SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN X THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN-B
St 3,9-15; 2Cr 4,13-5,1; Mc 3,22-30
Suy niệm 1:
Người Việt có
câu: “Yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm
mười”. Đây là câu tục ngữ, có ý nói khi yêu thương, quý
mến nhau thì dành cho nhau những lời vun vén đầy đặn và trao tặng cho nhau những thứ ngon ngọt; còn khi đã ghét nhau thì sẵn sàng lên án, chỉ chích loại trừ nhau; cư xử với nhau nhạt nhẽo và đắng
lòng.
Tin mừng hôm nay cho biết các Kinh sư vì thù ghét Chúa Giêsu nên họ đã tìm mọi cách để bôi xấu
hạ thấp uy tín của Người. Ngay cả những thực tại chân lý mà họ cũng cố tình bẻ cong và gán ghép những điều phi lý áp đặt lên Chúa Giêsu nhằm hãm hại Ngài.
Khi tận mắt chứng kiến
những phép lạ chữa bệnh và trừ quỷ Chúa Giêsu làm, phần đông dân chúng vui mừng
ngợi khen và tôn vinh, bên cạnh đó lại có những người vì sợ mất chỗ đứng và uy tín nên đem lòng ghen tỵ và tìm mọi cách để vu khống nhằm hạ bệ Người.
Cụ thể Tin mừng hôm nay, các Kinh sư đã phao tin ác ý rằng Chúa Giêsu đã bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám, nên Ngài đã dùng uy
thế của quỷ vương để trừ khử những quỷ nhỏ, với mục đích làm lung
lạc đức tin của dân chúng hầu lôi kéo niềm tin đám đông về phía họ mà loại trừ Đức
Giêsu.
Trước lời vu khống, bịa đặt
thiếu nền tảng ấy, Chúa Giêsu đã nhanh chóng đưa ra những luận cứ hết sức
thuyết phục, giúp dân chúng nhận ra giả tâm của họ.
Thứ nhất: “Đòan kết
là sức mạnh và là điều kiện chính để sinh tồn”, nên Satan không thể chống đối
lẫn nhau. “Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nào tự chia rẽ thì sẽ đổ
xuống. Nếu Satan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao
được?”. Bởi thế cho rằng Chúa Giêsu dựa thế Beelzebul mà trừ quỷ câm là
không đúng.
Thứ hai: Để tạo nên
sức mạnh chống lại Thiên Chúa và hãm hại con người, ma quỷ không ngu dại gì mà
làm hại thuộc hạ của nó. Bởi thế việc Chúa Giêsu trừ quỷ không phải là dựa vào
thế của quỷ vương. Nếu việc đó không do quỷ vương thì do đâu? Thưa do một quyền
lực mạnh hơn ma quỷ, tức là Thiên Chúa.
- Sau cùng Chúa dùng hình
ảnh kẻ cướp tấn công chủ nhà để lấy của và cho thấy rằng chỉ khi kẻ cướp mạnh
hơn chủ nhà thì mới không chế và tước hết của cải của chủ nhà, bằng không nó sẽ
bị chủ nhà tước lấy vũ khí và loại trừ. Như thế qua lời giải thích của
Chúa Giêsu minh chứng cho biết Đức Giêsu chính là Thiên Chúa đang hiện diện
giữa nhân loại.
Tuy nhiên, ma quỷ vốn là các
Thiên Thần đã sa ngã vì phản nghịc lại Thiên Chúa, nên tự sức con người không thể chống trả lại những mưu mô của ma quỷ, chỉ khi nào con người nương tựa vào sức
mạnh và quyền năng Thiên Chúa thì con người mới có thể vượt thắng được sức mạnh
khống chế của ma quỷ. Do đó, chúng ta cần phải nương tựa vào quyền năng của Chúa
nơi Đức Giêsu Kitô.
Qua đây, Chúa Giêsu cũng
cảnh báo với những ai cố tình chối bỏ chân lý và sống chai lì trong tội lỗi thì
không thể được TC tha thứ. Chúa cũng cho biết đó chính là tội xúc phạm đến Chúa
Thánh Thần. Cố tình chối bỏ chân lý để sống trong tội lỗi cũng đồng nghĩa với
tội loại trừ Chúa Thánh Thần ra khỏi tâm hồn mình vì thế không xứng đáng được
Chúa tha thứ.
Sở dĩ những người
Biệt Phái không tin nhận phép lạ của Chúa Giêsu thực hiện là vì họ ganh ghét Ngài.
Lòng ganh tỵ, ghen ghét làm cho con người trở nên mù quáng, không còn khả năng
nhận ra chân giá trị của sự thật nữa. Khi nuôi dưỡng hận thù trong lòng, người
ta dễ dàng tìm cách để boi xấu nhằm hãm hại người khác. Nhưng sự thật vẫn là sự
thật. Cố tình che đậy và không mở lòng đón nhận chỉ làm thiệt hại và gây bất
an, đau khổ cho chính bản thân mình mà thôi.
Câu chuyện: Có một
con đại bàng ganh tị với một con đại bàng khác vì con này bay cao hơn nó. Một
hôm con đại bàng ganh tị gặp một xạ thủ. Nó xúi anh bắn hạ đối thủ của nó.
Chàng xạ thủ đáp: “Được. Nhưng tôi không có tên.” Con đại bàng nhổ một cọng
lông cánh đưa cho chàng xạ thủ làm tên. Nhưng chàng bắn hụt. Vì quyết tâm hại
đối thủ của mình, con đại bàng ganh tị lại nhổ thêm một cọng nữa, rồi một cọng
nữa… cho tới khi hai cánh nhỏ trụi nhẵn. Nó không bay được nữa. Chàng xạ thủ
không bắn được con kia nên bắt lấy con đại bàng trụi cánh về làm thịt. Nếu bạn ganh tị muốn hại ai thì rốt cuộc bạn chỉ tổ hại chính bản
thân mình.
Xin cho chúng ta biết can
đảm loại trừ khỏi tâm hồn mầm móng của ganh tỵ, ghen ghét để ta có được cái
nhìn trong sáng mà nhận ra sự thật và chân lý; đồng thời cũng cho chúng ta biết
can đảm sống và làm chứng cho sự thật và chân lý theo sự hướng dẫn và thúc đẩy của
Chúa Thánh Thần.
Suy niệm 2:
Anh chị em thân mến,
Phụng vụ lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về gia đình
của Thiên Chúa, nơi mà mọi người được kết nối với nhau bởi tình thương và sự hiệp
thông.
Gia đình Thiên Chúa không chỉ giới hạn trong những người cùng
huyết thống, mà còn rộng mở cho tất cả những ai tin vào Chúa Giêsu và sống
theo lời Người.
1. Thiên Chúa dựng
nên con người theo hình ảnh của Người (Bài đọc 1)
Bài đọc 1 trích sách Sáng Thế, thuật lại câu chuyện A-đam và E-va
sa ngã trong vườn địa đàng. Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh của Người,
ban cho họ tự do và trách nhiệm. Tuy nhiên, A-đam và E-va đã không vâng lời
Thiên Chúa, dẫn đến hậu quả là họ bị trục xuất khỏi vườn địa đàng và phải chịu
cảnh đau khổ, bệnh tật và sự chết.
Câu chuyện này cho chúng ta thấy rằng con người vốn được tạo
dựng để sống trong tình yêu thương và sự hiệp thông với Thiên Chúa. Tuy nhiên,
do tội lỗi, con người đã đánh mất mối quan hệ này và phải chịu hậu quả.
2. Chúa Giêsu lập
nên gia đình mới (Phúc Âm)
Phúc Âm hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu tuyên bố những ai
làm theo ý muốn của Thiên Chúa là anh chị em và mẹ của Người.
Qua lời tuyên bố này, Chúa Giêsu muốn mở rộng gia đình của
Người không chỉ giới hạn trong những người cùng chung huyết thống, mà còn rộng
mở cho tất cả những ai tin vào Người và
sống theo lời Người.
Gia đình mới này được lập nền trên nền tảng tình yêu thương
và sự hiệp thông. Trong gia đình này, mọi người được đối xử bình đẳng, được yêu
thương và trân trọng.
3. Lời kêu gọi (Bài đọc 2)
Thánh Phaolô trong bài đọc 2 khích lệ chúng ta sống xứng đáng
với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi noi gương Chúa Giêsu,
sống yêu thương, tha thứ và phục vụ người khác.
Kết luận:
Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta ý thức về vai trò của mình
trong gia đình Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi sống yêu thương, tha thứ và phục
vụ người khác, góp phần xây dựng gia đình Thiên Chúa ngày càng vững mạnh và hạnh
phúc.
Xin cho chúng ta biết sống xứng đáng với ơn gọi làm con cái
Thiên Chúa, đó là biết yêu thương, tha thứ và phục vụ người khác, góp phần xây
dựng gia đình Thiên Chúa ngày càng vững mạnh và hạnh phúc. Amen.
Thứ hai: Mt
5, 1-12
Ở đời luôn
có hai mặt thật và giả. Hạnh phúc cũng vậy. Có những thứ đem đến cho con người
hạnh phúc thật. Tuy nhiên cũng có những thứ chỉ đem đến cho con người hạnh phúc
giả tạo, không bền lâu. Điều nghịch lý là ai cũng mong muốn có được hạnh phúc
thật, nhưng rồi lại thích đi tìm những thứ chỉ mang đến hạnh phúc giả tạo,
chóng qua.
Xã hội ngày
nay, nhiều người cho rằng hạnh phúc là có 1,2,3,4,5: một là vợ đẹp, hai là con
ngoan, ba là nhà 3 tấm, bốn là xe 4 bánh và năm là du lịch 5 châu. Thế nhưng
thực tế cho thấy, khi đạt được những điều mong ước ấy, con người vẫn không tìm
thấy hạnh phúc thật. Như thế thì tiền bạc của cải, vật chất tiện nghi, đam mê
lạc thú nơi trần gian không lấp đầy được khát vọng sâu xa nơi cõi lòng con
người và không là phương thế đưa đến hạnh phúc thật. Vậy ta phải làm gì để có
hạnh phúc thật?
Bài tin mừng
hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta biết những phương cách để đạt đến hạnh
phúc đích thực thật, đáp ứng được những khát vọng sâu xa nơi cõi lòng chúng ta.
Đó chính là bước đi trên con đường 8 mối phúc thật. Điều đáng nói là con đường
8 mối phúc thật mà Chúa Giêsu đề ra hình như đi ngược lại với suy nghĩ thực
dụng của con người thời nay và lắm khi trở thành xa lạ ngay cả đối với người
Kitô hữu chúng ta. Vì con người thời nay vẫn còn bám víu quá nhiều vào tiền
bạc, của cải, danh vọng, lạc thú... nên không dám chấp nhận những phương cách
mà Chúa Giêsu đề ra: là sống tinh thần khó nghèo, chấp nhận từ bỏ, đón nhận đau
khổ và hy sinh vì chính đạo để phục vụ tha nhân và nước Chúa.
Con đường 8
mối phúc không phải là viễn vong, mơ hồ hay bất khả thi nhưng là con đường
chính đạo. Bởi vì chính Chúa Giêsu Đức Giêsu đã kinh qua bằng chính đời sống
nghèo khó, hi sinh từ bỏ và hiến thân cho tha nhân vì nước trời. Do đó muốn có
hạnh phúc thật chúng ta không thể đi theo con đường nào khác ngoài con đường
Đức Giêsu đã đi và đã chỉ dạy vì chính Ngài đã đi và đã đạt đến vinh quang hạnh
phúc đích thực.
Xin Chúa
giúp chúng ta can đảm bước theo con đường mà Chúa Giêsu đã đi, bằng cách trung
thành thực thi 8 mối phúc thật mà Chúa Giêsu vạch ra, nhờ đó ta mới mong đạt
được điều mà mình khao khát là hạnh phúc đích thật. Amen.
Suy
niệm 2: Trả lời cho câu hỏi thế nào là hạnh phúc, hẳn là mười người có
mười câu trả lời khác nhau.
Có
người cho rằng ‘có tiền mua tiên cũng được’ nên phải có nhiều tiền thì mới hạnh
phúc.
Có
người chỉ cảm thấy hạnh phúc khi sở hữu thật nhiều của cải, được ăn sung mặc
sướng.
Có
người mong tìm thấy tột đỉnh hạnh phúc khi nắm giữ mọi quyền lực trong tay… Tuy
nhiên, tất cả những thứ đó lại không phải là hạnh phúc thật, bởi vì trước hết
chúng rất tạm bợ chóng qua, và sau nữa chúng cũng không làm thoả mãn được khát
vọng sâu thẳm nơi tâm hồn con người.
Chính vì thế, trong
bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giê-su dạy cho chúng ta biết có tám con đường đưa tới
hạnh phúc thật.
Cả tám con đường ấy
đều khác xa với quan điểm thông thường của con người về hạnh phúc, bởi vì điểm
đến chung của chúng là hạnh phúc tròn đầy và vĩnh cửu, và phải trải qua hy
sinh, đau khổ của thập giá mới có thể đạt tới được.
Mời Bạn: Hạnh phúc do Chúa ban
luôn ở trong tầm tay bạn nhưng đồng thời cái giá phải trả cũng không hề rẻ.
Muốn có được hạnh phúc của Chúa, bạn phải cố gắng và nỗ lực chiến đấu mỗi ngày
để đi theo con đường Tám mối phúc thật. Bạn có muốn “lội ngược dòng” đối với
thế gian để đi theo con đường này không?
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày chọn một mối
phúc, ví dụ chọn mối phúc hiền lành, để quyết tâm thực hiện và tiếp tục hôm sau
chọn thực hành một mối phúc khác.
Cầu nguyện: Hát hoặc đọc: “Nguyện
xin Chúa giúp con bắt đầu và lại bắt đầu. Này con chiến đấu, này con chiến
thắng, tươi sáng hy vọng.”
(Nguồn
http://tongdosongdao.org)
Thứ ba: Cv 11,21b-26.13,1-3; Mt 10,7-13
Nhớ Thánh Ba-na-ba, tông đồ.
Suy niệm 1:
Để thực hiện sứ mạng giải
thoát con người khỏi những đau khổ về thể xác và tinh thần, một mình Đức
Giêsu là đủ, vì Ngài là Thiên Chúa quyền năng. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại không
dùng cách thế đó. Trái lại Chúa mời gọi chúng ta cộng tác. Cụ thể bài Tin
Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chọn gọi các tông đồ, ban quyền chữa bệnh, trừ quỷ cho
các ông và sai các ông ra đi gieo rắc Bình an của Chúa cho mọi nhà, mọi
người. Sứ mạng thì to lớn, nhưng phận người lại bé nhỏ. Thế nên, Chúa
Giêsu ý thức các Tông đồ hãy cậy trông vào Chúa.
- Cậy trông vào Chúa, nên
tông đồ Barnaba đã sống tinh thần khó nghèo. Ngài sẵn sàng bán đi thửa
ruộng của mình có và đem bạc đặt dưới chân các Tông đồ (Cv 4,36-37).
- Cậy trông vào Chúa, tông
đồ Barnaba dễ dàng sống siêu thoát, sẵn sàng ra đi bất cứ nơi nào khi Giáo hội
muốn với tinh thần phó thác.
Sách Công vụ cho biết khi
được mọi người cử đi An-ti-ô-khi-a xem tình hình ở đó thực hư thế nào, Barnaba
đã sẵn sàng lên đường và khi Barnaba tới nơi thì thấy rõ đó là kết quả của “Ơn
Thiên Chúa” cho nên ông không nghi ngờ gì, trái lại còn “mừng rỡ và
khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa” ( Cv 11, 23-24).
Rồi khi nhận được bài sai
từ Thánh Thần: “Hãy dành riêng Barnaba và Saolô cho Ta, để lo công việc Ta
đã kêu gọi hai người ấy làm” (Cv 13, 2). Ông cùng với
Phaolô đã lên đường, nhiệt thành với công việc loan báo Tin Mừng cho lương dân,
âm vang Lời Chúa lan rộng ở các cộng đoàn nhất là ở Giêrusalem, Antiokhia ….
- Cậy trông vào Chúa,
Banaba đã khiêm tốn đón nhận mọi cảnh huống của cuộc sống, nhằm thi hành tốt sứ
mạng đem Bình an của Chúa cho mọi người. Bằng chứng là Ngài đã giúp Phaolô hoà
nhập với tông đồ đoàn tại Giêrusalem trong lần gặp mặt đầu tiên, khi mọi
người chưa dám tin Phaolô là tông đồ (x. Cv 9, 26-27); và sau đó hai
bên hoà thuận với nhau, cộng tác nhau vui vẻ (x. Cv 9, 28.30).
Cùng với Phaolô, ngài rao
giảng Tin Mừng cho dân ngoại, khiến họ vui mừng tôn vinh Lời Chúa… Lời Chúa lan
tràn khắp vùng. (Cv 14, 48-49). Rồi bênh vực họ trong hội nghị Giêrusalem (Cv
15, 12). Việc này góp phần làm cho kitô hữu gốc Do thái và kitô hữu gốc lương
dân hiểu nhau và sống hòa thuận với nhau trong cùng một niềm tin. Ngay cả khi
đụng độ với Phaolô về việc đem theo Mác-cô đi truyền giáo mà Thánh Phaolô không
muốn, nên họ to tiếng với nhau và chia tay nhau, thì Barnaba cũng được
thúc đẩy bởi tấm lòng khiêm tốn hòa giải vì ngài muốn cứu vớt một kẻ đã lỡ một
lần lỗi phạm (x. Cv 15, 37.39). Quả là ý định tốt lành của Barnaba đạt kết quả
tốt lành vì Mác-cô trở thành một tông đồ nhiệt thành và tác giả quyển Tin Mừng
thứ hai.
Bổn phận truyền giáo không
là việc của riêng ai mà là nhiệm vụ của mọi Kitô hữu. Mừng lễ Thánh Barnaba Tông đồ, là dịp chúng ta kiểm
xét lại chính mình, xem chúng ta đã góp được gì cho công cuộc truyền giáo, hay
chúng ta cũng chỉ là những kẻ cổ suý hô hào cho việc truyền giảng Tin Mừng bằng
môi miệng, mà cuộc sống thì lại là một phản chứng ghê gớm đối với Tin Mừng?!
Nhờ lời
chuyển cầu của Thánh Barnaba tông đồ, xin Chúa ban cho chúng ta ý thức được tầm
quan trọng của việc truyền giáo, để chúng ta tích cực góp phần vào công cuộc
truyền giáo bằng lời cầu nguyện, bằng sức lực, tài lực và cả của cải. Nhất là
xin Chúa ban cho chúng con có tinh thần khó nghèo, siêu thoát và khiêm tốn hầu
trở nên khí cụ Bình an của Chúa trong khi thi hành sứ mạng loan báo Tin mừng,
theo mẫu gương của thánh Barnaba tông đồ.
Suy niệm 2: Tông đồ hăng say loan báo Tin Mừng
Bài Tin Mừng
hôm nay cùng với các bài đọc trong ngày lễ kính Thánh Barnaba Tông Đồ cho chúng
ta thấy hình ảnh một vị tông đồ hăng say loan báo Tin Mừng. Thánh Barnaba, được
mệnh danh là "con của sự an ủi", đã cùng với Thánh Phaolô thực hiện
nhiều hành trình truyền giáo, mang Lời Chúa đến với nhiều dân tộc khác nhau.
Ngài đã bán hết gia sản để giúp đỡ cộng đoàn Kitô hữu tại Giêrusalem, thể hiện
tinh thần quảng đại và bác ái.
Lời mời gọi cho
mỗi người:
Lễ kính Thánh
Barnaba là lời mời gọi mỗi người Kitô hữu noi gương ngài trong việc hăng say
loan báo Tin Mừng. Mỗi người, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng có thể trở thành
một "Barnaba" trong thời đại hôm nay, bằng cách sống Tin Mừng và chia
sẻ Lời Chúa với những người xung quanh.
3. Gợi ý chia
sẻ:
Bạn có thể chia
sẻ về một lần bạn đã can đảm chia sẻ Tin Mừng với người khác.
Bạn có thể đề
xuất những cách thức để mỗi người có thể tham gia vào sứ mạng loan báo Tin Mừng
trong cộng đoàn.
Bạn có thể cùng
nhau cầu nguyện cho các thừa sai và những người hăng say loan báo Tin Mừng trên
khắp thế giới.
4. Lời cầu
nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con cảm ơn Chúa đã ban cho Hội thánh Thánh Barnaba, một tông đồ hăng say loan
báo Tin Mừng. Xin Chúa ban cho con lòng nhiệt huyết như Thánh Barnaba, để con
can đảm sống Tin Mừng và chia sẻ Lời Chúa với mọi người. Xin Chúa cũng ban cho
các thừa sai và những người hăng say loan báo Tin Mừng trên khắp thế giới sức
mạnh và ơn thánh để họ có thể hoàn thành tốt sứ mạng của mình. Amen.
Kết thúc:
Lễ kính Thánh Barnaba Tông Đồ là dịp để mỗi người Kitô hữu noi gương ngài trong việc hăng say loan báo Tin Mừng. Hãy cùng nhau cầu nguyện cho nhau và cho sứ mạng loan báo Tin Mừng trên khắp thế giới. (Gemini-IT soạn)
* Mùa thường niên: Mt
5,13-16
Suy niệm 1:
Bằng hai hình ảnh muối và
ánh sáng, Chúa Giêsu muốn nói đến bản chất và sứ mạng của người kitô hữu.
1. Bản chất và sứ mạng của
muối:
Nếu bản chất của muối là
phải mặn. Muối không mặn thì không còn là muối nữa, chỉ còn cách quăng xuống
đường cho người ta giẫm đạp lên. Cũng vậy, bản chất của người Kitô hữu phải
mang đậm chất mặn của tình yêu. Nếu ta không có tình yêu thì không còn là Kitô
hữu nữa. Bởi lẽ "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4,7). Ngài đã dựng
nên chúng ta giống hình ảnh Ngài, nên tự bản chất nơi ta phải mang chất tình
yêu. Dĩ nhiên tình yêu ấy phải đặt trên nền tảng Tình Yêu như Chúa. "Yêu
như Thầy đã yêu" (Ga 15,12).
Còn nếu sứ mạng của muối là
giữ cho thức ăn khỏi hư thối và đem lại mùi vị thơm ngon cho thức ăn. Thì sứ
mạng của người kitô hữu phải có nhiệm vụ ướp đời, ướp người khỏi những băng
hoại của dối trá, hận thù, ganh tị, lường gạt, bất trung... Ngoài sứ mạng ngăn chặn cuộc sống khỏi những băng hoại,
chúng ta còn phải là tác nhân đem lại hương vị ngọt ngào cho cuộc sống bằng
những cử chỉ, lời nói, việc làm thắm đợm tình thương, nhằm mang đến niềm vui,
an bình và hạnh phúc cho tha nhân.
2. Bản chất và sứ
mạng của đèn:
Nếu bản chất của
chiếc đèn là để thắp sáng, thì đức tin chính là bản chất của người kitô hữu. Vì
chúng ta được gọi là "tín hữu".
Còn nếu sứ mạng của
chiếc đèn là chiếu giải ánh sáng cho mọi người nhìn thấy, thì sứ mạng của người
kitô hữu là chiếu tỏa ánh sáng đức tin ấy cho mọi người nhìn thấy bằng những
việc làm cụ thể. Vì "Đức tin không có việc làm là đức tin chết
" (Gc. 2,17). Mà những việc làm cụ thể ấy chính là những việc lành. “Ánh
sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc
tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”.Qua bí
tích rửa tội, chúng ta được Chúa trao ban cho ánh sáng Đức tin và kêu mời chúng
ta chiếu tỏ ánh sáng đó cho trần gian.
Xin Chúa giúp chúng
ta luôn giữ được chất tình yêu của Chúa, để chúng ta có thể ướp mặn cho đời và
cho người; cụ thể là những thành viên trong gia đình chúng ta khỏi những băng
hoại do tội lỗi gây nên. Đồng thời xin Chúa cũng ban thêm chất Đức Tin nơi mỗi
chúng ta, hầu ta có thể can đảm thắp lên ngọn lữa đức tin ấy bằng những hành
động bác ái cụ thể cho tha nhân, qua đó mà mọi người nhận ra Chúa mà ngợi ca
Danh Người.
Suy niệm 2:
Sau khi
Chúa Giêsu đưa ra Bản Hiến chương Nước Trời (Mt 5,1-12), công bố ở trên núi, đó
là Tám mối phúc. Ngài khuyên và khích lệ mọi người hãy đi vào con đường đó vì
chúng sẽ dẫn ta đến Nước trời.
Sang Bài
Tin mừng hôm nay (Mt 5,13-16). Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh hơn nữa: Khi chúng ta
sống trọn Tám mối phúc, ta sẽ trở nên nhân tố biến đổi thế giới. Chúa đã dùng 2
hình ảnh để diễn tả bản chất của người môn đệ đích thực, đó là:
+ Muối cho
đời.
+ Ánh sáng
cho thế gian.
1. “CÁC
CON LÀ MUỐI ĐẤT”.
Độc giả có
thể thắc mắc: Tại sao Chúa Giêsu không nói: “CÁC CON
LÀ MUỐI”, mà Ngài dùng thêm từ “ĐẤT”, có nghĩa “CÁC CON LÀ MUỐI ĐẤT”. Dụng ý của Matthêu rõ ràng. Matthêu muốn nhắc chúng ta
ý thức rằng: KHÔNG CÓ KITÔ HỮU NÀO
SỐNG LƠ LỬNG GIỮA TRỜI VÀ ĐẤT. Chúng ta được dựng nên để thuộc về Thiên Chúa,
có nghĩa thuộc về trời cao, nhưng chúng ta được Chúa đặt trên mặt đất, cũng như
ta luôn hướng về cuộc sống mai sau, nhưng ta vẫn phải sống tốt đời này. Như vậy, Chúa đã sai chúng ta vào thế gian này như
muối cho đời vậy, đó là “MUỐI ĐẤT”
- BẢN CHẤT
CỦA MUỐI: PHẢI MẶN
Muối phải
mặn. NẾU MUỐI ĐÃ LẠT, NGƯỜI TA BIẾT LẤY GÌ MÀ ƯỚP CHO MẶN LẠI?”.
Khi nói về
bản chất, thì ta phải hiểu: MẶN là cái gì thật sâu xa, nằm trong muối, nó là
bản chất của muối. Nếu mất cái bản chất đó thì muối sẽ không còn gọi là muối
nữa. Cũng vậy, BẢN CHẤT CỦA KITÔ HỮU PHẢI MANG ĐẬM CHẤT YÊU
THƯƠNG. Nếu Kitô hữu không biết sống yêu thương thì sẽ không còn là Kitô hữu.
- CÔNG
DỤNG CỦA MUỐI: Không có gì rẻ và căn bản hơn muối;
nhưng muối làm nhiều điều hữu ích cho con người:
1/. Muối
tượng trưng cho sự trong sạch tinh tuyền
2/. Muối
để ngăn ngừa đồ ăn cho khỏi hư rữa.
3/. Muối
để thêm gia vị cho thực phẩm.
Nếu sứ
mạng của muối là giữ cho thức ăn khỏi hư thối và đem lại mùi vị thơm ngon cho
thức ăn, thì sứ mạng của Kitô hữu (MUỐI ĐẤT) phải có nhiệm vụ ướp đời, ướp người
khỏi những băng hoại của dối trá, hận thù, ganh tị, lường gạt, bất lương…
Kitô hữu
chúng ta, ngoài sứ mạng ngăn chặn cuộc sống khỏi những băng hoại, chúng ta còn
là tác nhân đem lại hương vị ngọt ngào cho cuộc sống bằng những cử chỉ, lời
nói, việc làm thắm đượm tình thương nhằm mang đến niềm vui, an bình và hạnh
phúc cho tha nhân. Nếu không có vị mặn của muối, làm sao các Kitô hữu có thể
“ướp mặn” lòng người.
Ta đừng
bao giờ nghĩ rằng: mình chỉ cần sống tốt là đủ, chỉ cần lo phần rỗi linh hồn
của mình là được. Như vậy chưa đủ, vì còn rất nhiều thiếu sót và phần rỗi linh
hồn ta cũng không được đảm bảo, sống là sống với người khác.
Do đó phần
rỗi của người khác cũng có phần ảnh hưởng đến phần rỗi của ta. Vì thế Chúa mời
gọi ta: “CÁC CON LÀ MUỐI ĐẤT”. Chúa Giêsu khi nói “CÁC CON LÀ MUỐI
ĐẤT”, có nghĩa Ngài đặt ta vào mối tương quan với người khác, chứ không thể chỉ
sống cho mình. “Nếu muối đã lạt,
người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? muối đó không còn xử dụng vào việc chi
nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó”
Vì bản
chất của muối là mặn, cái vị mặn đó phải từ muối đi ra để làm tăng vị mặn cho
thức ăn, không thể có chiều đi ngược lại. Như vậy, khi muối đã mất vị mặn thì
không có gì có thể ướp nó cho mặn lại. Chúa Giêsu đã nói
đến một kinh nghiệm dân gian: Người ta không thể làm ra muối bằng bất cứ thứ
gì, mà phải từ nước biển, vì vị mặn, bản chất của muối đã nằm sẵn trong nước
biển.
Một khi
muối đã mất vị mặn thì ta không lấy gì thể ướp cho nó mặn lại. Ta không thể lấy
một vị mặn nào đó để đưa vào muối để làm cho nó mặn lại. Vì vị mặn chỉ có thể
đi từ muối đi ra chứ không thể đi theo chiều ngược lại. Các môn đệ của Chúa Giêsu cũng thế, một khi đánh mất
bản chất của mình thì người đó cũng giống như muối đã mất vị mặn, người môn đệ
đó sẽ không còn hữu ích cho ai nữa, mà Matthêu nói: “Chỉ còn ném ra
ngoài cho người ta chà đạp lên nó”. Đó là kết cục thảm hại dành cho kẻ đánh
mất bản chất, đánh mất lý tưởng của mình.
2. CÁC
CON LÀ SỰ SÁNG THẾ GIAN
“Các con
là sự sáng thế gian. một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng,
nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt
thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen cha các con
trên trời”
- “CÁC CON
LÀ SỰ SÁNG THẾ GIAN”
Thánh sử
Gioan từng xác tín Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian, Gioan viết: “ở nơi Người là
sự sống,và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng
tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1, 4-5). Trong phúc âm Marcô: Đã nhiều lần Chúa Giêsu ví các
môn đệ là ĐÈN CHÁY SÁNG, Marcô viết: “Chẳng lẽ mang đèn tới để đặt dưới cái
thùng hay dưới gầm giường? Nào chẳng phải là để đặt trên đế sao?” (Mc 4, 21)
Sang đến
Matthêu, Chúa Giêsu không còn nói “Đèn cháy sáng” nữa, mà
nói: “Các con là sự sáng thế gian”. Có nghĩa các môn
đệ chính là sự sáng thế gian, chứ không còn là đèn, vì là đèn, nó phải lệ thuộc
vào dầu và vào ôxy mới có thể cháy được. Còn khi là ánh sáng, thì nó thuộc về
bản chất không còn lệ thuộc vào bất cứ thứ gì khác.
Bản chất
của các môn đệ là sự sáng, sự sáng đó chính là tiếp nối sự sáng của Chúa Giêsu,
Ngài mà Gioan đã mô tả: “ở nơi Người là sự sống,và sự sống là ánh sáng
cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt
được ánh sáng” (Ga 1, 4-5)
Mặc dù thế
giới hôm nay đã rực sáng bởi ánh sáng của điện khí hoá, cứ nhìn vào khung cảnh
Giáng sinh, của những ngày Tết ta sẽ thấy rõ điều đó. Nhưng ở nơi này nơi kia trên thế giới vẫn còn những
góc tối, những góc khuất, mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài phải là ánh
sáng để dọi vào những góc tối đó.
Ta luôn ý
thức rằng: Thế giới hôm nay vẫn còn 2/3 nhân loại chưa nhận biết Chúa, có nghĩa
chỉ 1/3 người nhận biết Chúa thôi. Nói chung thế giới này vẫn đang chìm trong
bóng tối mặc dù nó đã được điện khí hoá. Nhưng chúng ta
chỉ là ánh sáng khi chúng ta phản chiếu ánh sáng của Chúa, có nghĩa chúng ta
hãy để cho ánh sáng của Chúa xuyên qua và toả sáng trong cuộc đời chúng ta, để
thiên hạ thấy những công việc tốt đẹp chúng ta làm, mà tôn vinh Cha chúng ta,
Đấng ngự trên trời.
Giáo Hội
là muối và ánh sáng thế gian. Mỗi Kitô hữu tự bản chất cũng là muối và ánh sáng
của thế gian. Họ sẽ đánh mất vị mặn của muối và tia sáng của ánh sáng, nếu chỉ
vì một chút lợi lộc vật chất, một chút dễ dãi, mà họ thỏa hiệp với những gì đi
ngược chân lý của Chúa Giêsu. Một cách cụ thể, Kitô hữu sẽ không còn là muối và
ánh sáng nữa, nếu cứ theo dòng chảy của xã hội, họ cũng lọc lừa, móc ngoặc, dối
trá.
Lạy Chúa,
xin cho con trở thành muối cho đời qua công việc yêu thương và phục vụ hàng
ngày. xin cho chúng con biết gìn giữ ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng
chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của Chúa suốt cả cuộc đời chúng
con. Amen.
Giuse. Vĩnh Tâm
Thứ tư: Mt 5, 17-19
Tin mừng hôm nay, Chúa
Giêsu cho các môn đệ cũng như chúng ta biết thêm về lý do quan trọng mà Ngài
đến trần gian này là: “không phải hủy bỏ lề luật hay các tiên tri,
nhưng là để kiện toàn”.
Luật của Chúa được ban cho
nhân loại xuyên qua dân tộc Do Thái, bởi trung gian là ông Môsê. Luật
đó được gìn giữ và bảo tồn qua thời các ngôn sứ. Nhưng đến thời Chúa Giêsu,
luật Chúa được trao quyền cho các kinh sư giải thích và hướng dẫn cho dân
chúng. Thay vì giúp người dân hiểu biết rõ về luật Chúa cũng như tinh thần đúng
đắn phải có khi tuân giữ luật Chúa, thì trái lại các ông lại thêm thắc vào đó
quá nhiều chi tiết từ 10 điều lên đến 613 điều khoản khiến cho dân chúng rối ren
không còn phân biệt đâu là điều chính đâu là điều phụ. Hơn nữa các ông lại quá
chú trọng đến hình thức làm cho người dân có cảm giác luật Chúa quá nặng nề bởi
những ràng buộc. Nên khi rao giảng, Chúa Giêsu đã nhiều lần đả kích lối sống vị
luật của người Pharisêu; cũng như cảnh báo về mối nguy hiểm của những gánh nặng
mà dân chúng phải chịu do các kinh sư chất chồng lên vai họ. Có lẽ vì đó mà
nhiều người tưởng rằng Chúa Giêsu muốn phá bỏ lề luật và các tiên tri. Để chỉnh
sửa lại ý nghĩ sai lệch ấy, Chúa Giêsu đã khẳng định với các môn đệ về lý do mà
Ngài đến thế gian này là nhằm mục đích để kiện toàn lề luật. Vậy
Chúa muốn kiện toàn điều gì?
- Trước hết Chúa Giêsu kiện
toàn về nội dung văn bản của luật: Phải giữ nguyên trạng giới luật của Chúa, dù
một chấm, một phẩy cũng không được thay đổi hay bỏ sót.
- Thứ đến Chúa kiện toàn về
hình thức thi hành luật: Nếu các kinh sư và người Pharisêu quá chú trọng bởi
hình thức bên ngoài thì Chúa Giêsu nhấn mạnh đến trọng tâm giữ luật bên trong.
Việc giữ luật chỉ có giá trị đích thực khi nó xuất phát từ trái tim và
tấm lòng.
- Cuối cùng Chúa Giêsu kiện
toàn về tâm tình phải có khi giữ luật: Việc giữ luật không phải vì lo sợ.
Sợ không giữ thì bị Chúa phạt; lo vì nếu không thi hành luật sẽ bị người đời
khinh thường và lên án… nếu mang nặng tâm tình ấy thì quả thật luật trở nên
gánh nặng cho đời sống. Điều mà Chúa Giêsu muốn là mọi người hãy tuân giữ luật
với tấm lòng yêu mến. Với lòng yêu mến Chúa chân thành sẽ giúp ta cảm thấy vui
tươi thoải mái thi hành luật Chúa; sẽ không còn sợ hãi bởi ràn buộc của luật
nữa.
Xin Chúa giúp chúng ta ý
thức được rằng: vì không muốn chúng ta phải đi lạc đường nên Chúa đã ban lề
luật để hướng dẫn bước đường chúng ta. Xin cho chúng ta cảm nhận được tình
thương lớn lao ấy, mà hăng hái thi hành luật Chúa và GH chỉ dạy bằng tất cả tấm
lòng yêu mến của chúng ta.
Thứ năm: Kn 7,7-10.15-16; Eph 4;1-7.11-13; Mc 16;15-20
Nhớ Thánh An-tôn Pa-đô-va, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh.
Suy niệm 1:
Lễ Kính Thánh
Antôn Padua là dịp để chúng ta suy niệm về cuộc đời và sứ mạng của ngài, đồng thời
noi gương ngài sống mến Chúa và yêu người.
a. Mến Chúa:
Thánh Antôn
Padua có lòng mến Chúa nồng nàn. Ngài say mê Lời Chúa và dành nhiều thời gian
để cầu nguyện. Ngài cũng nhiệt tình truyền bá Tin Mừng cho mọi người.
b. Yêu người:
Thánh Antôn
Padua có lòng yêu người cao cả. Ngài quan tâm đến những người nghèo khổ, bệnh
tật và gặp khó khăn. Ngài luôn sẵn sàng giúp đỡ họ cả về vật chất lẫn tinh
thần.
c. Noi gương
Thánh Antôn Padua:
Để noi gương
Thánh Antôn Padua, chúng ta cần:
·
Mỗi ngày dành thời gian cầu nguyện
và đọc Lời Chúa.
·
Tham gia vào các hoạt động bác ái
xã hội để giúp đỡ người nghèo khổ, bệnh tật và gặp khó khăn.
·
Sống bác ái, yêu thương mọi người
bằng lời nói và việc làm.
3. Lời cầu
nguyện:
Lạy Thánh Antôn
Padua, xin ngài cầu cho chúng con biết noi gương ngài mến Chúa và yêu người.
Xin ngài giúp chúng con luôn nhiệt tình truyền bá Tin Mừng và sống bác ái với
mọi người. Amen.
4. Gợi ý thêm:
·
Có thể tham khảo thêm tiểu sử và
các câu chuyện về cuộc đời của Thánh Antôn Padua.
·
Có thể chia sẻ về những kinh nghiệm
bản thân trong việc noi gương Thánh Antôn Padua.
·
Có thể cầu nguyện cho những người
đang gặp khó khăn trong cuộc sống.
Lời kết:
Lễ Kính Thánh Antôn Padua là lời mời gọi mỗi người chúng ta sống mến Chúa và yêu người. Hãy noi gương Thánh Antôn Padua để góp phần xây dựng một xã hội bác ái và yêu thương. (Gemini-IT soạn)
Suy niệm 2:
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Kính Thánh Antôn Padua, một vị
thánh rất gần gũi và quen thuộc với cuộc sống của chúng ta. Ngài được biết đến
như là "vị thánh của những điều không thể", "vị thánh giảng thuyết",
"vị thánh của người nghèo", và "vị thánh tìm lại những gì bị mất".
Đôi nét về cuộc đời
Thánh Antôn Padua:
* Sinh năm 1195 tại Lisbon, Bồ Đào Nha.
* Gia nhập dòng Phanxicô khi còn rất trẻ.
* Là một nhà giảng thuyết tài ba, thu hút nhiều người đến
nghe ngài giảng đạo.
* Chuyến du hành truyền giáo của ngài trải dài khắp châu Âu,
mang lại nhiều hoa trái thiêng liêng cho Giáo hội.
* Mất năm 1231 tại Padua, Ý.
* Được Giáo hội phong thánh vào năm 1232.
Bài học từ cuộc đời
Thánh Antôn Padua:
1. Niềm tin vào
Thiên Chúa: Thánh Antôn
Padua có một niềm tin mãnh liệt vào Thiên Chúa. Ngài luôn đặt niềm tin của mình
vào sự quan phòng của Thiên Chúa và tin rằng Thiên Chúa có thể thực hiện mọi điều
không thể.
2. Lòng
yêu mến: Thánh Antôn
Padua có một lòng yêu mến lớn đối với Chúa Giêsu Kitô và đối với mọi người.
Ngài đã dành cả cuộc đời mình để rao giảng Tin Mừng và giúp đỡ những người
nghèo khổ.
3. Sự
khiêm nhường: Thánh Antôn Padua là một người rất khiêm nhường. Ngài không
bao giờ khoe khoang về những thành tựu của mình và luôn luôn sẵn sàng phục vụ
người khác.
4. Sự
cầu nguyện: Thánh Antôn Padua là một người cầu nguyện rất nhiều. Ngài tin
rằng cầu nguyện là một cách mạnh mẽ để kết nối với Thiên Chúa và xin được ơn
soi sáng và sức mạnh.
* Lời kết:
Thánh Antôn Padua là một tấm gương sáng cho chúng ta noi
theo. Chúng ta hãy noi theo ngài trong việc sống một đời sống tin kính, yêu mến,
khiêm nhường và cầu nguyện.
* Lời cầu nguyện:
Lạy thánh Antôn Padua, xin ngài cầu bầu cho chúng con biết noi theo gương mẫu bác ái và lòng yêu mến của ngài. Xin ngài giúp chúng con luôn tin tưởng vào Thiên Chúa và biết yêu thương mọi người xung quanh. Xin ngài cầu cho những ai đang gặp khó khăn được Chúa an ủi và nâng đỡ. Amen. (Gemini-IT)
Suy niệm 3:
Hôm
nay, cùng với Giáo Hội chúng ta mừng lễ Thánh Antôn Pađua. Tên thật của Ngài là
Fernando. Ngài sinh ngày 15 tháng 8 năm 1195 tại Lisbone thủ đô nước Bồ Đào
Nha. Cha mẹ của Ngài là ông Martinô và bà Maria rất đạo đức. Tròn 15 tuổi, Ngài
gia nhập dòng Thánh Augustinô và chịu chức linh mục ở đây. Tròn 25 tuổi, Ngài
đổi sang dòng Thánh Phanxicô năm 1220. Ngài được sai đi truyền giáo ở Marrốc và
ước ao được phúc tử đạo. Sau này, Ngài đi rao giảng khắp miền Tây nước Ý và
miền Nam nước Pháp. Ngài qua đời ngày 13 tháng 6 năm 1231, lúc mới tròn 36
tuổi. Ngài được Đức Giáo Hoàng Grêgôriô X phong thánh vào ngày 30 tháng 5 năm
1232. Vào năm 1946, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã tôn phong Ngài lên bậc tiến sĩ
Hội Thánh.
Mặc dầu Ngài là người Bồ Đào Nha nhưng lại rất được người Việt Nam yêu mến.
Vấn đề đặt ra là tại sao Thánh Antôn lại thu hút mọi người như vậy? Có người
cho rằng vì Ngài hay làm phép lạ (Nói đúng hơn, nhờ lời chuyển cầu của Ngài nên
Chúa làm nhiều phép lạ). Đúng, nhưng vì sao Ngài lại làm phép lạ? Kinh Ông
Thánh Antôn cho chúng ta biết rằng: “Để thông ơn phúc cho cả và
thiên hạ, xưa ở đời này đầy lửa kính mến Chúa, hằng ước ao cho danh cha cả
sáng, cùng ái mộ phần rỗi nhân loại, nên đã làm phép lạ cứu giúp muôn vàn người
khỏi tai nạn phần hồn phần xác”
Như vậy, lý do Thánh Antôn hay làm phép lạ đã rõ ràng: thứ nhất, để làm
vinh danh Chúa; thứ hai, để cứu giúp con người phần hồn phần xác. Ngài không
những cứu giúp những việc lớn lao, mà Ngài còn cứu giúp cả những việc nhỏ nhặt
hằng ngày: “Hễ ai túng rỗi chạy đến cầu xin Người, bất
luận việc lớn bé thế nào, liền được ơn Người cứu giúp” (Lời
kinh khẳng định)
Thông thường các thánh hay làm phép lạ khi đã qua đời, còn Thánh Antôn
không những làm phép lạ khi đã qua đời mà Ngài còn làm phép lạ ngay cả khi còn
sống.
Chuyện kể, khi còn niên thiếu: “Một ngày mùa hè, cha Ngài sai Ngài canh giữ
ruộng lúa mì khỏi chim phá. Bỗng Antôn nhớ lại đã đến giờ đọc kinh tại nhà thờ
mà Ngài không bao giờ bỏ. Ngài liền gọi bầy chim sẻ lại và nhốt vào một cái lều
lộ thiên, cấm không được bay ra phá lúa. Rồi Ngài an tâm đi nhà thờ. Lúc trở về
Ngài thấy bầy chim sẻ vẫn ở trong lều và đồng lúa vẫn an toàn.”
Lần khác, “Antôn đang thinh lặng cầu nguyện ở nhà thờ chìm trong bóng tối,
Ngài cảm thấy bị cám dỗ mãnh liệt. Không hề chần chừ, Ngài lấy ngón tay cái vẽ
dấu Thánh giá trên bậc bàn thờ, Thánh giá in sâu vào đá hoa. Thấy dấu này, quỷ
trốn biệt và cơn cám dỗ tiêu tan.”
Trong thời gian giảng thuyết, Ngài cũng làm rất nhiều phép lạ, chẳng hạn
như: Phép lạ cá nghe giảng; ngựa đói chê cỏ để thờ lạy Thánh Thể; uống thuốc
độc mà không hề hấn gì, ly vỡ lại lành…
Khi Ngài qua đời, tự nhiên các đoàn trẻ la hét “cha chúng tôi đã qua đời,”
mặc dầu họ không biết cái chết của Thánh Antôn. Trong cuốn Assidua, đã thuật
lại nhiều phép lạ của thánh Antôn, nhất là ngay khi Ngài mới qua đời, cuốn sách
viết: “Chỉ chạm tới mộ Ngài, bệnh nhân liền vui sướng cảm thấy mọi bệnh tật tan
biến. Những ai không tới gần mộ được, thì lúc trở về ngang nhà nguyện cũng được
chữa lành bệnh. Nơi đó, nhiều người điếc được nghe, mù được thấy, què được nhảy
nhót như dê con; cũng nơi đó lưỡi nhiều người câm được mở ra, cất tiếng ca ngợi
Chúa. Chi thể tê liệt được hồi phục, đi lại bình thường. Những chứng bệnh như
còng lưng, thống phong, sốt rét cũng như tất cả các bệnh khác đều được chữa
lành cách lạ lùng. Tóm lại, từ nhiều nơi trên trần gian đến đây, người ta đều
xin được như ý mong ước.”
Đặc biệt trong ngày lễ phong thánh, không ai biết chuyện gì đã xảy ra, thế
mà dân chúng tuôn ra đường phố vừa ca hát, vừa nhảy múa, chuông trong thị trấn
bắt đầu rung vang, dầu không ai động tới, và tất cả mọi người đều hoan hỷ vui
sướng như ngày lễ hội. Ít hôm sau, một vài anh em từ Ý tới loan tin chính là
hôm đó Antôn được phong thánh.
Tính từ khi thánh nhân qua đời cho tới khi phong thánh có 47 phép lạ được
Giáo Hội công nhận. Từ đó tới nay, thánh Antôn vẫn làm phép lạ đây đó trên thế
giới. Có người được khỏi bệnh, có người tìm được của cải đã mất, có người thi
cử đỗ đạt, nhiều người được ơn ăn năn trở lại qua Bí tích Giao hòa…Chứng tỏ
Chúa vẫn nhận lời Thánh Antôn. Nhưng cũng có người phàn nàn là xin mãi mà chẳng
được?
Thánh Giacôbê trả lời rằng: “Anh em xin mà không được là vì
anh em xin với tà ý” (Gc 4, 2-3). Còn Thánh Augustinô thì nói:
xin không được là do tâm hồn không tốt; hoặc do cách cầu nguyện xấu; cũng có
thể là do xin điều xấu nên không được Chúa nhận lời. Vì thế, nhiều khi chúng ta
cũng phải xem xét nội dung và cách cầu nguyện của chúng ta.
Mừng lễ Thánh Antôn hôm nay, chúng ta không chỉ nhờ ngài xin ơn, mà còn
phải học nhân đức của Ngài như: khiêm nhường; thăng tiến trên đường nhân đức;
siêng năng đọc, suy gẫm và truyền đạt Lời Chúa; mến Chúa và yêu người.
Trong lời nguyện nhập lễ hôm nay cho chúng ta biết: Ngài không những là nhà
giảng thuyết lừng danh mà còn là người cứu giúp những ai nghèo khổ.
Sống trong một xã hội đầy dẫy những bất công như hôm nay, chúng ta cầu xin
Chúa nhờ lời chuyển cầu của Thánh Antôn làm cho chúng ta trở thành những Antôn
của thời đại, để đem yêu thương xóa tan bất công, nghèo khó, yêu người không
chỉ bằng lời nói mà còn bằng những việc làm cụ thể, yêu người không chỉ yêu
phần xác mà còn yêu cả phần hồn nữa, hầu nhờ đó xã hội này ngày một tốt đẹp
hơn. Amen.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Giết người thì ở đâu và thời nào cũng là tội nặng, vì Chúa mới là chủ sự sống, đó là công lý. Lời Chúa dạy bảo trong bài Tin Mừng hôm nay còn vượt trên công lý nữa. Công lý hay luật pháp chỉ buộc tội khi một người phạm tội bằng hành vi cụ thể. Còn Chúa thì đi xa hơn, Ngài ngăn chặng ngay từ nguyên nhân, nguồn gốc đưa đến hành động giết người.
Vì thế, “ai giận anh em mình thì đáng bị tòa xét xử, ai mắng chửi anh em là đồ ngốc thì sẽ bị lên án trước công nghị và ai mắng chửi anh em mình là khùng thì đáng lửa trầm luân”.
Đúng như Lời Chúa nói:
- Giận dỗi chính là nguyên nhân đưa đến tội giết người. Vì khi ta giận ai là ta muốn cho người đó khuất mắt ta; ta không muốn người đó hiện diện trên cõi đời này nữa. Cho nên giận như vậy thì chẳng khác nào giết người không dao.
- Cũng thế, khi ta mắng chửi anh em là đồ ngốc là khùng thì chẳng khác nào ta xem thường anh em mình, để rồi hạ thấp họ xuống hàng con vật, không đáng là người nữa. Hành vi như thế là chiếm đoạt quyền phán xét của Thiên Chúa, nên đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt.
Như vậy, để khỏi bị Thiên Chúa luận phạt và kết án, Chúng ta phải có lòng quảng đại tha thứ. Tha thứ là biểu hiện tấm lòng tôn vinh Thiên Chúa một cách xứng đáng: "Nếu ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ anh em đang có điều bất bình với ngươi, hãy đặt của lễ trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em trước, rồi hãy đến mà dâng của lễ." Tha thứ là chất liệu tốt nhất để hàn gắn lại những vết thương lòng đang bị rạn nứt. Tha thứ cũng là cách thế hữu hiệu nhất để ta bắt đầu lại mối tương quan tốt đẹp với anh em mình.
Xin Chúa cho chúng ta biết giữ tâm hồn và môi miệng cẩn trọng để khỏi sa vào tội giết người không gươm và giúp chúng ta luôn biết quảng đại tha thứ cho nhau, như Chúa đã từng bao dung tha thứ cho chúng ta. Amen.
Thứ sáu: Mt
5, 27-32
Chúa Giêsu tiếp tục kiện
toàn giới luật một vợ một chồng.
Để tránh đi tình trạng đỗ
vỡ trong đời sống hôn nhân, chẳng những Chúa Giêsu cấm không được li dị mà Chúa
còn ngăn chặn ngay cả nguyên nhân sâu xa đưa đến tình trạng bất trung trong đời
sống hôn nhân nữa. “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: chớ ngoại tình,
còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : ai nhìn người phụ nữ mà thèm
muốn thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi…”(Mt 5: 27-28).
Như thế là dù chỉ thèm muốn
trong lòng vợ hay chồng của người khác thì đã phạm tội ngoại tình trong tư
tưởng rồi; vì trong lòng đã nuôi dưỡng ước muốn sai trái. Từ đó sẽ dễ dẫn đến
hành động phản bội tình nghĩa vợ chồng.
Có thể nói mọi tội lỗi con
người phạm, đều xuất phát từ trong lòng. Do đó, muốn tránh tội thì phải dứt
khoát từ bỏ ước muốn bất chính ngay trong lòng. Nhưng để tránh được ước muốn
bất chính trong lòng, chúng ta cần phải giữ gìn đôi mắt. Đôi mắt là của sổ tâm
hồn nên mọi điều tốt xấu muốn vào được căn nhà tâm hồn đều phải qua cửa sổ của
đôi mắt.
E-va chính vì đã không gìn
giữ được đôi mắt nên đã hướng cái nhìn về trái cấm và đã nuôi dưỡng trong lòng
sự thèm muốn. Từ ước muốn ấy bà đã cả lòng đưa tay hái trái cấm ăn, dầu
biết rằng hành động ấy là phạm tội bất trung với Chúa.
Ða-vít cũng vì không giữ
được đôi mắt nên đắm đuối nhìn người phụ nữ khỏa thân và có ước muốn khoái
lạc. Từ đó đưa đến những hành vi tội ác: ngoại tình và giết người giấu
tay.
Lạy chúa xin giúp chúng con
biết gìn giữ đôi mắt luôn có cái nhìn trong sáng và can đảm dứt bỏ những nguyên
nhân làm cớ chúng con lỗi đức trong sạch, cho dù đó là một phần của cơ thể như:
là mắt, là tay... bởi vì Chúa đã phán: "thà mất một phần thân thể, còn hơn
là toàn thân bị ném vào hỏa ngục".
Thứ bảy: Mt 5,33-37
Trong cuộc sống, ta thường
nghe được những luồng thông tin khác nhau về một sự kiện nào đó xảy ra trong xã
hội, cũng như trong Giáo Hội. Có những thông tin chính thống cần tin theo. Tuy
nhiên, để bảo vệ quyền lợi, phe nhóm và thế lực của mình cũng không ít những
thông tin sai lạc, ta cần phải dè chừng.
Hằng ngày trên báo chí,
truyền thanh, truyền hình ta bắt gặp rất nhiều thông tin quảng cáo nhằm thu hút
khách hàng và lợi nhuận. Bên cạnh những thông tin thật cũng có nhiều thông
tin không thật. Sống trong một xã hội mà phải liên tục đề phòng hàng giả, người
giả, thông tin giả thật là bất an.
Chắc chắc ai trong chúng ta
cũng không muốn điều ấy xảy ra. Nhưng rồi chính cuộc sống chúng ta cũng bị ảnh
hưởng ít nhiều. Nhiều lần vì sợ, vì tham, vì bị mua chuộc… ta lại chấp nhận im
lặng hay từ chối làm chứng cho chân lý. Lắm khi vì ham mê tiền bạc, chức quyền…
ta cũng sẵn sàng chối bỏ niềm tin cách dễ dàng.
Chúa Giêsu xác định:“Tôi
sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho
sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga
18,37). Do đó để thuộc về Chúa chúng ta cần phải sống và làm chứng cho sự thật,
vì sự thật mới giải phóng chúng ta khỏi những ràn buột của gian dối và bóng tối
của sự dữ. "Sự thật sẽ giải phóng các ông" (Ga 8, 32). Vì
thế, "hể có thì nói có, không thì phải nói không. Thêm thắt điều
gì là do ác quỷ".
Xin cho chúng ta biết vâng nghe lời Chúa, luôn can đảm nói và làm theo sự thật, để chúng ta khỏi sa vào cạm bẫy của ma quỷ. Nhờ đó cuộc sống mới được an vui, hạnh phúc.
SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN X THƯỜNG NIÊN
CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN, NĂM B
St 3,9-15; 2Cr 4,13-5,1; Mc 3,20-35
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết: thân nhân Chúa Giêsu sợ nguy hại
cho gia đình, nên tìm cách đưa Chúa về nhà và không cho Người đi giảng đạo nữa,
và phao đồn Người mất trí. Còn các kinh sư thì ghen ghét cho rằng Người bị quỷ
ám và dựa vào quyền quỷ vương mà trừ quỷ.
Dịp này Chúa Giêsu dạy chúng ta tin vào quyền năng Người, nhứt là vâng
nghe Chúa Thánh Thần mà làm theo thánh ý Chúa.
Chúng ta sốt sắng dâng Thánh Lễ. Xin cho chúng ta luôn tin tưởng và thi
hành thánh ý Chúa, để xứng đáng làm con yêu dấu Chúa.
Bài
đọc 1: St 3, 9-15:
Bài đọc trích trong sách
Sáng Thế mà chúng ta sắp nghe thuật lại việc sa ngã của tổ tiên loài người.
Thiên Chúa đã không bỏ rơi con người, nhưng cho xuất hiện một người phụ nữ có
khả năng chiến thắng ma quỷ, sự dữ và tội lỗi là Đức Trinh Nữ Maria.
Bài
đọc 2: 2 Cr 4,13-5,1:
Trong thư thứ hai của Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô, ngài nói đến những đau khổ, gian truân
trong đời tông đồ của ngài. Nhưng ngài tin chắc: “Nó sẽ đem lại vinh quang bất
tận”, nhờ công nghiệp Chúa Giêsu chịu chết và sống lại.
Tin mừng: Mc
3,20-35
Thấm thoát mà 30 năm
ẩn dật đã trôi qua, Chúa Giêsu đã bắt đầu hoạt động công khai bằng việc rao
giảng, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ. Đang lúc Chúa Giêsu thực thi sứ vụ
của Đấng Cứu Thế, Ngài giảng dạy dẫn đưa mọi người về cùng chân lý thì những người
thân của Chúa lại đi tìm Chúa, bắt Chúa về nhà, vì cho rằng Chúa mất trí. Nếu
với cái nhìn của con người thì thân nhân của Chúa không sai bởi những việc Chúa
làm xem ra bất bình thường. Đang lúc Chúa có công việc ổn định nơi xưởng mộc
Nazareth, Chúa sống hạnh phúc bên Mẹ Maria, hiền hòa bình dị với những người
xung quanh, bỗng dưng Chúa lại giã từ Đức Mẹ lên đường, vô phương định hướng
vì: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, con người không có chỗ tựa đầu.” Những
hoạt động của Ngài luôn làm các kinh sư, các nhà lãnh đạo Do Thái bực tức, biết
đâu lại phải liên đới trách nhiệm, nên người thân của Ngài tìm bắt Ngài vì
không hiểu sứ mạng của Ngài, vì giữ thể diện, danh giá cho gia đình, và bảo đảm
mạng sống cho Ngài. Thấy Chúa Giêsu trừ quỷ, dân chúng thì kinh ngạc nhưng các
kinh sư thì tức tối, họ đến gặp Ngài và cho rằng: Ngài đã dựa vào thế Bêendêbun
để trừ quỷ. Họ xuyên tạc, vu khống, nói Ngài là người của quỷ. Chúa Giêsu bảo
họ: “Xatan làm sao xua trừ Xatan được?
Nước nào tự chia rẽ nước ấy sẽ không bền. Nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể
vững. Vậy Xatan mà chống Xatan, Xatan mà tự chia rẽ thì không thể tồn tại nhưng
đã tận số” (Mc 3, 23-26)
Chúa Giêsu cho tội
xuyên tạc này là tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội không thể tha thứ. “Mọi tội lỗi của con cái loài người, kể cả
tội nói phạm thượng nhiều đến mấy cũng được tha, nhưng ai phạm đến Thánh Thần
thì chẳng đời nào được tha mà còn mắc cho đến muôn đời “ (Mc 3,28-30). Chúa
Thánh Thần là Đấng soi sáng, thúc đẩy mọi người nhận ra chân lý. Chúa Thánh
Thần là Đấng đem lại sự sống, sự đổi mới. Chúa Thánh Thần luôn gắn liền với sứ
mạng Chúa Giêsu. Ngài liên kết bền chặt với Chúa Giêsu từ khi nhập thể, Ngài đã
chuẩn bị cho Chúa Giêsu một người Mẹ tuyệt vời là Đức Maria, Đấng nguyên tuyền
không vướng mắc tội lỗi. Ngài chuẩn bị cho Chúa Giêsu một vị tiền hô là Thánh
Gioan Tiền Hô để dọn đường. Trong khi rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu đã tỏ lộ
quyền năng trong lời nói, việc làm, việc chữa bệnh, trừ quỷ của Chúa Giêsu làm
đều do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ấy thế mà họ không tin Chúa Thánh Thần đang
hoạt động trong Chúa Giêsu lại còn dám xuyên tạc việc Chúa Giêsu làm là do
quyền lực ma quỷ. Với sự cố chấp, kiêu ngạo cứng lòng này thì Thiên Chúa là
Đấng giàu lòng thương xót, sẵn sàng thứ tha muôn vàn tội lỗi cũng đành chịu
thua. Chính sự cứng lòng của họ sẽ dẫn họ đến sự hư mất đời đời.
Bên cạnh những người
chống đối vẫn còn rất nhiều người khát khao chân lý. Họ theo Chúa về nhà đến
nỗi Ngài và các môn đệ không sao ăn được (x. Mc 3, 20) Hoặc khi Chúa đang giảng
dạy thì Mẹ và anh em Chúa Giêsu đến, đứng ở ngoài cho gọi Ngài ra vì lúc ấy đám
đông ngồi xung quanh Ngài (x. Mc 3,31-32) Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này để dạy
cho mọi người một bài học liên quan đến việc thi hành Lời Chúa: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”.
Với Chúa Giêsu sự
liên kết không chỉ giới hạn trong gia đình, nhưng vòng tay yêu thương của Chúa
giang rộng đến mọi người. Chúa rảo mắt nhìn những người ngồi quanh Chúa và nói:
“Đây là mẹ tôi. Đây là anh em tôi. Ai thi
hành ý muốn Thiên Chúa người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3,34-35)
Nói như thế Chúa
Giêsu không coi thường gia đình ruột thịt nhưng Chúa cho thấy việc thi hành ý
muốn Thiên Chúa là quan trọng nhất, đến nỗi ai thực hiện ý Chúa thì được Chúa
Giêsu yêu quý, nâng lên hàng anh chị em, là mẹ. Nói như thế Chúa Giêsu cũng
đang đề cao Đức Maria thân mẫu Ngài, Đấng cả đời đã lắng nghe, suy niệm và sống
cho ý Chúa.
“Đây là mẹ tôi, đây đây là anh em tôi.” Chúa Giêsu liên kết những ai thi hành ý Thiên Chúa vào một gia đình mới,
một gia đình thiêng liêng, không đặt trên tương quan huyết thống nhưng đặt trên
việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Gia đình mới này trải rộng, đông đúc, bao
gồm nhiều người khác nhau về nhiều mặt nhưng lại có cùng một mẫu số chung là
cùng nhau thì hành ý muốn Thiên Chúa. Họ được Chúa nối kết một cách sống động
để được thuộc về Thiên Chúa và Thiên Chúa thuộc về họ.
Lạy Chúa Giêsu, nếu ở vào thời của Chúa thì chúng con là ai? Là thân nhân
cản trở sứ mạng của Chúa? Là kinh sư, biệt phái đầy cố chấp, cứng lòng? Hay là
thành viên thuộc gia đình Thiên Chúa? Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn nhiệt
thành cộng tác vào công việc truyền giáo, luôn thuận theo sự hướng dẫn của Chúa
Thánh Thần cũng như luôn lắng nghe và thực hành Lời Chúa để được sống trong đại
gia đình mới của Chúa Giêsu, đầy yêu thương và hồng ân cứu độ.
Suy niệm 2: GIA ĐÌNH THIÊN CHÚA
Anh
chị em thân mến,
Chúa
Nhật hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về gia đình Thiên Chúa, nơi mà mọi người
được kết nối với nhau bởi tình yêu thương và sự hiệp thông. Gia đình Thiên Chúa
không chỉ giới hạn trong những người cùng chung huyết thống, mà còn rộng mở cho
tất cả những ai tin vào Chúa Giêsu và sống theo lời Người.
1.
Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh của Người
Bài đọc
1 trích từ sách Sáng Tạo thuật lại câu chuyện A-đam và Ê-va sa ngã trong vườn địa
đàng. Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh của Người, ban cho họ tự do
và trách nhiệm. Tuy nhiên, A-đam và Ê-va đã không vâng lời Thiên Chúa, dẫn đến
hậu quả là họ bị trục xuất khỏi vườn địa đàng và phải chịu cảnh đau khổ, bệnh tật
và sự chết.
Câu
chuyện này cho chúng ta thấy rằng con người vốn được tạo dựng để sống trong
tình yêu thương và sự hiệp thông với Thiên Chúa. Tuy nhiên, do tội lỗi, chúng
ta đã đánh mất mối quan hệ này và phải chịu hậu quả.
2.
Chúa Giêsu lập nên gia đình mới
Phúc
Âm hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu tuyên bố những ai làm theo ý muốn của
Thiên Chúa là anh chị em và mẹ của Người. Qua lời tuyên bố này, Chúa Giêsu muốn
mở rộng gia đình của Người không chỉ giới hạn trong những người cùng chung huyết
thống, mà còn rộng mở cho tất cả những ai tin vào Người và sống theo lời Người.
Gia
đình mới này được lập nền trên nền tảng tình yêu thương và sự hiệp thông. Trong
gia đình này, mọi người được đối xử bình đẳng, được yêu thương và trân trọng.
3. Lời
kêu gọi
Thánh
Phaolô trong bài đọc 2 khích lệ chúng ta sống xứng đáng với ơn gọi làm con cái
Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi noi gương Chúa Giêsu, sống yêu thương, tha thứ
và phục vụ người khác.
Kết
luận:
Chúa
Nhật hôm nay mời gọi chúng ta ý thức về vai trò của mình trong gia đình Thiên
Chúa. Chúng ta được mời gọi sống yêu thương, tha thứ và phục vụ người khác, góp
phần xây dựng gia đình Thiên Chúa ngày càng vững mạnh và hạnh phúc.
Lạy Chúa Giêsu, xin
cho chúng con biết sống xứng đáng với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa. Xin cho
chúng con biết yêu thương, tha thứ và phục vụ người khác, góp phần xây dựng gia
đình Thiên Chúa ngày càng vững mạnh và hạnh phúc.
Amen.
Suy niệm 3: VU VẠ. (Lm Minh Anh, Tgp Huế)
“Ông ấy
bị thần ô uế ám!”.
“Ma quỷ thích một Giáo Hội thoải mái, giỏi
kinh doanh và bỏ qua sự thật!” - Phanxicô.
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho thấy những
‘vu vạ’ mà người ta gán cho Chúa Giêsu. Thân nhân của Ngài nói Ngài “mất trí”,
các kinh sư thì bảo Ngài “bị thần ô uế ám!”.
Tại sao những người đương thời ‘vu vạ’
cho Chúa Giêsu những hạn từ đó?
Giáo Hội hôm nay thì sao? Thế gian nói
gì về những con người bảo vệ Giáo Hội khỏi tinh thần thế tục?
Thưa bởi lẽ, ma quỷ luôn muốn thấy một
Giáo Hội không bao giờ chấp nhận bất kỳ rủi ro nào, không bao giờ lên tiếng với
sự thật và chỉ tập trung vào việc an thân, thoải mái và hiểu biết về kinh
doanh. Đức Phanxicô nói, “Ngôn sứ luôn bị bắt bớ vì họ gây xáo trộn; bởi lẽ, họ
tố cáo tinh thần thế tục trong Giáo Hội; và điều này khiến họ bị tẩy chay!”.
Ngài nói, “Tuy nhiên, một Giáo Hội không
tử đạo sẽ gây ra sự ngờ vực; một Giáo Hội không chấp nhận rủi ro sẽ rất đáng
nghi; một Giáo Hội sợ rao giảng về Chúa Giêsu Kitô và xua đuổi ma quỷ, ngẫu tượng
và các chúa khác là tiền bạc, danh vọng thì không phải là Giáo Hội của Chúa
Kitô!”. “Khi Giáo Hội trở nên thờ ơ, yên tĩnh, mọi thứ đều ngăn nắp, không có vấn
đề gì, hãy xem Giáo Hội làm được cái gì? Bởi vì ma quỷ luôn lẻn vào túi!”.
Chúa Giêsu bị người ta ‘vu vạ’ là “mất
trí, bị quỷ ám” thì ngày nay, nếu sống như Ngài - với các giá trị Kitô giáo -
chắc chắn chúng ta cũng sẽ bị ‘vu vạ’ theo cách tương tự. Vì ngày nay, có nhiều
lời dạy của Chúa Giêsu mâu thuẫn với những tuyên bố đầy kiêu hãnh của các nhà
lãnh đạo dân sự. Vì thế, Chúa Giêsu đặt trước chúng ta một thách thức: Bạn và
tôi có dám lao vào sự điên rồ mà Ngài đã bị ‘vu vạ’ không? Liệu chúng ta có dám
rời xa điều mà Đức Phanxicô gọi là Kitô giáo mơ hồ, thoải mái và yên tĩnh
không?
Chúa Giêsu đã phản ứng bằng những lời chắc
chắn và rõ ràng, “Ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà
còn mắc tội muôn đời!”. Đó là vì họ đã nói: “Ông ấy bị thần ô uế ám”. Ngài
không tha thứ cho điều này, bởi vì các kinh sư đã không nhận ra rằng, họ đang
rơi vào tội lỗi trầm trọng nhất: chối bỏ và báng bổ Tình Yêu của Thiên Chúa hiện
diện và hoạt động trong Chúa Giêsu. Và phạm thượng - tội chống lại Chúa Thánh
Thần - là một tội không thể tha thứ bởi nó xuất phát từ việc khép kín tâm hồn
trước lòng thương xót của Thiên Chúa hành động nơi Chúa Giêsu.
Anh Chị em,
“Ông ấy bị thần ô uế ám!”. Tình tiết này
chứa đựng một lời khuyên hữu ích cho chúng ta. Thật vậy, lòng ghen tị sâu sắc đối
với lòng tốt và việc tốt của một ai đó có thể khiến chúng ta buộc tội người đó
một cách sai lầm! Đây là chất độc gây chết người thực sự, nó có tên là “Ác ý”,
theo cách có tính toán trước, khi một người muốn huỷ hoại danh tiếng tốt đẹp của
người khác. Đức Phanxicô nói, “Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi cơn cám dỗ khủng
khiếp này! Và nếu khi xét mình, chúng ta nhận ra rằng cỏ dại này đang mọc lên
trong lòng, hãy đi xưng tội ngay trước khi nó phát triển và gây ra những hậu quả
xấu xa không thể chữa khỏi. Hãy cẩn thận, vì thái độ này hủy hoại gia đình,
tình bạn, cộng đồng và thậm chí cả xã hội!”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để
con - dù chỉ một lần - ‘vu vạ’ ai; nhưng cho con vui mừng mỗi khi bị ‘vu vạ’ vì
Chúa, vì anh chị em mình!”, Amen.
Thứ hai: Mt 5,1-12
Suy niệm 1:
1. Tâm hồn nghèo khó và hiền lành:
Đức Giêsu khẳng định sự nghèo khó
và hiền lành không phải là sự yếu đuối, mà là dấu hiệu của lòng tin tưởng và
phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Người nghèo khó về tâm hồn là người biết
rằng mọi sự đều từ Thiên Chúa mà đến, và không cậy dựa vào của cải vật chất.
2. Sầu khổ và khao khát công chính:
Những ai chịu đau khổ và khó khăn
trong cuộc sống sẽ được Thiên Chúa ủi an. Đồng thời, những người khao khát công
chính sẽ được Thiên Chúa thoả lòng. Đây là lời hứa của Thiên Chúa cho những ai
sống theo lẽ phải và công bình.
3. Xót thương và trong sạch:
Lòng thương xót và tâm hồn trong
sạch là hai đức tính quan trọng mà Đức Giêsu khuyến khích. Khi chúng ta biết
xót thương người khác, chúng ta sẽ nhận được sự xót thương của Thiên Chúa. Tâm
hồn trong sạch giúp chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa trong cuộc sống hàng ngày.
4. Xây dựng hòa bình và bị bách hại vì công
chính:
Đức Giêsu kêu gọi chúng ta trở
thành người xây dựng hòa bình, làm con của Thiên Chúa. Sống công chính và bị
bách hại vì danh Chúa là một vinh dự, vì phần thưởng lớn lao đang chờ đợi chúng
ta ở trên trời.
- Vui mừng trong thử thách:
Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta
vui mừng và hớn hở khi bị sỉ vả và bách hại vì danh Người, vì phần thưởng của
chúng ta ở trên trời thật lớn lao.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con biết sống theo các Mối
Phúc mà Chúa đã dạy. Xin cho chúng con có tâm hồn nghèo khó, hiền lành, biết
xót thương và trong sạch. Xin cho chúng con biết xây dựng hòa bình và vui mừng
trong mọi thử thách, để chúng con luôn cảm nhận được tình yêu và sự hiện diện
của Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Amen.
Suy niệm 2:
Bài đọc Tin Mừng
hôm nay mang đến cho chúng ta những lời hứa đầy hy vọng và niềm vui cho những
ai sống theo Lời Chúa.
1. Phúc thay cho
những ai...
* Nghèo khó
trong tinh thần: Đây là những ai ý thức mình hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên
Chúa, luôn khao khát sự cứu rỗi của Ngài.
* Đau khổ:
Đây là những ai chấp nhận hy sinh, chịu đựng vì danh Đức Giêsu và Tin Mừng.
* Hiền
lành: Đây là những ai sống hiền hòa, nhẫn nại, biết tha thứ và yêu thương
mọi người.
* Đói khát sự
công chính: Đây là những ai luôn khao khát và nỗ lực xây dựng một thế
giới công bằng, bác ái.
* Có lòng nhân
từ: Đây là những ai biết yêu thương, giúp đỡ người khác, đặc biệt là
những người nghèo khổ, yếu đuối.
* Có lòng trong
sạch: Đây là những ai có tâm hồn thanh tao, trong trắng, không vướng bận
những đam mê, dục vọng thấp hèn.
* Hoạt động cho
hòa bình: Đây là những ai luôn nỗ lực xây dựng hòa bình, đoàn kết trong
cộng đồng và xã hội.
* Bị bách hại vì
lẽ công chính: Đây là những ai dám sống và hy sinh vì Tin Mừng, dù phải
đối mặt với thử thách, gian nan, thậm chí là bách hại.
2. Lời hứa của
Chúa Giêsu:
Chúa Giêsu hứa
ban Nước Trời cho những ai sống theo những lời khuyên này. Nước Trời là niềm
vui, hạnh phúc viên mãn, là sự sống vĩnh cửu mà Thiên Chúa hứa ban cho những ai
tin vào Ngài và sống theo Lời Ngài.
3. Mời gọi:
Lời Chúa hôm nay
mời gọi mỗi người chúng ta sống theo những lời khuyên của Chúa Giêsu để được
hưởng hạnh phúc Nước Trời.
* Hãy sống nghèo
khó trong tinh thần: Hãy ý thức mình hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa,
luôn cầu xin sự trợ giúp và ơn cứu rỗi của Ngài.
* Hãy chấp nhận
hy sinh, chịu đựng vì danh Đức Giêsu và Tin Mừng: Hãy sẵn sàng đối mặt
với những khó khăn, thử thách trong cuộc sống vì lòng yêu mến Chúa và Tin Mừng.
* Hãy sống hiền
hòa, nhẫn nại, biết tha thứ và yêu thương mọi người: Hãy làm cho cuộc
sống của bạn trở nên chứng tá cho tình yêu thương của Thiên Chúa.
* Hãy luôn khao
khát và nỗ lực xây dựng một thế giới công bằng, bác ái: Hãy tham gia vào
các hoạt động xã hội để góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
* Hãy biết yêu
thương, giúp đỡ người khác, đặc biệt là những người nghèo khổ, yếu đuối:
Hãy chia sẻ tình yêu thương của bạn với mọi người xung quanh.
* Hãy giữ gìn
tâm hồn thanh tao, trong trắng: Hãy tránh xa những đam mê, dục vọng thấp
hèn.
* Hãy luôn nỗ
lực xây dựng hòa bình, đoàn kết trong cộng đồng và xã hội: Hãy góp phần
xây dựng một thế giới tràn đầy yêu thương và hòa bình.
* Hãy dám sống
và hy sinh vì Tin Mừng, dù phải đối mặt với thử thách, gian nan, thậm chí là
bách hại: Hãy tin tưởng rằng Thiên Chúa luôn ở bên cạnh và sẽ ban cho bạn
sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn.
Sống theo những
lời khuyên của Chúa Giêsu không phải là điều dễ dàng, nhưng nó là con đường dẫn
đến hạnh phúc đích thực.
Hãy cầu xin Chúa
Giêsu ban cho bạn ơn sức để có thể sống theo Lời Ngài và được hưởng hạnh phúc
Nước Trời. (St)
Thứ ba: Mt 5,13-16
Suy niệm 1:
Bài đọc 1 thuật lại câu chuyện về
tiên tri Êlia và bà góa thành Sarepta. Khi Êlia gặp bà góa và yêu cầu bà làm
bánh cho ông, bà cho biết chỉ còn một chút bột và dầu, đủ để làm một bữa cuối
cùng cho bà và con trai trước khi họ chết đói. Tuy nhiên, Êlia đã khuyên bà tin
tưởng vào Lời Chúa và hứa rằng bột và dầu sẽ không bao giờ cạn cho đến khi Chúa
ban mưa xuống đất. Bà góa đã tin và làm theo lời của Êlia, và như lời hứa, bột
và dầu không bao giờ cạn.
Bài học:
Sự tin tưởng vào Chúa và sự phục vụ vô điều kiện mang lại những phép lạ không
ngờ. Dù trong những lúc khó khăn, nếu chúng ta tin tưởng và làm theo lời Chúa,
Ngài sẽ luôn chăm sóc và bảo vệ chúng ta. Trong những lúc khó khăn, chúng ta
nên cầu nguyện và đặt niềm tin vào Chúa, vì Ngài là nguồn an ủi và hy vọng của
chúng ta.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa
Giêsu mời gọi các môn đệ của Ngài phải trở nên muối đất và ánh sáng thế gian.
Muối thì giữ gìn và làm tăng hương vị, còn ánh sáng thì soi đường cho người
khác. Chúa Giêsu khuyến khích các môn đệ sống một cuộc sống tốt lành để mọi
người có thể thấy và tôn vinh Thiên Chúa.
Bài học:
Chúng ta được mời gọi trở thành muối và ánh sáng trong thế giới này, tức là
sống một cuộc đời gương mẫu và làm việc thiện để phản chiếu tình yêu và vinh
quang của Thiên Chúa.
Tóm lại: Lời Chúa hôm nay mời gọi
chúng ta suy nghĩ về sự tin tưởng và sự dấn thân phục vụ trong cuộc sống của
mỗi người. Giống như bà góa thành Sarepta, chúng ta có thể đối diện với những
hoàn cảnh khó khăn và thử thách. Tuy nhiên, nếu chúng ta đặt niềm tin vào Chúa
và sẵn sàng phục vụ người khác, Chúa sẽ không bao giờ để chúng ta thiếu thốn.
Chúng ta cũng được nhắc nhở rằng
mình phải trở thành muối và ánh sáng cho thế gian, bằng cách sống đời sống
gương mẫu và làm những việc thiện lành để tôn vinh Thiên Chúa. Hãy nhớ rằng,
mỗi hành động nhỏ của chúng ta có thể mang lại sự thay đổi lớn lao cho những
người xung quanh.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con lòng tin tưởng mạnh mẽ
vào Ngài, để dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng con cũng biết đặt niềm tin
vào tình yêu và sự chăm sóc của Ngài. Xin giúp chúng con trở thành muối và ánh
sáng cho thế gian, để qua cuộc sống của chúng con, mọi người có thể nhận ra và
tôn vinh Ngài. Amen.
Suy niệm 2: KHUYẾN KHÍCH
“Các con hãy
đi!”.
“Những con ngỗng
ở phía sau đội hình phát ra tiếng kêu. Tôi cho rằng đó là cách chúng thông báo
rằng, chúng đang theo dõi và mọi việc đều ổn. Những tiếng kêu lặp đi lặp lại
hẳn sẽ khuyến khích những con đi trước tiếp tục bay. Bản năng của loài ngỗng là
làm việc cùng nhau, khích lệ nhau. Cho dù đó là quay, vỗ, trợ lực hay chỉ đơn
giản là kêu lên… Điều này cho phép chúng hoàn thành những gì đã đặt ra!” -
Chuck Swindoll.
Kính thưa Anh
Chị em,
Ý tưởng từ ‘đàn
ngỗng đang bay’ của Chuck Swindoll đưa chúng ta về Lời Chúa ngày lễ kính thánh
Barnaba. Qua đó, bạn và tôi - dù ở đấng bậc nào - vẫn luôn ý thức trách nhiệm
của mình trong Giáo Hội, đó là ‘khuyến khích’ nâng đỡ người khác, “Các con hãy
đi!”.
Công Vụ Tông Đồ
tường thuật cuộc viếng thăm của Barnaba. “Barnaba”, tiếng Hy Lạp có nghĩa là
‘Con của sự khuyến khích!’. Từ Giêrusalem, Barnaba được cử xuống Antiôkia để
xem xét hiện tình. Vui mừng khi thấy “ơn Thiên Chúa”, Barnaba “khuyên nhủ ai
nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa”; ông dành cho anh chị em tân tòng một sự khích
lệ lớn lao. Sau đó, đến Taxô, Barnaba tìm Phaolô, người mới tin; đưa Phaolô đi
Antiôkia để hỗ trợ cho Hội Thánh non trẻ này. Hội Thánh ngày càng có nhiều
người tin; Thánh Vịnh đáp ca bộc lộ nỗi vui, “Chúa đã mặc khải đức công chính
của Người trước mặt chư dân!”.
Trong Tin Mừng
hôm nay, Chúa Giêsu nói những lời đầy ‘khuyến khích’ với các môn đệ, “Các con
hãy đi rao giảng: Nước Trời đã đến gần. Hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ
chết trỗi dậy, cho người mắc bệnh phong được sạch, và khử trừ ma quỷ!”. Ma quỷ
vui mừng mỗi khi chúng ta nói và hành xử tiêu cực làm cho người khác nhụt chí.
Nó mở tiệc lớn mỗi khi ai đó nói một lời chua cay làm tan nát một cộng đoàn,
một gia đình. Vì thế, chúng ta phải tỉnh thức đề phòng và ra sức ‘khuyến khích’
nhau. Cha mẹ khuyến khích con cái, con cái khuyến khích cha mẹ; anh chị em, bạn
bè khích lệ nhau để “hoàn thành những gì đã đặt ra”. Bởi lẽ, chúng ta không lên
thiên đàng một mình!”.
Đức Phanxicô
nói, “Đời sống Kitô hữu là phục vụ. Thật là buồn khi thấy các Kitô hữu sẵn sàng
phục vụ dân Chúa, nhưng cuối cùng lại ‘sử dụng’ dân Chúa. Ơn gọi của chúng ta
là ‘phục vụ’ chứ không phải ‘sử dụng’. Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta
luôn có nguy cơ sa vào vấn đề ‘lời lỗ’, chúng ta hối lộ Chúa. Đó không phải là
con đường đúng… Mối quan hệ nhưng không với Chúa là điều sẽ giúp chúng ta có
được mối quan hệ tương tự với người khác. Đời sống Kitô hữu có nghĩa là bước
đi, rao giảng, ‘khuyến khích’ và phục vụ, nhưng đừng lợi dụng người khác!”.
Anh Chị em,
“Các con hãy
đi!”. Noi gương thánh Barnaba, chúng ta ra đi mở mang Nước Chúa trong đấng bậc
mình. Và rõ ràng, ‘mục vụ khuyến khích’, ‘văn hoá khuyến khích’ luôn luôn đóng
một vai trò nhất định, không chỉ trong các Hội Thánh non trẻ, mà cả với Giáo
Hội trưởng thành và ngay trong thế giới hiện đại. Không chỉ trong Giáo phận,
Giáo xứ, các hội đoàn mà còn trong gia đình, trong các tổ chức lớn nhỏ. Bạn và
tôi hãy là những con người dám dấn thân, những con người sẵn sàng vực dậy những
ai đang bủn rủn, đầu gối rã rời!
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cho
con luôn là một con người đầy lửa, sẵn sàng thắp sáng và sưởi ấm tình yêu Chúa
trong một thế giới khá lạnh lẽo này!”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp Huế)
Thứ tư: NHỮNG CHI TIẾT CỦA
TÌNH YÊU
“Trước khi trời đất qua đi, thì một chấm
một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi!”.
“Cái chết không
dập tắt được ánh sáng của người Kitô hữu; nó như ngọn đèn đang tắt vì bình minh
đã đến. Thật là tồi tệ khi sợ hãi điều không thể tránh khỏi. Khi chết chúng ta
để lại đằng sau tất cả những gì chúng ta có và mang theo tất cả những gì chúng
ta là. Điều quan trọng là tình yêu với những chi tiết của nó!” - Tertullien.
Kính thưa Anh
Chị em,
Tin Mừng hôm nay
chứng thực điều mà giáo phụ Tertullien cho là quan trọng - tình yêu, với những
chi tiết của nó! Với Chúa Giêsu, ‘những chi tiết của tình yêu’ được thể hiện
qua việc yêu mến Lề Luật, và dù là nhỏ, nó vẫn có tầm quan trọng lớn. Ngài nói,
“Trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không
qua đi!”.
Dưới ánh sáng
của sự hoàn hảo, khi các chi tiết nhỏ nhất trong lề luật được chú ý, thì luật
đó càng được tôn trọng ở mức độ lớn nhất. Và thật bất ngờ, đây là một hành vi
đức tin! Chỉ những ai có đức tin mới có thể tận tuỵ với những chi tiết phải
giữ, phải làm vì tình yêu. Chúa Giêsu không đến để huỷ bỏ, nhưng để đưa Lề Luật
lên một cấp độ cao hơn, tế nhị hơn, kể cả những chi tiết; từ văn tự trên bia
đá, Ngài hướng đến tình yêu khắc trong tim, viết trong hồn. Cấp độ cao hơn đó
là cấp độ đức tin! Tầm nhìn của Ngài về Lề Luật giúp con người nhận thức nó
trong một ánh sáng mới, ánh sáng Thánh Thần!
Giáo phụ
Chromatius viết, “Trong khi bỏ qua điều răn nhỏ nhất là tội, thì càng là tội
đối với những điều răn lớn nhất!”. Mọi điều phải được bảo tồn, trung thành dạy
dỗ và tận tuỵ thực thi. Những điều nhỏ được coi là ít quan trọng đối với những
người không tin hay bởi thế gian lại không hề nhỏ trước mặt Thiên Chúa; nó thật
cần thiết! Điều nhỏ nhặt chỉ ra tương lai lớn lao của thiên đàng. Phần lớn các
thánh trên trời là người đã làm những việc nhỏ!
Thật thú vị, bài
đọc Các Vua hôm nay kể chuyện Êlia, một người hết lòng vì Chúa và Lề Luật. Ông
thách thức 450 sư sãi Baal cầu xin thần của mình giáng lửa thiêu đốt của lễ.
Các thầy sãi đã thất bại! Phần Êlia, ông tự tin một cách tuyệt vời và đã làm
tất cả thật chi tiết. Ông lấy đá làm bàn thờ, đào mương; xếp củi, xẻ con bò ra
từng miếng, đặt trên củi; bảo người ta lấy nước rưới lên đến mấy lần. Lửa trời
giáng xuống thiêu đốt của lễ ông dâng. Êlia chiến thắng! Thánh Vịnh đáp ca thật
ý nghĩa, “Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con, vì bên Ngài, con đang ẩn náu!”.
Anh Chị em,
“Điều quan trọng
là tình yêu với những chi tiết của nó!”. Lời Chúa mời gọi chúng ta nghĩ đến
những ai Chúa đặt trong cuộc đời mình; cách riêng với các thành viên trong gia
đình, trong cộng đoàn. Liệu bạn có chú ý đến từng hành động nhỏ nhất của lòng
nhân ái? Liệu bạn có thường xuyên tìm cơ hội để đưa ra một lời động viên đầy
yêu thương? Bạn có nỗ lực, cả trong những chi tiết nhỏ nhất, để thể hiện rằng,
bạn quan tâm và đang ở đó để chăm sóc họ? Tình yêu nằm ở các chi tiết; và
‘những chi tiết của tình yêu’ lại làm sáng tỏ vinh quang Thiên Chúa và Lề Luật
Ngài!
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng
để con chạy theo những gì to tát; cho con biết chắt chiu từng cơ hội - dù là
nhỏ nhất - để thể hiện tình yêu của con dành cho Chúa và anh chị em con!”,
Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp Huế)
Thứ năm: ĐỒNG XU XÓT THƯƠNG
“Anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả
hết đồng xu cuối cùng!”.
Chuyện kể về
Augustin Dupré, người thiết kế các đồng xu; đặc biệt, “Đồng Xu Thiên Thần”. Bị
kết án tử hình, Dupré nắm chặt đồng xu trong tay và cầu nguyện; nhìn thấy nó,
viên đao phủ cho phép ông trao đổi nó để giữ lấy mạng sống. Từ đó, việc sở hữu
“Đồng Xu Thiên Thần” đồng nghĩa với việc sở hữu ‘đồng xu may mắn’. Napoléon
từng giữ bên mình đồng xu đó suốt hành trình chinh phục châu Âu cho tới khi ông
thất lạc nó. Đó là thời điểm ngay trước trận Waterloo diễn ra, chiến bại lịch
sử của ông!
Kính thưa Anh
Chị em,
Tin Mừng hôm nay
không chỉ nói đến ‘đồng xu may mắn’; nhưng còn hơn thế, nói đến ‘đồng xu xót
thương!’. Thoạt nghe, “Anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng!”,
chúng ta có thể nghĩ đến một cảnh báo đáng sợ! Không! Đồng xu phải trả Chúa
Giêsu nói ở đây là ‘đồng xu xót thương’, một hành động của tình yêu!
Chìa khoá để
hiểu điều này là Chúa Giêsu muốn chúng ta hoà giải với Thiên Chúa, với anh chị
em mình sớm nhất có thể. Ngài muốn tất cả giận dữ, đắng cay và oán hờn phải
được loại khỏi tâm hồn, “Hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên
đường đi với người ấy tới cửa công!”. Nói cách khác, hãy giao hoà trước khi bạn
ra trước toà Chúa. Sự công thẳng của Chúa hoàn toàn được thoả mãn khi chúng ta
nhận lỗi và tìm cách sửa lỗi; đồng thời, tha thứ cho anh chị em mình. Như thế,
mỗi “đồng xu” được thanh toán là ‘đồng xu xót thương!’.
Một điều mà
Thiên Chúa không bao giờ chấp nhận, đó là sự cố chấp. Ngài sẽ thi hành công lý
cho đến khi chúng ta “trả hết đồng xu cuối cùng”, nghĩa là biết hối cải và biết
tha thứ. Đây là một hành động xót thương của Ngài, Đấng luôn đợi chờ. Sự phán
xét của Ngài chỉ tập trung vào tội lỗi, điều duy nhất cản trở tình yêu. “Trả hết
đồng xu cuối cùng” còn được coi là hình ảnh của Luyện Ngục. Chúa Giêsu đề nghị
chúng ta thay đổi cuộc sống mình ngay bây giờ, tha thứ và ăn năn ngay bây giờ!
Hãy có cho mình những ‘đồng xu xót thương!’; bằng không, chúng ta vẫn phải đối
mặt với những tội lỗi đó sau khi chết. Tốt hơn, hãy làm những gì có thể khi còn
kịp!
Anh Chị em,
“Hãy làm những
gì có thể khi còn kịp!”. Như Dupré, bạn và tôi có đồng xu may mắn; nhưng, như
Dupré, chúng ta còn phải cầu nguyện. Phải cầu nguyện để có thể vượt qua sự cố
chấp chết chóc hầu có thể làm hoà với Chúa, với anh chị em mình; có thể tha thứ
cho họ. Bài đọc Các Vua hôm nay cho thấy mẫu gương cầu nguyện tuyệt vời của
Êlia! Giữa lúc hạn hán, đất nước sắp diệt vong vì đói, vua quan lo lắng, thì
“Êlia đã lên đỉnh Carmel, ông cúi xuống đất, gục mặt vào hai đầu gối” để cầu
nguyện. Chúa đã cho mưa đổ xuống! Cũng thế, Chúa sẽ đổ mưa lênh láng xuống lòng
chúng ta; ‘đồng xu xót thương’ bấy giờ sẽ là một ‘cánh đồng xót thương’, ‘dòng
sông xót thương’, ‘biển trời xót thương’ khi chúng ta giao hoà cùng Chúa, cùng
tha nhân. Và với Êlia, vua tôi Israel, chúng ta ngợi khen, “Lạy Thiên Chúa, ca
tụng Ngài ở Sion, thật là chính đáng!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa, để
con có thể tận hưởng tự do, xin dạy con biết tận dụng ‘đồng xu xót thương’ bao
lâu còn kịp!”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp Huế)
Suy niệm 2:
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về tình yêu và lòng từ
bi của Chúa đối với mọi người. Chúng ta được nhắc nhở rằng khi chúng ta làm ý
muốn Thiên Chúa, chúng ta trở thành anh em chị em của Chúa Giêsu. Điều này đòi
hỏi chúng ta sống trong tình yêu và lòng từ bi không điều kiện.
Chúa Giêsu phản đối sự phân biệt và xem thường người
khác. Ngài muốn chúng ta sống trong sự đoàn kết và yêu thương mọi người, bất kể
họ thuộc gia đình hay người xa lạ với chúng ta. Đó là cách để chứng tỏ tình yêu
của Đức Kitô và sống theo lời dạy của Ngài.
Hôm nay, hãy suy niệm về tình yêu thương không điều kiện
mà Chúa dành cho bạn và xem xét liệu có bao nhiêu việc bạn có thể áp dụng trong
cuộc sống hàng ngày để truyền bá thông điệp tình yêu này cho mọi người xung
quanh bạn. Hãy làm cho tình yêu thương trở thành con đường duy nhất mà bạn tiếp
cận với mọi người, giống như Chúa Giêsu đã làm khi Ngài còn ở giữa chúng ta.
Hãy suy niệm về lòng từ bi và
tình yêu thương không điều kiện của Chúa dành cho chúng ta, và xem xét liệu có
bao nhiêu việc chúng ta có thể áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. (St)
Thứ sáu: ÂM THANH CỦA THINH LẶNG
“Lạy Chúa, con tìm thánh nhan Ngài!”.
Dù rất yêu quý
sự thinh lặng, một nhà sư trẻ vẫn rời chùa. Lý do, chùa không còn yên tỉnh! Anh
xin nhập một thiền viện. Sau 10 năm, sư cụ thỉnh ý anh; anh đáp, “Ăn tệ!”. 10
năm sau, anh nói, “Ngủ tệ!”. 10 năm nữa trôi qua, anh thưa, “Tôi đi!”. Sư cụ
bảo, “Điều đó không làm tôi ngạc nhiên! Bạn nói, bạn yêu quý thinh lặng; nhưng
bạn đã không làm gì khác, ngoài phàn nàn! Làm sao bạn có thể nghe được âm thanh
của thinh lặng?”.
Kính thưa Anh
Chị em,
‘Âm thanh của
thinh lặng’ cũng là những gì chúng ta sẽ khám phá qua Lời Chúa hôm nay; đặc
biệt, với Thánh Vịnh đáp ca, “Lạy Chúa, con tìm thánh nhan Ngài!”. Chính trong
thinh lặng, Thiên Chúa hiện diện! Và cũng chính trong thinh lặng, Thiên Chúa
nói!
Ở một mức độ nào
đó, tất cả chúng ta đều là những con người đi tìm Thiên Chúa, “Linh hồn con
những khắc khoải cho đến khi được an nghỉ trong Chúa!”. Chính cuộc tìm kiếm
liên lỉ này khiến chúng ta trở thành những con người hành hương hướng về Chúa.
Êlia là một người tìm Chúa. Ông lên đường đến núi Horeb; ở đó, ông gặp Chúa,
nhưng không theo cách ông mong đợi - bài đọc một. Trong nền văn hoá thời bấy
giờ, người ta mong đợi thần minh tỏ mình qua những hiện tượng kỳ lạ của thiên
nhiên như trong lửa, bão tố hoặc động đất; tuy nhiên, Thiên Chúa tỏ mình cho
Êlia một cách tế nhị và khiêm tốn - “trong tiếng gió hiu hiu” - hoặc thú vị
hơn, trong ‘âm thanh của thinh lặng!’.
Thật không dễ để
chúng ta có được ‘thinh lặng’ trong thời đại ngày nay; vậy mà, chính ở đó,
Thiên Chúa tỏ mình cách tỏ tường hơn cả. Bởi thinh lặng không phải là nét đặc
trưng của nền văn hoá chúng ta; vì thế, bạn và tôi phải tìm kiếm nó. Một khi
trở nên hoà hợp với Thiên Chúa, dù Ngài chỉ ‘lướt qua’, chúng ta vẫn được Ngài
ban sức mạnh để có thể nghe điều Ngài dạy, làm điều Ngài muốn; đồng thời, biết
sống mối tương quan với người khác cách đúng đắn, trong sự tôn trọng họ như
Chúa Giêsu mời gọi.
Sự tôn trọng mỗi
người dành cho tha nhân được Chúa Giêsu nói đến hôm nay cũng chỉ hiểu được khi
chúng ta chìm sâu trong thinh lặng. Liên quan đến sự tinh tuyền của trái tim,
Ngài coi nhu cầu về sự trong sạch ở một cấp độ cao hơn so với Cựu Ước, vốn dạy
“chớ ngoại tình”. Ngài nói, nhìn một người nữ với ham muốn đã là tội! Ngài
không nói, công nhận một người khác phái xinh đẹp là tội; nhưng là tội khi xem
người đó như một đồ vật với suy nghĩ vạy vò trong lòng. Nói cách khác, bản thân
sự cám dỗ không phải là tội; chính khi dung dưỡng cám dỗ đó trong tim, dành cho
nó một ‘chỗ ở’, đú đởn bỡn nhả với nó trong tâm trí… là chúng ta đã bước qua
lằn ranh đỏ!
Anh Chị em,
“Lạy Chúa, con
tìm thánh nhan Ngài!”. Để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống và nhất
là trong tha nhân, Chúa Giêsu mời chúng ta chìm sâu vào ‘âm thanh của thinh
lặng’. Ngài mời chúng ta dìm mình trong cầu nguyện; để từ đó, có khả năng không
chỉ thay đổi hành vi mà còn thay đổi tấm lòng. Sự biến đổi nội tâm này nếu hiểu
theo nghĩa Thánh Kinh là công việc của Thánh Thần; vì chỉ Thánh Thần mới có sức
mạnh đổi mới lòng người, thanh tẩy mọi ước muốn lăng loàn và gột sạch những ý
định xấu xa.
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng
để con chỉ biết phàn nàn, nhưng ham thích cầu nguyện; vì biết rằng, Chúa thường
xuất hiện trong tiếng gió hiu hiu và chỉ nói trong im ắng!”, Amen.
Lm. Minh Anh, Tgp Huế
Thứ bảy: TRUNG THỰC
“Đừng thề chi cả!”.
“Một đứa trẻ
sống trong sự chỉ trích, nó sẽ học cách lên án. Một đứa trẻ sống trong sự thù
địch, nó sẽ học cách đánh nhau. Một đứa trẻ sống trong sự khích lệ, nó sẽ học
được sự tự tin. Một đứa trẻ sống trong tình yêu, nó sẽ học được rằng, thế giới
là một nơi tuyệt vời để sống. Một đứa trẻ sống với sự trung thực, nó sẽ học
được sự thật là gì!” - Anon.
Kính thưa Anh
Chị em,
“Một đứa trẻ
sống với sự trung thực, nó sẽ học được sự thật là gì!”. Trong Tin Mừng hôm nay,
Chúa Giêsu nói đến sự ‘trung thực’; Ngài nói với các môn đệ, “Thầy bảo cho các
con biết: đừng thề chi cả!”.
Ở đây, Chúa
Giêsu không nói đến những hình thức tuyên khấn trước Thiên Chúa và Giáo Hội.
Thay vào đó, Ngài nói đến một thói quen mà một số người thường làm; theo đó, họ
thường thề thốt nhân danh Chúa về tính ‘trung thực’ của những gì họ nói. Đó là
những người cần một thứ gì đó trang trọng, thiêng liêng; và như thế, bất cẩn
biến nó thành một thứ bình thường. Thực ra, không cần “thề với Chúa” về mọi
điều mình nói.
Trước hết, nếu
một người cảm thấy cần phải thường xuyên kêu cầu danh Chúa để thuyết phục người
khác về tính ‘trung thực’ của họ, thì rất có thể họ đang đấu tranh với sự thiếu
trung thực. Việc thề thốt thường xuyên dường như giả định trước một xu hướng
xấu - nói dối! Vì lý do đó, sẽ không lý tưởng khi thực hiện các tương tác hàng
ngày của một người với ‘tiền giả định’ - xu hướng nói dối - này. Với tư cách là
Kitô hữu, chúng ta phải cố đạt được khuynh hướng căn bản về sự ‘trung thực’,
“‘Có’ thì phải nói ‘có’, ‘không thì phải nói ‘không’; thêm thắt điều gì là do
ác quỷ!”. Nói cách khác, hãy nỗ lực để trở thành một người ‘trung thực’ và
chính trực; chân thành trong mọi lời nói việc làm và đừng bắt đầu với giả định
là không trung thực. Hãy trung thực và chân thành, thế là đủ!
Hơn nữa, nếu một
người suốt ngày thề thốt trung thực nhân danh Chúa, điều này sẽ làm giảm đi
tính trang trọng của một số ít lần khi đây là một thực hành tốt và thánh thiện.
Lời thề của các đôi bạn trong Bí tích Hôn Phối, hay của các linh mục ngày thụ
phong là độc nhất và trang trọng. Việc công khai đổi mới đức tin của chúng ta
trong Giáo Hội; một người bắt đầu đảm nhận trách nhiệm của một cơ quan công
quyền nào đó, hoặc bất kỳ cơ hội tuyên thệ trang trọng nào khác phải được coi
là một dịp đặc biệt. Vì vậy, những cam kết hàng ngày của chúng ta phải đơn giản
là kết quả của sự liêm chính với tư cách là con cái Chúa.
Anh Chị em,
“Đừng thề chi
cả!”; “Sống trung thực, bạn sẽ học được sự thật là gì!”. Hôm nay, hãy suy gẫm
về cách tiếp cận hàng ngày của bạn đối với sự ‘trung thực’ và chân thành. Ngày
sống của bạn có mục tiêu là sống trong sự thật, nói sự thật và tìm kiếm sự thật
không? Bạn có thành thật với người khác, tìm kiếm sự giao tiếp tốt và rõ ràng
với họ không? Hãy suy gẫm những câu hỏi này và biết rằng, sự ‘liêm chính nội
tâm’ đòi hỏi những nhân đức trung thực và chân thành này. Hãy tìm kiếm sự chính
trực đó và những người khác sẽ hưởng lợi khi họ ngày càng tin tưởng bạn hơn!
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cho
con biết xấu hổ và tự thẹn mỗi khi thiếu ‘liêm chính nội tâm’. Như một em bé,
cho con luôn sống hồn nhiên, ‘trung thực!’”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp Huế)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét