Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 6 tháng 6, 2024

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN X THƯỜNG NIÊN

Lm. Nguyệt Giang

CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN-B

St 3,9-15; 2Cr 4,13-5,1; Mc 3,22-30

Suy niệm 1: 

Người Việt có câu: “Yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười”.  Đây là câu tục ngữ, có ý nói khi yêu thương, quý mến nhau thì dành cho nhau những lời vun vén đầy đặn và trao tặng cho nhau những thứ ngon ngọt; còn khi đã ghét nhau thì sẵn sàng lên án, chỉ chích loại trừ nhau; cư xử với nhau nhạt nhẽo và đắng lòng.

Tin mừng hôm nay cho biết các Kinh sư vì thù ghét Chúa Giêsu nên họ đã tìm mọi cách để bôi xấu hạ thấp uy tín của Người. Ngay cả những thực tại chân lý mà họ cũng cố tình bẻ cong và gán ghép những điều phi lý áp đặt lên Chúa Giêsu nhằm hãm hại Ngài.

Khi tận mắt chứng kiến những phép lạ chữa bệnh và trừ quỷ Chúa Giêsu làm, phần đông dân chúng vui mừng ngợi khen và tôn vinh, bên cạnh đó lại có những người vì sợ mất chỗ đứng và uy tín nên đem lòng ghen tỵ và tìm mọi cách để vu khống nhằm hạ bệ Người.

Cụ thể Tin mừng hôm nay, các Kinh sư đã phao tin ác ý rằng Chúa Giêsu đã bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám, nên Ngài đã dùng uy thế của quỷ vương để trừ khử những quỷ nhỏ, với mục đích làm lung lạc đức tin của dân chúng hầu lôi kéo niềm tin đám đông về phía họ mà loại trừ Đức Giêsu.

Trước lời vu khống, bịa đặt thiếu nền tảng ấy, Chúa Giêsu đã nhanh chóng đưa ra những luận cứ hết sức thuyết phục,  giúp dân chúng nhận ra giả tâm của họ.

Thứ nhất: “Đòan kết là sức mạnh và là điều kiện chính để sinh tồn”, nên Satan không thể chống đối lẫn nhau. “Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nào tự chia rẽ thì sẽ đổ xuống. Nếu Satan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?”. Bởi thế cho rằng Chúa Giêsu dựa thế Beelzebul mà trừ quỷ câm là không đúng.

Thứ hai: Để tạo nên sức mạnh chống lại Thiên Chúa và hãm hại con người, ma quỷ không ngu dại gì mà làm hại thuộc hạ của nó. Bởi thế việc Chúa Giêsu trừ quỷ không phải là dựa vào thế của quỷ vương. Nếu việc đó không do quỷ vương thì do đâu? Thưa do một quyền lực mạnh hơn ma quỷ, tức là Thiên Chúa.

- Sau cùng Chúa dùng hình ảnh kẻ cướp tấn công chủ nhà để lấy của và cho thấy rằng chỉ khi kẻ cướp mạnh hơn chủ nhà thì mới không chế và tước hết của cải của chủ nhà, bằng không nó sẽ bị chủ nhà tước lấy vũ khí và loại trừ. Như thế qua lời giải thích của Chúa Giêsu minh chứng cho biết Đức Giêsu chính là Thiên Chúa đang hiện diện giữa nhân loại.

Tuy nhiên, ma quỷ vốn là các Thiên Thần đã sa ngã vì phản nghịc lại Thiên Chúa, nên tự sức con người không thể chống trả lại những mưu mô của ma quỷ, chỉ khi nào con người nương tựa vào sức mạnh và quyền năng Thiên Chúa thì con người mới có thể vượt thắng được sức mạnh khống chế của ma quỷ. Do đó, chúng ta cần phải nương tựa vào quyền năng của Chúa nơi Đức Giêsu Kitô.

Qua đây, Chúa Giêsu cũng cảnh báo với những ai cố tình chối bỏ chân lý và sống chai lì trong tội lỗi thì không thể được TC tha thứ. Chúa cũng cho biết đó chính là tội xúc phạm đến Chúa Thánh Thần. Cố tình chối bỏ chân lý để sống trong tội lỗi cũng đồng nghĩa với tội loại trừ Chúa Thánh Thần ra khỏi tâm hồn mình vì thế không xứng đáng được Chúa tha thứ.

Sở dĩ những người Biệt Phái không tin nhận phép lạ của Chúa Giêsu thực hiện là vì họ ganh ghét Ngài. Lòng ganh tỵ, ghen ghét làm cho con người trở nên mù quáng, không còn khả năng nhận ra chân giá trị của sự thật nữa. Khi nuôi dưỡng hận thù trong lòng, người ta dễ dàng tìm cách để boi xấu nhằm hãm hại người khác. Nhưng sự thật vẫn là sự thật. Cố tình che đậy và không mở lòng đón nhận chỉ làm thiệt hại và gây bất an, đau khổ cho chính bản thân mình mà thôi.

Câu chuyện: Có một con đại bàng ganh tị với một con đại bàng khác vì con này bay cao hơn nó. Một hôm con đại bàng ganh tị gặp một xạ thủ. Nó xúi anh bắn hạ đối thủ của nó. Chàng xạ thủ đáp: “Được. Nhưng tôi không có tên.” Con đại bàng nhổ một cọng lông cánh đưa cho chàng xạ thủ làm tên. Nhưng chàng bắn hụt. Vì quyết tâm hại đối thủ của mình, con đại bàng ganh tị lại nhổ thêm một cọng nữa, rồi một cọng nữa… cho tới khi hai cánh nhỏ trụi nhẵn. Nó không bay được nữa. Chàng xạ thủ không bắn được con kia nên bắt lấy con đại bàng trụi cánh về làm thịt. Nếu bạn ganh tị muốn hại ai thì rốt cuộc bạn chỉ tổ hại chính bản thân mình.

Xin cho chúng ta biết can đảm loại trừ khỏi tâm hồn mầm móng của ganh tỵ, ghen ghét để ta có được cái nhìn trong sáng mà nhận ra sự thật và chân lý; đồng thời cũng cho chúng ta biết can đảm sống và làm chứng cho sự thật và chân lý theo sự hướng dẫn và thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.


Suy niệm 2:

Anh chị em thân mến,

Phụng vụ lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về gia đình của Thiên Chúa, nơi mà mọi người được kết nối với nhau bởi tình thương và sự hiệp thông.

Gia đình Thiên Chúa không chỉ giới hạn trong những người cùng huyết thống, mà còn rộng mở cho tất cả những ai tin vào Chúa Giêsu và sống theo lời Người.

1. Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh của Người (Bài đọc 1)

Bài đọc 1 trích sách Sáng Thế, thuật lại câu chuyện A-đam và E-va sa ngã trong vườn địa đàng. Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh của Người, ban cho họ tự do và trách nhiệm. Tuy nhiên, A-đam và E-va đã không vâng lời Thiên Chúa, dẫn đến hậu quả là họ bị trục xuất khỏi vườn địa đàng và phải chịu cảnh đau khổ, bệnh tật và sự chết.

Câu chuyện này cho chúng ta thấy rằng con người vốn được tạo dựng để sống trong tình yêu thương và sự hiệp thông với Thiên Chúa. Tuy nhiên, do tội lỗi, con người đã đánh mất mối quan hệ này và phải chịu hậu quả.

2. Chúa Giêsu lập nên gia đình mới (Phúc Âm)

Phúc Âm hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu tuyên bố những ai làm theo ý muốn của Thiên Chúa là anh chị em và mẹ của Người.

Qua lời tuyên bố này, Chúa Giêsu muốn mở rộng gia đình của Người không chỉ giới hạn trong những người cùng chung huyết thống, mà còn rộng mở cho tất cả những ai tin vào Người và sống theo lời Người.

Gia đình mới này được lập nền trên nền tảng tình yêu thương và sự hiệp thông. Trong gia đình này, mọi người được đối xử bình đẳng, được yêu thương và trân trọng.

3. Lời kêu gọi (Bài đọc 2)

Thánh Phaolô trong bài đọc 2 khích lệ chúng ta sống xứng đáng với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi noi gương Chúa Giêsu, sống yêu thương, tha thứ và phục vụ người khác.

Kết luận:

Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta ý thức về vai trò của mình trong gia đình Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi sống yêu thương, tha thứ và phục vụ người khác, góp phần xây dựng gia đình Thiên Chúa ngày càng vững mạnh và hạnh phúc.

Xin cho chúng ta biết sống xứng đáng với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa, đó là biết yêu thương, tha thứ và phục vụ người khác, góp phần xây dựng gia đình Thiên Chúa ngày càng vững mạnh và hạnh phúc. Amen.

 

Thứ hai: Mt 5, 1-12

Ở đời luôn có hai mặt thật và giả. Hạnh phúc cũng vậy. Có những thứ đem đến cho con người hạnh phúc thật. Tuy nhiên cũng có những thứ chỉ đem đến cho con người hạnh phúc giả tạo, không bền lâu. Điều nghịch lý là ai cũng mong muốn có được hạnh phúc thật, nhưng rồi lại thích đi tìm những thứ chỉ mang đến hạnh phúc giả tạo, chóng qua.

Xã hội ngày nay, nhiều người cho rằng hạnh phúc là có 1,2,3,4,5: một là vợ đẹp, hai là con ngoan, ba là nhà 3 tấm, bốn là xe 4 bánh và năm là du lịch 5 châu. Thế nhưng thực tế cho thấy, khi đạt được những điều mong ước ấy, con người vẫn không tìm thấy hạnh phúc thật. Như thế thì tiền bạc của cải, vật chất tiện nghi, đam mê lạc thú nơi trần gian không lấp đầy được khát vọng sâu xa nơi cõi lòng con người và không là phương thế đưa đến hạnh phúc thật. Vậy ta phải làm gì để có hạnh phúc thật?

Bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta biết những phương cách để đạt đến hạnh phúc đích thực thật, đáp ứng được những khát vọng sâu xa nơi cõi lòng chúng ta. Đó chính là bước đi trên con đường 8 mối phúc thật. Điều đáng nói là con đường 8 mối phúc thật mà Chúa Giêsu đề ra hình như đi ngược lại với suy nghĩ thực dụng của con người thời nay và lắm khi trở thành xa lạ ngay cả đối với người Kitô hữu chúng ta. Vì con người thời nay vẫn còn bám víu quá nhiều vào tiền bạc, của cải, danh vọng, lạc thú... nên không dám chấp nhận những phương cách mà Chúa Giêsu đề ra: là sống tinh thần khó nghèo, chấp nhận từ bỏ, đón nhận đau khổ và hy sinh vì chính đạo để phục vụ tha nhân và nước Chúa.

Con đường 8 mối phúc không phải là viễn vong, mơ hồ hay bất khả thi nhưng là con đường chính đạo. Bởi vì chính Chúa Giêsu Đức Giêsu đã kinh qua bằng chính đời sống nghèo khó, hi sinh từ bỏ và hiến thân cho tha nhân vì nước trời. Do đó muốn có hạnh phúc thật chúng ta không thể đi theo con đường nào khác ngoài con đường Đức Giêsu đã đi và đã chỉ dạy vì chính Ngài đã đi và đã đạt đến vinh quang hạnh phúc đích thực.

Xin Chúa giúp chúng ta can đảm bước theo con đường mà Chúa Giêsu đã đi, bằng cách trung thành thực thi 8 mối phúc thật mà Chúa Giêsu vạch ra, nhờ đó ta mới mong đạt được điều mà mình khao khát là hạnh phúc đích thật. Amen.

 

 Suy niệm 2: Trả lời cho câu hỏi thế nào là hạnh phúc, hẳn là mười người có mười câu trả lời khác nhau.

Có người cho rằng ‘có tiền mua tiên cũng được’ nên phải có nhiều tiền thì mới hạnh phúc.

Có người chỉ cảm thấy hạnh phúc khi sở hữu thật nhiều của cải, được ăn sung mặc sướng.

Có người mong tìm thấy tột đỉnh hạnh phúc khi nắm giữ mọi quyền lực trong tay… Tuy nhiên, tất cả những thứ đó lại không phải là hạnh phúc thật, bởi vì trước hết chúng rất tạm bợ chóng qua, và sau nữa chúng cũng không làm thoả mãn được khát vọng sâu thẳm nơi tâm hồn con người.

Chính vì thế, trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giê-su dạy cho chúng ta biết có tám con đường đưa tới hạnh phúc thật.

Cả tám con đường ấy đều khác xa với quan điểm thông thường của con người về hạnh phúc, bởi vì điểm đến chung của chúng là hạnh phúc tròn đầy và vĩnh cửu, và phải trải qua hy sinh, đau khổ của thập giá mới có thể đạt tới được.

Mời Bạn: Hạnh phúc do Chúa ban luôn ở trong tầm tay bạn nhưng đồng thời cái giá phải trả cũng không hề rẻ. Muốn có được hạnh phúc của Chúa, bạn phải cố gắng và nỗ lực chiến đấu mỗi ngày để đi theo con đường Tám mối phúc thật. Bạn có muốn “lội ngược dòng” đối với thế gian để đi theo con đường này không?

Sống Lời Chúa: Mỗi ngày chọn một mối phúc, ví dụ chọn mối phúc hiền lành, để quyết tâm thực hiện và tiếp tục hôm sau chọn thực hành một mối phúc khác.

Cầu nguyện: Hát hoặc đọc: “Nguyện xin Chúa giúp con bắt đầu và lại bắt đầu. Này con chiến đấu, này con chiến thắng, tươi sáng hy vọng.”

(Nguồn http://tongdosongdao.org)

 

Thứ ba: Cv 11,21b-26.13,1-3; Mt 10,7-13

Nhớ Thánh Ba-na-ba, tông đồ.

Suy niệm 1: 

Để thực hiện sứ mạng giải thoát con người khỏi những đau khổ về thể xác và tinh thần, một mình Đức Giêsu là đủ, vì Ngài là Thiên Chúa quyền năng. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại không dùng cách thế đó. Trái lại Chúa mời gọi chúng ta cộng tác. Cụ thể bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chọn gọi các tông đồ, ban quyền chữa bệnh, trừ quỷ cho các ông và sai các ông ra đi gieo rắc Bình an của Chúa cho mọi nhà, mọi người. Sứ mạng thì to lớn, nhưng phận người lại bé nhỏ. Thế nên, Chúa Giêsu ý thức các Tông đồ hãy cậy trông vào Chúa.

- Cậy trông vào Chúa, nên tông đồ Barnaba đã sống tinh thần khó nghèo. Ngài sẵn sàng bán đi thửa ruộng của mình có và đem bạc đặt dưới chân các Tông đồ (Cv 4,36-37).

- Cậy trông vào Chúa, tông đồ Barnaba dễ dàng sống siêu thoát, sẵn sàng ra đi bất cứ nơi nào khi Giáo hội muốn với tinh thần phó thác.

Sách Công vụ cho biết khi được mọi người cử đi An-ti-ô-khi-a xem tình hình ở đó thực hư thế nào, Barnaba đã sẵn sàng lên đường và khi Barnaba tới nơi thì thấy rõ đó là kết quả của “Ơn Thiên Chúa” cho nên ông không nghi ngờ gì, trái lại còn “mừng rỡ và khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa” ( Cv 11, 23-24).

Rồi khi nhận được bài sai từ Thánh Thần: “Hãy dành riêng Barnaba và Saolô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm” (Cv 13, 2). Ông cùng với Phaolô đã lên đường, nhiệt thành với công việc loan báo Tin Mừng cho lương dân, âm vang Lời Chúa lan rộng ở các cộng đoàn nhất là ở Giêrusalem, Antiokhia ….

- Cậy trông vào Chúa, Banaba đã khiêm tốn đón nhận mọi cảnh huống của cuộc sống, nhằm thi hành tốt sứ mạng đem Bình an của Chúa cho mọi người. Bằng chứng là Ngài đã giúp Phaolô hoà nhập với tông đồ đoàn tại Giêrusalem trong lần gặp mặt đầu tiên, khi mọi người chưa dám tin Phaolô là tông đồ (x. Cv 9, 26-27);  và sau đó hai bên hoà thuận với nhau, cộng tác nhau vui vẻ (x. Cv 9, 28.30).

Cùng với Phaolô, ngài rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, khiến họ vui mừng tôn vinh Lời Chúa… Lời Chúa lan tràn khắp vùng. (Cv 14, 48-49). Rồi bênh vực họ trong hội nghị Giêrusalem (Cv 15, 12). Việc này góp phần làm cho kitô hữu gốc Do thái và kitô hữu gốc lương dân hiểu nhau và sống hòa thuận với nhau trong cùng một niềm tin. Ngay cả khi đụng độ với Phaolô về việc đem theo Mác-cô đi truyền giáo mà Thánh Phaolô không muốn, nên họ to tiếng với nhau và chia tay nhau, thì Barnaba cũng được thúc đẩy bởi tấm lòng khiêm tốn hòa giải vì ngài muốn cứu vớt một kẻ đã lỡ một lần lỗi phạm (x. Cv 15, 37.39). Quả là ý định tốt lành của Barnaba đạt kết quả tốt lành vì Mác-cô trở thành một tông đồ nhiệt thành và tác giả quyển Tin Mừng thứ hai.

Bổn phận truyền giáo không là việc của riêng ai mà là nhiệm vụ của mọi Kitô hữu. Mừng lễ Thánh Barnaba Tông đồ, là dịp chúng ta kiểm xét lại chính mình, xem chúng ta đã góp được gì cho công cuộc truyền giáo, hay chúng ta cũng chỉ là những kẻ cổ suý hô hào cho việc truyền giảng Tin Mừng bằng môi miệng, mà cuộc sống thì lại là một phản chứng ghê gớm đối với Tin Mừng?! 

Nhờ lời chuyển cầu của Thánh Barnaba tông đồ, xin Chúa ban cho chúng ta ý thức được tầm quan trọng của việc truyền giáo, để chúng ta tích cực góp phần vào công cuộc truyền giáo bằng lời cầu nguyện, bằng sức lực, tài lực và cả của cải. Nhất là xin Chúa ban cho chúng con có tinh thần khó nghèo, siêu thoát và khiêm tốn hầu trở nên khí cụ Bình an của Chúa trong khi thi hành sứ mạng loan báo Tin mừng, theo mẫu gương của thánh Barnaba tông đồ.


Suy niệm 2: Tông đồ hăng say loan báo Tin Mừng

Bài Tin Mừng hôm nay cùng với các bài đọc trong ngày lễ kính Thánh Barnaba Tông Đồ cho chúng ta thấy hình ảnh một vị tông đồ hăng say loan báo Tin Mừng. Thánh Barnaba, được mệnh danh là "con của sự an ủi", đã cùng với Thánh Phaolô thực hiện nhiều hành trình truyền giáo, mang Lời Chúa đến với nhiều dân tộc khác nhau. Ngài đã bán hết gia sản để giúp đỡ cộng đoàn Kitô hữu tại Giêrusalem, thể hiện tinh thần quảng đại và bác ái.

Lời mời gọi cho mỗi người:

Lễ kính Thánh Barnaba là lời mời gọi mỗi người Kitô hữu noi gương ngài trong việc hăng say loan báo Tin Mừng. Mỗi người, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng có thể trở thành một "Barnaba" trong thời đại hôm nay, bằng cách sống Tin Mừng và chia sẻ Lời Chúa với những người xung quanh.

3. Gợi ý chia sẻ:

Bạn có thể chia sẻ về một lần bạn đã can đảm chia sẻ Tin Mừng với người khác.

Bạn có thể đề xuất những cách thức để mỗi người có thể tham gia vào sứ mạng loan báo Tin Mừng trong cộng đoàn.

Bạn có thể cùng nhau cầu nguyện cho các thừa sai và những người hăng say loan báo Tin Mừng trên khắp thế giới.

4. Lời cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, con cảm ơn Chúa đã ban cho Hội thánh Thánh Barnaba, một tông đồ hăng say loan báo Tin Mừng. Xin Chúa ban cho con lòng nhiệt huyết như Thánh Barnaba, để con can đảm sống Tin Mừng và chia sẻ Lời Chúa với mọi người. Xin Chúa cũng ban cho các thừa sai và những người hăng say loan báo Tin Mừng trên khắp thế giới sức mạnh và ơn thánh để họ có thể hoàn thành tốt sứ mạng của mình. Amen.

Kết thúc:

Lễ kính Thánh Barnaba Tông Đồ là dịp để mỗi người Kitô hữu noi gương ngài trong việc hăng say loan báo Tin Mừng. Hãy cùng nhau cầu nguyện cho nhau và cho sứ mạng loan báo Tin Mừng trên khắp thế giới. (Gemini-IT soạn)

 

* Mùa thường niên: Mt 5,13-16

Suy niệm 1:

Bằng hai hình ảnh muối và ánh sáng, Chúa Giêsu muốn nói đến bản chất và sứ mạng của người kitô hữu.

1. Bản chất và sứ mạng của muối:

Nếu bản chất của muối là phải mặn. Muối không mặn thì không còn là muối nữa, chỉ còn cách quăng xuống đường cho người ta giẫm đạp lên. Cũng vậy, bản chất của người Kitô hữu phải mang đậm chất mặn của tình yêu. Nếu ta không có tình yêu thì không còn là Kitô hữu nữa. Bởi lẽ "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4,7). Ngài đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh Ngài, nên tự bản chất nơi ta phải mang chất tình yêu. Dĩ nhiên tình yêu ấy phải đặt trên nền tảng Tình Yêu như Chúa. "Yêu như Thầy đã yêu" (Ga 15,12).

Còn nếu sứ mạng của muối là giữ cho thức ăn khỏi hư thối và đem lại mùi vị thơm ngon cho thức ăn. Thì sứ mạng của người kitô hữu phải có nhiệm vụ ướp đời, ướp người khỏi những băng hoại của dối trá, hận thù, ganh tị, lường gạt, bất trung... Ngoài sứ mạng ngăn chặn cuộc sống khỏi những băng hoại, chúng ta còn phải là tác nhân đem lại hương vị ngọt ngào cho cuộc sống bằng những cử chỉ, lời nói, việc làm thắm đợm tình thương, nhằm mang đến niềm vui, an bình và hạnh phúc cho tha nhân.

2. Bản chất và sứ mạng của đèn:

Nếu bản chất của chiếc đèn là để thắp sáng, thì đức tin chính là bản chất của người kitô hữu. Vì chúng ta được gọi là "tín hữu".

Còn nếu sứ mạng của chiếc đèn là chiếu giải ánh sáng cho mọi người nhìn thấy, thì sứ mạng của người kitô hữu là chiếu tỏa ánh sáng đức tin ấy cho mọi người nhìn thấy bằng những việc làm cụ thể. Vì "Đức tin không có việc làm là đức tin chết " (Gc. 2,17). Mà những việc làm cụ thể ấy chính là những việc lành. “Ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”.Qua bí tích rửa tội, chúng ta được Chúa trao ban cho ánh sáng Đức tin và kêu mời chúng ta chiếu tỏ ánh sáng đó cho trần gian.

Xin Chúa giúp chúng ta luôn giữ được chất tình yêu của Chúa, để chúng ta có thể ướp mặn cho đời và cho người; cụ thể là những thành viên trong gia đình chúng ta khỏi những băng hoại do tội lỗi gây nên. Đồng thời xin Chúa cũng ban thêm chất Đức Tin nơi mỗi chúng ta, hầu ta có thể can đảm thắp lên ngọn lữa đức tin ấy bằng những hành động bác ái cụ thể cho tha nhân, qua đó mà mọi người nhận ra Chúa mà ngợi ca Danh Người.

 

Suy niệm 2: 

Sau khi Chúa Giêsu đưa ra Bản Hiến chương Nước Trời (Mt 5,1-12), công bố ở trên núi, đó là Tám mối phúc. Ngài khuyên và khích lệ mọi người hãy đi vào con đường đó vì chúng sẽ dẫn ta đến Nước trời.

Sang Bài Tin mừng hôm nay (Mt 5,13-16). Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh hơn nữa: Khi chúng ta sống trọn Tám mối phúc, ta sẽ trở nên nhân tố biến đổi thế giới. Chúa đã dùng 2 hình ảnh để diễn tả bản chất của người môn đệ đích thực, đó là:

+ Muối cho đời.

+ Ánh sáng cho thế gian.

1. “CÁC CON LÀ MUỐI ĐẤT”.

Độc giả có thể thắc mắc: Tại sao Chúa Giêsu không nói: “CÁC CON LÀ MUỐI”, mà Ngài dùng thêm từ “ĐẤT”, có nghĩa “CÁC CON LÀ MUỐI ĐẤT”. Dụng ý của Matthêu rõ ràng. Matthêu muốn nhắc chúng ta ý thức rằng: KHÔNG CÓ KITÔ HỮU NÀO SỐNG LƠ LỬNG GIỮA TRỜI VÀ ĐẤT. Chúng ta được dựng nên để thuộc về Thiên Chúa, có nghĩa thuộc về trời cao, nhưng chúng ta được Chúa đặt trên mặt đất, cũng như ta luôn hướng về cuộc sống mai sau, nhưng ta vẫn phải sống tốt đời này. Như vậy, Chúa đã sai chúng ta vào thế gian này như muối cho đời vậy, đó là “MUỐI ĐẤT”

- BẢN CHẤT CỦA MUỐI: PHẢI MẶN

Muối phải mặn. NẾU MUỐI ĐÃ LẠT, NGƯỜI TA BIẾT LẤY GÌ MÀ ƯỚP CHO MẶN LẠI?”.

Khi nói về bản chất, thì ta phải hiểu: MẶN là cái gì thật sâu xa, nằm trong muối, nó là bản chất của muối. Nếu mất cái bản chất đó thì muối sẽ không còn gọi là muối nữa. Cũng vậy, BẢN CHẤT CỦA KITÔ HỮU PHẢI MANG ĐẬM CHẤT YÊU THƯƠNG. Nếu Kitô hữu không biết sống yêu thương thì sẽ không còn là Kitô hữu.

- CÔNG DỤNG CỦA MUỐI: Không có gì rẻ và căn bản hơn muối; nhưng muối làm nhiều điều hữu ích cho con người:

1/. Muối tượng trưng cho sự trong sạch tinh tuyền

2/. Muối để ngăn ngừa đồ ăn cho khỏi hư rữa.

3/. Muối để thêm gia vị cho thực phẩm.

Nếu sứ mạng của muối là giữ cho thức ăn khỏi hư thối và đem lại mùi vị thơm ngon cho thức ăn, thì sứ mạng của Kitô hữu (MUỐI ĐẤT) phải có nhiệm vụ ướp đời, ướp người khỏi những băng hoại của dối trá, hận thù, ganh tị, lường gạt, bất lương…

Kitô hữu chúng ta, ngoài sứ mạng ngăn chặn cuộc sống khỏi những băng hoại, chúng ta còn là tác nhân đem lại hương vị ngọt ngào cho cuộc sống bằng những cử chỉ, lời nói, việc làm thắm đượm tình thương nhằm mang đến niềm vui, an bình và hạnh phúc cho tha nhân. Nếu không có vị mặn của muối, làm sao các Kitô hữu có thể “ướp mặn” lòng người.

Ta đừng bao giờ nghĩ rằng: mình chỉ cần sống tốt là đủ, chỉ cần lo phần rỗi linh hồn của mình là được. Như vậy chưa đủ, vì còn rất nhiều thiếu sót và phần rỗi linh hồn ta cũng không được đảm bảo, sống là sống với người khác.

Do đó phần rỗi của người khác cũng có phần ảnh hưởng đến phần rỗi của ta. Vì thế Chúa mời gọi ta: “CÁC CON LÀ MUỐI ĐẤT”. Chúa Giêsu khi nói “CÁC CON LÀ MUỐI ĐẤT”, có nghĩa Ngài đặt ta vào mối tương quan với người khác, chứ không thể chỉ sống cho mình. “Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó”

Vì bản chất của muối là mặn, cái vị mặn đó phải từ muối đi ra để làm tăng vị mặn cho thức ăn, không thể có chiều đi ngược lại. Như vậy, khi muối đã mất vị mặn thì không có gì có thể ướp nó cho mặn lại. Chúa Giêsu đã nói đến một kinh nghiệm dân gian: Người ta không thể làm ra muối bằng bất cứ thứ gì, mà phải từ nước biển, vì vị mặn, bản chất của muối đã nằm sẵn trong nước biển.

Một khi muối đã mất vị mặn thì ta không lấy gì thể ướp cho nó mặn lại. Ta không thể lấy một vị mặn nào đó để đưa vào muối để làm cho nó mặn lại. Vì vị mặn chỉ có thể đi từ muối đi ra chứ không thể đi theo chiều ngược lại. Các môn đệ của Chúa Giêsu cũng thế, một khi đánh mất bản chất của mình thì người đó cũng giống như muối đã mất vị mặn, người môn đệ đó sẽ không còn hữu ích cho ai nữa, mà Matthêu nói: “Chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó”. Đó là kết cục thảm hại dành cho kẻ đánh mất bản chất, đánh mất lý tưởng của mình.

2. CÁC CON LÀ SỰ SÁNG THẾ GIAN

“Các con là sự sáng thế gian. một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen cha các con trên trời”

- “CÁC CON LÀ SỰ SÁNG THẾ GIAN”

Thánh sử Gioan từng xác tín Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian, Gioan viết: “ở nơi Người là sự sống,và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1, 4-5). Trong phúc âm Marcô: Đã nhiều lần Chúa Giêsu ví các môn đệ là ĐÈN CHÁY SÁNG, Marcô viết: “Chẳng lẽ mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường? Nào chẳng phải là để đặt trên đế sao?” (Mc 4, 21)

Sang đến Matthêu, Chúa Giêsu không còn nói “Đèn cháy sáng” nữa, mà nói: “Các con là sự sáng thế gian”. Có nghĩa các môn đệ chính là sự sáng thế gian, chứ không còn là đèn, vì là đèn, nó phải lệ thuộc vào dầu và vào ôxy mới có thể cháy được. Còn khi là ánh sáng, thì nó thuộc về bản chất không còn lệ thuộc vào bất cứ thứ gì khác.

Bản chất của các môn đệ là sự sáng, sự sáng đó chính là tiếp nối sự sáng của Chúa Giêsu, Ngài mà Gioan đã mô tả: “ở nơi Người là sự sống,và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1, 4-5)

Mặc dù thế giới hôm nay đã rực sáng bởi ánh sáng của điện khí hoá, cứ nhìn vào khung cảnh Giáng sinh, của những ngày Tết ta sẽ thấy rõ điều đó. Nhưng ở nơi này nơi kia trên thế giới vẫn còn những góc tối, những góc khuất, mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài phải là ánh sáng để dọi vào những góc tối đó.

Ta luôn ý thức rằng: Thế giới hôm nay vẫn còn 2/3 nhân loại chưa nhận biết Chúa, có nghĩa chỉ 1/3 người nhận biết Chúa thôi. Nói chung thế giới này vẫn đang chìm trong bóng tối mặc dù nó đã được điện khí hoá. Nhưng chúng ta chỉ là ánh sáng khi chúng ta phản chiếu ánh sáng của Chúa, có nghĩa chúng ta hãy để cho ánh sáng của Chúa xuyên qua và toả sáng trong cuộc đời chúng ta, để thiên hạ thấy những công việc tốt đẹp chúng ta làm, mà tôn vinh Cha chúng ta, Đấng ngự trên trời.

Giáo Hội là muối và ánh sáng thế gian. Mỗi Kitô hữu tự bản chất cũng là muối và ánh sáng của thế gian. Họ sẽ đánh mất vị mặn của muối và tia sáng của ánh sáng, nếu chỉ vì một chút lợi lộc vật chất, một chút dễ dãi, mà họ thỏa hiệp với những gì đi ngược chân lý của Chúa Giêsu. Một cách cụ thể, Kitô hữu sẽ không còn là muối và ánh sáng nữa, nếu cứ theo dòng chảy của xã hội, họ cũng lọc lừa, móc ngoặc, dối trá.

Lạy Chúa, xin cho con trở thành muối cho đời qua công việc yêu thương và phục vụ hàng ngày. xin cho chúng con biết gìn giữ ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của Chúa suốt cả cuộc đời chúng con. Amen.

Giuse. Vĩnh Tâm 

Thứ tư: Mt 5, 17-19

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho các môn đệ cũng như chúng ta biết thêm về lý do quan trọng mà Ngài đến trần gian này là: “không phải hủy bỏ lề luật hay các tiên tri, nhưng là để kiện toàn”.

Luật của Chúa được ban cho nhân loại xuyên qua dân tộc Do Thái, bởi trung gian là ông Môsê. Luật đó được gìn giữ và bảo tồn qua thời các ngôn sứ. Nhưng đến thời Chúa Giêsu, luật Chúa được trao quyền cho các kinh sư giải thích và hướng dẫn cho dân chúng. Thay vì giúp người dân hiểu biết rõ về luật Chúa cũng như tinh thần đúng đắn phải có khi tuân giữ luật Chúa, thì trái lại các ông lại thêm thắc vào đó quá nhiều chi tiết từ 10 điều lên đến 613 điều khoản khiến cho dân chúng rối ren không còn phân biệt đâu là điều chính đâu là điều phụ. Hơn nữa các ông lại quá chú trọng đến hình thức làm cho người dân có cảm giác luật Chúa quá nặng nề bởi những ràng buộc. Nên khi rao giảng, Chúa Giêsu đã nhiều lần đả kích lối sống vị luật của người Pharisêu; cũng như cảnh báo về mối nguy hiểm của những gánh nặng mà dân chúng phải chịu do các kinh sư chất chồng lên vai họ. Có lẽ vì đó mà nhiều người tưởng rằng Chúa Giêsu muốn phá bỏ lề luật và các tiên tri. Để chỉnh sửa lại ý nghĩ sai lệch ấy, Chúa Giêsu đã khẳng định với các môn đệ về lý do mà Ngài đến thế gian này là nhằm mục đích để kiện toàn lề luật. Vậy Chúa muốn kiện toàn điều gì?

- Trước hết Chúa Giêsu kiện toàn về nội dung văn bản của luật: Phải giữ nguyên trạng giới luật của Chúa, dù một chấm, một phẩy cũng không được thay đổi hay bỏ sót.

- Thứ đến Chúa kiện toàn về hình thức thi hành luật: Nếu các kinh sư và người Pharisêu quá chú trọng bởi hình thức bên ngoài thì Chúa Giêsu nhấn mạnh đến trọng tâm giữ luật bên trong. Việc giữ luật chỉ có giá trị  đích thực khi nó xuất phát từ trái tim và tấm lòng.

- Cuối cùng Chúa Giêsu kiện toàn về tâm tình phải có khi giữ luật:  Việc giữ luật không phải vì lo sợ. Sợ không giữ thì bị Chúa phạt; lo vì nếu không thi hành luật sẽ bị người đời khinh thường và lên án… nếu mang nặng tâm tình ấy thì quả thật luật trở nên gánh nặng cho đời sống. Điều mà Chúa Giêsu muốn là mọi người hãy tuân giữ luật với tấm lòng yêu mến. Với lòng yêu mến Chúa chân thành sẽ giúp ta cảm thấy vui tươi thoải mái thi hành luật Chúa; sẽ không còn sợ hãi bởi ràn buộc của luật nữa.

Xin Chúa giúp chúng ta ý thức được rằng: vì không muốn chúng ta phải đi lạc đường nên Chúa đã ban lề luật để hướng dẫn bước đường chúng ta. Xin cho chúng ta cảm nhận được tình thương lớn lao ấy, mà hăng hái thi hành luật Chúa và GH chỉ dạy bằng tất cả tấm lòng yêu mến của chúng ta.

 

Thứ năm: Kn 7,7-10.15-16; Eph 4;1-7.11-13; Mc 16;15-20

Nhớ Thánh An-tôn Pa-đô-va, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh.

Suy niệm 1: 

Lễ Kính Thánh Antôn Padua là dịp để chúng ta suy niệm về cuộc đời và sứ mạng của ngài, đồng thời noi gương ngài sống mến Chúa và yêu người.

a. Mến Chúa:

Thánh Antôn Padua có lòng mến Chúa nồng nàn. Ngài say mê Lời Chúa và dành nhiều thời gian để cầu nguyện. Ngài cũng nhiệt tình truyền bá Tin Mừng cho mọi người.

b. Yêu người:

Thánh Antôn Padua có lòng yêu người cao cả. Ngài quan tâm đến những người nghèo khổ, bệnh tật và gặp khó khăn. Ngài luôn sẵn sàng giúp đỡ họ cả về vật chất lẫn tinh thần.

c. Noi gương Thánh Antôn Padua:

Để noi gương Thánh Antôn Padua, chúng ta cần:

·  Mỗi ngày dành thời gian cầu nguyện và đọc Lời Chúa.

·  Tham gia vào các hoạt động bác ái xã hội để giúp đỡ người nghèo khổ, bệnh tật và gặp khó khăn.

·  Sống bác ái, yêu thương mọi người bằng lời nói và việc làm.

3. Lời cầu nguyện:

Lạy Thánh Antôn Padua, xin ngài cầu cho chúng con biết noi gương ngài mến Chúa và yêu người. Xin ngài giúp chúng con luôn nhiệt tình truyền bá Tin Mừng và sống bác ái với mọi người. Amen.

4. Gợi ý thêm:

·  Có thể tham khảo thêm tiểu sử và các câu chuyện về cuộc đời của Thánh Antôn Padua.

·  Có thể chia sẻ về những kinh nghiệm bản thân trong việc noi gương Thánh Antôn Padua.

·  Có thể cầu nguyện cho những người đang gặp khó khăn trong cuộc sống.

Lời kết:

Lễ Kính Thánh Antôn Padua là lời mời gọi mỗi người chúng ta sống mến Chúa và yêu người. Hãy noi gương Thánh Antôn Padua để góp phần xây dựng một xã hội bác ái và yêu thương. (Gemini-IT soạn)


Suy niệm 2: 

Hôm nay, chúng ta mừng lễ Kính Thánh Antôn Padua, một vị thánh rất gần gũi và quen thuộc với cuộc sống của chúng ta. Ngài được biết đến như là "vị thánh của những điều không thể", "vị thánh giảng thuyết", "vị thánh của người nghèo", và "vị thánh tìm lại những gì bị mất".

Đôi nét về cuộc đời Thánh Antôn Padua:

* Sinh năm 1195 tại Lisbon, Bồ Đào Nha.

* Gia nhập dòng Phanxicô khi còn rất trẻ.

* Là một nhà giảng thuyết tài ba, thu hút nhiều người đến nghe ngài giảng đạo.

* Chuyến du hành truyền giáo của ngài trải dài khắp châu Âu, mang lại nhiều hoa trái thiêng liêng cho Giáo hội.

* Mất năm 1231 tại Padua, Ý.

* Được Giáo hội phong thánh vào năm 1232.

Bài học từ cuộc đời Thánh Antôn Padua:

1. Niềm tin vào Thiên Chúa: Thánh Antôn Padua có một niềm tin mãnh liệt vào Thiên Chúa. Ngài luôn đặt niềm tin của mình vào sự quan phòng của Thiên Chúa và tin rằng Thiên Chúa có thể thực hiện mọi điều không thể.

2. Lòng yêu mến: Thánh Antôn Padua có một lòng yêu mến lớn đối với Chúa Giêsu Kitô và đối với mọi người. Ngài đã dành cả cuộc đời mình để rao giảng Tin Mừng và giúp đỡ những người nghèo khổ.

3. Sự khiêm nhường: Thánh Antôn Padua là một người rất khiêm nhường. Ngài không bao giờ khoe khoang về những thành tựu của mình và luôn luôn sẵn sàng phục vụ người khác.

4. Sự cầu nguyện: Thánh Antôn Padua là một người cầu nguyện rất nhiều. Ngài tin rằng cầu nguyện là một cách mạnh mẽ để kết nối với Thiên Chúa và xin được ơn soi sáng và sức mạnh.

* Lời kết:

Thánh Antôn Padua là một tấm gương sáng cho chúng ta noi theo. Chúng ta hãy noi theo ngài trong việc sống một đời sống tin kính, yêu mến, khiêm nhường và cầu nguyện.

* Lời cầu nguyện:

Lạy thánh Antôn Padua, xin ngài cầu bầu cho chúng con biết noi theo gương mẫu bác ái và lòng yêu mến của ngài. Xin ngài giúp chúng con luôn tin tưởng vào Thiên Chúa và biết yêu thương mọi người xung quanh. Xin ngài cầu cho những ai đang gặp khó khăn được Chúa an ủi và nâng đỡ. Amen. (Gemini-IT)


Suy niệm 3:

Hôm nay, cùng với Giáo Hội chúng ta mừng lễ Thánh Antôn Pađua. Tên thật của Ngài là Fernando. Ngài sinh ngày 15 tháng 8 năm 1195 tại Lisbone thủ đô nước Bồ Đào Nha. Cha mẹ của Ngài là ông Martinô và bà Maria rất đạo đức. Tròn 15 tuổi, Ngài gia nhập dòng Thánh Augustinô và chịu chức linh mục ở đây. Tròn 25 tuổi, Ngài đổi sang dòng Thánh Phanxicô năm 1220. Ngài được sai đi truyền giáo ở Marrốc và ước ao được phúc tử đạo. Sau này, Ngài đi rao giảng khắp miền Tây nước Ý và miền Nam nước Pháp. Ngài qua đời ngày 13 tháng 6 năm 1231, lúc mới tròn 36 tuổi. Ngài được Đức Giáo Hoàng Grêgôriô X phong thánh vào ngày 30 tháng 5 năm 1232. Vào năm 1946, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã tôn phong Ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh.

Mặc dầu Ngài là người Bồ Đào Nha nhưng lại rất được người Việt Nam yêu mến. Vấn đề đặt ra là tại sao Thánh Antôn lại thu hút mọi người như vậy? Có người cho rằng vì Ngài hay làm phép lạ (Nói đúng hơn, nhờ lời chuyển cầu của Ngài nên Chúa làm nhiều phép lạ). Đúng, nhưng vì sao Ngài lại làm phép lạ? Kinh Ông Thánh Antôn cho chúng ta biết rằng: “Để thông ơn phúc cho cả và thiên hạ, xưa ở đời này đầy lửa kính mến Chúa, hằng ước ao cho danh cha cả sáng, cùng ái mộ phần rỗi nhân loại, nên đã làm phép lạ cứu giúp muôn vàn người khỏi tai nạn phần hồn phần xác”

Như vậy, lý do Thánh Antôn hay làm phép lạ đã rõ ràng: thứ nhất, để làm vinh danh Chúa; thứ hai, để cứu giúp con người phần hồn phần xác. Ngài không những cứu giúp những việc lớn lao, mà Ngài còn cứu giúp cả những việc nhỏ nhặt hằng ngày: “Hễ ai túng rỗi chạy đến cầu xin Người, bất luận việc lớn bé thế nào, liền được ơn Người cứu giúp”  (Lời kinh khẳng định)

Thông thường các thánh hay làm phép lạ khi đã qua đời, còn Thánh Antôn không những làm phép lạ khi đã qua đời mà Ngài còn làm phép lạ ngay cả khi còn sống.

Chuyện kể, khi còn niên thiếu: “Một ngày mùa hè, cha Ngài sai Ngài canh giữ ruộng lúa mì khỏi chim phá. Bỗng Antôn nhớ lại đã đến giờ đọc kinh tại nhà thờ mà Ngài không bao giờ bỏ. Ngài liền gọi bầy chim sẻ lại và nhốt vào một cái lều lộ thiên, cấm không được bay ra phá lúa. Rồi Ngài an tâm đi nhà thờ. Lúc trở về Ngài thấy bầy chim sẻ vẫn ở trong lều và đồng lúa vẫn an toàn.”

Lần khác, “Antôn đang thinh lặng cầu nguyện ở nhà thờ chìm trong bóng tối, Ngài cảm thấy bị cám dỗ mãnh liệt. Không hề chần chừ, Ngài lấy ngón tay cái vẽ dấu Thánh giá trên bậc bàn thờ, Thánh giá in sâu vào đá hoa. Thấy dấu này, quỷ trốn biệt và cơn cám dỗ tiêu tan.”

Trong thời gian giảng thuyết, Ngài cũng làm rất nhiều phép lạ, chẳng hạn như: Phép lạ cá nghe giảng; ngựa đói chê cỏ để thờ lạy Thánh Thể; uống thuốc độc mà không hề hấn gì, ly vỡ lại lành…

Khi Ngài qua đời, tự nhiên các đoàn trẻ la hét “cha chúng tôi đã qua đời,” mặc dầu họ không biết cái chết của Thánh Antôn. Trong cuốn Assidua, đã thuật lại nhiều phép lạ của thánh Antôn, nhất là ngay khi Ngài mới qua đời, cuốn sách viết: “Chỉ chạm tới mộ Ngài, bệnh nhân liền vui sướng cảm thấy mọi bệnh tật tan biến. Những ai không tới gần mộ được, thì lúc trở về ngang nhà nguyện cũng được chữa lành bệnh. Nơi đó, nhiều người điếc được nghe, mù được thấy, què được nhảy nhót như dê con; cũng nơi đó lưỡi nhiều người câm được mở ra, cất tiếng ca ngợi Chúa. Chi thể tê liệt được hồi phục, đi lại bình thường. Những chứng bệnh như còng lưng, thống phong, sốt rét cũng như tất cả các bệnh khác đều được chữa lành cách lạ lùng. Tóm lại, từ nhiều nơi trên trần gian đến đây, người ta đều xin được như ý mong ước.”

Đặc biệt trong ngày lễ phong thánh, không ai biết chuyện gì đã xảy ra, thế mà dân chúng tuôn ra đường phố vừa ca hát, vừa nhảy múa, chuông trong thị trấn bắt đầu rung vang, dầu không ai động tới, và tất cả mọi người đều hoan hỷ vui sướng như ngày lễ hội. Ít hôm sau, một vài anh em từ Ý tới loan tin chính là hôm đó Antôn được phong thánh.

Tính từ khi thánh nhân qua đời cho tới khi phong thánh có 47 phép lạ được Giáo Hội công nhận. Từ đó tới nay, thánh Antôn vẫn làm phép lạ đây đó trên thế giới. Có người được khỏi bệnh, có người tìm được của cải đã mất, có người thi cử đỗ đạt, nhiều người được ơn ăn năn trở lại qua Bí tích Giao hòa…Chứng tỏ Chúa vẫn nhận lời Thánh Antôn. Nhưng cũng có người phàn nàn là xin mãi mà chẳng được?

Thánh Giacôbê trả lời rằng: “Anh em xin mà không được là vì anh em xin với tà ý” (Gc 4, 2-3). Còn Thánh Augustinô thì nói: xin không được là do tâm hồn không tốt; hoặc do cách cầu nguyện xấu; cũng có thể là do xin điều xấu nên không được Chúa nhận lời. Vì thế, nhiều khi chúng ta cũng phải xem xét nội dung và cách cầu nguyện của chúng ta.

Mừng lễ Thánh Antôn hôm nay, chúng ta không chỉ nhờ ngài xin ơn, mà còn phải học nhân đức của Ngài như: khiêm nhường; thăng tiến trên đường nhân đức; siêng năng đọc, suy gẫm và truyền đạt Lời Chúa; mến Chúa và yêu người.

Trong lời nguyện nhập lễ hôm nay cho chúng ta biết: Ngài không những là nhà giảng thuyết lừng danh mà còn là người cứu giúp những ai nghèo khổ.

Sống trong một xã hội đầy dẫy những bất công như hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa nhờ lời chuyển cầu của Thánh Antôn làm cho chúng ta trở thành những Antôn của thời đại, để đem yêu thương xóa tan bất công, nghèo khó, yêu người không chỉ bằng lời nói mà còn bằng những việc làm cụ thể, yêu người không chỉ yêu phần xác mà còn yêu cả phần hồn nữa, hầu nhờ đó xã hội này ngày một tốt đẹp hơn. Amen.

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ


Mùa thường niên: Mt 5, 20-26

Giết người thì ở đâu và thời nào cũng là tội nặng, vì Chúa mới là chủ sự sống, đó là công lý. Lời Chúa dạy bảo trong bài Tin Mừng hôm nay còn vượt trên công lý nữa. Công lý hay luật pháp chỉ buộc tội khi một người phạm tội bằng hành vi cụ thể. Còn Chúa thì đi xa hơn, Ngài ngăn chặng ngay từ nguyên nhân, nguồn gốc đưa đến hành động giết người.

Vì thế, “ai giận anh em mình thì đáng bị tòa xét xử, ai mắng chửi anh em là đồ ngốc thì sẽ bị lên án trước công nghị và ai mắng chửi anh em mình là khùng thì đáng lửa trầm luân”.

Đúng như Lời Chúa nói:

- Giận dỗi chính là nguyên nhân đưa đến tội giết người. Vì khi ta giận ai là ta muốn cho người đó khuất mắt ta; ta không muốn người đó hiện diện trên cõi đời này nữa. Cho nên giận như vậy thì chẳng khác nào giết người không dao.

- Cũng thế, khi ta mắng chửi anh em là đồ ngốc là khùng thì chẳng khác nào ta xem thường anh em mình, để rồi hạ thấp họ xuống hàng con vật, không đáng là người nữa. Hành vi như thế là chiếm đoạt quyền phán xét của Thiên Chúa, nên đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt.

Như vậy, để khỏi bị Thiên Chúa luận phạt và kết án, Chúng ta phải có lòng quảng đại tha thứ. Tha thứ là biểu hiện tấm lòng tôn vinh Thiên Chúa một cách xứng đáng: "Nếu ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ anh em đang có điều bất bình với ngươi, hãy đặt của lễ trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em trước, rồi hãy đến mà dâng của lễ." Tha thứ là chất liệu tốt nhất để hàn gắn lại những vết thương lòng đang bị rạn nứt. Tha thứ cũng là cách thế hữu hiệu nhất để ta bắt đầu lại mối tương quan tốt đẹp với anh em mình.

Xin Chúa cho chúng ta biết giữ tâm hồn và môi miệng cẩn trọng để khỏi sa vào tội giết người không gươm và giúp chúng ta luôn biết quảng đại tha thứ cho nhau, như Chúa đã từng bao dung tha thứ cho chúng ta. Amen.


Thứ sáu: Mt 5, 27-32

Chúa Giêsu tiếp tục kiện toàn giới luật một vợ một chồng.

Để tránh đi tình trạng đỗ vỡ trong đời sống hôn nhân, chẳng những Chúa Giêsu cấm không được li dị mà Chúa còn ngăn chặn ngay cả nguyên nhân sâu xa đưa đến tình trạng bất trung trong đời sống hôn nhân nữa. “Anh  em đã nghe Luật dạy rằng: chớ ngoại tình, còn Thầy, Thầy bảo cho anh  em  biết : ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi…”(Mt 5:  27-28).

Như thế là dù chỉ thèm muốn trong lòng vợ hay chồng của người khác thì đã phạm tội ngoại tình trong tư tưởng rồi; vì trong lòng đã nuôi dưỡng ước muốn sai trái. Từ đó sẽ dễ dẫn đến hành động phản bội tình nghĩa vợ chồng.

Có thể nói mọi tội lỗi con người phạm, đều xuất phát từ trong lòng. Do đó, muốn tránh tội thì phải dứt khoát từ bỏ ước muốn bất chính ngay trong lòng. Nhưng để tránh được ước muốn bất chính trong lòng, chúng ta cần phải giữ gìn đôi mắt. Đôi mắt là của sổ tâm hồn nên mọi điều tốt xấu muốn vào được căn nhà tâm hồn đều phải qua cửa sổ của đôi mắt.

E-va chính vì đã không gìn giữ được đôi mắt nên đã hướng cái nhìn về trái cấm và đã nuôi dưỡng trong lòng sự thèm muốn. Từ ước muốn ấy bà đã cả lòng đưa tay hái trái cấm ăn, dầu biết rằng hành động ấy là phạm tội bất trung với Chúa.

Ða-vít cũng vì không giữ được đôi mắt nên đắm đuối nhìn người phụ nữ khỏa thân và có ước muốn khoái lạc. Từ đó đưa đến những hành vi tội ác: ngoại tình và giết người giấu tay.

Lạy chúa xin giúp chúng con biết gìn giữ đôi mắt luôn có cái nhìn trong sáng và can đảm dứt bỏ những nguyên nhân làm cớ chúng con lỗi đức trong sạch, cho dù đó là một phần của cơ thể như: là mắt, là tay... bởi vì Chúa đã phán: "thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hỏa ngục".

 

Thứ bảy: Mt 5,33-37

Trong cuộc sống, ta thường nghe được những luồng thông tin khác nhau về một sự kiện nào đó xảy ra trong xã hội, cũng như trong Giáo Hội. Có những thông tin chính thống cần tin theo. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi, phe nhóm và thế lực của mình cũng không ít những thông tin sai lạc, ta cần phải dè chừng.

Hằng ngày trên báo chí, truyền thanh, truyền hình ta bắt gặp rất nhiều thông tin quảng cáo nhằm thu hút khách hàng và lợi nhuận. Bên cạnh những thông tin thật cũng có nhiều thông tin không thật. Sống trong một xã hội mà phải liên tục đề phòng hàng giả, người giả, thông tin giả thật là bất an.

Chắc chắc ai trong chúng ta cũng không muốn điều ấy xảy ra. Nhưng rồi chính cuộc sống chúng ta cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Nhiều lần vì sợ, vì tham, vì bị mua chuộc… ta lại chấp nhận im lặng hay từ chối làm chứng cho chân lý. Lắm khi vì ham mê tiền bạc, chức quyền… ta cũng sẵn sàng chối bỏ niềm tin cách dễ dàng.

Chúa Giêsu xác định:“Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37). Do đó để thuộc về Chúa chúng ta cần phải sống và làm chứng cho sự thật, vì sự thật mới giải phóng chúng ta khỏi những ràn buột của gian dối và bóng tối của sự dữ. "Sự thật sẽ giải phóng các ông" (Ga 8, 32). Vì thế, "hể có thì nói có, không thì phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ".

Xin cho chúng ta biết vâng nghe lời Chúa, luôn can đảm nói và làm theo sự thật, để chúng ta khỏi sa vào cạm bẫy của ma quỷ. Nhờ đó cuộc sống mới được an vui, hạnh phúc.


SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN X THƯỜNG NIÊN

CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN, NĂM B

St 3,9-15;  2Cr 4,13-5,1; Mc 3,20-35

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết: thân nhân Chúa Giêsu sợ nguy hại cho gia đình, nên tìm cách đưa Chúa về nhà và không cho Người đi giảng đạo nữa, và phao đồn Người mất trí. Còn các kinh sư thì ghen ghét cho rằng Người bị quỷ ám và dựa vào quyền quỷ vương mà trừ quỷ.

Dịp này Chúa Giêsu dạy chúng ta tin vào quyền năng Người, nhứt là vâng nghe Chúa Thánh Thần mà làm theo thánh ý Chúa.

Chúng ta sốt sắng dâng Thánh Lễ. Xin cho chúng ta luôn tin tưởng và thi hành thánh ý Chúa, để xứng đáng làm con yêu dấu Chúa.

Bài đọc 1: St 3, 9-15:

Bài đọc trích trong sách Sáng Thế mà chúng ta sắp nghe thuật lại việc sa ngã của tổ tiên loài người. Thiên Chúa đã không bỏ rơi con người, nhưng cho xuất hiện một người phụ nữ có khả năng chiến thắng ma quỷ, sự dữ và tội lỗi là Đức Trinh Nữ Maria.

Bài đọc 2: 2 Cr 4,13-5,1:

Trong thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô, ngài nói đến những đau khổ, gian truân trong đời tông đồ của ngài. Nhưng ngài tin chắc: “Nó sẽ đem lại vinh quang bất tận”, nhờ công nghiệp Chúa Giêsu chịu chết và sống lại.

Tin mừng: Mc 3,20-35

Thấm thoát mà 30 năm ẩn dật đã trôi qua, Chúa Giêsu đã bắt đầu hoạt động công khai bằng việc rao giảng, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ. Đang lúc Chúa Giêsu thực thi sứ vụ của Đấng Cứu Thế, Ngài giảng dạy dẫn đưa mọi người về cùng chân lý thì những người thân của Chúa lại đi tìm Chúa, bắt Chúa về nhà, vì cho rằng Chúa mất trí. Nếu với cái nhìn của con người thì thân nhân của Chúa không sai bởi những việc Chúa làm xem ra bất bình thường. Đang lúc Chúa có công việc ổn định nơi xưởng mộc Nazareth, Chúa sống hạnh phúc bên Mẹ Maria, hiền hòa bình dị với những người xung quanh, bỗng dưng Chúa lại giã từ Đức Mẹ lên đường, vô phương định hướng vì: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, con người không có chỗ tựa đầu.” Những hoạt động của Ngài luôn làm các kinh sư, các nhà lãnh đạo Do Thái bực tức, biết đâu lại phải liên đới trách nhiệm, nên người thân của Ngài tìm bắt Ngài vì không hiểu sứ mạng của Ngài, vì giữ thể diện, danh giá cho gia đình, và bảo đảm mạng sống cho Ngài. Thấy Chúa Giêsu trừ quỷ, dân chúng thì kinh ngạc nhưng các kinh sư thì tức tối, họ đến gặp Ngài và cho rằng: Ngài đã dựa vào thế Bêendêbun để trừ quỷ. Họ xuyên tạc, vu khống, nói Ngài là người của quỷ. Chúa Giêsu bảo họ: “Xatan làm sao xua trừ Xatan được? Nước nào tự chia rẽ nước ấy sẽ không bền. Nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững. Vậy Xatan mà chống Xatan, Xatan mà tự chia rẽ thì không thể tồn tại nhưng đã tận số” (Mc 3, 23-26)

Chúa Giêsu cho tội xuyên tạc này là tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội không thể tha thứ. “Mọi tội lỗi của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng nhiều đến mấy cũng được tha, nhưng ai phạm đến Thánh Thần thì chẳng đời nào được tha mà còn mắc cho đến muôn đời “ (Mc 3,28-30). Chúa Thánh Thần là Đấng soi sáng, thúc đẩy mọi người nhận ra chân lý. Chúa Thánh Thần là Đấng đem lại sự sống, sự đổi mới. Chúa Thánh Thần luôn gắn liền với sứ mạng Chúa Giêsu. Ngài liên kết bền chặt với Chúa Giêsu từ khi nhập thể, Ngài đã chuẩn bị cho Chúa Giêsu một người Mẹ tuyệt vời là Đức Maria, Đấng nguyên tuyền không vướng mắc tội lỗi. Ngài chuẩn bị cho Chúa Giêsu một vị tiền hô là Thánh Gioan Tiền Hô để dọn đường. Trong khi rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu đã tỏ lộ quyền năng trong lời nói, việc làm, việc chữa bệnh, trừ quỷ của Chúa Giêsu làm đều do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ấy thế mà họ không tin Chúa Thánh Thần đang hoạt động trong Chúa Giêsu lại còn dám xuyên tạc việc Chúa Giêsu làm là do quyền lực ma quỷ. Với sự cố chấp, kiêu ngạo cứng lòng này thì Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, sẵn sàng thứ tha muôn vàn tội lỗi cũng đành chịu thua. Chính sự cứng lòng của họ sẽ dẫn họ đến sự hư mất đời đời.

Bên cạnh những người chống đối vẫn còn rất nhiều người khát khao chân lý. Họ theo Chúa về nhà đến nỗi Ngài và các môn đệ không sao ăn được (x. Mc 3, 20) Hoặc khi Chúa đang giảng dạy thì Mẹ và anh em Chúa Giêsu đến, đứng ở ngoài cho gọi Ngài ra vì lúc ấy đám đông ngồi xung quanh Ngài (x. Mc 3,31-32) Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này để dạy cho mọi người một bài học liên quan đến việc thi hành Lời Chúa: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”.

Với Chúa Giêsu sự liên kết không chỉ giới hạn trong gia đình, nhưng vòng tay yêu thương của Chúa giang rộng đến mọi người. Chúa rảo mắt nhìn những người ngồi quanh Chúa và nói: “Đây là mẹ tôi. Đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn Thiên Chúa người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3,34-35)

Nói như thế Chúa Giêsu không coi thường gia đình ruột thịt nhưng Chúa cho thấy việc thi hành ý muốn Thiên Chúa là quan trọng nhất, đến nỗi ai thực hiện ý Chúa thì được Chúa Giêsu yêu quý, nâng lên hàng anh chị em, là mẹ. Nói như thế Chúa Giêsu cũng đang đề cao Đức Maria thân mẫu Ngài, Đấng cả đời đã lắng nghe, suy niệm và sống cho ý Chúa.

“Đây là mẹ tôi, đây đây là anh em tôi.” Chúa Giêsu liên kết những ai thi hành ý Thiên Chúa vào một gia đình mới, một gia đình thiêng liêng, không đặt trên tương quan huyết thống nhưng đặt trên việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Gia đình mới này trải rộng, đông đúc, bao gồm nhiều người khác nhau về nhiều mặt nhưng lại có cùng một mẫu số chung là cùng nhau thì hành ý muốn Thiên Chúa. Họ được Chúa nối kết một cách sống động để được thuộc về Thiên Chúa và Thiên Chúa thuộc về họ.

Lạy Chúa Giêsu, nếu ở vào thời của Chúa thì chúng con là ai? Là thân nhân cản trở sứ mạng của Chúa? Là kinh sư, biệt phái đầy cố chấp, cứng lòng? Hay là thành viên thuộc gia đình Thiên Chúa? Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn nhiệt thành cộng tác vào công việc truyền giáo, luôn thuận theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần cũng như luôn lắng nghe và thực hành Lời Chúa để được sống trong đại gia đình mới của Chúa Giêsu, đầy yêu thương và hồng ân cứu độ.

 

Suy niệm 2: GIA ĐÌNH THIÊN CHÚA

Anh chị em thân mến,

Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về gia đình Thiên Chúa, nơi mà mọi người được kết nối với nhau bởi tình yêu thương và sự hiệp thông. Gia đình Thiên Chúa không chỉ giới hạn trong những người cùng chung huyết thống, mà còn rộng mở cho tất cả những ai tin vào Chúa Giêsu và sống theo lời Người.

1. Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh của Người

Bài đọc 1 trích từ sách Sáng Tạo thuật lại câu chuyện A-đam và Ê-va sa ngã trong vườn địa đàng. Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh của Người, ban cho họ tự do và trách nhiệm. Tuy nhiên, A-đam và Ê-va đã không vâng lời Thiên Chúa, dẫn đến hậu quả là họ bị trục xuất khỏi vườn địa đàng và phải chịu cảnh đau khổ, bệnh tật và sự chết.

Câu chuyện này cho chúng ta thấy rằng con người vốn được tạo dựng để sống trong tình yêu thương và sự hiệp thông với Thiên Chúa. Tuy nhiên, do tội lỗi, chúng ta đã đánh mất mối quan hệ này và phải chịu hậu quả.

2. Chúa Giêsu lập nên gia đình mới

Phúc Âm hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu tuyên bố những ai làm theo ý muốn của Thiên Chúa là anh chị em và mẹ của Người. Qua lời tuyên bố này, Chúa Giêsu muốn mở rộng gia đình của Người không chỉ giới hạn trong những người cùng chung huyết thống, mà còn rộng mở cho tất cả những ai tin vào Người và sống theo lời Người.

Gia đình mới này được lập nền trên nền tảng tình yêu thương và sự hiệp thông. Trong gia đình này, mọi người được đối xử bình đẳng, được yêu thương và trân trọng.

3. Lời kêu gọi

Thánh Phaolô trong bài đọc 2 khích lệ chúng ta sống xứng đáng với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi noi gương Chúa Giêsu, sống yêu thương, tha thứ và phục vụ người khác.

Kết luận:

Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta ý thức về vai trò của mình trong gia đình Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi sống yêu thương, tha thứ và phục vụ người khác, góp phần xây dựng gia đình Thiên Chúa ngày càng vững mạnh và hạnh phúc.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống xứng đáng với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa. Xin cho chúng con biết yêu thương, tha thứ và phục vụ người khác, góp phần xây dựng gia đình Thiên Chúa ngày càng vững mạnh và hạnh phúc.
Amen.

 

Suy niệm 3: VU VẠ. (Lm Minh Anh, Tgp Huế)

“Ông ấy bị thần ô uế ám!”.

“Ma quỷ thích một Giáo Hội thoải mái, giỏi kinh doanh và bỏ qua sự thật!” - Phanxicô.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho thấy những ‘vu vạ’ mà người ta gán cho Chúa Giêsu. Thân nhân của Ngài nói Ngài “mất trí”, các kinh sư thì bảo Ngài “bị thần ô uế ám!”.

Tại sao những người đương thời ‘vu vạ’ cho Chúa Giêsu những hạn từ đó?

Giáo Hội hôm nay thì sao? Thế gian nói gì về những con người bảo vệ Giáo Hội khỏi tinh thần thế tục?

Thưa bởi lẽ, ma quỷ luôn muốn thấy một Giáo Hội không bao giờ chấp nhận bất kỳ rủi ro nào, không bao giờ lên tiếng với sự thật và chỉ tập trung vào việc an thân, thoải mái và hiểu biết về kinh doanh. Đức Phanxicô nói, “Ngôn sứ luôn bị bắt bớ vì họ gây xáo trộn; bởi lẽ, họ tố cáo tinh thần thế tục trong Giáo Hội; và điều này khiến họ bị tẩy chay!”.

Ngài nói, “Tuy nhiên, một Giáo Hội không tử đạo sẽ gây ra sự ngờ vực; một Giáo Hội không chấp nhận rủi ro sẽ rất đáng nghi; một Giáo Hội sợ rao giảng về Chúa Giêsu Kitô và xua đuổi ma quỷ, ngẫu tượng và các chúa khác là tiền bạc, danh vọng thì không phải là Giáo Hội của Chúa Kitô!”. “Khi Giáo Hội trở nên thờ ơ, yên tĩnh, mọi thứ đều ngăn nắp, không có vấn đề gì, hãy xem Giáo Hội làm được cái gì? Bởi vì ma quỷ luôn lẻn vào túi!”.

Chúa Giêsu bị người ta ‘vu vạ’ là “mất trí, bị quỷ ám” thì ngày nay, nếu sống như Ngài - với các giá trị Kitô giáo - chắc chắn chúng ta cũng sẽ bị ‘vu vạ’ theo cách tương tự. Vì ngày nay, có nhiều lời dạy của Chúa Giêsu mâu thuẫn với những tuyên bố đầy kiêu hãnh của các nhà lãnh đạo dân sự. Vì thế, Chúa Giêsu đặt trước chúng ta một thách thức: Bạn và tôi có dám lao vào sự điên rồ mà Ngài đã bị ‘vu vạ’ không? Liệu chúng ta có dám rời xa điều mà Đức Phanxicô gọi là Kitô giáo mơ hồ, thoải mái và yên tĩnh không?

Chúa Giêsu đã phản ứng bằng những lời chắc chắn và rõ ràng, “Ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời!”. Đó là vì họ đã nói: “Ông ấy bị thần ô uế ám”. Ngài không tha thứ cho điều này, bởi vì các kinh sư đã không nhận ra rằng, họ đang rơi vào tội lỗi trầm trọng nhất: chối bỏ và báng bổ Tình Yêu của Thiên Chúa hiện diện và hoạt động trong Chúa Giêsu. Và phạm thượng - tội chống lại Chúa Thánh Thần - là một tội không thể tha thứ bởi nó xuất phát từ việc khép kín tâm hồn trước lòng thương xót của Thiên Chúa hành động nơi Chúa Giêsu.

Anh Chị em,

“Ông ấy bị thần ô uế ám!”. Tình tiết này chứa đựng một lời khuyên hữu ích cho chúng ta. Thật vậy, lòng ghen tị sâu sắc đối với lòng tốt và việc tốt của một ai đó có thể khiến chúng ta buộc tội người đó một cách sai lầm! Đây là chất độc gây chết người thực sự, nó có tên là “Ác ý”, theo cách có tính toán trước, khi một người muốn huỷ hoại danh tiếng tốt đẹp của người khác. Đức Phanxicô nói, “Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi cơn cám dỗ khủng khiếp này! Và nếu khi xét mình, chúng ta nhận ra rằng cỏ dại này đang mọc lên trong lòng, hãy đi xưng tội ngay trước khi nó phát triển và gây ra những hậu quả xấu xa không thể chữa khỏi. Hãy cẩn thận, vì thái độ này hủy hoại gia đình, tình bạn, cộng đồng và thậm chí cả xã hội!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con - dù chỉ một lần - ‘vu vạ’ ai; nhưng cho con vui mừng mỗi khi bị ‘vu vạ’ vì Chúa, vì anh chị em mình!”, Amen.

 

Thứ hai: Mt 5,1-12

Suy niệm 1:

1. Tâm hồn nghèo khó và hiền lành:

Đức Giêsu khẳng định sự nghèo khó và hiền lành không phải là sự yếu đuối, mà là dấu hiệu của lòng tin tưởng và phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Người nghèo khó về tâm hồn là người biết rằng mọi sự đều từ Thiên Chúa mà đến, và không cậy dựa vào của cải vật chất.

2. Sầu khổ và khao khát công chính:

Những ai chịu đau khổ và khó khăn trong cuộc sống sẽ được Thiên Chúa ủi an. Đồng thời, những người khao khát công chính sẽ được Thiên Chúa thoả lòng. Đây là lời hứa của Thiên Chúa cho những ai sống theo lẽ phải và công bình.

3. Xót thương và trong sạch:

Lòng thương xót và tâm hồn trong sạch là hai đức tính quan trọng mà Đức Giêsu khuyến khích. Khi chúng ta biết xót thương người khác, chúng ta sẽ nhận được sự xót thương của Thiên Chúa. Tâm hồn trong sạch giúp chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa trong cuộc sống hàng ngày.

4. Xây dựng hòa bình và bị bách hại vì công chính:

Đức Giêsu kêu gọi chúng ta trở thành người xây dựng hòa bình, làm con của Thiên Chúa. Sống công chính và bị bách hại vì danh Chúa là một vinh dự, vì phần thưởng lớn lao đang chờ đợi chúng ta ở trên trời.

- Vui mừng trong thử thách:

Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta vui mừng và hớn hở khi bị sỉ vả và bách hại vì danh Người, vì phần thưởng của chúng ta ở trên trời thật lớn lao.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con biết sống theo các Mối Phúc mà Chúa đã dạy. Xin cho chúng con có tâm hồn nghèo khó, hiền lành, biết xót thương và trong sạch. Xin cho chúng con biết xây dựng hòa bình và vui mừng trong mọi thử thách, để chúng con luôn cảm nhận được tình yêu và sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Amen.

 

Suy niệm 2:

Bài đọc Tin Mừng hôm nay mang đến cho chúng ta những lời hứa đầy hy vọng và niềm vui cho những ai sống theo Lời Chúa.

1. Phúc thay cho những ai...

* Nghèo khó trong tinh thần:  Đây là những ai ý thức mình hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa, luôn khao khát sự cứu rỗi của Ngài.

* Đau khổ:  Đây là những ai chấp nhận hy sinh, chịu đựng vì danh Đức Giêsu và Tin Mừng.

* Hiền lành:  Đây là những ai sống hiền hòa, nhẫn nại, biết tha thứ và yêu thương mọi người.

* Đói khát sự công chính:  Đây là những ai luôn khao khát và nỗ lực xây dựng một thế giới công bằng, bác ái.

* Có lòng nhân từ:  Đây là những ai biết yêu thương, giúp đỡ người khác, đặc biệt là những người nghèo khổ, yếu đuối.

* Có lòng trong sạch:  Đây là những ai có tâm hồn thanh tao, trong trắng, không vướng bận những đam mê, dục vọng thấp hèn.

* Hoạt động cho hòa bình:  Đây là những ai luôn nỗ lực xây dựng hòa bình, đoàn kết trong cộng đồng và xã hội.

* Bị bách hại vì lẽ công chính:  Đây là những ai dám sống và hy sinh vì Tin Mừng, dù phải đối mặt với thử thách, gian nan, thậm chí là bách hại.

2. Lời hứa của Chúa Giêsu:

Chúa Giêsu hứa ban Nước Trời cho những ai sống theo những lời khuyên này. Nước Trời là niềm vui, hạnh phúc viên mãn, là sự sống vĩnh cửu mà Thiên Chúa hứa ban cho những ai tin vào Ngài và sống theo Lời Ngài.

3. Mời gọi:

Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta sống theo những lời khuyên của Chúa Giêsu để được hưởng hạnh phúc Nước Trời.

* Hãy sống nghèo khó trong tinh thần:  Hãy ý thức mình hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa, luôn cầu xin sự trợ giúp và ơn cứu rỗi của Ngài.

* Hãy chấp nhận hy sinh, chịu đựng vì danh Đức Giêsu và Tin Mừng:  Hãy sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thử thách trong cuộc sống vì lòng yêu mến Chúa và Tin Mừng.

* Hãy sống hiền hòa, nhẫn nại, biết tha thứ và yêu thương mọi người:  Hãy làm cho cuộc sống của bạn trở nên chứng tá cho tình yêu thương của Thiên Chúa.

* Hãy luôn khao khát và nỗ lực xây dựng một thế giới công bằng, bác ái:  Hãy tham gia vào các hoạt động xã hội để góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.

* Hãy biết yêu thương, giúp đỡ người khác, đặc biệt là những người nghèo khổ, yếu đuối:  Hãy chia sẻ tình yêu thương của bạn với mọi người xung quanh.

* Hãy giữ gìn tâm hồn thanh tao, trong trắng:  Hãy tránh xa những đam mê, dục vọng thấp hèn.

* Hãy luôn nỗ lực xây dựng hòa bình, đoàn kết trong cộng đồng và xã hội:  Hãy góp phần xây dựng một thế giới tràn đầy yêu thương và hòa bình.

* Hãy dám sống và hy sinh vì Tin Mừng, dù phải đối mặt với thử thách, gian nan, thậm chí là bách hại:  Hãy tin tưởng rằng Thiên Chúa luôn ở bên cạnh và sẽ ban cho bạn sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn.

Sống theo những lời khuyên của Chúa Giêsu không phải là điều dễ dàng, nhưng nó là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực.

Hãy cầu xin Chúa Giêsu ban cho bạn ơn sức để có thể sống theo Lời Ngài và được hưởng hạnh phúc Nước Trời. (St)

 

Thứ ba: Mt 5,13-16

Suy niệm 1:

Bài đọc 1 thuật lại câu chuyện về tiên tri Êlia và bà góa thành Sarepta. Khi Êlia gặp bà góa và yêu cầu bà làm bánh cho ông, bà cho biết chỉ còn một chút bột và dầu, đủ để làm một bữa cuối cùng cho bà và con trai trước khi họ chết đói. Tuy nhiên, Êlia đã khuyên bà tin tưởng vào Lời Chúa và hứa rằng bột và dầu sẽ không bao giờ cạn cho đến khi Chúa ban mưa xuống đất. Bà góa đã tin và làm theo lời của Êlia, và như lời hứa, bột và dầu không bao giờ cạn.

Bài học: Sự tin tưởng vào Chúa và sự phục vụ vô điều kiện mang lại những phép lạ không ngờ. Dù trong những lúc khó khăn, nếu chúng ta tin tưởng và làm theo lời Chúa, Ngài sẽ luôn chăm sóc và bảo vệ chúng ta. Trong những lúc khó khăn, chúng ta nên cầu nguyện và đặt niềm tin vào Chúa, vì Ngài là nguồn an ủi và hy vọng của chúng ta.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của Ngài phải trở nên muối đất và ánh sáng thế gian. Muối thì giữ gìn và làm tăng hương vị, còn ánh sáng thì soi đường cho người khác. Chúa Giêsu khuyến khích các môn đệ sống một cuộc sống tốt lành để mọi người có thể thấy và tôn vinh Thiên Chúa.

Bài học: Chúng ta được mời gọi trở thành muối và ánh sáng trong thế giới này, tức là sống một cuộc đời gương mẫu và làm việc thiện để phản chiếu tình yêu và vinh quang của Thiên Chúa.

Tóm lại: Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ về sự tin tưởng và sự dấn thân phục vụ trong cuộc sống của mỗi người. Giống như bà góa thành Sarepta, chúng ta có thể đối diện với những hoàn cảnh khó khăn và thử thách. Tuy nhiên, nếu chúng ta đặt niềm tin vào Chúa và sẵn sàng phục vụ người khác, Chúa sẽ không bao giờ để chúng ta thiếu thốn.

Chúng ta cũng được nhắc nhở rằng mình phải trở thành muối và ánh sáng cho thế gian, bằng cách sống đời sống gương mẫu và làm những việc thiện lành để tôn vinh Thiên Chúa. Hãy nhớ rằng, mỗi hành động nhỏ của chúng ta có thể mang lại sự thay đổi lớn lao cho những người xung quanh.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con lòng tin tưởng mạnh mẽ vào Ngài, để dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng con cũng biết đặt niềm tin vào tình yêu và sự chăm sóc của Ngài. Xin giúp chúng con trở thành muối và ánh sáng cho thế gian, để qua cuộc sống của chúng con, mọi người có thể nhận ra và tôn vinh Ngài. Amen.

 

Suy niệm 2: KHUYẾN KHÍCH

“Các con hãy đi!”.

“Những con ngỗng ở phía sau đội hình phát ra tiếng kêu. Tôi cho rằng đó là cách chúng thông báo rằng, chúng đang theo dõi và mọi việc đều ổn. Những tiếng kêu lặp đi lặp lại hẳn sẽ khuyến khích những con đi trước tiếp tục bay. Bản năng của loài ngỗng là làm việc cùng nhau, khích lệ nhau. Cho dù đó là quay, vỗ, trợ lực hay chỉ đơn giản là kêu lên… Điều này cho phép chúng hoàn thành những gì đã đặt ra!” - Chuck Swindoll.

Kính thưa Anh Chị em,

Ý tưởng từ ‘đàn ngỗng đang bay’ của Chuck Swindoll đưa chúng ta về Lời Chúa ngày lễ kính thánh Barnaba. Qua đó, bạn và tôi - dù ở đấng bậc nào - vẫn luôn ý thức trách nhiệm của mình trong Giáo Hội, đó là ‘khuyến khích’ nâng đỡ người khác, “Các con hãy đi!”.

Công Vụ Tông Đồ tường thuật cuộc viếng thăm của Barnaba. “Barnaba”, tiếng Hy Lạp có nghĩa là ‘Con của sự khuyến khích!’. Từ Giêrusalem, Barnaba được cử xuống Antiôkia để xem xét hiện tình. Vui mừng khi thấy “ơn Thiên Chúa”, Barnaba “khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa”; ông dành cho anh chị em tân tòng một sự khích lệ lớn lao. Sau đó, đến Taxô, Barnaba tìm Phaolô, người mới tin; đưa Phaolô đi Antiôkia để hỗ trợ cho Hội Thánh non trẻ này. Hội Thánh ngày càng có nhiều người tin; Thánh Vịnh đáp ca bộc lộ nỗi vui, “Chúa đã mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân!”.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói những lời đầy ‘khuyến khích’ với các môn đệ, “Các con hãy đi rao giảng: Nước Trời đã đến gần. Hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết trỗi dậy, cho người mắc bệnh phong được sạch, và khử trừ ma quỷ!”. Ma quỷ vui mừng mỗi khi chúng ta nói và hành xử tiêu cực làm cho người khác nhụt chí. Nó mở tiệc lớn mỗi khi ai đó nói một lời chua cay làm tan nát một cộng đoàn, một gia đình. Vì thế, chúng ta phải tỉnh thức đề phòng và ra sức ‘khuyến khích’ nhau. Cha mẹ khuyến khích con cái, con cái khuyến khích cha mẹ; anh chị em, bạn bè khích lệ nhau để “hoàn thành những gì đã đặt ra”. Bởi lẽ, chúng ta không lên thiên đàng một mình!”.

Đức Phanxicô nói, “Đời sống Kitô hữu là phục vụ. Thật là buồn khi thấy các Kitô hữu sẵn sàng phục vụ dân Chúa, nhưng cuối cùng lại ‘sử dụng’ dân Chúa. Ơn gọi của chúng ta là ‘phục vụ’ chứ không phải ‘sử dụng’. Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta luôn có nguy cơ sa vào vấn đề ‘lời lỗ’, chúng ta hối lộ Chúa. Đó không phải là con đường đúng… Mối quan hệ nhưng không với Chúa là điều sẽ giúp chúng ta có được mối quan hệ tương tự với người khác. Đời sống Kitô hữu có nghĩa là bước đi, rao giảng, ‘khuyến khích’ và phục vụ, nhưng đừng lợi dụng người khác!”.

Anh Chị em,

“Các con hãy đi!”. Noi gương thánh Barnaba, chúng ta ra đi mở mang Nước Chúa trong đấng bậc mình. Và rõ ràng, ‘mục vụ khuyến khích’, ‘văn hoá khuyến khích’ luôn luôn đóng một vai trò nhất định, không chỉ trong các Hội Thánh non trẻ, mà cả với Giáo Hội trưởng thành và ngay trong thế giới hiện đại. Không chỉ trong Giáo phận, Giáo xứ, các hội đoàn mà còn trong gia đình, trong các tổ chức lớn nhỏ. Bạn và tôi hãy là những con người dám dấn thân, những con người sẵn sàng vực dậy những ai đang bủn rủn, đầu gối rã rời!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con luôn là một con người đầy lửa, sẵn sàng thắp sáng và sưởi ấm tình yêu Chúa trong một thế giới khá lạnh lẽo này!”, Amen.

(Lm Minh Anh, Tgp Huế)

 

Thứ tư: NHỮNG CHI TIẾT CỦA TÌNH YÊU

“Trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi!”.

“Cái chết không dập tắt được ánh sáng của người Kitô hữu; nó như ngọn đèn đang tắt vì bình minh đã đến. Thật là tồi tệ khi sợ hãi điều không thể tránh khỏi. Khi chết chúng ta để lại đằng sau tất cả những gì chúng ta có và mang theo tất cả những gì chúng ta là. Điều quan trọng là tình yêu với những chi tiết của nó!” - Tertullien.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay chứng thực điều mà giáo phụ Tertullien cho là quan trọng - tình yêu, với những chi tiết của nó! Với Chúa Giêsu, ‘những chi tiết của tình yêu’ được thể hiện qua việc yêu mến Lề Luật, và dù là nhỏ, nó vẫn có tầm quan trọng lớn. Ngài nói, “Trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi!”.

Dưới ánh sáng của sự hoàn hảo, khi các chi tiết nhỏ nhất trong lề luật được chú ý, thì luật đó càng được tôn trọng ở mức độ lớn nhất. Và thật bất ngờ, đây là một hành vi đức tin! Chỉ những ai có đức tin mới có thể tận tuỵ với những chi tiết phải giữ, phải làm vì tình yêu. Chúa Giêsu không đến để huỷ bỏ, nhưng để đưa Lề Luật lên một cấp độ cao hơn, tế nhị hơn, kể cả những chi tiết; từ văn tự trên bia đá, Ngài hướng đến tình yêu khắc trong tim, viết trong hồn. Cấp độ cao hơn đó là cấp độ đức tin! Tầm nhìn của Ngài về Lề Luật giúp con người nhận thức nó trong một ánh sáng mới, ánh sáng Thánh Thần!

Giáo phụ Chromatius viết, “Trong khi bỏ qua điều răn nhỏ nhất là tội, thì càng là tội đối với những điều răn lớn nhất!”. Mọi điều phải được bảo tồn, trung thành dạy dỗ và tận tuỵ thực thi. Những điều nhỏ được coi là ít quan trọng đối với những người không tin hay bởi thế gian lại không hề nhỏ trước mặt Thiên Chúa; nó thật cần thiết! Điều nhỏ nhặt chỉ ra tương lai lớn lao của thiên đàng. Phần lớn các thánh trên trời là người đã làm những việc nhỏ!

Thật thú vị, bài đọc Các Vua hôm nay kể chuyện Êlia, một người hết lòng vì Chúa và Lề Luật. Ông thách thức 450 sư sãi Baal cầu xin thần của mình giáng lửa thiêu đốt của lễ. Các thầy sãi đã thất bại! Phần Êlia, ông tự tin một cách tuyệt vời và đã làm tất cả thật chi tiết. Ông lấy đá làm bàn thờ, đào mương; xếp củi, xẻ con bò ra từng miếng, đặt trên củi; bảo người ta lấy nước rưới lên đến mấy lần. Lửa trời giáng xuống thiêu đốt của lễ ông dâng. Êlia chiến thắng! Thánh Vịnh đáp ca thật ý nghĩa, “Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con, vì bên Ngài, con đang ẩn náu!”.

Anh Chị em,

“Điều quan trọng là tình yêu với những chi tiết của nó!”. Lời Chúa mời gọi chúng ta nghĩ đến những ai Chúa đặt trong cuộc đời mình; cách riêng với các thành viên trong gia đình, trong cộng đoàn. Liệu bạn có chú ý đến từng hành động nhỏ nhất của lòng nhân ái? Liệu bạn có thường xuyên tìm cơ hội để đưa ra một lời động viên đầy yêu thương? Bạn có nỗ lực, cả trong những chi tiết nhỏ nhất, để thể hiện rằng, bạn quan tâm và đang ở đó để chăm sóc họ? Tình yêu nằm ở các chi tiết; và ‘những chi tiết của tình yêu’ lại làm sáng tỏ vinh quang Thiên Chúa và Lề Luật Ngài!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con chạy theo những gì to tát; cho con biết chắt chiu từng cơ hội - dù là nhỏ nhất - để thể hiện tình yêu của con dành cho Chúa và anh chị em con!”, Amen.

(Lm Minh Anh, Tgp Huế)

 

Thứ năm: ĐỒNG XU XÓT THƯƠNG

“Anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng!”.

Chuyện kể về Augustin Dupré, người thiết kế các đồng xu; đặc biệt, “Đồng Xu Thiên Thần”. Bị kết án tử hình, Dupré nắm chặt đồng xu trong tay và cầu nguyện; nhìn thấy nó, viên đao phủ cho phép ông trao đổi nó để giữ lấy mạng sống. Từ đó, việc sở hữu “Đồng Xu Thiên Thần” đồng nghĩa với việc sở hữu ‘đồng xu may mắn’. Napoléon từng giữ bên mình đồng xu đó suốt hành trình chinh phục châu Âu cho tới khi ông thất lạc nó. Đó là thời điểm ngay trước trận Waterloo diễn ra, chiến bại lịch sử của ông!

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay không chỉ nói đến ‘đồng xu may mắn’; nhưng còn hơn thế, nói đến ‘đồng xu xót thương!’. Thoạt nghe, “Anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng!”, chúng ta có thể nghĩ đến một cảnh báo đáng sợ! Không! Đồng xu phải trả Chúa Giêsu nói ở đây là ‘đồng xu xót thương’, một hành động của tình yêu!

Chìa khoá để hiểu điều này là Chúa Giêsu muốn chúng ta hoà giải với Thiên Chúa, với anh chị em mình sớm nhất có thể. Ngài muốn tất cả giận dữ, đắng cay và oán hờn phải được loại khỏi tâm hồn, “Hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công!”. Nói cách khác, hãy giao hoà trước khi bạn ra trước toà Chúa. Sự công thẳng của Chúa hoàn toàn được thoả mãn khi chúng ta nhận lỗi và tìm cách sửa lỗi; đồng thời, tha thứ cho anh chị em mình. Như thế, mỗi “đồng xu” được thanh toán là ‘đồng xu xót thương!’.

Một điều mà Thiên Chúa không bao giờ chấp nhận, đó là sự cố chấp. Ngài sẽ thi hành công lý cho đến khi chúng ta “trả hết đồng xu cuối cùng”, nghĩa là biết hối cải và biết tha thứ. Đây là một hành động xót thương của Ngài, Đấng luôn đợi chờ. Sự phán xét của Ngài chỉ tập trung vào tội lỗi, điều duy nhất cản trở tình yêu. “Trả hết đồng xu cuối cùng” còn được coi là hình ảnh của Luyện Ngục. Chúa Giêsu đề nghị chúng ta thay đổi cuộc sống mình ngay bây giờ, tha thứ và ăn năn ngay bây giờ! Hãy có cho mình những ‘đồng xu xót thương!’; bằng không, chúng ta vẫn phải đối mặt với những tội lỗi đó sau khi chết. Tốt hơn, hãy làm những gì có thể khi còn kịp!

Anh Chị em,

“Hãy làm những gì có thể khi còn kịp!”. Như Dupré, bạn và tôi có đồng xu may mắn; nhưng, như Dupré, chúng ta còn phải cầu nguyện. Phải cầu nguyện để có thể vượt qua sự cố chấp chết chóc hầu có thể làm hoà với Chúa, với anh chị em mình; có thể tha thứ cho họ. Bài đọc Các Vua hôm nay cho thấy mẫu gương cầu nguyện tuyệt vời của Êlia! Giữa lúc hạn hán, đất nước sắp diệt vong vì đói, vua quan lo lắng, thì “Êlia đã lên đỉnh Carmel, ông cúi xuống đất, gục mặt vào hai đầu gối” để cầu nguyện. Chúa đã cho mưa đổ xuống! Cũng thế, Chúa sẽ đổ mưa lênh láng xuống lòng chúng ta; ‘đồng xu xót thương’ bấy giờ sẽ là một ‘cánh đồng xót thương’, ‘dòng sông xót thương’, ‘biển trời xót thương’ khi chúng ta giao hoà cùng Chúa, cùng tha nhân. Và với Êlia, vua tôi Israel, chúng ta ngợi khen, “Lạy Thiên Chúa, ca tụng Ngài ở Sion, thật là chính đáng!” - Thánh Vịnh đáp ca.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, để con có thể tận hưởng tự do, xin dạy con biết tận dụng ‘đồng xu xót thương’ bao lâu còn kịp!”, Amen.

(Lm Minh Anh, Tgp Huế)

 

Suy niệm 2:

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về tình yêu và lòng từ bi của Chúa đối với mọi người. Chúng ta được nhắc nhở rằng khi chúng ta làm ý muốn Thiên Chúa, chúng ta trở thành anh em chị em của Chúa Giêsu. Điều này đòi hỏi chúng ta sống trong tình yêu và lòng từ bi không điều kiện.

Chúa Giêsu phản đối sự phân biệt và xem thường người khác. Ngài muốn chúng ta sống trong sự đoàn kết và yêu thương mọi người, bất kể họ thuộc gia đình hay người xa lạ với chúng ta. Đó là cách để chứng tỏ tình yêu của Đức Kitô và sống theo lời dạy của Ngài.

Hôm nay, hãy suy niệm về tình yêu thương không điều kiện mà Chúa dành cho bạn và xem xét liệu có bao nhiêu việc bạn có thể áp dụng trong cuộc sống hàng ngày để truyền bá thông điệp tình yêu này cho mọi người xung quanh bạn. Hãy làm cho tình yêu thương trở thành con đường duy nhất mà bạn tiếp cận với mọi người, giống như Chúa Giêsu đã làm khi Ngài còn ở giữa chúng ta.

Hãy suy niệm về lòng từ bi và tình yêu thương không điều kiện của Chúa dành cho chúng ta, và xem xét liệu có bao nhiêu việc chúng ta có thể áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. (St)

 

Thứ sáu: ÂM THANH CỦA THINH LẶNG

“Lạy Chúa, con tìm thánh nhan Ngài!”.

Dù rất yêu quý sự thinh lặng, một nhà sư trẻ vẫn rời chùa. Lý do, chùa không còn yên tỉnh! Anh xin nhập một thiền viện. Sau 10 năm, sư cụ thỉnh ý anh; anh đáp, “Ăn tệ!”. 10 năm sau, anh nói, “Ngủ tệ!”. 10 năm nữa trôi qua, anh thưa, “Tôi đi!”. Sư cụ bảo, “Điều đó không làm tôi ngạc nhiên! Bạn nói, bạn yêu quý thinh lặng; nhưng bạn đã không làm gì khác, ngoài phàn nàn! Làm sao bạn có thể nghe được âm thanh của thinh lặng?”.

Kính thưa Anh Chị em,

‘Âm thanh của thinh lặng’ cũng là những gì chúng ta sẽ khám phá qua Lời Chúa hôm nay; đặc biệt, với Thánh Vịnh đáp ca, “Lạy Chúa, con tìm thánh nhan Ngài!”. Chính trong thinh lặng, Thiên Chúa hiện diện! Và cũng chính trong thinh lặng, Thiên Chúa nói!

Ở một mức độ nào đó, tất cả chúng ta đều là những con người đi tìm Thiên Chúa, “Linh hồn con những khắc khoải cho đến khi được an nghỉ trong Chúa!”. Chính cuộc tìm kiếm liên lỉ này khiến chúng ta trở thành những con người hành hương hướng về Chúa. Êlia là một người tìm Chúa. Ông lên đường đến núi Horeb; ở đó, ông gặp Chúa, nhưng không theo cách ông mong đợi - bài đọc một. Trong nền văn hoá thời bấy giờ, người ta mong đợi thần minh tỏ mình qua những hiện tượng kỳ lạ của thiên nhiên như trong lửa, bão tố hoặc động đất; tuy nhiên, Thiên Chúa tỏ mình cho Êlia một cách tế nhị và khiêm tốn - “trong tiếng gió hiu hiu” - hoặc thú vị hơn, trong ‘âm thanh của thinh lặng!’.

Thật không dễ để chúng ta có được ‘thinh lặng’ trong thời đại ngày nay; vậy mà, chính ở đó, Thiên Chúa tỏ mình cách tỏ tường hơn cả. Bởi thinh lặng không phải là nét đặc trưng của nền văn hoá chúng ta; vì thế, bạn và tôi phải tìm kiếm nó. Một khi trở nên hoà hợp với Thiên Chúa, dù Ngài chỉ ‘lướt qua’, chúng ta vẫn được Ngài ban sức mạnh để có thể nghe điều Ngài dạy, làm điều Ngài muốn; đồng thời, biết sống mối tương quan với người khác cách đúng đắn, trong sự tôn trọng họ như Chúa Giêsu mời gọi.

Sự tôn trọng mỗi người dành cho tha nhân được Chúa Giêsu nói đến hôm nay cũng chỉ hiểu được khi chúng ta chìm sâu trong thinh lặng. Liên quan đến sự tinh tuyền của trái tim, Ngài coi nhu cầu về sự trong sạch ở một cấp độ cao hơn so với Cựu Ước, vốn dạy “chớ ngoại tình”. Ngài nói, nhìn một người nữ với ham muốn đã là tội! Ngài không nói, công nhận một người khác phái xinh đẹp là tội; nhưng là tội khi xem người đó như một đồ vật với suy nghĩ vạy vò trong lòng. Nói cách khác, bản thân sự cám dỗ không phải là tội; chính khi dung dưỡng cám dỗ đó trong tim, dành cho nó một ‘chỗ ở’, đú đởn bỡn nhả với nó trong tâm trí… là chúng ta đã bước qua lằn ranh đỏ!

Anh Chị em,

“Lạy Chúa, con tìm thánh nhan Ngài!”. Để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống và nhất là trong tha nhân, Chúa Giêsu mời chúng ta chìm sâu vào ‘âm thanh của thinh lặng’. Ngài mời chúng ta dìm mình trong cầu nguyện; để từ đó, có khả năng không chỉ thay đổi hành vi mà còn thay đổi tấm lòng. Sự biến đổi nội tâm này nếu hiểu theo nghĩa Thánh Kinh là công việc của Thánh Thần; vì chỉ Thánh Thần mới có sức mạnh đổi mới lòng người, thanh tẩy mọi ước muốn lăng loàn và gột sạch những ý định xấu xa.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con chỉ biết phàn nàn, nhưng ham thích cầu nguyện; vì biết rằng, Chúa thường xuất hiện trong tiếng gió hiu hiu và chỉ nói trong im ắng!”, Amen.


Lm. Minh Anh, Tgp Huế

Thứ bảy: TRUNG THỰC

“Đừng thề chi cả!”.

“Một đứa trẻ sống trong sự chỉ trích, nó sẽ học cách lên án. Một đứa trẻ sống trong sự thù địch, nó sẽ học cách đánh nhau. Một đứa trẻ sống trong sự khích lệ, nó sẽ học được sự tự tin. Một đứa trẻ sống trong tình yêu, nó sẽ học được rằng, thế giới là một nơi tuyệt vời để sống. Một đứa trẻ sống với sự trung thực, nó sẽ học được sự thật là gì!” - Anon.

Kính thưa Anh Chị em,

“Một đứa trẻ sống với sự trung thực, nó sẽ học được sự thật là gì!”. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến sự ‘trung thực’; Ngài nói với các môn đệ, “Thầy bảo cho các con biết: đừng thề chi cả!”.

Ở đây, Chúa Giêsu không nói đến những hình thức tuyên khấn trước Thiên Chúa và Giáo Hội. Thay vào đó, Ngài nói đến một thói quen mà một số người thường làm; theo đó, họ thường thề thốt nhân danh Chúa về tính ‘trung thực’ của những gì họ nói. Đó là những người cần một thứ gì đó trang trọng, thiêng liêng; và như thế, bất cẩn biến nó thành một thứ bình thường. Thực ra, không cần “thề với Chúa” về mọi điều mình nói.

Trước hết, nếu một người cảm thấy cần phải thường xuyên kêu cầu danh Chúa để thuyết phục người khác về tính ‘trung thực’ của họ, thì rất có thể họ đang đấu tranh với sự thiếu trung thực. Việc thề thốt thường xuyên dường như giả định trước một xu hướng xấu - nói dối! Vì lý do đó, sẽ không lý tưởng khi thực hiện các tương tác hàng ngày của một người với ‘tiền giả định’ - xu hướng nói dối - này. Với tư cách là Kitô hữu, chúng ta phải cố đạt được khuynh hướng căn bản về sự ‘trung thực’, “‘Có’ thì phải nói ‘có’, ‘không thì phải nói ‘không’; thêm thắt điều gì là do ác quỷ!”. Nói cách khác, hãy nỗ lực để trở thành một người ‘trung thực’ và chính trực; chân thành trong mọi lời nói việc làm và đừng bắt đầu với giả định là không trung thực. Hãy trung thực và chân thành, thế là đủ!

Hơn nữa, nếu một người suốt ngày thề thốt trung thực nhân danh Chúa, điều này sẽ làm giảm đi tính trang trọng của một số ít lần khi đây là một thực hành tốt và thánh thiện. Lời thề của các đôi bạn trong Bí tích Hôn Phối, hay của các linh mục ngày thụ phong là độc nhất và trang trọng. Việc công khai đổi mới đức tin của chúng ta trong Giáo Hội; một người bắt đầu đảm nhận trách nhiệm của một cơ quan công quyền nào đó, hoặc bất kỳ cơ hội tuyên thệ trang trọng nào khác phải được coi là một dịp đặc biệt. Vì vậy, những cam kết hàng ngày của chúng ta phải đơn giản là kết quả của sự liêm chính với tư cách là con cái Chúa.

Anh Chị em,

“Đừng thề chi cả!”; “Sống trung thực, bạn sẽ học được sự thật là gì!”. Hôm nay, hãy suy gẫm về cách tiếp cận hàng ngày của bạn đối với sự ‘trung thực’ và chân thành. Ngày sống của bạn có mục tiêu là sống trong sự thật, nói sự thật và tìm kiếm sự thật không? Bạn có thành thật với người khác, tìm kiếm sự giao tiếp tốt và rõ ràng với họ không? Hãy suy gẫm những câu hỏi này và biết rằng, sự ‘liêm chính nội tâm’ đòi hỏi những nhân đức trung thực và chân thành này. Hãy tìm kiếm sự chính trực đó và những người khác sẽ hưởng lợi khi họ ngày càng tin tưởng bạn hơn!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con biết xấu hổ và tự thẹn mỗi khi thiếu ‘liêm chính nội tâm’. Như một em bé, cho con luôn sống hồn nhiên, ‘trung thực!’”, Amen.

(Lm Minh Anh, Tgp Huế)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XIII THƯỜNG NIÊN CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN-NĂM B Kn 1,13-15; 2,23-24; 2Cr 8,7.9.13-15; Mc 5,21-43 Suy niệm 1: ...