
Phaolô thật chí lý khi cho rằng: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác
là do lòng ham thích tiền bạc” (1Tm 6,10).
Vì say mê tiền bạc mà một số người sẵn sàng từ bỏ đức tin. Vì tham lam tiền
bạc khiến cho nhiều người trở thành kẻ sống bất lương. Bất lương đưa đẩy người
ta đến hành động bất chấp và bất chính, từ đó khiến anh em gia đình bất hòa,
làm cho xã hội bất công. Hậu quả là mọi người phải chịu cảnh sống bất an, bất
mãn, bất bình và bất hạnh; rồi nhanh chóng nó đẩy con người vào tình
trạng bất tỉnh!
Bài đọc trích sách tiên tri Amos
cho thấy vì tiền mà người ta bất chấp tốt-xấu. Người ta sẵn sàng làm ăn bất
chính lừa gạt mua thừa bán thiếu, coi thường giá trị con người, sẵn sàng hạ
thấp con người xuống ngang hàng với đôi giầy đôi dép, thậm chí có người còn coi
tiền bạc hơn cả những giá trị tôn giáo cao quí, nên họ chỉ mong cho ngày
lễ trọng và Sabat mau qua để còn lo kiếm tiền (x. Am 8, 4-7).
Bài Phúc âm cho thấy vì tiền mà
viên quản lý được chủ tín nhiệm đã trở thành kẻ bất lương, sẵn sàng bán rẻ
lương tâm, bất chấp chân lý, gian giảo đổi trắng thành đen, viết sai văn tự,
miễn là có lợi cho mình. Đến nỗi ông chủ cũng phải thốt lên tay này thật khôn
ngoan quỷ quyệt!.
Qua dụ ngôn người quản lý bất lương, Chúa
Giê-su muốn dạy các môn đệ cũng như chúng ta rằng: “Hãy
dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ
đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”; hay nói khác đi, hãy dùng
của cải ta có hôm nay mà mua lấy một chỗ ở trên thiên đàng.
Đó là một chọn lựa
khôn ngoan, vì cho dù hôm nay, ta có cố sức bám trụ vào mặt đất nầy, bám víu
thật chắc vào những tài sản của mình, ra sức thu gom thật nhiều tiền bạc, tài
sản, ruộng vườn… thì mai đây, chúng ta cũng sẽ bị bứt ra khỏi cuộc đời chóng
qua này như chiếc lá lìa cành trong cơn lốc dữ…
Tất cả những gì ta
mua sắm được hôm nay, người khác sẽ sử dụng. Những gì ta đang sở hữu sẽ thuộc
về người khác… Rốt cuộc, ta chẳng còn gì ! Vì thế, người khôn ngoan
là người biết chuyển đổi của cải chóng qua thành gia tài vĩnh cửu trên trời.
Xin cho lời khôn
ngoan của Chúa đánh thức tâm hồn chúng con khỏi những quyến luyến của tiền bạc
và cải đời này, và cho chúng ta đủ khôn ngoan để dám đánh đổi những tài
sản phù du đời này mà mua về những giá trị vĩnh cửu nước trời.
Suy niệm 5:
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy một vấn đề rất
quen thuộc nhưng cũng rất sâu xa: mối tương quan giữa đức tin và tiền bạc,
giữa tôn thờ Thiên Chúa và sử dụng của cải trần thế.
Trong xã hội hôm nay, chúng ta cũng đang đối diện
với những cám dỗ của đồng tiền, lợi ích, quyền lực. Chúa Giêsu mời gọi ta nhìn
lại cách sống của mình, để dùng những gì mình có mà hướng tới Nước Trời, chứ
không để chúng điều khiển mình.
Chuyện vui kể
rằng:
Có một ông chủ tiệm tạp hóa treo bảng:
- “Bán nợ: thêm 5%”
- “Trả tiền
mặt: giảm 5%”
Khách hàng đọc xong hỏi:
- “Sao chủ
tiệm không ghi thẳng ‘bán tiền mặt giảm 5%’ cho dễ hiểu?”
Ông chủ cười
đáp:
- “Ghi vậy để
ai cũng phải tính toán. Người biết tính sẽ chọn cách có lợi.”
Câu chuyện dí
dỏm trên nhắc chúng ta rằng trong đời sống, người ta thường rất khôn ngoan khi
tính toán lợi lộc trần thế, nhưng lại ít khi “tính toán” cho cuộc sống đời sau.
Hôm nay, Chúa Giêsu kể dụ ngôn “người quản lý bất lương” không phải
để chúng ta bắt chước sự gian dối, nhưng để chúng ta học khôn ngoan thiêng liêng: biết dùng của cải trần
thế để “đầu tư” cho Nước Trời.
Bài đọc 1: Ngôn sứ
A-mốt tố cáo những người giàu có gian lận, bóc lột người nghèo. Thiên Chúa
khẳng định Ngài “không bao giờ quên” những
hành vi bất công. Thiên Chúa bênh vực
người bé mọn.
Bài đọc 2: Thánh Phaolô
khuyên cầu nguyện cho mọi người, nhất là cho nhà cầm quyền, để xã hội bình an,
công chính. Người Kitô hữu có trách
nhiệm xây dựng xã hội bằng cầu nguyện và đời sống ngay thẳng.
Tin Mừng : Chúa Giêsu
dùng dụ ngôn “người quản lý bất lương”, không nhằm khen ngợi sự gian dối, nhưng đề
cao tinh thần khôn ngoan, biết lo xa. Bằng cách:
- Hãy dùng tiền của để làm việc lành, giúp đỡ người khác, “để có những người đón tiếp anh em vào nhà
vĩnh cửu”.
- “Không ai có thể làm tôi hai chủ… Anh em không
thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của.”
Cộng đoàn thân mến,
- Bất
công xã hội không phải chuyện xa xưa: ngày nay vẫn còn gian lận
thương mại, bóc lột lao động. Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi sống công bằng, liêm chính, bảo vệ người yếu thế.
- Khôn ngoan thiêng liêng: Người
quản lý trong Tin Mừng biết “lo xa” cho tương lai trần thế. Còn chúng ta có “lo
xa” cho tương lai vĩnh cửu không? Chúa mời gọi ta “đầu tư” bằng việc bác ái, chia sẻ, bởi chỉ việc lành phúc đức mới
theo ta vào đời sau.
- Đặt
Thiên Chúa trên hết: Tiền bạc, của cải là phương tiện, không
phải mục đích. Khi để tiền của điều khiển mình, ta mất tự do và mất chính Thiên
Chúa.
- Cầu
nguyện cho xã hội: Như lời thánh Phaolô, chúng ta đừng quên cầu
nguyện cho mọi người, cho những người có trách nhiệm trong xã hội, để mọi người
được sống trong hòa bình và công chính.
Anh chị em thân mến,
Của cải trần thế sẽ qua đi, nhưng tình
yêu và việc lành phúc đức sẽ còn lại mãi. Hãy khôn ngoan sử
dụng những gì Chúa trao, để rồi chính những việc lành phúc đức của chúng ta sẽ
“đón tiếp” chúng ta trong Nhà Cha trên trời.
Xin Chúa ban cho chúng ta ơn khôn ngoan để không bao giờ đặt tiền
bạc trên Thiên Chúa, nhưng biết dùng tiền bạc mà phụng sự Thiên Chúa và phục vụ
tha nhân. Amen.
Suy niệm 6:
Năm 2024 vừa qua, dư
luận cả nước không khỏi xôn xao trước thông tin: lực lượng
cảnh sát kinh tế toàn quốc đã khởi tố mới 825 vụ án, với 1.646 bị can phạm tội tham nhũng;
đồng thời thu hồi được hơn 1.300 tỉ đồng cùng nhiều tài sản có giá trị. Luật sư Việt
Nam
Con số ấy thôi cũng đủ khiến chúng ta dừng lại để suy nghĩ: vì sao
có quá nhiều vụ án tham nhũng bị phát hiện như thế?
Câu trả lời là vì có
nhiều người lợi dụng quyền hành, chức vụ để trục lợi; đó là những người làm việc nhỏ (đầy tớ của dân) nhưng không trung tín, rồi lạm dụng việc lớn. Nói cách khác: tiền bạc, quyền lực
có thể trở thành cám dỗ rất lớn nếu ta không có lòng ngay, không có sự trung
tín từ những điều nhỏ.
Khi mới nghe bài Tin Mừng hôm nay,
chắc hẳn nhiều người trong chúng ta thấy ngạc nhiên: Làm
sao Chúa Giêsu lại có thể khen ngợi một kẻ gian lận, người quản gia bất lương?
Phải chăng Chúa khuyến khích sự gian dối?
Thật ra, đây chỉ là một dụ ngôn.
Nghĩa là, Chúa Giêsu dùng một câu chuyện quen thuộc trong đời sống thường ngày
để đánh động người nghe mà nhắm đến bài học sâu xa. Vì thế, chúng ta không nên
bám chặt từng chi tiết nhưng phải hiểu ý nghĩa tổng quát.
Dụ ngôn này không nhằm dạy nghề
cho các nhân viên ngân hàng, cơ quan tín dụng hay những người đổi tiền, mà nhắm
tới cách chúng ta xác định vị trí và sử dụng tiền của trong đời sống đức tin.
Chúa Giêsu mô tả người quản gia
qua hai hình ảnh:
1. Hình
ảnh thứ nhất: Người quản gia bất lương đã phung phí của cải của
chủ. Đây là điều Chúa Giêsu cảnh báo. Người nói: “Ai
bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. Nếu anh em
không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà
giao phó của cải chân thật cho anh em?” Nghĩa là: nếu chúng ta
không biết dùng tiền của trần gian cho việc xây dựng Nước Trời, làm sao Chúa có
thể trao ban cho chúng ta kho tàng vĩnh cửu? Đối với Chúa Giêsu, tiền bạc chỉ
là “việc nhỏ” so với “việc lớn” là Nước Trời.
2. Hình ảnh thứ
hai: Người quản gia này khôn khéo.
Biết mình sắp mất việc, ông đã tìm cách để bảo đảm tương lai bằng cách giảm nợ
cho các con nợ của chủ, để sau này được họ giúp đỡ. Chúa Giêsu đề cập điều đó
không nhằm cổ vũ sự gian dối của người quản lý, nhưng Người khen ngợi sự khôn
khéo của anh ta. Qua đó, Người muốn các môn đệ cũng biết chuẩn bị cho đời sống
vĩnh cửu, đó là biết sử dụng tiền của thế gian để tạo nên những mối tương quan
tốt, bằng cách giúp đỡ những người nghèo khổ.
Thật vậy, Chúa Giêsu dạy chúng ta coi tiền bạc là phương tiện, chứ
không phải mục đích. Nó có thể là một đầy
tớ tốt nếu ta dùng để chia sẻ, cứu giúp, xây dựng tình thân, thực hiện
những việc bác ái và mưu ích chung. Nhưng tiền bạc lại là một ông chủ xấu khi nó trở thành “của bất
chính”, lừa dối chúng ta bằng sự bảo đảm giả tạo. Thực tế, tiền của không thể
thay thế tình yêu, tình bạn, sức khỏe hay hạnh phúc thật sự.
Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi mỗi
người chúng ta trở thành người quản lý khôn ngoan: biết dùng của cải trần gian
để chuẩn bị cho “nơi ở vĩnh cửu”, tức là để đầu tư cho hạnh phúc đời đời bằng
sự quảng đại chia sẻ.
Xin Chúa ban cho chúng ta sự khôn ngoan ấy. Xin cho chúng ta luôn biết chọn Chúa làm Chủ duy nhất của đời mình, để mọi của cải chỉ là phương tiện phục vụ hành trình về Nước Trời. (St).
Suy niệm 7:
Có
một anh nông dân đến gặp cha xứ và nói:
-
Thưa cha, nếu con có hai cánh đồng lúa, con sẽ dâng một cánh cho Giáo xứ.
Cha
xứ mỉm cười:
-
Còn nếu con có hai con bò?
Anh
đáp: Con cũng dâng một con cho Giáo xứ.
Cha
xứ hỏi tiếp:
-
Thế con đang có hai con gà, con có sẵn sàng dâng một con không?
Anh
nông dân chần chừ:
-
Thưa cha… hai con gà ấy là con đang có thật đó!
Câu chuyện vui trên giúp ta nhận ra rằng: khi nói
về những gì chưa có, chúng ta rất hào phóng; còn khi đối diện với của cải thật
sự mình đang có, thì lòng chúng ta lại co rút. Đó chính là vấn đề mà Lời Chúa
hôm nay nói đến:
- Bài đọc I: Ngôn sứ Amốt mạnh mẽ lên án
những kẻ bóc lột người nghèo, làm giàu bằng gian dối. Thiên Chúa không làm ngơ
trước bất công xã hội. Người Kitô hữu được mời gọi sống công bằng, liêm chính
trong mọi lãnh vực.
- Bài đọc II: Thánh Phaolô mời gọi chúng ta
cầu nguyện cho mọi người, đặc biệt cho những người lãnh đạo, để xã hội được
bình an và mọi người sống đạo đức. Người Kitô hữu có trách nhiệm không chỉ
trong gia đình mình, mà còn với cộng đồng xã hội.
- Tin Mừng: Chúa Giêsu dùng dụ ngôn người
quản gia bất lương. thật ra Chúa Giêsu không khen sự gian lận của anh ta, nhưng
Ngài khen ngợi sự khôn khéo biết lo xa của anh ta. Và Người kết luận: “Không ai có thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa
làm tôi tiền của.”
Của cải là phương tiện, không phải là mục đích;
chúng ta là người quản lý chứ không phải chủ nhân tuyệt đối. Vì thế, Chúa nhắc nhở
chúng ta:
1. Khôn khéo cho Nước Trời:
Chúng ta ai cũng biết tính toán, lo cho tương lai:
tích lũy tiền bạc, đầu tư, chuẩn bị cho con cái học hành, chuẩn bị hưu trí.
Nhưng Chúa Giêsu cũng lưu ý chúng ta: đừng quên chuẩn bị cho đời sống vĩnh
cửu bằng việc cầu nguyện, tham dự Thánh Lễ, sống bác ái, làm điều thiện. Đó
mới là “kho tàng không hư mất”.
2.
Tiền bạc: người đầy tớ hay ông chủ?
Tiền của cần cho đời sống, nhưng không thể làm chủ
chúng ta. Nếu để tiền của điều khiển, chúng ta sẽ đánh mất tự do nội tâm, dẫn
đến gian dối, bất công. Vậy ta hãy sử dụng của cải cách minh bạch, dành một phần
cho việc bác ái, cho họ đạo, cho những người nghèo..., đó là cách chúng ta làm chủ tiền của thay vì
để nó làm chủ mình.
3. Sống
công bằng và liên đới:
Lời ngôn sứ Amốt vẫn rất thời sự trong xã hội hôm
nay còn nhiều gian dối, tham nhũng, bóc lột. Là người Công giáo, dù là nông
dân, công nhân, doanh nhân hay viên chức, chúng ta được mời gọi sống trung
thực, tôn trọng công bằng, quan tâm đến người yếu thế, không làm giàu bằng mồ
hôi nước mắt của người khác.
4.
Cầu nguyện cho xã hội:
Thánh Phaolô nhắc chúng ta đừng quên cầu nguyện
cho mọi người, đặc biệt cho các nhà lãnh đạo, để đất nước bình an, công lý và
hòa bình được lan rộng. Đó cũng là bổn phận công dân của chúng ta.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu không khen gian dối, nhưng khen sự khôn
ngoan biết chuẩn bị tương lai. Tương lai quan trọng nhất không phải chỉ là
nghề nghiệp hay tài chính, mà là sự sống đời đời.
Xin Chúa cho chúng ta biết :
- Sống khôn khéo bằng cách đầu tư thời gian,
sức lực cho đời sống thiêng liêng.
- Sống công bằng và liêm chính trong mọi hoàn
cảnh.
- Sử dụng của cải như phương tiện phục vụ,
không phải như ông chủ điều khiển chúng ta.
- Biết cầu nguyện và góp phần xây dựng xã hội công bằng,
bình an.
Làm được như vậy, chúng ta sẽ trở nên “người quản gia khôn khéo” trong mắt Thiên Chúa, nhờ đó ta mới xứng đáng lãnh nhận dồi dào phúc lành Chúa ban.
Thứ hai: Lc 8,16-18
Hãy nhớ: Thổi tắt nến của người
khác không làm bạn sáng hơn
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu nhắc
chúng ta về bản chất và sứ mạng đích thực của người Kitô hữu. Ta hãy lắng nghe
Lời Chúa chỉ dạy để chấn chỉnh lại đời sống của mình cho phù hợp với bản chất
và sứ vụ mà Chúa muốn.
- Nếu bản chất của chiếc đèn là
để thắp sáng, thì đức tin chính là bản chất của người Kitô hữu. Vì chúng ta
được gọi là "tín hữu".
- Còn nếu sứ mạng của chiếc đèn
là chiếu giải ánh sáng cho mọi người nhìn thấy, thì sứ mạng của người kitô hữu
là chiếu tỏa ánh sáng đức tin ấy cho mọi người nhìn thấy bằng những việc làm cụ
thể. Vì "Đức tin không có việc làm là đức tin chết. " (Gc 2,17). Mà những việc làm cụ thể ấy
chính là những việc lành, “Ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt
thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của
anh em, Đấng ngự trên trời.” (Mt 5,16).
Qua bí tích rửa tội, chúng ta
được Chúa trao ban cho ánh sáng Đức tin và kêu mời chúng ta chiếu tỏ ánh sáng
đó cho trần gian. Nhờ ánh sáng của
những việc làm vì đức tin ta mới có thể đẩy lui được những bóng tối của gian
dối, ghen ghét, hận thù, tranh chấp, chia rẽ, đau khổ và sự chết ta khỏi cuộc
sống để nhường lại cho ánh sáng của yêu thương, tha thứ, bác ái, niềm vui và sự
sống…
Nếu mỗi chúng ta tích cực thắp
lên ánh sáng của đức tin thì bóng tối của sự dữ sẽ tan biến. Ngược lại nếu ta
ích kỷ chỉ giữ lại ánh sáng cho riêng mình hay che đậy nó lại thỉ sẽ nguy hại
cho ta và cho người nên Chúa Giêsu khuyến cáo chúng ta : “vì ai có, sẽ
được cho thêm, và ai không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất” (Mc 4,
25)
Xin Chúa củng cố Đức Tin nơi mỗi
chúng ta và giúp chúng ta can đảm thắp lên ngọn lửa đức tin bằng những hành
động bác ái cho tha nhân, nhờ đó mà danh thánh Chúa được mọi người biết đến và
ngợi ca thánh danh Người. Amen.
Suy niệm 2:
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta
suy ngẫm về việc làm chứng cho đức tin. Chúa Giêsu sánh ví đức tin như một ngọn
đèn cháy sáng, và Ngài muốn chúng ta thắp sáng ngọn đèn đức tin ấy trong đời
sống hàng ngày.
Có thể nói đức tin chính là món
quà quý giá Chúa ban, nó soi sáng con đường chúng ta đi trong chân lý. Và mời
gọi chúng ta phải tỏa sáng đức tin ấy bằng những hành động cụ thể như: yêu
thương, phục vụ, kiến tạo tình hiệp nhất; sống tốt đời đẹp đạo, để trở thành
tấm gương sáng soi dẫn cho những người xung quanh.
Nhưng làm thế nào để ngọn đèn đức
tin của chúng ta luôn được cháy sáng? Thưa ta cần phải siêng năng cầu nguyện,
tiếp xúc thân tình với Chúa, qua đó ta mới kín múc được dầu ân sủng và tình yêu
Chúa ban, nhờ đó mà ngọn đèn đức tin của ta mới được tỏa sáng.
Suy niệm 3:
Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói: “Không ai thắp đèn rồi lấy hũ che lại… nhưng đặt nó trên giá đèn để
những ai đi vào đều thấy ánh sáng”. Qua hình ảnh quen thuộc đó, Chúa muốn
nhắn nhủ chúng ta 3 điều:
1. Ánh sáng của Lời Chúa và đức tin
Ngọn đèn được thắp lên để soi sáng. Lời Chúa và đức tin cũng như
thế. Đã nhận được ánh sáng thì phải để ánh sáng tỏa ra, không giấu kín. Người
Kitô hữu không chỉ được kêu gọi đón nhận ánh sáng mà còn phải trở thành “chiếc
đèn” soi sáng những giá trị Tin Mừng cho anh chị em chung quanh.
2. Cách chúng ta nghe Lời Chúa
Chúa Giêsu cảnh báo: “Anh em
hãy để ý xem anh em nghe thế nào”. Có nghe mà không sống thì ánh sáng sẽ
tắt dần, và cả điều mình tưởng là có cũng bị lấy mất đi. Nhưng nếu nghe với tâm
hồn mở rộng, Lời Chúa sẽ sinh hoa trái, và ánh sáng sẽ thêm sáng và lan rộng ra.
3. Đặt đèn trên giá, nhờ đời sống chứng tá
Đặt đèn trên giá nghĩa là sống đức tin cách rõ ràng, can đảm và cụ
thể: trong gia đình, ở nơi làm việc, trong cách cư xử hằng ngày. Đừng che giấu
đức tin, đừng ngại làm chứng cho sự thật và điều thiện.
Hôm nay Chúa mời chúng ta xem lại chính mình: Lời Chúa có thực sự
chiếu sáng trong cuộc sống tôi không? Tôi có để đèn trên giá hay đang che đèn
dưới gầm giường?
Xin cho ánh
sáng Lời Chúa chiếu soi vào tâm hồn chúng ta. Cho chúng biết lắng nghe và tích
cực sống Lời Chúa, nhờ đó mà ánh sáng đức tin và đức mến nơi ta được thắp sáng
mọi ngày ở khắp mọi nơi.
Thứ ba: Lc 8,19-21
Nhớ Thánh Pi-ô Pi-ê-tren-chi-na,
linh mục
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa
ra những điều kiện cần thiết để xứng đáng trở nên thành viên trong gia đình của
Người. Chúng ta hãy lắng nghe lời Chúa dạy và tích cực thực hiện những điều
kiện ấy để xứng đáng trở nên thành viên trong gia đình thiêng liêng của Chúa.
Nhờ tích tích rửa tội chúng ta
trở thành con Chúa và là thành viên trong GH. Nên ngoài gia đình tự nhiên được
liên hệ bằng huyết thống, chúng ta còn có một gia đình thiêng liêng, nhờ được
sinh ra trong đức tin.
Vì thế, Tin mừng hôm nay, Chúa
Giêsu khẳng định thành viên trong gia đình của Chúa chính là những người
biết “lắng nghe và thực hành Lời Chúa”.
Nếu để trở thành người con ngoan
trong gia đình tự nhiên theo huyết thống, ta phải lắng nghe và thi hành điều mà
cha mẹ và anh chị hướng dẫn, chỉ bảo. Cũng vậy, để trở thành con ngoan
của Chúa và anh chị em thật sự với nhau trong gia đình thiêng liêng của đức
tin, ta cần phải lắng nghe và thực hành Lời Chúa dưới sự hướng dẫn của GH.
Hơn ai hết, Đức Maria là người
luôn để tâm lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa trong suốt cuộc đời
mình. Nên Đức Maria trở nên kiểu mẫu cho đời sống đức tin cho chúng ta.
Khi khám phá những giọt máu trong
chiếc khăn liệm thành Turin, các nhà khoa học đã chứng minh cho biết đó là loại
máu B: Bái ái, bao dung và bình an.
Xin cho chúng ta mang lấy dòng
máu của Chúa Giêsu để ta cũng biết sống bác ái, bao dung và bình an với mọi
người, nhất là với những ai gặp đau khổ trong cuộc sống, qua việc chúng ta biết
lắng nghe và thực thi lời dạy Chúa dạy. Nhờ đó ta xứng đáng trở thành người
thân của Chúa và là thành viên trong gia đình đức tin của GH.
Suy niệm 2:
“Mẹ và anh em tôi, chính là những
ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành.”
Với lời khẳng định này của Chúa
Giêsu cho biết rằng: gia đình của Ngài không chỉ giới hạn trong quan hệ huyết
thống mà trên hết là gia đình thiêng liêng. Những người thuộc gia đình thiêng
liêng của Chúa là “những ai lắng biết nghe và thực hành Lời Chúa”.
Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc lắng nghe và sống Lời Chúa trong đời
sống Kitô hữu.
Khi chúng ta thao thức lắng nghe
và sống theo Lời Chúa dạy là dấu chỉ cho thấy tình yêu lớn lao ta dành Chúa
trong các chọn lựa của đời sống chúng ta.
Vậy chúng ta hãy dành thời gian mỗi ngày để đọc và suy niệm Lời Chúa; tích cực
tham gia vào các khóa học hỏi và chia sẻ lời Chúa. Nhất là cố gắng sống theo
những gì Lời Chúa dạy trong mọi hoàn cảnh của đời sống mình.
Xin Chúa giúp ta luôn biết yêu
thích lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành và nhiệt tình tham gia vào các khóa
học hỏi, chia sẻ Lời Chúa nơi các Họ đạo, với mong muốn Lời Chúa thấm sâu hơn
vào tâm trí chúng ta, trở nên động lực hướng dẫn toàn bộ mọi hoạt động trong
đời sống của chúng ta. Được vậy, ta mới xứng đáng trở nên thành viên trong gia
đình thiêng liêng của Chúa. Amen.
Thứ tư: Er 9,5-9; Lc 9,1-6
Suy niệm 1:
Sứ mạng quan trọng nhất khi Chúa
Giêsu đến trần gian này là loan báo Tin Mừng, mang ơn cứu độ đến cho nhân loại.
Sứ mạng ấy Chúa trao cho các tông đồ xưa và nay cho chúng ta. Xin cho chúng ta
ý thức sứ mạng quan trọng ấy để nỗ lực thi hành cho thật tốt.
Để thực hiện sứ mạng giải thoát
con người khỏi những đau khổ về thể xác và tinh thần do trói buộc bởi ma quỷ,
một mình Đức Giêsu là đủ, vì Ngài là Thiên Chúa quyền năng. Tuy nhiên, Chúa
Giêsu lại không dùng cách thế đó. Trái lại, Chúa mời gọi chúng ta cộng tác.
Cụ thể bài Tin Mừng hôm nay, Chúa
Giêsu chọn gọi 12 Tông Đồ, ban quyền trừ quỷ và chữa bệnh cho các ông và sai
các ông đi rao giảng Tin Mừng.
Khi lãnh nhận bí tích rửa tội và
thêm sức là chúng ta đã lãnh nhận quyền năng của Chúa và được mời gọi để chia
sẻ sứ mạng loan báo Tin Mừng..
Cánh đồng truyền giáo thật mênh
mông bát ngát. Chúa đã nhìn thấy lúa vàng đã chín rộ, nhưng ma quỷ lại đang phá
hoại bằng biết bao phương cách, từ bên trong (tham, sân, si), cũng như bên
ngoài (những triết lý sai lạc, những trò chơi đồi trụy, những sách báo phim ảnh độc hại ) đã len lỏi và thấm nhập
cách tinh vi vào tâm trí chúng ta.
Xin cho chúng ta biết canh tân
đời sống bản thân, làm lành mạnh hóa đời sống tâm hồn; đồng thời cũng biết canh
tân đổi mới lối sống những người chung quanh. Cụ thể là những người sống gần gũi: trong
gia đình, trong xóm làng và nơi họ đạo chúng ta.
Xin Chúa ban cho Giáo hội nhiều
tông đồ nhiệt thành để đẩy lùi sự dữ và khử trừ sự ô uế ra khỏi môi trường
chúng ta đang sống.
Lạy Chúa, Chúa biết chúng con là
những phận hèn sức yếu. Vì thế, Chúa không đòi hỏi chúng phải ra đi loan báo Tin Mừng ở những nơi xa xôi. Nhưng Chúa muốn chúng con biết tích cực gieo vãi
yêu thương và bình an cho những người gần gủi chúng con. Xin cho chúng con ý
thức và tích cực thực thi lời Chúa dạy. Amen.
Suy niệm 2:
Giống như các Tông đồ, mỗi người
Kitô hữu đều được Chúa mời gọi làm chứng nhân và rao giảng Tin Mừng bằng chính
cuộc sống của mình.
Để sai các Tông đồ ra đi thi hành
sứ mạng làm chứng và loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu đã ban cho các ông sức mạnh
và quyền phép để thực hiện sứ vụ. Chúng ta cũng vậy, qua bí tích Rửa tội và
Thêm sức, Chúa ban cho mỗi người chúng những ơn huệ cần thiết để sống đời Kitô
hữu vả khả năng làm chứng cho Tin mừng của Chúa.
Khi thi hành sứ mạng, Chúa nhắc
bảo các Tông đồ không được bám víu vào vật chất mưu cầu về tiền bạc nhưng phải
biết tin tưởng, cậy dựa vào tình thương quan phòng của Chúa. Đó cũng là điều
Chúa muốn nơi chúng ta những người môn đệ Chúa.
Tin mừng cho biết: các Tông đồ đã
ra đi rao giảng Tin Mừng và chữa lành nhiều bệnh nhân. Điều này cho thấy rằng
việc rao giảng Tin Mừng không chỉ là truyền đạt những giáo lý suông mà còn phải
mang đến niềm tin, hy vọng và sự chữa lành tâm hồn thể xác cho những người đang
gặp khó khăn.
Xin Chúa cho chúng ta lòng can
đảm để ra đi thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Chúa cho mọi người, với
lòng tin tưởng và phó thác vào bàn tay uy quyền của Chúa. Xin cho chúng ta thật
sự trở thành chứng nhân trung thành và sống động cho tình yêu của Chúa. Amen.
Suy niệm 3:
Bài đọc I cho thấy: sau khi trở
về từ lưu đày, dân Chúa ý thức tội lỗi mình nhưng đồng thời cảm nghiệm sâu xa
lòng thương xót của Thiên Chúa. Nhờ ơn đó, họ được “hồi sinh”, có đất để ở, có
Đền Thờ để phụng tự và được mời gọi sống niềm tin mới.
Bài Tin Mừng kể: Đức Giêsu ban
quyền năng cho Nhóm Mười Hai để rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh
nhân. Ngài còn căn dặn họ “đừng mang gì
đi đường”, nghĩa là hãy thanh thoát, không cậy dựa của cải hay quyền lực
trần gian, nhưng hoàn toàn tín thác vào Chúa.
Cũng như dân Israel nhỏ bé vẫn được
Chúa nâng đỡ, các môn đệ xưa và chúng ta hôm nay cũng được mời gọi đặt niềm tin
nơi Chúa khi thi hành sứ vụ. Ai không cảm nghiệm mình được Chúa cứu và yêu
thương thì khó trở thành chứng nhân cho lòng thương xót Chúa. Chính kinh nghiệm
được tha thứ, được nâng dậy làm nên sức mạnh của chứng tá.
Vì thế, khi phục vụ trong họ đạo, đoàn thể hay trong gia đình, chúng ta đừng chỉ dựa vào khả năng cá nhân, nhưng hãy đặt nền trên cầu nguyện và lòng tín thác. Hãy thường xuyên nhìn lại mình để cảm tạ vì bao lần Chúa tha thứ, nâng đỡ, để lòng ta khiêm tốn như lời cầu của Esdra. Và hãy tập sống thanh thoát, không bám víu vào tiện nghi, để nhẹ nhàng hơn trong việc phục vụ, đến với người nghèo, người đau khổ.
Xin Chúa cho chúng ta luôn tin tưởng cậy dựa vào ơn Ngài, để ra đi rao giảng Tin Mừng và chữa lành những tâm hồn đau khổ như các môn đệ xưa.
Thứ năm: Lc 9,7-9
Suy niệm 1:
Theo khuynh hướng tự nhiên mỗi
khi mong muốn gặp ai đó là vì nhớ thương, kính mến hoặc muốn học hỏi những điều
tốt đẹp nơi người ấy. Nhưng khao khát gặp gỡ Chúa Giêsu của vua Hêrôđê mà tin
mừng hôm nay trình thuật không phải thế mà chỉ là vì hiếu kỳ. Do đó ước muốn
của ông bất thành. Đó cũng chính là điều mà Chúa muốn cảnh tỉnh chúng ta
hôm nay.
Tin mừng hôm nay cho biết danh
tiếng Chúa Giêsu được nhiều người biết đến, bởi những lời giảng dạy khôn ngoan
và những phép lạ lớn lao Người đã thực hiện. Do đó dân chúng rất ngưỡng mộ và
kính trọng Người. Biết những điều đó nên vua Hêrôđê cũng mong muốn một lần diện
kiến Chúa để xác định xem Đức Giêsu là Người thế nào mà được dân chúng đồn thổi
và ngưỡng mộ đến thế! Do bởi ước muốn gặp gỡ của Vua Hêrôđê không phải là
vì thiện chí để lắng nghe và tìm hiểu chân thành mà chỉ để thỏa mãn tham vọng
bất chính như:
- Vì lo sợ, ông muốn xác định xem
Đức Giêsu có phải là Gioan Tẩy Giả mà ông đã nhẫn tâm giết chết không?
- Vì hiếu kỳ, ông muốn xem Đức
Giêsu có thực sự tài năng xuất chúng như dân chúng đồn đoán không?
- Vì muốn chấn an lương tâm bất
ổn bởi ông đã phạm quá nhiều tội ác như:
. Giết các hài nhi từ 2 tuổi trở
xuống ở Bêlem và các vùng phụ cận, khi Chúa Giêsu giáng sinh. Biến cố ấy đã gây
chấn động đất nước và đã khiến cho biết bao nước mắt của các bà mẹ phải tuôn
chảy vì khóc thương cho con mình. Tiếng thét ai oán
của bà Rakhen không ngưng nghỉ vì con bà đã bị giết chết,
đến nỗi không ai có thể khuyên can được bà.
. Cướp lấy người vợ của anh mình
là bà Hêrôđia.
. Nhẫn tâm ra lệnh chém đầu Gioan
Tẩy Giả chỉ vì lời hứa lúc cao hứng trong men say, nhân ngày sinh nhật của ông.
. Xem thường và lên án tử cách vô
tội cho Chúa Giêsu sau này.
Chính do ý muốn gặp gỡ của ông
phát xuất từ tâm địa bất chính nên mãi sau này khi Chúa Giêsu bị bắt bởi những
người Do Thái và giới lãnh đạo tôn giáo, rồi đem đến trình diện để ông xử án,
khi đó ông mới gặp gỡ được Chúa. Nhưng trong cuộc gặp gỡ ấy, ông cũng không đón
nhận được bất cứ điều gì thiện hảo từ nơi Chúa Giêsu. Bởi lẽ ngay từ đầu cuộc
gặp gỡ này đã không vì chủ đích tốt lành.
Cuộc đời của vua Hêrôđê đã gây ra
quá nhiều tội ác đã làm cho tâm hồn của ông trở nên chai đá, không còn khả năng
để sám hối và thay đổi đời sống nữa. Cho nên dù ông có gặp gỡ Chúa Giêsu đi
chăng nữa thì ông cũng không thể đón nhận được bất kỳ ân phúc từ nơi Chúa
ban.
Xin cho chúng ta luôn biết tìm
đến Chúa bằng một tấm lòng chân thành khiêm tốn với ước muốn được đón nhận ơn
tha thứ và lời chỉ dạy khôn ngoan của Người. Nhờ đó ta mới có thể đón nhận được
những ơn lành cần thiết Chúa ban mà biến đổi đời sống nên tốt đẹp hơn.
Suy niệm 2:
Đoạn Tin Mừng hôm nay kể về sự tò
mò của vua Hêrôđê khi nghe tin về những phép lạ của Chúa Giêsu đã làm. Ông phân
vân không biết Đức Giêsu là ai, bởi có nhiều nguồn tin nhận định về Đức Giêsu.
Có người nói Ngài là Gioan Tẩy Giả sống lại, có người cho rằng Ngài là Êlia
hoặc một vị ngôn sứ thời xưa.
Thực tế cho thấy tò mò là một
phần của bản tính con người. Chúng ta thường muốn tìm hiểu về những điều mới
lạ, những sự kiện bí ẩn. Tuy nhiên, sự tò mò của Hêrôđê mang một sắc thái khác.
Đó là sự tò mò pha lẫn sợ hãi và hoang mang vì ông đã từng giết hại Gioan Tẩy
Giả.
Sự tò mò của Hêrôđê đã buộc ông
phải đối diện với chính mình và những hành động sai trái trong quá khứ. Câu
chuyện này nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của việc đối diện với lương tâm
và sửa đổi những lỗi lầm.
Xin Chúa cho chúng ta biết tò mò
tìm kiếm chân lý, sự thật nhưng không vì sợ hãi nhưng để hiểu rõ và tin nhận.
Nhất là cho chúng ta có lòng can đảm dám đối diện với những sai lầm của mình mà
hoán cải đời sống. Amen.
Thứ sáu: Lc 9,18-22
Thánh Cót-ma và Thánh Đa-mi-a-nô,
tử đạo.
Người ta thường ví vườn hoa không có hoa nở, không phải là vườn
hoa. Trong nhà, không có tiếng khóc của trẻ con, nhà đó không
vui nhộn. Lồng chim, không có chim là lồng chim chết. Giáo Hội
được kết tinh, nở rộ bằng nhiều thành phần dân Chúa. Hội Thánh vì là thánh
nên mọi người đều được mời gọi nên thánh. Bầu trời Giáo
Hội xinh đẹp, lộng lẫy là do có nhiều vị thánh tô điểm, bồi
đắp nên Thánh....đã góp phần tô điểm cho vườn hoa Giáo hội thêm mầu,
thêm sắc và thêm hương cho vườn hoa GH.
Theo truyền thuyết thánh Cos-ma và Đa-mi-a-nô là hai anh em sinh đôi. Sinh
tại Ả rập. Các ngài sớm mồ côi cha. Mẹ các ngài là một góa phụ nhân đức, đã
không tiếc gì để giáo dục con cái về trí thức và đạo đức. Bà gửi hai con theo
học ở Sy-ri-a. Tại đây Cos-ma và Đa-mi-a-nô nổi tiếng là lương thiện, vô vị lợi
và trong trắng. Nhiệt thành với đức tin, các ngài dự tính học nghề thuốc. Khoa
này vào thời ấy bị coi rẻ. Nhưng các ngài tin rằng khi chữa lành thể xác con
người các ngài có thể góp phần vào việc chữa trị tật bệnh linh hồn.
Thiên Chúa đã chúc lành cho dự tính của các ngài và ban cho các ngài được
thông thạo về nghề thuốc. Chữa bệnh hoàn toàn miễn phí, các ngài càng ngày càng
trở nên danh tiếng vì những cuộc chữa lành nhờ lời cầu nguyện. Những cuộc chữa
lành lạ lùng này lôi cuốn được nhiều người, kể cả các lương dân đến với các
ngài. Tuy nhiên, chính vì tiếng tăm lừng lẫy này đã đưa tới cái chết vì đạo của
các ngài.
Các hoàng đế Đi-ôc-lê-ti-a-nô và Ma-xi-mi-a-nô quyết tận diệt Kitô giáo, đã
sai tổng trấn Lysias đến Ege để ép buộc các Kitô hữu phải dâng hương tế thần.
Ai không tuân lệnh sẽ bị sát hại.
Các lương dân tố cáo với quan tổng trấn rằng có hai người rất thạo nghề
thuốc nhưng lại là thù địch chí tử của các thần minh. Nếu họ tiếp tục hành nghề
các đền thờ sẽ trống vắng và cả nước sẽ theo Kitô giáo hết. Nghe tin này quan
tổng trấn truyền bắt giam hai ngài. Sau khi bắt các ngài phải dâng hương tế
thần mà không được, ông ra lệnh hành hạ các ngài. Nhờ ơn Chúa, hai thánh Cos-ma
và Đa-mi-a-nô đã nhẫn nại chịu đựng, lại còn tỏ ra hân hoan nữa. Quan lính trói
các ngài rồi bỏ xuống biển, nhưng các thiên thần đã đến tháo cởi xiềng xích và
cứu các ngài bình an vô sự.
Nghe tin này, quan tổng trấn truyền lập giàn thiêu. Nhưng giữa ngọn lửa
cháy bừng, hai thánh nhân vẫn không hề hấn gì. Cuối cùng quan tổng trấn ra lệnh
xử trảm. Hai thánh Cos-ma và Đa-mi-a-nô khẩn khoản nài xin Chúa thương nhận lễ
dâng của các ngài. Lần này các ngài được nhận lời. Sau những nhát chém đầu
tiên, đầu các ngài lìa xác và nhận phúc tử đạo.
Danh tiếng của hai thánh Cos-ma và Đa-mi-a-nô lan tràn khắp Giáo hội vì
những cuộc chữa lành bệnh tật do các ngài thực hiện. Hoàng đế Jus-ti-nô I
khuyến khích lòng sùng kính hai thánh nhân. Một nguyện đường được xây dựng ở
Aege miền Cilicia để ghi nhớ nơi các ngài chịu chết vì đạo. Tại Rôma, Đức
Sym-ma-chô (498 - 514) xây nguyện đường. Đức Felix IV (526 - 530) xây một đại
giáo đường kính các ngài. Cùng với thánh Luca, hai thánh Cos-ma và
Đa-mi-a-nô được đặt làm thánh bổn mạng các y sĩ và các nhà giải phẫu.
(Trích: Theo Vết Chân Người, Lm. Phaolô Phạm Quốc Túy)
Suy niệm 1:
Hôm nay thứ sáu, GH có thói quen
tưởng nhớ mầu nhiệm tình yêu thập giá. Nơi thập giá ấy thánh tâm CG bị đâm
thâu, máu và nước tuôn chảy đến giọt cuối cùng vì yêu nhân loại chúng ta. Máu
và nước thánh của Chúa trào tuôn để tẩy gột tội lỗi chúng ta và trào tràn ân
sủng qua các bí tích cứu độ chúng ta.
Xin cho chúng ta biết đặt trọn
niềm tin vào Đức Giêsu Kitô là Chúa của tình yêu và sẵn sàng bước theo Ngài
trên con đường tự hiến trong yêu thương và phục vụ nhằm thánh hóa bản thân và
đem lại ích lợi cho tha nhân.
Đức Giêsu là ai? và con đường
thực thi sứ mạng của Ngài là gì? Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn nói với các môn
đệ và với chúng ta qua đoạn Tin mừng hôm nay.
Sau một thời gian rao giảng thi
hành sứ vụ đó đây, hôm nay Chúa Giêsu muốn làm một cuộc thăm dò có tính cách xã
hội học. Nên Ngài phỏng vấn các môn đệ xem dư luận người ta bảo Thầy là ai?
Theo nghe ngóng đây đó, các môn
đệ thấy có 3 luồng đánh giá về Thầy Giêsu.
Số người thì cho là Gioan Tẩy
Giả, bởi lẽ Chúa Giêsu cũng có đời sống khắc khổ chay tịnh và mạnh mẽ lên án
lối sống giả hình của người Pharisêu giống như lời rao giảng sám hối của Gioan Tẩy Gỉa. Một số người khác thì cho Ngài là Êlia, bởi Ngài cũng làm phép lạ tựa như Êlia xưa kia. Cũng có một số người xem Ngài là
một vị tiên tri nào đó, vì họ đã nghe Ngài rao giảng và đã tiên báo
về những vấn đề xảy ra gtrong tương lai như các tiên tri khác.
Nhưng có lẽ điều quan tâm nhất đối với Chúa Giêsu là các môn đệ hiểu về Ngài như thế nào? May mắn thay, Phêrô đã thay mặt anh em tuyên xưng đúng như Ngài là: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại ngăn cấm các ông không được nói điều ấy với bất cứ ai cả, và rồi Người mạc khải về con đường thương khó mà Người phải đi, để hoàn thành sứ mạng cứu độ theo thánh ý Chúa Cha.
Qua lời loan báo này, Chúa
Giêsu rất muốn các môn đệ và dân chúng phải hiểu đúng về vai trò đích thực
“Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Đó là một Đấng Kitô cứu độ con người bằng con đường
yêu thương:
- Chính vì yêu thương thế gian
nên Chúa Giêsu đã chấp nhận từ bỏ vinh quang và quyền thế của một vị Thiên Chúa
tối cao để nhập thể làm người, ngoại trừ tội lỗi; đến nỗi những người Do Thái
sống cùng thời với Người không nhận ra Thiên tính đích thực của Người.
- Cũng vì quá yêu con người tội
lỗi chúng ta, Chúa Giêsu đã chấp nhận đi vào con đường khổ nạn, đón lấy cái
chết đau thương trên thập giá để cứu độ chúng ta theo thánh ý của Chúa Cha.
Xin cho chúng ta cảm nhận được
tình thương lớn lao của Chúa, để ta biết nỗ lực sống xứng đáng với tình yêu ấy,
cho dẫu phải đối mặt với bao gian nan thử thách trong cuộc sống hàng ngày.
Suy niệm 2:
Bài Tin Mừng hôm nay đặt ra
một câu hỏi sâu sắc cho mỗi người chúng ta: "Người ta bảo Thầy là
ai? Còn các con bảo Thầy là ai?". Câu hỏi này không chỉ đơn thuần là
một câu hỏi về kiến thức, mà còn là một lời mời gọi chúng ta suy tư sâu sắc về
đức tin của mình.
Đối với dân chúng có nhiều quan
niệm khác nhau về Chúa Giêsu. Họ cho rằng Người là Gioan Tẩy giả sống lại, là
Êlia hoặc một tiên tri nào đó. Những quan niệm này phần nào phản ánh những mong
đợi và hy vọng của họ về một vị cứu tinh.
Đối với các môn đệ, cụ thể là với
tông đồ Phêrô: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa". Lời
tuyên xưng này không chỉ dựa trên những suy luận lý trí, mà còn là kết quả của
một trải nghiệm sâu sắc về tình yêu và ơn sủng của Chúa.
Tuy nhiên, ngay sau đó, Chúa
Giêsu lại loan báo cho các môn đệ biết về con đường thập giá mà Người sắp phải
đi qua. Điều này cho thấy rằng đức tin đích thực không phải là một lý thuyết
trừu tượng, mà là một cuộc sống gắn liền với đau khổ và hy sinh.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng
ta:
- Phải thường xuyên đối
chiếu đức tin của mình: Chúng ta có thực sự hiểu rõ về Chúa Giêsu hay
không? Đức tin của chúng ta có dựa trên những kinh nghiệm cá nhân và sự hướng
dẫn của Giáo Hội hay không?
- Phải sẵn sàng đối diện với thử
thách: Đức tin sẽ
được thử thách trong những lúc khó khăn. Chúng ta có đủ mạnh mẽ để giữ vững đức
tin của mình trước những áp lực từ xã hội hay những cám dỗ của thế gian không?
- Phải trở nên chứng nhân
của Chúa Kitô: Chúng ta được mời gọi làm chứng cho tình yêu của Chúa
Kitô bằng lời nói và việc làm. Điều này có nghĩa là chúng ta phải sống một cuộc
đời khiêm tốn, phục vụ và yêu thương tha nhân.
“Còn các con bảo Thầy là ai?"
vẫn luôn là một câu hỏi cấp bách đối với mỗi người Kitô hữu chúng ta. Để trả
lời câu hỏi này, chúng ta cần phải không ngừng tìm kiếm Chúa trong cầu nguyện,
trong Lời Chúa và trong các bí tích. Chúng ta cũng cần phải sống một cuộc đời
chứng tá, để cho những người xung quanh thấy được tình yêu của Chúa Kitô.
Thứ bảy: Lc 9,43b-45
Nhớ Thánh Vinh Sơn Đệ Phaolô,
Linh Mục
Thánh Au-gus-ti-no từng nói: "Tình yêu có đôi chân đi đến với người
nghèo. Tình yêu có đôi mắt để thấy bất hạnh và thiếu thốn. Tình yêu có đôi tai
để nghe được tiếng than thở của tha nhân". Điều này đã được thánh Vinh Sơn
Phao-lô minh chứng rõ nét qua những việc làm bác ái cụ thể trong đời sống của
ngài.
1. Đôi dòng tiểu sử
Vinh Sơn đệ Phao-lô sinh ngày 24 tháng 4 năm 1580, là một vị thánh của
Giáo Hội Công Giáo Rô-ma. Ngài sinh tại Pouy, Landess,
Gascony, nước Pháp trong một gia đình nông dân nghèo khó. Lễ kính
ngài trước đây là ngày 19 tháng 07 nhưng hiện nay được cử hành vào ngày giỗ của
ngài 27 tháng 9 hàng năm.
Vinh Sơn thụ phong linh mục năm 1600 và lưu trú tại Toulouse cho
đến khi đi Marseille để nhận thừa kế. Trên đường về từ Marseille, ngài bị người
Turk cướp và bắt cóc đưa đi Tunis và bị bán làm nô lệ. Sau khi cảm hoá người
chủ để trở thành một Kitô hữu, linh mục Vinh Sơn được trả tự do vào năm 1607.
Sau đó, ngài quay trở lại Pháp và nhận nhiệm sở tại một giáo xứ gần Pa-ris.
Ngài đã thành lập các dòng từ thiện như Tu Hội Nữ Tử Bác Ái, với sự cộng
tác của bà Louise de Marillac, và Tu hội Truyền giáo hay còn được gọi là
La-za-rist.
Khi được vua Louis XIII bổ nhiệm làm Tổng Tuyên úy của những tù nhân khổ
sai chèo thuyền chiến, ngài có cơ hội để cải thiện đời sống những tù nhân ở
Pháp.
Thánh Vinh Sơn Phaolô qua đời ngày 27 tháng 9 năm 1660 tại Pa-ris thọ
80 tuổi.
Vào năm 1705 tu viện trưởng Tu hội Truyền giáo La-za-rists đề nghị tiến
hành hồ sơ phong thánh cho đấng sáng lập. Vào ngày 13 thánh 8 năm 1739, Vinh
Sơn Phao-lô đã được Đức Giáo Bê-nê-đic-tô XIII phong chân phước, và ngày
16 tháng 6 năm 1737 ngài được Đức Giáo Hoàng Clêmentê XII phong ngài lên hàng
hiển thánh. Năm 1885 Đức Giáo Hoàng Lê-ô XIII đặt ngài làm bổn mạng hội Nữ tu
sĩ Bác ái. Đồng thời ngài cũng trở thành thánh bổn mạng của hội Nam tu sĩ Bác
ái.
2. Những nét nổi bật trong đời sống
+ Đầu tiên là việc phục vụ cho những người nghèo khó: Cuộc
đời của Ngài, ngay từ hồi còn thơ ấu đã nổi rõ nét là một con người đầy vị tha,
bác ái và hay thương xót những kẻ nghèo khó. Chính vì thế, Thánh Vinh Sơn
Phao-lô đã luôn rao giảng lòng thương xót của Chúa và sống chứng nhân tình yêu
của Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời.
Dù với bất cứ chức vụ nào: Bề trên Dòng Thăm Viếng, Bề Trên Tu Hội triều
hay trong cương vị của một mục tử, thánh Vinh Sơn Phaolô đã luôn chu toàn trách
vụ cách hết sức khôn ngoan. Ngài yêu thương các người nghèo khó, những kẻ đau
khổ, những kẻ lao động vất vả, đặc biệt Ngài lưu tâm đến việc giáo dục các
thiếu nữ. Lời Chúa trong bài giảng tám mối phúc thật (x. Mt chương 5), đã được
Ngài thực hiện cách tận căn: đi và dậy người ta bước đi trên con đường hiến
chương nước trời. Ngài đã sống tận cùng lời Chúa: "cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, thăm viếng kẻ
bị tù đầy v.v..." (x. Mt chương 25).
Chúa đã dậy mọi người bài học yêu thương. Yêu thương tận cùng và yêu thương
không ngừng. Chính Chúa đã sống tận cùng sự yêu thương bằng cái chết trên thập
hình. Chết mới nói lên lời. Trên thập giá, Chúa đã nói lên tất cả: yêu thương
và tha thứ. Chúa đã trở nên nghèo, để sống với người nghèo. Thánh Vinh Sơn
Phaolô đã yêu thương người nghèo, những kẻ bơ vơ vất vưởng, đầu đường xó chợ,
không nhà không cửa. Theo gương Chúa, Thánh Vinh Sơn Phao-lô đã luôn cứu giúp
người nghèo, sống như người nghèo trong việc phục vụ, lao động để gần gũi với
Chúa. Phục vụ người nghèo là phục vụ Chúa. Sống như người nghèo là sống như
Chúa. Gặp gỡ người nghèo là gặp gỡ Chúa.
+ Thứ đến là lo cho những người nghèo khó có các mục tử coi
sóc: Năm 1625, ngài đã sáng lập Tu hội “Linh mục thừa sai” để
giúp đào tạo các giáo sỹ theo tinh thần công đồng Trente, và nâng đỡ những
người nghèo, đặc biệt là những người nghèo ở vùng quê. Như vậy, công việc giúp
đỡ người nghèo của thánh nhân đã hội tụ được những nguồn lực có tính quyết định
cho cả lộ trình đồng hành với người nghèo của ngài. Việc phục vụ những người
nghèo khó theo tinh thần Tin Mừng đã trở thành một linh đạo sống cho những ai
muốn hiến thân phục vụ người nghèo trong Chúa Kitô.
Theo Ngài, con đường nên thánh phải được khởi đi từ việc nhận ra hiện
thân của Con Thiên Chúa, Đấng đã muốn là người nghèo: “… Chính chúng ta
phải cảm nghiệm được điều đó, cũng như phải xử sự như Đức Kitô là quan tâm đến
những người nghèo túng, an ủi, giúp đỡ và bảo lãnh cho họ… Quả thật, Đức Kitô
đã muốn sinh ra là người nghèo, đã kết nạp những người nghèo làm môn đệ. Người
đã trở thành kẻ phục vụ người nghèo, nên đã chia sẻ thân phận của họ…”
Việc phục vụ người nghèo đối với Thánh nhân, không phải theo một vài hình
thức ban ơn phô trương, mà phải được xuất phát từ chính con tim biết hiểu
hoàn cảnh của họ mà thông cảm với họ. Sao cho tâm hồn chúng ta cũng rung động
như Thánh Phao-lô tông đồ, khi Người nói: "Tôi trở nên tất cả cho mọi người…”
Đức ái với những người nghèo trong linh đạo của thánh Vinh Sơn Phaolô còn hệ
tại ở việc hành động phục vụ và nhận biết những nhu cầu cấp thiết nơi những
người nghèo: “phải ưu tiên phục
vụ người nghèo, không được trì hoãn… Vậy khi chị em bỏ đọc kinh nguyện để giúp
đỡ người nghèo thì hãy nhớ rằng, đó là chị em phục vụ Thiên Chúa” (Kinh
Sách, Các bài đọc).
Cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta một tấm gương sáng trong việc phục vụ những
người nghèo khó mà Chúa luôn yêu thương họ.
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
* Tóm tắt cuộc đời
Thánh Vinh Sơn Phaolô, Linh mục:
- Sinh tại: nước Pháp năm 1581
- Năm 19 tuổi: chịu chức Linh mục
- Khoảng năm 40 tuổi: làm bề trên dòng Thăm Viếng.
- Năm 44 tuổi, ngài đã sáng lập Tu hội “Linh mục thừa sai” để
giúp đào tạo các giáo sỹ theo tinh thần công đồng Trente, và nâng đỡ những
người nghèo, đặc biệt là những người nghèo ở vùng quê.
- Năm 52 tuổi lập tu hội Truyền Giáo và Tu hội
Nữ Tử Bác Ái.
- Ngày 27 tháng 9 năm 1660 ngài qua đời tại Pa-ris thọ 80 tuổi.
- Ngày 16 tháng 6 năm 1737 ngài được Đức Giáo Hoàng Clêmentê XII phong ngài
lên hàng hiển thánh.
- Năm 1885 Đức Giáo Hoàng Lê-ô XIII đặt ngài làm bổn mạng hội Nữ tu sĩ Bác
ái. Đồng thời ngài cũng trở thành thánh bổn mạng của hội Nam tu sĩ Bác ái.
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu loan
báo lần thứ 2 về cuộc khổ nạn của Người. Nhưng các tông đồ không hiểu hay không
muốn hiểu vì những lời loan báo của Chúa Giêsu đi ngược lại với những gì các
ông mong ước. Xin cho chúng ta hiểu rằng muốn đạt đến vinh quang phải trải qua
con đường thập giá.
Kinh nghiệm cho thấy, mỗi người
có những sở thích hay “gu” khác nhau về: ăn mặc, giải trí, nghề nghiệp, bạn bè
và lý tưởng…
Có thể nói “gu” của các tông đồ
là được sung sướng, được ca tụng, được vinh dự… Do đó không lạ gì khi Chúa
Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài “Con người sẽ bị nộp vào tay người
đời...”, các tông đồ đều không thích nên không hiểu hay không muốn
hiểu vì không phải là “gu” mà các ông mong muốn.
“Gu” các tông đồ muốn là được làm
lớn, lãnh đạo và đứng đầu nên có lần các ông đã tranh cải với nhau xem ai là
người lớn nhất. “Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước
Trời?” (Mt 18,1).
“Gu” mà các tông đồ là mong muốn
tận hưởng được một cuộc sống giàu sang, sung sướng, quyền thế nên sau khi Chúa
Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn lần thứ nhất, tông đồ Phêrô can ngăn và đã bị
Chúa Giêsu quở trách nặng lời: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cớ cho Thầy
vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết
những sự thuộc về loài người." (Mt 16,22).
“Gu các tông đồ là muốn thống trị
và buộc mọi người phải tùng phục mình, nên có lần ông Giacôbê và Gioan đã xin
Chúa Giêsu sai lửa trời xuống để thiêu hủy làng Samaria vì không đón tiếp thầy
trò các ông.“Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu
hủy chúng nó không?”. (Lc 9,54).
“Gu” các tông đồ là muốn chiếm
hữu độc quyền về đặc sủng của Chúa nên không muốn cho bất cứ ai được làm phép
lạ như Thầy mình. “Ông Gioan nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy
danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng
ta." (Mc 9, 38).
Tóm lại “gu” của các tông đồ khi
theo Chúa Giêsu là vì quyền lực, thống trị và tận hưởng vinh quang phú quý. Vì
thế những gì đi ngược lại “gu” ấy đều nằm ngoài tai của các ông.
Rất có thể “Gu” của các tông đồ
cũng là “gu” của chúng ta. Nhưng chúng ta phải hiểu rằng: Nước mắt và nụ
cười, đau khổ và hạnh phúc luôn đan xen vào nhau, dệt nên tấm thảm cuộc đời.
Chính Chúa Giêsu đã chấp nhận đi vào trần gian và sống kiếp người như chúng ta
ngoại trừ tội lỗi. Người sẵn sàng vâng phục thánh ý của Chúa Cha để bước đi
trên con đường thập giá để cứu độ nhân loại. Nên những ai muốn đạt đến đỉnh
vinh quang và hạnh phúc đích thực thì không thể đi con đường nào khác ngoài con
đường mang tên Giêsu theo như lời mời gọi của Người: “Ai muốn theo
Thầy, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16,24).
Xin cho chúng ta biết từ bỏ “gu”
của ta để đón nhận theo “gu” Chúa bằng cách yêu mến đón nhận vác
thập giá mình đi theo Chúa, nhờ đó mới xứng đáng trở thành môn đệ của Người. Đức Maria
đã chấp nhận đi vào con đường “xin vâng”, sẵn sàng đón nhận thập giá cùng với
con mình là Đức Giêsu. Nhờ đó mẹ đã được Chúa ân thưởng vinh quang rực rở trên
trời và được người thế chúc tụng tôn vinh muôn thế hệ.
Suy niệm 2:
1. Đoạn Tin Mừng hôm nay nhấn
mạnh đến sự tương phản:
- Giữa niềm vui và nỗi đau: Trong
khi mọi người xung quanh đang kinh ngạc trước những phép lạ của Chúa đã làm,
thì lúc ấy Chúa Giêsu lại loan báo về cuộc khổ nạn sắp xảy đến với Ngài. Sự
tương phản này cho thấy cuộc sống đức tin không chỉ là những niềm vui, mà còn
có những đau khổ và mất mát, đòi hỏi chúng ta phải đối diện trong cuộc sống
hàng ngày.
- Giữa hiểu biết và mù quáng: Các
môn đệ là những người thân cận với Chúa Giêsu nhất, nhưng các ông lại không
hiểu được ý nghĩa của những lời của Thầy mình tiên báo. Điều này cho thấy, đôi
khi, chúng ta có thể ở rất gần Chúa, nhưng lại không thực sự hiểu được ý định
của Ngài.
2. Lời mời gọi của Chúa:
- Khi đối diện với khó
khăn: Chúng ta hãy nhớ đến lời Chúa Giêsu và tìm đến Ngài để được an
ủi và nâng đỡ.
- Khi cảm thấy mù quáng: Hãy
cầu xin Chúa ban cho chúng ta đôi mắt đức tin để nhìn thấy những điều mà mắt
thường không thể nhìn thấy.
- Khi chia sẻ Tin Mừng: Chúng
ta hãy luôn nhớ rằng, con đường đi theo Chúa không chỉ là con đường của niềm
vui, mà còn là con đường của thập giá.
Xin giúp chúng ta luôn nhớ đến những lời dạy của Chúa. Đặc biệt là khi chúng ta phải đối diện với những khó khăn trong cuộc sống, xin cho chúng ta có đủ đức tin để tin tưởng vào tình yêu của Chúa mà sẵn sàng vác thập giá bước theo Chúa đến cùng. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét