SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXXIII THƯỜNG NIÊN
Lm Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT XXXIII THƯỜNG NIÊN B
KÍNH TRỌNG THỂ CÁC THÁNH TỬ
ĐẠO VIỆT NAM
Kn 3,1-9; 2Cr 4,7-15; Mt
10,17-22
Suy niệm 1:
Cùng GH, hôm nay chúng ta mừng kính trọng
thể các thánh tử đạo VN, kỉ niệm sự kiện ngày Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II tôn phong 117 vị tử đạo VN lên bậc hiển thánh. Xin các thánh tử đạo VN cầu
bàu cùng Chúa cho chúng ta, đặc biệt là cho
quý vị trong Ban Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ biết sống kiên
cường trong đức tin, trung tín
trong ơn gọi và hăng say trong sứ vụ cao quý của mình, hầu trở
nên những chứng nhân tình yêu của Chúa Kitô trong thời đại hôm nay,
theo gương các thánh Tử Đạo Việt Nam.
Hôm nay Hội Thánh mừng
trọng thể các thánh tử đạo Việt Nam. Các ngài thuộc đủ mọi thành phần trong
Giáo Hội, gồm các giám mục, linh mục, thầy giảng, chủng sinh, HĐMVGX và
rất nhiều giáo dân. Các ngài là những công dân hiền hòa, sống đời gương mẫu,
nêu cao lý tưởng trung kiên với Thiên Chúa và một lòng mến yêu tổ quốc.
Bị bắt bớ, tra tấn và tù
đày, nhưng không một người nào trong các ngài có ý định cầm khí giới để chống
trả; trái lại, các ngài cam chịu vì Đức Kitô, cầu nguyện cho mọi người và thật
lòng tha thứ cho những kẻ bách hại mình.
Ngày nay, trước những
thách đố của chủ nghĩa duy vật vô thần, duy tương đối, não trạng hưởng thụ ích
kỷ, lối sống gian dối và lừa lọc.... Muốn trung thành với những giá trị của
Phúc Âm, chúng ta phải không ngừng chọn lựa và từ bỏ trong đau đớn, không kém
gì những khổ hình như các thánh tử đạo Việt Nam đã chịu trước đây.
Sống Phúc Âm trong thời
đại ngày nay đúng là một cuộc tử đạo liên tục. Xin các thánh tử đạo VN cầu bầu cùng Chúa: Cho chúng ta biết
noi gương các ngài, trung thành bền đỗ theo Chúa đến cùng. Cho đồng bào Việt
Nam ngày càng yêu mến và tin theo Chúa nhiều hơn.
Đặc biệt là cho quý vị
trong Ban Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ nhận các Thánh Tử Đạo Việt Nam làm bổn mạng,
biết sống trung tín với Chúa trong mọi hoàn cảnh. Tích cực chu toàn tốt bổn
phận mà Chúa và Giáo Hội trao phó; nhất là sẵn sàng hy sinh phục vụ tha nhân
bằng một tình yêu quảng đại nhưng không, với mong muốn trở nên những chứng nhân
đích thực của “Niềm Vui Tin Mừng” trong thời đại hôm nay, theo gương của các
thánh Tử Đạo Việt Nam là cha ông của chúng ta.
Đọc
lại lịch sử GHVN, ta biết được hạt giống Tin Mừng của
Chúa đã được gieo vải trên vùng đất hình chữ S
của chúng ta vào khoảng năm 1533.
Do
Tin mừng của Chúa rất phù hợp với quan niệm và tâm thức của người
Việt, nên Tin mừng ấy đã nhanh chóng thấm nhập và lan
tỏa khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam chúng ta.
Nhưng
hạt giống Tin mừng ấy bén rể và mọc lên chưa được bao lâu
thì đến khoảng năm 1580, các vua quan đất Việt lại lo sợ mất ảnh hưởng và uy
tín trên dân chúng nên đã ra những chiếu chỉ cấm cách và
bắt hại đạo gắt gao.
Từ
khoảng năm 1580-1888 (khoảng 300 năm) đã xảy ra những cuộc bách hại
khốc liệt cho GH Việt Nam. Đó là thời kỳ của Chúa Trịnh: Trịnh Doanh,
Trịnh Sâm, Cảnh Thịnh; và các vua thời nhà Nguyễn: Thiệu Trị,
Minh Mạng, Tự Đức. Ước tính trong thời gian này có chừng 400.000 người bị
lưu đầy, phát lưu và phân sáp. Trong đó có khoảng 130.000 tín
hữu đã phải chịu chết vì đạo, dưới nhiều hình thức giết người dã man khác nhau
như: Gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói, cho voi giầy, trói
ném xuống sông, đổ dầu vào rốn rồi đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng,
chặt đầu, thắt cổ, thiêu sống, tùng xẻo và bá đao.
Trong rất
nhiều tín hữu tử đạo ấy có 117 vị đã được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II tôn vinh lên bậc hiển thánh vào ngày 19/06/1988. Bao gồm: 8
vị GM, 50 LM, 1 Chủng sinh, 15 thầy giảng và 44 giáo dân.
* Với
bao nhiêu cực hình đau đớn không thể tưởng ấy dành cho các vị tử đạo Việt Nam.
Lắm lúc ta ngồi tự hỏi: nhờ đâu mà các ngài lại đủ sức mạnh dũng khí
để vượt thắng được những nỗi sợ hãi kinh hoàng như vậy?
- Khi
suy nghĩ về điều đó, chúng ta mới thừa nhận rằng: chỉ có sức mạnh của đức tin và tình yêu mới
làm nên điều kỳ diệu nơi các ngài như vậy.
1. Sức mạnh đức tin đã tạo nên chỗ dựa thiêng liêng vững mạnh cho các ngài. Tin Chúa
là đấng quyền năng và giàu lòng thương xót. Tin vào Chúa đã sáng tạo vũ trụ và
tác tạo nên con người. Nên sự sống, sự chết thuộc trọn quyền Thiên Chúa. Chính
niềm tin kiên vững vào Thiên Chúa quyền năng nên bà mẹ và 7 người con của bà
được ghi lại trong sách Macabê II đã can đảm vượt qua nỗi sợ hãi của cái chết
mà trung thành với niềm tin của mình.
2. Sức mạnh tình yêu đã
làm nên năng lực vô biên giúp các thánh tử đạo vượt qua những cực hình đau đớn
thể xác mà an vui đón nhận cái chết đau thương. Hơn ai hết, các ngài hiểu rằng:
chỉ vì yêu nhân loại lỗi lầm mà Chúa Giêsu đã tự nguyện hiến dâng mạng
sống mình chịu chết trên thập giá, đền tội thay cho con người để cho con
người “được sống và sống dồi dào”. Nên tình yêu đó đã thúc
bách các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết chỉ vì tình yêu mới
đền đáp tình yêu.
Nhìn
vào các chiến sĩ tự nguyện xông pha vào chiến trường chiến đấu với ngoại bang
để gìn giữ và bảo vệ tổ quốc. Trong đó có bao chiến sĩ đã hy sinh mạng sống
mình, ta hiểu được sức mạnh của tình yêu. Cũng thế, khi nhìn vào biết bao gương
hy sinh của những người cha, người mẹ đã không ngại hy sinh, gian khổ, ngay cả
tính mạng để cho con mình được lớn lên trong an vui và hạnh phúc. Ta hiểu thế
nào là sức mạnh của tình yêu. Đúng là “tình yêu mạnh hơn sự chết”.
Là
con cháu của các thánh tử đạo, chúng ta phải nguyện sống sao cho xứng đáng với
những hy sinh lớn lao mà các bậc cha ông cúng ta để lại. Các ngài không đòi
buộc chúng ta phải tử vì đạo như xưa. Nhưng có lẽ điều các ngài mong muốn nơi
chúng ta là sống đạo theo gương của các ngài. Đó là sống đức tin kiên trung và
tình yêu nồng nàn với Chúa và với nhau.
- Noi
gương các ngài, chúng ta phải ra sức gìn giữ và bảo vệ đức tin tinh tuyền mà
các ngài đã đổ máu trao lại cho chúng ta. Can đảm sống và làm chứng niềm
tin của mình cho mọi người và mọi nơi theo gương các ngài cho dẫu phải đối mặt
với muôn vàn thách đố trong cuộc sống hôm nay.
-
Luôn hằng yêu mến Chúa bằng đời sống cầu nguyện, siêng năng tham dự thánh lễ,
lắng nghe và tích cực thi hành giáo huấn của Chúa chỉ dạy. Nỗ lực làm việc bác
ái giúp đỡ mọi người nhất là những người nghèo khổ chung quanh chúng ta.
Xin
các thánh tử đạo Việt Nam chúc lành và cầu bàu cùng Chúa cho chúng ta để ta
luôn sống xứng danh là con cháu của các ngài. Amen.
Suy niệm 2: TỬ ĐẠO LÀ CAN ĐẢM SỐNG ĐẠO
Các
thánh tử đạo tại Việt Nam là những bậc cha ông của chúng ta. Khi xưa, cho dẫu
các ngài đã phải bị các vua quan triều đình bắt bớ, xiềng xích, tra tấn và tống
ngục… buộc phải chối Chúa, bỏ đạo, nhưng các ngài đã can đảm tuyên xưng đức tin
mà không hề sợ hãi, đó là nhờ các ngài đã đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa
quyền năng và tình yêu.
Hãy nhớ
rằng, Thiên Chúa mà chúng ta tin thờ là Thiên Chúa Tình Yêu và đạo của
chúng ta cốt lõi là Đạo của Yêu Thương. Vì thế mà thánh Gioan đã nhắc nhở chúng
ta rằng: “Các con thân mến, chúng ta phải thương yêu nhau, vì tình yêu
bởi Thiên Chúa mà ra. Vì hễ ai thương yêu, thì đã sinh ra bởi Thiên Chúa, và
nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không thương yêu, thì không biết Thiên Chúa, vì
Thiên Chúa là Tình Yêu.” (1Ga 4,7-8) Đúng vậy, Đạo Chúa là
Đạo Yêu Thương. Cho nên điều luật quan trọng nhất trong Đạo Công Giáo
chúng ta được tóm gọn trong một chữ duy nhất là “YÊU”. Mến Chúa và yêu người.
Thánh Phao-lô cũng đã dạy rằng: “Ai yêu thương là chu toàn
mọi điều luật dạy.” (Rm 13, 8). Yêu thương chính là dấu chỉ để
mọi người nhận biết chúng ta là môn đệ của Chúa, ai không yêu thương
thì tự loại trừ mình ra khỏi hàng ngũ những người môn đệ Chúa, theo như
lời Chúa Giê-su phán dạy: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là
môn đệ Thầy, đó là anh em yêu thương nhau.” (Ga 13, 35).
Ông
bà anh chị em thân mến, ngày nay có rất nhiều thế lực mạnh mẽ lôi
kéo, xô đẩy chúng ta từ bỏ Đạo yêu thương. Vậy đó là những thế lực nào?
1. Đó là thế lực vô cảm: Người
vô cảm là người sống theo chủ nghĩa mặc kê nô: thờ ơ, dửng dưng,
không quan tâm đến những người chung quanh, không cảm thông với những nỗi đau
thương, bất hạnh của người khác...Khi ta vô cảm, không thương xót người hoạn
nạn, đau khổ… là ta đã từ bỏ điều cốt lõi của Đạo yêu thương.
2. Đó là thế lực ghen ghét, hận thù: Lòng ghen ghét và hận thù sôi
sục trong lòng con người, nó làm chủ suy nghĩ, hành vi lời
nói của ta, xui khiến ta chửi mắng, đánh đập, nói hành nói xấu, gây thiệt hại
cho người khác. Nếu để lòng giận hờn ghen ghét làm chủ tâm hồn là ta, là
ta đang tự loại trừ mình ra khỏi hàng ngũ những người môn đệ Chúa.
3. Đó là thế lực của tham lam ích kỉ: Lòng tham lam thái quá đã thúc đẩy rất nhiều
người gây ra tội ác, như: tham ô, trộm cướp, giết người… gây ra
vô vàn thiệt hại cho đất nước, cho đồng bào, cho cả những người ruột thịt thân
yêu trong gia đình dòng họ của mình.
Ngoài
ra, còn rất nhiều thế lực khác, tuy vô hình, nhưng có sức mạnh lớn lao, đã hoặc
đang xâm chiếm tâm hồn ta, làm chủ cuộc sống ta, luôn tìm cách lôi kéo, xô đẩy
ta ra khỏi Đạo yêu thương của Chúa. Đây là những cơn bách hại lâu dài,
mạnh mẽ… còn tiếp tục kéo dài suốt cuộc đời ta và suốt dòng lịch sử nhân loại.
Nếu không quyết tâm chiến đấu chống lại, chúng ta phải thua trận và trở thành
người chối bỏ Đạo yêu thương lúc nào không hay biết.
Hậu
quả khủng khiếp của người bỏ Đạo yêu thương phải gánh lấy, đó là đến ngày phán
xét, họ sẽ bị Chúa Giêsu lên án: “Hỡi quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho
khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của
nó"… vì ngươi không có lòng yêu thương, cứu giúp những người chung
quanh (x. Mt 25, 34.41).
Xin
Chúa cho chúng ta biết noi gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam luôn trung thành
sống đạo yêu thương Chúa dạy cho dẫu phải đối mặt với muôn vàn gian lao thử
thách; bằng cách can đảm khướt từ mọi cám dỗ đi ngược lại với luật tình yêu
Chúa dạy, đừng bao giờ chà đạp lên tình người, lên danh dự và tính mạng của
người khác. Bởi vì làm như thế là ta đang loại trừ Thiên Chúa Tình Yêu và chối
bỏ Đạo Yêu Thương ra khỏi đời mình. Hậu quả mà ta phải gánh chịu là đánh mất đi
hạnh phúc thiên đàng. Amen. (St)
Suy niệm 3:
Câu Chuyện : Thánh Nữ I-Nê Đê.
Trong số 117 vị thánh Tử đạo tại Việt nam, chỉ có một phụ
nữ là thánh nữ I-NÊ LÊ THỊ THÀNH (hay cũng gọi là bà thánh I-NÊ ĐÊ).
Bà là mẹ của 8 người con
Trước khi trở thành thánh tử đạo, bà đã là một người mẹ
hiền gương mẫu. Cô con gái út của bà đã khai về mẹ mình trước tòa
phong thánh rằng : “Thân mẫu chúng tôi rất quan tâm giáo dục con cái.
Người dạy chúng tôi học chữ và học giáo lý. Về sau còn dạy chúng
tôi cách thức dự lễ và xưng tội rước lễ”.
Bà Đê đã dùng căn nhà của mình làm nơi trú ẩn cho các linh
mục thừa sai, để tránh sự ruồng bắt của vua quan. Vào buổi sáng lễ
Phục Sinh năm 1861, tổng đốc Nam Định đã sai quân đến nhà bắt giữ bà.
Bấy giờ bà đang trong tuổi lục tuần. Bà đã bị tra khảo tàn nhẫn để
buộc phải khai báo nơi trú ẩn của các linh mục thừa sai. Nhưng bà tỏ
ra kiên cường, không hề hé môi nói nửa lời. Sau đó bà lại bị bắt ép
khiêng qua cây Thánh giá, bị bỏ rắn độc vào người. Khi con gái bà
đến thăm và tỏ vẻ đau lòng thấy quần áo của mẹ mặc bị loang lổ
những vết máu đỏ tươi, thì bà đã an ủi con rằng : “Con ơi, đừng khóc
nữa. Mẹ mặc áo hoa hồng đấy. Mẹ chịu khổ vì Danh Chúa Giêsu thì sao
con lại phải khóc?”
Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình, người đàn bà kiên cường
ấy đã từ giã cuộc đời, để lại cho hậu thế một tấm gương anh dũng
trung thành với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng.
1. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là ai?
+ Các ngài là những giáo dân Việt Nam không rõ hết
được danh tánh, các ngài đã sẵn lòng chịu chết để làm
chứng cho Chúa. Các Ngài đã bị bách hại và bị giết chết dưới
thời phong kiến, vào khoảng năm 1580-1888 (khoảng 300 năm), trong
các thời kỳ của Chúa Trịnh: Trịnh Doanh, Trịnh Sâm, Cảnh
Thịnh; và các vua thời nhà Nguyễn: Thiệu Trị, Minh Mạng, Tự Đức.
Ước tính có khoảng 130.000 tín hữu đã phải chịu chết vì đạo, dưới
nhiều hình thức khác nhau như: Gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn,
bỏ đói, cho voi giầy, trói ném xuống sông, đổ dầu vào rốn rồi đốt, bị đóng đinh
vào ván rồi đem phơi nắng, chặt đầu, thắt cổ, thiêu sống, tùng xẻo và bá đao.
2. Các thánh tử đạo Việt Nam bao gồm thành phần
nào?
Trong 130.000 tín hữu ấy gồm các thành phần khác nhau với đủ mọi lứa
tuổi: Có người làm linh mục như
cha Philíp-phê Minh, làm thầy
giảng như thày Anrê Phú Yên, là nữ tu như 270 dì phước dòng
Mến Thánh Giá, là chủng sinh như chú Tôma Thiện 18 tuổi, là quan chức triều đình như Hồ
Đình Hy, là quân lính như
Trần Văn Trông, là trùm
họ như Nguyễn Đích, là công
chức như Nguyễn Huy Mỹ, là lái buôn như Lê Văn Gẫm, là nông dân như Đaminh Ninh... Hầu như mọi thành phần, lứa
tuổi hay nghề nghiệp đều có đại diện.
GH VN đã thống kê có 58 các vị giám mục và linh mục thừa
sai, 25 linh mục Việt Nam, 340 thầy giảng, 270 nữ tu và khỏang trên 100
ngàn giáo dân đã chết vì đạo. Trong số đó, vào ngày 19 tháng 06 năm
1988, Đức Thánh Cha Gioan Phao-lô II đã tôn phong lên bậc hiển thánh 117
vị và sau đó tới lượt thày giảng Anrê Phú Yên được phong lên bậc Chân
Phước hay Á thánh ngày 05.3.2000.
Đây chỉ là những vị có đầy đủ hồ sơ chứng minh đã
anh dũng chịu chết vì đức tin. Còn hằng hà sa số các tín hữu đã
bị giết chết với nhiều cách khác nhau, nhưng do thiếu hồ sơ cụ thể để xin
phong thánh, nên vẫn còn chờ sẽ được tôn phong sau này.
+ Tử đạo chính là làm chứng cho Chúa : Đức Giê-su đã
sai các Tông đồ đi rao giảng Tin mừng và tiên báo các khó khăn sẽ gặp
phải như sau : “Anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan
quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” (Mt
10,18). Người cũng truyền cho các Tông đồ phải làm chứng nhân cho Người
: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong
khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv
1,8). Các thánh Tử đạo Việt Nam đã chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa
bằng việc chấp nhận chịu chết vì đức Tin. Còn chúng ta hôm nay tuy không có cơ
hội chịu chết vì Danh Chúa như xưa, nhưng chúng ta vẫn có thể làm
chứng cho Chúa bằng một lối sống hy sinh quên mình, khiêm nhường vị tha
và luôn yêu thương phục vụ tha nhân vô vụ lợi. Ngày nay ma quỷ không dùng cực
hình đau khổ thể xác để bắt buộc người tín hữu bỏ đạo như vua chúa xưa, nhưng
chúng dùng tiền bạc và đầu độc người tín hữu nhất là giới trẻ bằng những
băng đĩa phim ảnh đồi trụy, các video games bạo lực dâm đãng, hút chích ma túy,
rượu chè bài bạc… khiến các thanh thiếu niên chán ngại đọc kinh lần hạt, bỏ
dự lễ Chúa Nhật... Rồi do không được nghe giảng Lời Chúa và thiếu ơn Chúa
nên họ chỉ còn biết tìm kiếm tiền bạc và lao đầu vào việc hưởng thụ mà không
nghĩ đến đời sau… và cuối cùng sẽ mất đức tin lúc nào không hay.
+ Ý nghĩa của tử đạo trong cuộc sống hôm nay :
Tử đạo ngày hôm nay trước hết là sống Đức Tin bằng sự hy
sinh quên mình phục vụ, sẵn sàng chấp nhận thua thiệt, kể cả hy sinh mạng sống
của mình noi gương các thánh Tử Đạo. Sứ mệnh của người tín hữu là phải trở
thành muối mặn ướp đời khỏi hư hỏng, thành nắm men tin yêu làm cho
thúng bột xã hội dậy lên men tình yêu của Chúa (x. Mt 5,13), nên đuốc
sáng chiếu soi cho u tối trần gian như lời Chúa dạy : “Ánh sáng
của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những
việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên
trời” (Mt 5,16).
+ Phải làm chứng cho Chúa như thế nào? Hôm nay nếu
ta chọn làm theo ý riêng ích kỷ là chúng ta đã gián tiếp chối bỏ đức tin;
Khi ta chọn làm những việc xấu xa, lỗi phép công bằng và đức bác ái,
là ta đang chối Chúa cách gián tiếp và bước qua Thánh giá Chúa bằng chính
cuộc sống không tốt của mình. Trái lai, nếu ta năng cầu nguyện dự lễ, kèm
theo lối sống công minh chính trực, sẵn sàng dấn thân quên mình và khiêm tốn
phục vụ tha nhân vô vụ lợi là ta đang làm chứng cho Chúa noi gương các thánh Tử
Đạo Việt Nam. (St)
Suy niệm 4: ĐỪNG
SỢ!
“Anh em đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh
hồn.” (Mt
28, 33).
Nếu có ai giết được linh hồn thì Đấng đó phải là Thiên Chúa. Nhưng Thiên
Chúa không bao giờ làm như vậy. Người chỉ cứu rỗi chứ không bao giờ hành hạ con
người. Chỉ có con người mới tàn sát nhau thôi. Mà con người dẫu có hành hạ nhau
dã man cách mấy, vẫn chỉ là hành hạ nhau trên thân xác.
Lời Chúa dạy “Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không
giết được linh hồn”, trở thành lời an ủi, động viên niềm tin, niềm hy
vọng của ta vào Chúa Giêsu: Người là Thiên Chúa, đến trần gian cứu chuộc và
loan báo tin mừng cho mọi người biết chính Người là Đấng Cứu Thế, vậy
mà loài người còn không tha, thì huống hồ là loài người với nhau.
Người Do thái nghĩ rằng, khi giết Chúa Giêsu, họ đã khử trừ được một
thứ tôn giáo mới. Và do cái chết thê thảm đó, sẽ làm cho các môn đệ thoái chí,
buộc lòng phải giải tán. Nhưng họ lầm. Họ lầm vì họ không biết rằng, họ chỉ có
thể giết được thân xác của Giêsu, chứ không giết được linh hồn Người. Họ lầm vì
họ chỉ có thể giết được thân xác Giêsu, nhưng chính Thiên Chúa nơi con người
Giêsu ấy, làm sao giết được! Họ lầm vì họ không ngờ rằng, cái thân xác mà họ
treo trên cây thập giá đó đã sống lại chỉ trong một thời gian ngắn, trên dưới
40 tiếng đồng hồ.
Bởi loài người không thể giết Thiên Chúa, nên Kitô giáo vẫn tồn tại,
đạo Chúa Kitô vẫn không ngừng phát triển.
Các thánh Tử Đạo Việt Nam cũng vậy. Một lòng trung kiên kính thờ Thiên
Chúa. Sợ Thiên Chúa chứ không sợ “những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết
được linh hồn”. Trước mặt vua quan, các ngài đã khẳng khái tuyên xưng đức tin
của mình, sẵn sàng chấp nhận mọi thiệt thòi, quyết không để đức tin bị khinh
miệt, bị xúc phạm.
Các thánh Tử Đạo biết rõ mất mạng sống là không còn có mặt trong cuộc
đời nữa, nhưng vì đức tin: tin vào Chúa Giêsu, Đấng đã chết và sống lại, các
thánh không sợ chết, quyết tâm dâng hiến mạng sống để tôn thờ Chúa đến cùng.
Còn vua quan, cũng giống những người Do thái trước kia: tưởng giết Chúa
Giêsu là xong chuyện. Vua quan tưởng rằng bách hại và giết chết người có đạo là
xóa được một tôn giáo mới, nhưng họ cũng lầm y như những người Do thái xưa
kia vậy: Vì họ chỉ có thể giết được thân xác chứ không giết được linh hồn
người có đạo. Họ chỉ có thể giết được người có đạo chứ không thể giết chính
Thiên Chúa của người có đạo. Các vua, các quan càng ra sức bách hại và cấm đạo
triệt để bao nhiêu, thì trong hoàn cảnh trốn tránh hết sức khó khăn, đức tin
của người tín hữu lại càng lớn mạnh, kiên vững và lan tỏa.
Gần 3 thế kỷ bắt đạo, có lúc gay gắt, có lúc nới lỏng, trong vòng 3 thế
kỷ hãi hùng ấy, các triều đại phong kiến đã giết chết khoảng 130 ngàn đến trên
250 ngàn người Việt Nam Công Giáo. Điều đó chứng tỏ trong khó khăn, đức tin
không lùi bước mà sẵn sàng đương đầu với khó khăn đó.
Con số 118 vị tử đạo được tuyên phong trên bàn thờ chỉ là một phần nhỏ,
chỉ là con số tượng trưng. Ba thế kỷ bách hại, đạo Công Giáo không mất mà vẫn
tồn tại, và đang phát triển. Cho nên Lời Chúa nói: “Anh em đừng sợ” đúng vô
cùng, bởi lời ấy trở nên lời hy vọng, niềm tin tưởng, sức mạnh và tình yêu để
mỗi người Việt Nam nói chung và người Công Giáo Việt Nam trong hiện tại nói
riêng hãnh diện bước tới và trung kiên gìn giữ đức tin, cũng như sống đức tin
của mình.
Mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam hôm nay, bạn và tôi tự hào
vì mình là con cháu các thánh. Tự hào là con cháu các thánh, nên bạn
và tôi càng phải sống đức tin trung kiên như lời Chúa dạy: “Anh em đừng sợ”.
Cái “đừng sợ” của chúng ta hôm nay là thực hiện đức tin của mình
bằng những việc làm hết sức nhỏ bé hằng ngày như “làm dấu thánh giá
trang nghiêm trước khi ăn, cho dù nơi đó là nơi công cộng, trung
thành kinh hôm kinh mai, siêng năng cầu nguyện và tham dự thánh lễ, dám hy sinh
phục vụ và chia sẻ tình thương...
Tại sao có những việc lớn lao ta lại làm được, còn những việc rất nhỏ
bé như thế lại không thể được? Bao hàm trong cái không thể đó, là sự sợ hãi: sợ
người khác thấy, sợ người khác biết mình có đạo, sợ bị chê cười… Những cái sợ
không đáng sợ lại là thực tế của người Công Giáo hôm nay.
Ngày xưa tuyên xưng đức tin như thế, các thánh Tử Đạo đã trả bằng giá
máu, nhưng các ngài vẫn kiên tâm, không sợ những kẻ giết được thân xác mà không
giết được linh hồn. Ngày nay có ai giết ta đâu tại sao ta lại không giữ nổi
những điều căn bản nhất mà cha ông đã làm?
Qua tất cả những gì ta có thể thực hiện đức tin từ việc nhỏ nhất như
hành vi tuyên xưng đức tin bằng dấu Thánh giá, đến việc sống đức tin trong suốt
cuộc đời của mình, bạn và tôi đã làm được điều mà các thánh Tử Đạo đã từng làm:
chọn đức tin làm lẽ sống và chọn Chúa Kitô làm gia nghiệp đời mình. Giữa bao
nhiêu cạm bẫy và cám dỗ trong cuộc đời, sẽ dễ làm đời ta mất phương
hướng, nghi nan, chao đảo, có khi còn mất cả đức tin, nếu ta không có một chọn
lựa dứt khoát đứng về phía đức tin.
Đặc biệt sống đức tin hôm nay ta còn nhiệm vụ chuyển
tải những giá trị tin mừng của Chúa như: công bằng, tình thương, bao dung,
tha thứ, hy sinh phục vụ tha nhân bằng tình yêu mến chân thành và quảng đại.
Sống như thế ta mới xứng danh là con cháu của các thánh tử đạo Việt Nam, bậc
cha ông chúng ta.
(Viết theo tư tưởng
của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Suy
niệm 5: SỐNG CHỨNG NHÂN TIN MỪNG
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các Thánh Tử
Đạo Việt Nam vì 3 lý do:
- Hân hoan và hãnh diện vì các thánh là người Việt Nam, không
gì vui mừng và hãnh diện, tự hào hơn, khi đất nước ta có những vị thánh góp mặt
với Giáo Hội toàn cầu.
- Hân hoan và hãnh diện vì số lượng đông đảo các Thánh Việt
Nam. Với 117 vị Thánh. Giáo Hội Việt Nam được xếp nhất nhì trong Giáo Hội hoàn
vũ về số lượng các Thánh.
- Hân hoan và hãnh diện vì các Ngài là những chứng nhân anh hùng quả
cảm.
Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của
các Ngài. Vì trung thành với Chúa, các Ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời
sống, mất hết chức quyền danh vọng và nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình,
chịu mất mạng sống vì đức tin.
Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan
Án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức
quyền, mất danh vọng hơn mất đức tin. Vì Chúa, các Ngài không những đã sẵn sàng
từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.
Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng
gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối
với Đức Giêsu Kitô.
Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi
đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các Ngài đã cương
quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho đức tin chân chính.
Là người Công Giáo Việt Nam. Chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các
Ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút
bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các Ngài, có lẽ ta cũng có đôi
lần ao ước được như các Ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.
Làm sao ta có thể có được cái chết cao đẹp như các Ngài. Ngày nay đâu
còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời vua quan ngày xưa. Ngày
nay ta không còn hy vọng chết vì đạo. Ta chỉ còn một cách bắt chước, noi gương
các vị tiền nhân anh hùng, đó là sống vì đạo.
Ngày nay, ta ít gặp những khốn khó như bị bắt bớ giam cầm, giết chết vì
đạo. Nhưng để sống đạo trong xã hội hôm nay, ta gặp không ít khó khăn. Xin kể
ra 2 khó khăn tiêu biểu.
1. Khó
khăn thứ nhất đó là chủ nghĩa cá nhân ngày càng phát triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đình
của mình. Ai cũng lo làm ăn. Học hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc cạnh tranh
ngày càng khốc liệt. Những nhu cầu của bản thân ngày càng nhiều. Rõ ràng là
ngày nay người ta kiếm được nhiều tiền hơn trước, có nhiều tiện nghi hơn trước,
xe cộ tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn. Nhưng chưa bao giờ người ta thấy thỏa mãn, đầy
đủ. Vì thế càng ngày người ta càng đóng kín vào bản thân, không có thời giờ
nghĩ đến người khác. Trong khi đó những người nghèo thì càng nghèo hơn, những
người yếu càng mệt hơn, những người bệnh càng khổ hơn. Họ không đủ sức chạy
theo cuộc tranh đua quyết liệt của chủ nghĩa cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra phía
sau. Họ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Để lựa chọn sống theo Phúc Âm, để trung
thành với Lời Chúa dạy, ta phải bỏ quên một phần thân mình, gia đình mình để
nghĩ đến, giúp đỡ, vực dậy những anh em kém may mắn. Đó là điều không dễ.
2. Khó
khăn thứ hai là kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Đồng
tiền đang trở thành một thước đo gía trị con người. Đồng tiền đang trở thành
một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền,
và để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một phương cách nào: lường
gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn thuốc phiện, tham nhũng, hối lộ. Tiền bạc quả
là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn phá những giá trị, biến chất
con người.
Đứng trước nhu cầu và ham mê tiền bạc, người Công Giáo muốn trung thành
với Phúc Âm, muốn sống trọn vẹn đức tin, bắt buộc phải có sự lựa chọn. Thà cam
chịu nghèo khổ còn hơn nhận những đồng tiền phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu
thiếu thốn còn hơn đánh mất đức tin. Thà lao động cực khổ để kiếm miếng cơm
manh áo chân chính hơn là chạy theo những đồng tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm
và Luật Chúa.
Quả thực xã hội mới, đang tạo ra những cơn bắt bớ mới. Để trung thành
với Chúa, với Phúc Âm ta cũng phải lựa chọn quyết liệt. Những chọn lựa đó làm
cho chúng ta đau đớn không kém gì những khổ hình. Những hy sinh vì Phúc Âm đó
cũng khiến lòng ta rỉ máu không kém gì chịu tử hình.
Các Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn chúng ta chết mòn mỏi mỗi
ngày trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúc Âm trong thời đại
mới đúng là một cuộc tử đạo liên tục.
Sống vì đạo như thế cũng cao đẹp và anh hùng không kém gì chết vì đạo.
Sống vì đạo như thế, ta cũng góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm
không kém gì chết vì đạo.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc
đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng
biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống
hằng ngày. Amen.
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Suy niệm 6: Ga 15,18-21
Bài đọc I, trích
sách Macabê quyển thứ hai, trình thuật cho chúng ta thấy đức tin vững mạnh
của bà mẹ và bảy người con thật đáng khâm phục. Họ can đảm chịu khổ và chết để
làm chứng cho Chúa, vì tin rằng họ sẽ được sống lại vinh hiển. Cũng vậy, các
Thánh tử đạo Việt-Nam đã chấp nhận cực hình phần xác và hy sinh cả mạng sống vì
đức tin vào Thiên Chúa.
Bài đọc II, trích
thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma, nói lên điều mà thánh nhân xác
tín, đó là: Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và không có gì có thể tách
chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu. Bằng cớ là Ngài đã
ban chính Con Một Ngài cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa ban chính Con Một Ngài cho
chúng ta, thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa?
Tin Mừng hôm
nay cho biết: Chúa Giêsu báo trước cho chúng ta là môn đệ Người về những thử
thách và bách hại trong tương lai khi làm chứng nhân cho Chúa. Vì thế gian đã
bắt bớ Thầy thì họ cũng sẽ bắt bớ anh em, bởi lẽ họ không tin Người và tin vào
Chúa Cha là Ðấng đã sai Người đến trần gian để cứu chuộc nhân loại.
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện
mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam vì 3 lý do:
- Trước hết vì các thánh là người đã chết trên đất nước Việt Nam thân
yêu của chúng ta. Tertulianô sử gia của La Mã thuở xưa đã nói: “Hạt máu của
những vị tử đạo là hạt giống nảy sinh ra những người Kitô hữu khác"
- Thứ đến là vì con số lượng lớn lao đông đảo các Thánh tại VN của
chúng ta đã có mặt trong Lịch sử của Giáo Hội. Với 118 vị đã được Giáo Hội
phong lên hàng hiển thánh, Giáo Hội VN được xếp nhất nhì trong sổ bộ các thánh
đã được Giáo Hội tuyên phong.
- Và cuối cùng tự hào vì các Ngài là những chứng nhân anh hùng quả cảm
cho lòng tin vào Thiên Chúa.
Đọc lại tiểu sử GHVN, chúng ta không khỏi không cảm phục về đức tin
kiên cường của các Thánh tử đạo VN. Lịch sử ghi lại những hình phạt kinh
khủng mà con người đã nghĩ ra để trừng phạt những người theo đạo như sau:
- Nhẹ nhất là bị gông cùm, b xiềng xích, bị nhốt trong cũi,
bị đánh đòn, bị bỏ đói cho tới chết.
- Nặng hơn một chút thì bị voi dày, bị trói rồi bị ném
xuống sông, bị chôn sống, bị đổ dầu vào rốn rồi đốt, bị đóng đinh vào ván rồi
đem phơi nắng cho đến chết.
- Quyết liệt hơn một chút thì bị xử trảm, xử giảo (= bị
thắt cổ) và thiêu sống.
- Ác liệt nhất là bị xử lăng trì (phân thây ra từng mảnh)
hay bá đao (bị tùng xẻo đi từng mảnh thịt cho tới chết)
Nhìn lại cái chết của các thánh Tử Đạo VN, chúng ta thấy gian khổ có
cao, hình phạt có nặng nhưng lòng trung thành của các Ngài còn còn cao hơn. Cái
chết của các Ngài thật đáng làm cho chúng ta phải tự hào.
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ II trong bài giảng ngày lễ tôn
phong 117 vị anh hùng tử đạo Việt Nam lên hàng hiển thánh đã nói: "Từ năm
1533 tức là từ khi cuộc rao giảng Tin Mừng Kitô bắt đầu tại vùng Đông Nam Á,
Giáo Hội Việt Nam trong suốt 3 thế kỷ đã phải chịu những cuộc bách hại liên
tiếp nhau với một vài giai đoạn lắng dịu giống như các cuộc bách hại mà Giáo
Hội tại Tây Phương đã chịu trong 3 thế kỷ đầu tiên. Đã có hàng ngàn (130.000)
tín hữu Kitô chịu tử đạo và rất nhiều người khác đã chết trong rừng núi, những
vùng ma thiêng nước độc, nơi mà họ bị lưu đày tới". Tổng số có khoảng
400.000 người. Trong những số đó Đức Thánh Giáo Hoàng đã tuyên phong 117 vị lên
hiển Thánh vào ngày 19/06/1988.
Việc mừng lễ hôm nay làm chúng ta tạ ơn Chúa vì khi nhìn lại những năm
tháng Giáo hội bị bách hại khốc liệt và thì sau đó lại có những cuộc trở lại
đạo hàng loạt. Đúng như những điều mà sử gia Tertulianô đã nhận định:
"Những hạt máu của những vị tử đạo là những hạt giống làm nảy sinh ra
những người Kitô hữu khác".
Chúng ta phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng ta có được những con
người anh hùng như thế. Đồng thời chúng ta cũng phải biết ơn các Ngài
vì chính nhớ các Ngài mà hạt giống Đức tin đã làm nảy mầm và lớn lên trong
chúng ta và lan toả trên quê hương đất nước thân yêu của chúng ta.
Vui mừng hãnh diện là điều cần nhưng chưa đủ, điều quan trọng là chúng
ta phải sống thế nào cho xứng danh là con cháu của các ngài.
Châm ngôn VN có câu rất hay: "Con nhà tông không giống lông cũng
giống cánh". Phải sống xứng đáng để những thế hệ mai sau khi nhìn vào
chúng ta, họ cũng cảm thấy tự hào. Chúng ta được thừa hưởng một di sản vô cùng
quý giá do Cha Ông chúng ta để lại. Cách trả ơn tốt nhất đối với các Ngài là tiếp
nhận và trung thành truyền lại cho các thế hệ mai sau bằng chính cuộc sống mà
tổ tiên của chúng ta đã sống:
1. Noi gương các ngài sống trung thành với niềm tin.
Đức tin là ơn ban nhưng không củaThiên Chúa cho chúng ta. Hãy bảo
vệ lấy, đừng để cho nó bị hao mòn đi. Phao-lô Mợi bị bắt, bị giải đến quan.
- Quan đã dụ dỗ: Anh đạp ảnh đi, tôi sẽ cho anh một nén bạc.
+ Phaolô Mợi im lặng không trả lời.
- Vậy một nén vàng!
+ Bẩm quan chưa đủ.
- Vậy anh muốn bao nhiêu?
+ Bẩm quan lớn, quan phải cho tôi đủ vàng để mua được một linh hồn
khác.
* Thánh Nguyễn Văn Lựu khi bị thuyết phục bỏ đạo, chối Chúa cũng đã
nói: "Đạo đã nhập vào xương tủy tôi, làm sao tôi có thể bỏ được".
2. Noi gương các ngài can đảm sống niềm tin.
Chúa Giêsu đã nói : “Nước Trời phải dùng sức mạnh mà chiếm
lấy". Đúng vậy, không có chiến thắng cho những kẻ chưa lâm trận
đã đầu hàng. Không có vinh quang cho những kẻ hèn nhát. Phần thưởng càng
lớn, vinh quang càng cao thì cái giá phải trả cho nó càng đắt. Phải sử dụng sức
mạnh mới chiếm hữu được Nước Trời.
Trong thư Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Rô-ma trong thời gian bắt bớ đạo
khốc liệt. Ngài muốn dùng những lời này để khích lệ các tín hữu, để họ can đảm,
để họ tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng: "Ai có thể tách chúng
ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian gian truân, khốn
khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bỏ, gươm giáo? Ngài nói tiếp như một xác
tín: Trong mọi thử thách, chúng ta sẽ toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến
chúng ta".
Và Ngài kết luận: "Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết
hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất
cứ sức mạnh nào, chiều dài hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác,
không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện
nơi Đức Kitô Chúa chúng ta" (Rm 8,35-39).
Chúng ta chung lời tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội Việt Nam có những
chứng nhân anh hùng Tử đạo là mẫu gương sống đức tin sáng ngời. Xin Chúa qua
lời chuyển cầu của các Ngài mà ban cho chúng ta là con cháu biết noi gương các
Ngài trung thành sống đức tin, can đảm làm chứng cho Chúa trong thời đại
hôm nay. Amen. (St)
Suy niệm 7: TỬ ĐẠO NÊU CAO LÒNG TIN CẬY MẾN
Ai cũng ham sống sợ chết. Vậy tại sao người ta lại dám tử đạo? Thưa vì
lòng Tin Cậy Mến.
1. Tin: Niềm tin tạo
sức mạnh tinh thần. Bài sách thánh kể chuyện bà mẹ can đảm khuyên 7 đứa con sẵn
lòng chịu chết chứ không chịu phạm Luật Chúa vì bà tin vào Chúa là Đấng Tối Cao
tạo dựng vũ trụ muôn loài, Chúa là Đấng Ban Sự Sống. Bài Phúc Âm Chúa Giêsu
khẳng định: “Ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng
sống ấy.” Niềm tin vào Chúa hằng sống giúp người ta dám chết vì Đạo,
bởi qua cái chết họ bước vào cõi hằng sống.
2. Cậy: Nếu niềm hy vọng vào một lý tưởng cao đẹp
giúp ta dám sống chết cho lý tưởng, cho sự nghiệp, cho quê hương đất nước, thì
niềm hy vọng vào Chúa quyền năng và là chủ của sự sống sẽ làm cho chúng ta vững
lòng trông cậy vào cõi thiên đàng vinh phúc, nhờ đó giúp ta đủ sức mạnh để sẵn
sàng dám chết vì Đạo Thánh Chúa. Hình ảnh hạt giống và người nông phu ra đi
gieo giống được cất lên nơi bài Thánh Vịnh Đáp Ca hôm nay diễn tả tuyệt vời
lòng trông cậy ấy nơi Thiên Chúa: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa
gặt mai sau khấp khởi mừng.”
3. Mến. Lòng mến
khiến người ta sẵn lòng hy sinh cho người mình yêu. Yêu nhiều sẽ hy sinh nhiều
như Chúa Giêsu khẳng định: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của
người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu.” Và thánh Phaolô cũng quả
quyết: “Dù sự chết hay sự sống cũng không tách được chúng ta ra khỏi
tình yêu của Thiên Chúa.” Các Thánh Tử Đạo Việt Nam chỉ vì mến Chúa
yêu người nên đã can đảm hy sinh cả mạng sống mình.
Hội Thánh Chúa có vững mạnh và phát triển như ngày hôm nay chính là nhờ có những tín hữu can trường trong đức tin, lòng cậy trông và tình yêu mến. Xin Chúa cho chúng ta có được niềm tin mạnh mẽ, lòng cậy bền vững và tình mến sắc son để dẫu phải gặp nhiều gian lao thử thách trên đường đời, chúng ta vẫn trung thành sống và làm chứng cho đạo thánh Chúa, theo gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam, những bậc cha ông của chúng ta. (St)
Suy niệm 8: TỬ ĐẠO VÀ SỐNG ĐẠO
Tử đạo và sống đạo: Hai con đường khác nhau, cùng một đích đến
Người đời hay hỏi: "Tử đạo hay sống đạo điều nào khó
hơn" là một câu hỏi sâu sắc, đặt ra nhiều suy ngẫm về đức tin và sự hy
sinh. Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau.
1. Tử đạo: Là sự hy sinh mạng sống vì đức tin. Đây là đỉnh
cao của sự tận hiến, đòi hỏi một ý chí sắt đá và tình yêu Thiên Chúa mãnh liệt.
Tử đạo là một hành động dứt khoát, một sự lựa chọn cuối cùng khi tất cả các giá
trị khác đã bị tước đoạt.
2. Sống đạo: Là việc sống theo giáo lý của Chúa, thực hành
các giới răn, yêu thương và phục vụ tha nhân trong cuộc sống hằng ngày. Sống đạo
đòi hỏi sự kiên trì, nhẫn nại và một trái tim luôn hướng về Chúa.
Vậy, điều
nào khó hơn?
- Khó khăn của tử đạo: Tử đạo là một cái chết, một sự kết thúc. Tuy
nhiên, nó lại là một khởi đầu mới, một cuộc sống vĩnh cửu bên Chúa. Để có thể tử
đạo, người ta cần một đức tin vững vàng, một tình yêu Chúa sâu sắc và một sự sẵn
sàng hy sinh mọi thứ.
- Khó khăn của sống đạo: Sống đạo là một hành trình dài, đầy thử thách.
Chúng ta phải đối mặt với những cám dỗ, những khó khăn trong cuộc sống, những
xung đột nội tâm. Sống đạo đòi hỏi sự kiên trì, nhẫn nại và một ý chí mạnh mẽ để
vượt qua mọi khó khăn.
Kết luận
Cả tử đạo
và sống đạo đều là những con đường khó khăn, đòi hỏi sự hy sinh và dấn
thân. Tuy nhiên, chúng ta không nên so sánh chúng với nhau mà hãy nhìn nhận
chúng như hai khía cạnh khác nhau của cùng một đức tin. Tử đạo là một hành động
cao cả, nhưng sống đạo mới là điều mà chúng ta phải thực hành hàng ngày.
Sống đạo
là nền tảng cho tử đạo. Nếu chúng ta không sống đạo một cách chân
thành, thì việc tử đạo cũng chỉ là một cái chết vô nghĩa. Ngược lại, nếu chúng
ta sống đạo một cách trọn vẹn, thì dù có phải đối mặt với bất kỳ thử thách nào,
chúng ta cũng sẽ luôn vững tin và sẵn sàng hy sinh vì Chúa.
Điều quan trọng nhất là chúng ta hãy sống sao cho xứng đáng với ơn gọi làm Kitô hữu. (St).
Suy niệm 9: CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM-BỔN MẠNG HĐMVGX
Mừng kính trọng thể các
Thánh Tử Đạo Việt Nam, bổn mạng của Hội đồng mục vụ giáo xứ. Vậy quý anh chị em
trong HĐMVGX có thể noi gương các thánh tử đạo Việt Nam ở những điểm nào? Thưa
chúng ta có thể noi gương các ngài ở những điểm căn bản sau:
1. Sống đức tin kiên vững: Giống như các thánh tử đạo đã hy sinh vì đức
tin, hội đồng cũng cần sống đức tin một cách kiên định, không ngại khó khăn và
thử thách.
2. Phục vụ cộng đồng: Các thánh tử đạo đã sống để phục vụ tha nhân,
hội đồng cũng cần làm việc vì lợi ích của cộng đoàn giáo xứ, đặc biệt là những
người yếu thế.
3. Cầu nguyện và chiêm niệm: Các thánh tử đạo đã dành
nhiều thời gian để cầu nguyện và chiêm niệm, hội đồng cũng cần làm điều tương tự
để tăng cường đức tin và tìm kiếm sự hướng dẫn của Chúa.
4. Loan
báo Tin Mừng: Các thánh tử đạo đã không ngần ngại loan báo Tin Mừng, hội đồng
cũng có trách nhiệm chia sẻ đức tin với những người xung quanh.
5. Đoàn kết và hiệp nhất: Các thánh tử đạo đã sống trong tình yêu thương
và đoàn kết, hội đồng cũng cần xây dựng một cộng đoàn giáo xứ đoàn kết, yêu
thương nhau.
6. Sống khiêm tốn và phục vụ: Các thánh tử đạo đã sống
khiêm tốn và phục vụ tha nhân, hội đồng cũng cần làm gương cho cộng đoàn bằng
cách sống khiêm tốn và phục vụ.
* Cụ thể,
hội đồng mục vụ có thể thực hiện các hoạt động sau:
- Tổ chức các buổi học hỏi về đời sống và đức tin của
các thánh tử đạo.
- Tổ chức các hoạt động từ thiện, giúp đỡ người nghèo.
- Tổ chức các buổi cầu nguyện chung.
- Tổ chức các lớp giáo lý cho mọi lứa tuổi.
- Tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao để tăng cường
tình đoàn kết.
- Tham gia các hoạt động xã hội do giáo xứ tổ chức.
* Kết luận:
Noi gương các thánh tử đạo Việt Nam là một cách để hội đồng mục
vụ giáo xứ trở nên hiệu quả hơn trong việc phục vụ cộng đoàn. Bằng cách sống đức
tin, phục vụ tha nhân, cầu nguyện, loan báo Tin Mừng, đoàn kết và hiệp nhất, hội
đồng sẽ góp phần xây dựng một cộng đoàn giáo xứ sống động và phát triển.
(St).
Thứ hai: Lc 18, 35-43
Cung hiến thánh đường Thánh Phê-rô và Thánh Phao-lô
Suy niệm 1:
Tin
mừng hôm nay thuật lại phép lạ Chúa Giêsu chữa cho đôi mắt mù loà của anh chàng
ăn xin bên vệ đường, gần thành Giêricô được sáng, nhờ vào đức tin kiên vững và
lời kêu xin tha thiết của anh ta: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít. Xin dủ
lòng thương tôi” và “xin cho tôi được xem thấy”.
Chúng
ta cũng bắt chước anh mù này, tha thiết xin Chúa chữa lành đôi mắt
tâm hồn chúng ta, để chúng ta nhận ra Chúa chính là cứu Chúa, nhận ra mọi người
là anh em, nhất là nhận ra hình ảnh của Chúa nơi những người nghèo khổ bất
hạnh.
Anh
mù được Tin mừng hôm nay nhắc đến rất đổi quen thuộc. Địa chỉ thường trú của
anh là ở gần thành Giêricô. (Thánh Maccô còn cho biết tên đích danh của anh ta
là Báctimê. Anh là con của ông Timê, chẳng xa lạ gì. Bởi lẽ hằng ngày anh
thường quanh quẩn nơi đó để xin ăn).
Mà đã
mang kiếp "cầm ca”, thì không ai muốn đến gần, cũng chẳng ai muốn nhìn đến
làm gì cho vướng bận, tốn hao. Cung giọng bi ai của anh ngày nào cũng trỗi vang
bên đường nên trở thành âm thanh khó nghe đối với những ai đi qua con đường đó.
Người
đời thường nói “có tật, có tài”. Cho dù mọi nguời xa tránh làm ngơ, nhưng anh
mù biết Đức Giêsu sẽ không ngoảnh mặt làm ngơ trước số phận bi đát của anh. Hơn
nữa, cho dẫu mọi người hôm đó không nhận ra sứ mạng Thiên Sai của Đức
Giêsu, nhưng anh mù lại nhận ra sứ mạng bí mật Thiên Sai nơi Đức Giêsu. Do đó,
anh đã không ngần ngại tha thiết kêu xin Người. “Lạy ông Giêsu, con vua
Đavit. Xin dủ lòng thương tôi”.
Với
con mắt tâm hồn nhạy bén, anh mù đã nhận ra quyền năng chữa lành nơi Đức Giêsu.
Nên cho dù bị mọi người cản ngăn, cấm đoán anh vẫn không ngừng kêu xin…
Bằng
còn mắt đức tin trong sáng, anh mù còn thấy được nơi Đức Giêsu có một kho báu
rất quý giá mà trần gian không ai có được, đó là quyền năng cứu chữa. Vì thế,
anh ta đã không ngần ngại xin Chúa Giêsu cứu chữa đôi mắt của anh được sáng:“xin
cho tôi được sáng”. Chứ không hề xin Người tiền bạc, cơm gạo, bánh
trái… như mọi ngày.
Nhờ
nổ lực cảm nhận thế giới và con người bằng đôi mắt tâm hồn nhạy bén và đức tin
trong sáng và rồi cố gắng hết sức mình thực hiện điều cảm nhận đó, nên anh mù
đã được Chúa đoái thương chữa lành.
Hằng
ngày các môn đệ vẫn thấy, vẫn nghe Chúa Giêsu nói và chứng kiến những việc
Người làm, nhưng vì mơ tưởng địa vị cao sang, chức cao quyền trọng nên đôi mắt
họ đã bị che mờ, không còn nhận ra sứ mạng Messia nơi Chúa Giêsu.
Cũng
như các môn đệ và đám đông hôm ấy, chúng ta đã được Chúa ban cho đôi mắt thể lý
sáng ngời, nhưng vì quá bận tâm đến quyền lợi bản thân đã làm cho đôi mắt tâm
hồn chúng ta trở nên mù lòa không có khả năng nhìn thấy những nhu cầu và nỗi
đau của tha nhân để đồng cảm, xót thương và trợ giúp họ.
Xin
Chúa ban cho chúng ta có được đôi mắt tâm hồn trong sáng để đừng bao giờ hành
xử vô duyên đối tha nhân, nhất là đối với những người thiếu may mắn như đám
đông dân chúng khi xưa. Trái lại, xin cho chúng ta biết sẵn sàng hy sinh phục
vụ tha nhân quên mình. Nhất là đừng bao giờ có thái độ và hành vi ngăn cản
những người yếu đuối, sa ngã đến với Chúa.
Suy niệm 2: MÙ THỂ XÁC, SÁNG TÂM HỒN
Đọc
đoạn tin mừng hôm nay, tôi nhớ đến câu chuyện cổ tích khá lý thú sau đây:
Truyện kể: Ngày
xưa có một anh mù, mù cả 2 mắt, chẳng làm được gì. Sáng vợ dắt ra đầu làng ăn
xin, chiều vợ dắt về nhà ăn tối. Hai vợ chồng sống rất lương thiện và an vui
bên nhau. Một hôm, vợ bận việc không ra đón chồng về được. Chồng chờ mãi không
thấy, dò dẫm tìm đường về. Lần mò thế nào mà lạc ngay vào rừng.
Tối
đến tiếng thú rừng kêu rống khiến người chồng sợ quá. Anh mò leo lên được một
cây cao để tránh cọp. Đúng lúc đó, bầy quỉ ma lại đến hội họp dưới gốc cây.
Chúng chỉ cho nhau biết chỗ giấu kho tàng và nói cho nhau hay cây thuốc quí có
khả năng chữa bách bệnh, kể cả mù loà.
Anh
chàng mù nghe được. Sáng hôm sau, lần tìm kiếm đến cây thuốc quí, hái xoa vào
mắt, mắt anh liền sáng. Rồi tìm đến kho tàng, lấy được rất nhiều của cải. Từ đó
anh chàng mù giàu có và rộng tay giúp đỡ những ai nghèo khó.
Người
anh keo kiệt thấy vậy nên mới hỏi chàng mù hỏi lý do tại sao em sáng mắt, và
tại sao giàu có. Người em (tức người mù) thành thật chỉ cho anh biết.
Bấy
giờ người anh giả vờ mù, đi đến gốc cây trong khu rừng đó, đang đêm leo lên cây
ấy chờ đợi. Bọn quỉ cũng đến họp. Nhưng phát hiện kho tàng đã mất, bèn bủa nhau
đi tìm. Gặp được người anh đang trốn trên cây, chúng cho là kẻ trộm, nên đem
xuống giết chết.
Câu
chuyện cổ tích trên đây chắc chắn là không có thật. Nhưng người xưa kể ra nhằm
răn dạy con cháu nhiều bài học, như: “ở hiền gặp lành”, “tham thì thâm”.
Tin
Mừng Chúa nhật hôm nay cũng lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa cho người mù
Batimê được sáng mắt nhờ vào đức tin kiên vững và lời cầu xin tha thiết của anh
ta.
Từ
hai câu chuyện trên, ta nhận thấy rằng:
- Có
những người người mắt thật sáng, nhưng chỉ vì một chút lợi lộc cỏn con mà trở
nên mù lòa như người anh trong câu chuyện trên.
- Có
những người con mắt lý trí rất sáng suốt nhưng con mắt đức tin lại mù lòa khiến
họ không thể nhạy bén nhận ra tình thương sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa nơi
Đức Giêsu Kitô như những người Biệt Phái.
- Có
những người mắt thật sáng, nhưng vì cái tôi quá lớn khiến họ không còn khả năng
nhận ra cái hay, cái tốt nơi người khác.
- Có
những người con mắt kiến thức rất sáng nhưng tâm hồn lại mù lòa, bởi họ
không có khả năng thấy những cảnh đời nghèo khổ, bất hạnh chung quanh mình mà
yêu thương, giúp đỡ họ.
- Lần nọ, sau khi phát hiện ra mẹ mình đã trả lộn
cho khách một số tiền lớn, cô con gái đã quay lại nạt mẹ rằng: “Bộ mắt mẹ đui
sao mà lại tính lộn như vậy”.
Nghe lời ấy của đứa con, người mẹ rất đau lòng,
xót xa cay đắng vì sự đui mù nhẫn tâm của người con gái mình, khi nó coi thường
và có những lời lẽ hết sức xúc phạm nặng nề với người mẹ mình.
- Người
vợ quên pha cà phê, người chồng khó chịu. Chàng chỉ thấy cái mầu đen của cà phê
mà mù trước biết bao chăm sóc khác của vợ dành cho mình, để rồi giận dỗi bỏ đi.
- Người
chồng quên sửa chiếc ghế, người vợ đay nghiến. Nàng chỉ thấy chân ghế gãy chưa
sửa mà mù trước biết bao công sức chàng đã làm cho nhà cửa gia đình.
Xin
Chúa cho chúng ta có được đôi mắt của đức tin để ta nhạy bén nhận ra những kỳ
công lạ lùng của Chúa trong vũ trụ này, cũng như nhìn thấy được những ân huệ
lớn lao mà Chúa thương ban trên cuộc đời ta.
Xin
Chúa loại trừ khỏi những áng mây đen của vô tình, hững hờ và khinh khi… đang
che phủ nơi con mắt tâm hồn ta, để ta nhìn thấy đời, nhận ra người bằng ánh mắt
của cảm thông, bao dung và trân quý.
Xin
Chúa đừng bao giờ để ta hành xử vô duyên, vô tình, vô tâm với nhau bởi những
lời soi mói, chê bai, cười đùa trước nổi đau khiếm khuyết của tha nhân; cũng
đừng để chúng ta trở thành rào cản ngăn chặn những ước muốn chính đáng của
người khác. Trái lại, xin Chúa cho chúng ta có những hành vi hào
hiệp, những lời nói cảm thông, những việc làm bác ái, những hy sinh
phục vụ quên mình cho tha nhân. Trong năm sống chủ đề : “thúc đẩy sự tham gia
vào đời sống giáo hội”, xin cho ta đừng bao giờ có thái độ ngăn cản những người
khác tham gia vào những sinh hoạt mục vụ của Họ đạo, nhất là đừng gây khó dễ
cho những ai yếu đuối, sa ngã trở về với Giáo hội và tìm đến với Chúa.
Suy niệm 3: CÓ NHỮNG KẺ MÙ MÀ SÁNG
MẮT. CÓ NHỮNG KẺ SÁNG MẮT MÀ MÙ.
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay cũng lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa người mù
thành Giêricô được sáng mắt nhờ vào đức tin kiên vững và lời cầu xin tha thiết
của anh ta. Từ câu chuyện trên, ta có thể rút ra bài học, đó là : 'Có
những người mù mà sáng mắt-có người sáng mắt mà lại mù'.
1. Có những người mù mà sáng.
- Cái sáng 1: là anh biết mình đang mù, nên rất cần được sáng. Có những
người sáng mà như mù vì nghĩ rằng mình chẳng cần ánh sáng nào cả.
- Cái sáng 2: là anh biết ai mới là người có thể làm cho
mình được sáng mắt: anh đã nghe nói về Đức Giêsu nhiều rồi. Và hôm nay anh còn
sáng hơn vì đã nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế : 'Nghe tin có Đức Giêsu
Nazaret, anh kêu to' : 'Lạy Giêsu, con Vua Đavit'. “Con Đavit” là
tước hiệu Đấng Cứu Thế.
- Cái sáng 3: là anh biết mình phải làm gì. Anh tìm đến
Người sắp đi qua và chờ cho gặp được Người có thể chữa mình.
Khi không chạy đến với Người bằng đôi chân (vì mắt mù) thì chạy đến
bằng tiếng kêu. Người ta bảo chàng im đi, muốn át tiếng kêu của chàng, thì
chàng lại la to hơn: “Lạy Con vua Đavit xin thương xót thân con !”
- Cái sáng 4: là khi tiếp xúc được với Người có thể chữa
mình, anh biết từ bỏ. Anh ta liền vất cả áo choàng nhảy chồm lên mà đến với Đức
Giêsu. Rồi khi Đức Giêsu đã chữa anh khỏi, anh liền đi theo Người.
Đó là một mẫu người 'mù mà vẫn sáng', vì người đó biết mình cần gì. Mình phải làm gì để đạt được điều mình
cần. Và khi đạt được rồi phải làm gì để giữ mãi được điều mình cần đó. Đó
là đi theo Đức Giêsu, vì
Ngài chính Ánh sáng.
Qua Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được trao nến sáng, tượng trưng cho Đức
Kitô là Ánh Sáng. Chúng ta có cố gắng để giữ mãi ánh sáng ấy không, hay là
chúng ta như hạng người thứ hai: 'sáng mắt mà mù'.
2. Có những người sáng mắt mà mù
- Có người người mắt thật sáng, mà vì một chút lợi lộc cỏn con, không
thèm nhìn thấy người kia là bạn mình nữa.
- Có những người mắt thật sáng mà chỉ vì một câu nói chạm tự ái, một
hành vi nhỏ động khẽ đến danh dự là muốn làm cho to chuyện, làm cho ra nhẽ, lại
hoá ra đánh mất luôn cái danh cỏn con ấy.
- Có những người mắt thật sáng, mà hoá mù trước cái tốt
của kẻ khác.
Xin mẹ 1000, mẹ không cho, em bé phụng phịu khó chịu. Em nhìn thấy thật
sáng tờ 1000 mà mù, không thấy bao nhiêu là tiền của công sức nuôi dạy em, từ
bé cho tới giờ, để rồi tức tối với cha mẹ. (chuyện một em bé đòi tiền công rửa
chén, quét nhà bằng một tờ giấy viết tay, là 10 ngàn. Mẹ đưa bé tờ một chục.
Tối đến mẹ chìa cho bé xem một hóa đơn dài, ghi sẵn tiền công sinh, công dưỡng,
công chăm sóc bé…cho đến nay. Cộng chung con số tiền cực to).
- Người vợ quên pha cà phê, người chồng khó chịu. Chàng
chỉ thấy cái mầu đen của cà phê mà mù trước biết bao chăm sóc khác của vợ dành
cho mình, để rồi giận dỗi bỏ đi.
- Người chồng quên sửa chiếc ghế, người vợ đay nghiến.
Nàng chỉ thấy chân ghế gãy chưa sửa mà mù trước biết bao công sức chàng đã làm
cho nhà cửa gia đình.
Để nhìn cho được cái tốt của kẻ khác, nói cách khác để mắt ta không mù
trước cái tốt của tha nhân, cần có Đức Kitô Con vua Đavit mở cho chúng ta.
Không phải dễ. Và khi đã mở rồi, ta phải gắn bó với Ngài, tức là phải
tìm ánh sáng nơi Ngài trong các cư xử hằng ngày của ta. Chớ gì trước khi nóng
giận chỉ trích, ta thử hỏi Đức Giêsu trong hoàn cảnh này sẽ làm gì. Ta hãy cầu
xin Đức Giêsu, Con vua Đavit mở mắt cho chúng ta nhìn thấy người khác là hình
ảnh và là chính thân thể Đức Kitô vậy. (St).
Suy niệm 4:
Tin Mừng hôm nay thuật lại
phép lạ Chúa Giêsu chữa cho người mù thành Giêricô được sáng. Phép lạ này không
chỉ thấy quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu mà còn mời gọi chúng ta suy tư
về những loại "mù" trong cuộc sống.
Mù không chỉ
đơn thuần là một tình trạng thể chất, mà còn là một ẩn dụ cho những hạn chế và
thiếu sót trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta có thể bị "mù" về
nhiều mặt:
- Mù về tâm hồn: Khi chúng ta bị đóng kín trái tim, không thể yêu
thương và cảm thông với người khác.
- Mù về tinh thần: Khi chúng ta không nhận ra sự hiện diện của Thiên
Chúa và ý nghĩa sâu xa của cuộc sống.
- Mù về kiến thức: Khi chúng ta không có đủ hiểu biết để đưa ra những
quyết định đúng đắn.
- Mù về tương lai: Khi chúng ta không có mục tiêu sống rõ ràng và
không biết mình đang đi đâu.
Ánh sáng ở đây tượng trưng cho sự giác ngộ, sự hiểu biết
và sự giải thoát. Khi chúng ta gặp được ánh sáng, chúng ta sẽ được chữa lành
những vết thương lòng, tìm thấy ý nghĩa cuộc đời và sống một cuộc sống trọn vẹn
hơn.
Câu chuyện về người mù Giêricô cho chúng ta thấy rằng, dù chúng ta đang ở trong hoàn cảnh nào, dù
chúng ta có bị "mù" đến mức nào, thì vẫn luôn có hy vọng được chữa
lành. Chỉ cần chúng ta có lòng tin và sự kiên trì, chúng ta sẽ tìm thấy ánh
sáng.
Đức Giêsu Kitô
là ánh sáng của thế giới. Ngài đến để soi sáng cho những tâm hồn mù lòa, để dẫn
dắt chúng ta đến con đường cứu rỗi. Khi chúng ta đến với Chúa, chúng ta sẽ được:
- Nhận ra tội lỗi và yếu đuối của mình: Để từ đó chúng ta biết ăn năn
sám hối và xin Chúa tha thứ.
- Mở lòng đón nhận tình yêu của Chúa: Để chúng ta cảm nhận được sự
bình an và hạnh phúc đích thực.
- Có một cái nhìn mới về cuộc sống: Để chúng ta biết trân trọng những
gì mình có và sống một cuộc đời có ý nghĩa.
- Trở thành ánh sáng cho người khác: Để chúng ta chia sẻ niềm tin và
tình yêu của mình với những người xung quanh.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì đã đến thế gian để soi sáng cho những tâm hồn mù lòa. Xin Chúa ban cho chúng ta đôi mắt đức tin, để chúng ta có thể nhìn thấy Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Xin cho chúng ta biết yêu thương và phục vụ Chúa bằng cả tấm lòng. Amen.
Thứ ba: Lc 19,1-10
“Gặp gỡ Đức Ki-tô, biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức
Ki-tô đón nhận ơn tái sinh…”, đó
không chỉ là niềm xác tín của cha Tiến Lộc, tác giả của bài hát này. Nhưng trên
hết đó còn là chính sứ điệp của Chúa gửi đến mỗi người chúng ta qua Tin mừng
hôm nay.
Tin
mừng mà chúng ta vừa nghe trình thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và
Giakêu, thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có. Chính nhờ cuộc gặp
gỡ thân tình này đã làm cho Giakêu biến đổi cách lạ lùng và nhờ đó mà cả nhà
ông được ơn cứu độ.
Ta
cùng tìm hiểu đôi chút về sự biến đổi lạ lùng của Giakêu trước và sau khi gặp
Chúa:
- Trước khi gặp Chúa:
Ông
Giakêu là một kẻ nối giáo cho giặc, vì đã cộng tác với đế quốc Rôma thu thuế
đồng bào của mình. Đây là cái nghề bị người dân khinh bỉ vì nhẫn tâm bòn rút
xương máu dân mình, để làm giàu cho ngoại bang.
Giakêu
là thủ lãnh những người thu thuế nên ông rất coi trọng tiền của, và cũng rất là
khinh người. Nếu cần ông sẽ sẵn sàng ra tay đàn áp bất cứ ai chống đối không
nộp thuế cho ông.
Ông
lại là người giàu có. Sự giàu có của ông chắc chắn là do tham lam trong việc
gia tăng mức thuế hơn luật định để bỏ túi riêng cho mình.
Chính
vì vậy mà ông bị xem là kẻ tội lỗi công khai, được liệt kê chung vào hạng đỉ
điếm.
- Sau khi gặp Chúa:
Sau
khi gặp gỡ Chúa Giêsu trong bữa tiệc thân tình tại nhà ông, không biết Chúa
Giêsu nói gì. Nhưng ông lại được biến đổi lạ lùng: Ông trở nên một người quảng
đại, cởi mở và sẵn sàng chi tiền làm tiệc thết đãi Chúa Giêsu, các tông đồ và
những người đồng môn của ông. Ông cũng trở thành người biết tôn trọng lẽ công
bằng nên tuyên bố sẽ đền bù cho những ai mà ông đã gây ra thiệt hại “Nếu tôi
đã làm thiệt hại ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Đi xa hơn nữa, ông
còn biết sống tinh thần bác ái, sẵn sàng hy sinh gia sản của mình, mà chia sẻ
cho người nghèo “Tôi xin chia nửa gia tài, để bố thí cho người nghèo”.
Đúng
là nhờ cuộc gặp gỡ Đức Kitô mà ông được tái sinh. Giờ đây, ông không còn là kẻ
tội lỗi mà là một con người đạo đức, thánh thiện. Nếu trước đây ông bị mọi
người khinh bỉ thì giờ đây ông lại là một con người đáng thương. Nếu trước đây
ông sống bất công, bất chính thì giờ đây ông biết coi trọng lẽ công bằng và trở
thành người công chính.
Nhờ
gặp gỡ Đức Kitô Đấng “đến và cứu chữa những gì đã hư mất” mà
ông và cả gia đình ông được biến đổi và xứng đáng đón nhận ơn cứu độ như lời
Chúa Giêsu xác quyết: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này
cũng là con cái Abraham”.
Ước
mong được biến đổi đời mình mỗi ngày nên tốt hơn là khao khát chính đáng của
mỗi chúng ta. Nhưng để biến ước mơ đó trở thành hiện thực, chúng ta hãy bắt
chước ông Gia-kêu tìm mọi cách để gặp gỡ Đức Giêsu.
Xin
cho chúng ta tìm đến gặp gỡ Chúa qua việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa,
siêng năng tham dự bàn tiệc Thánh Thể, kiên trì trong cầu nguyện… Đặc biệt là
gặp gỡ Đức Kitô nơi những người anh em nghèo khổ. Nhờ đó mà đời ta sẽ được Chúa
biến đổi và xứng đáng được Chúa chúc lành. Amen.
Thứ tư: Lc 19, 11-28
Suy niệm 1:
Tin
mừng hôm nay Chúa Giêsu dùng dụ ngôn những nén bạc để ý thức chúng ta tích cực
sử dụng những ơn ban của Chúa.
Xin
cho chúng ta đừng phí phạm những nén bạc ân sủng Chúa ban nhưng biết trân quý
và cố gắng tận dụng những ân huệ ấy, nhằm phục vụ lợi ích cho mình, tha nhân và
cho nước trời.
Dụ
ngôn những nén bạc mà Tin mừng thánh Luca trình thuật hôm nay có một vài chi
tiết hơi khác với Tin mừng của thánh Matthêu. Chúng ta cùng tìm hiểu về những
khác biệt này và xem đâu là điểm nhấn mà Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta:
-
Matthêu thì nói là “ông chủ” sắp đi xa. Còn Luca thì nói “người quý tộc” đi
phương xa để lãnh nhận vương quyền,
-
Trong Matthêu thì ông chủ giao phó cho 3 tên đầy tớ: người 5 yến , người 2 yến
và người 1 yến, tùy theo khả năng mỗi người. Còn Luca thì nhà quý tộc phát
cho 10 đầy tớ, mười nén bạc (mỗi 1 người 1 nén).
-
Matthêu thì cho biết sau khi ông chủ trở về thì ban thưởng cho 2/3 đầy tớ tài
giỏi và trung tín là hưởng niềm vui của chủ. Còn trong Luca thì sau khi
nhà quy tộc được phong vương trở về trong tư cách là một vị vua thì ban thưởng
cho 2/10 người đầy tớ tài giỏi và trung thành phần thưởng là cầm quyền cai
trị số thành tương ứng với số nén bạc mà họ đã sinh lợi.
Riêng
về hình phạt cho những đầy tớ lười biếng và bất trung, cả 2 Tin mừng đều nói
đến việc lấy lại và trao cho những đầy tớ tài giỏi và trung tín.
Matthêu
còn nhấn mạnh đến sự trừng trị tên đầy tớ vô dụng và quăng nó ra chỗ tối tăm
bên ngoài. Ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
Còn
Luca thì lại nhấn mạnh đến hình phạt giết chết cả những bọn thù địch với
nhà vua, những người không muốn nhà quý tộc làm vua cai trị chúng. Và
với kết luận: “Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa;
còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi".
So
sánh những khác biệt trên cho ta thấy rằng:
-
Thiên Chúa có thể được gọi bằng nhiều tên khác nhau có khi là ông chủ, có khi
là nhà quý tộc và có khi là vua…điều đó không quan trọng, quan trọng nhất là
người yêu thương tin tưởng trao ban cho tất cả chúng ta những hồng ân.
-
Những ơn ban của Chúa cho mỗi người có những thứ giống nhau, nhưng cũng có
những ân sủng khác nhau theo khả năng. Nhưng điều quan trọng là ta phải trân
trọng tình yêu của Chúa và cố gắng tận dụng điều kiện Chúa ban để sinh lợi cách
tốt nhất.
-
Chúa luôn tin tưởng trao phó cho chúng ta xử dụng theo tự do của mình. Chứ
không muốn ép buộc hay làm thay cho ta.
- Bổn
phận chúng ta là biết trân quý những ân huệ Chúa ban và trung làm việc nhằm
sinh ích cho mình, tha nhân và cho nước trời. Bằng ngược lại xem thường mà lười
biếng và bất trung thì sẽ nhận lấy hậu quả tai hại khi Chúa đến.
Trong
những ngày cuối năm phụng vụ này, là dịp để các nhà kinh doanh quyết toán sổ
sách chi thu để xem lời-lỗ thế nào. Để rồi rút ra những ưu-khuyết mà đề ra
những giải pháp sao cho phù hợp nhằm giúp cho công việc kinh doanh của mình để
được đứng vững và phát triển mạnh mẻ trong năm tới. Cũng vậy đây là dịp
Chúa nhắc nhở chúng ta hãy dành chút thời giờ nhìn lại bản thân mà kiểm điểm và
tính sổ đời mình trước Chúa, anh chị em và lương tâm.
Khi
dừng lại kiểm điểm đời mình chân thành, ta mới có cơ hội nhận ra những lầm
lỗi, thiếu sót vì đã không xử dụng tốt nhất những nén bạc mà Thiên Chúa trao
ban cho đúng mục đích. Tệ hơn nữa, vì lười biếng mà ta đã đem chôn giấu những
nén bạc vốn là: thời giờ, sức khỏe, năng lực, hoàn cảnh, công việc và tiền
của... mà Chúa ban tặng nhưng không , để rồi làm thất thoát những ân huệ Thiên
Chúa thương ban nên đã không sinh lợi gì cho ta, cho tha nhân và cho đời. Vậy
cần lắm lòng khiêm nhường sám hối mà tạ lỗi cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng
anh chị em!.
Xin
Chúa tha thứ và giúp ta bắt đầu lại tốt đẹp hơn, theo mẫu gương của những người
đầy tớ trung tín.
Suy niệm 2:
Trong
bối cảnh chúng ta đang chờ đợi ngày Chúa trở lại, dụ ngôn về những nén bạc trong đoạn Tin Mừng hôm nay là một lời mời gọi sâu sắc của Chúa Giêsu. Qua
câu chuyện dụ ngôn này, Chúa muốn mời gọi mỗi người chúng ta nhìn nhận lại những
“nén bạc” do Chúa trao tặng để tạ ơn; đồng thời cũng tạ lỗi vì mình đã không cố
gắng sinh lợi theo ý muốn của Chúa.
Mỗi người chúng ta đều
được Chúa trao cho một số lượng nén bạc khác nhau, tượng trưng cho những tài
năng, sức khỏe, mối quan hệ, tài sản... mà chúng ta được ban tặng. Điều quan
trọng là chúng ta phải ý thức được trách nhiệm Chúa trao mà sử dụng những tài
sản đó một cách hiệu quả và có ích.
Việc sinh lời cho những
nén bạc không chỉ đơn thuần là tăng thêm về số lượng vật chất, mà còn là việc
phát triển bản thân, phục vụ tha nhân và làm vinh danh Chúa. Đó là việc sử dụng
những gì mình có để tạo ra những giá trị tốt đẹp cho cuộc sống.
Dụ ngôn cũng cho thấy có
những người tích cực làm việc, bên cạnh đó cũng có những người lại chôn giấu
tài sản của mình. Điều này phản ánh thái độ sống khác nhau của con người trước
những ân ban của Chúa. Từ đó dẫn đến những hệ quả khác nhau trong ngày Chúa trở
lại, Ngài sẽ xét xử mỗi người dựa trên cách họ đã sử dụng những nén bạc mà Ngài
đã trao. Những ai đã sinh lời sẽ được khen thưởng, còn những ai đã chôn giấu sẽ
bị trừng phạt.
- Hãy dành thời gian để
suy nghĩ về những gì mình đang có: tài năng, sức khỏe, thời gian, mối quan
hệ... Đó là những "nén bạc" quý giá mà Chúa đã trao tặng.
- Hãy trân quý và sử dụng
những tài năng và cơ hội Chúa ban cho mình để phục vụ tha nhân, xây dựng cộng
đồng và làm vinh danh Chúa.
- Hãy luôn tìm cách học
hỏi và nâng cao bản thân để có thể sử dụng những nén bạc của mình một cách hiệu
quả hơn.
- Hãy chia sẻ những gì
mình có với những người khó khăn hơn bằng tình yêu của Chúa. Đó là cách chúng
ta sinh lời những nén bạc Chúa trao ban.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì những ơn phúc quý giá do Chúa tặng ban. Xin cho
chúng ta biết trân quý và sử dụng những nén bạc của Chúa một cách khôn ngoan
với niềm tin tưởng và hy vọng vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Amen.
Suy niệm 3:
Dụ ngôn về
mười nén bạc trong Tin Mừng hôm nay
là sứ điệp sâu sắc mời gọi chúng ta suy ngẫm về cách thức mà chúng ta đã sử dụng
những nén bạc Chúa thương ban cho mỗi người chúng ta như thế nào.
1.
Nén bạc Chúa ban là gì?
Thưa đó là tất cả những gì Chúa
đã ban tặng cho chúng ta:
- Tài năng: Khả năng, sở trường, và những món quà đặc biệt mà mỗi người được ban
cho.
- Sức khỏe: Một cơ thể khỏe mạnh để chúng ta phục vụ và yêu thương người khác.
- Thời gian: Mỗi ngày là một món quà quý giá để chúng ta sử dụng một cách hiệu quả.
- Quan hệ: Gia đình, bạn bè, cộng đồng – những mối quan hệ quý báu mà chúng ta
cần nuôi dưỡng.
- Kiến thức: Những gì chúng ta đã học được và tiếp tục học hỏi.
- Tài sản: Những gì chúng ta sở hữu, dù lớn hay nhỏ.
2. Chúng ta đã sử dụng
nén bạc Chúa ban như thế nào?
- Sinh lợi: Người đầy tớ trung thành đã dùng số bạc của chủ để kinh doanh và sinh
lợi. Cũng vậy, chúng ta được mời gọi sử dụng những tài năng và cơ hội của mình
để làm cho cuộc sống của người khác tốt đẹp hơn.
- Chôn giấu: Người đầy tớ lười biếng đã chôn giấu số bạc của chủ. Điều này tượng
trưng cho việc chúng ta không dám sử dụng những tài năng của mình, hoặc sử dụng
chúng một cách ích kỷ.
3. Làm thế nào để sử
dụng nén bạc Chúa ban một cách đẹp lòng Chúa?
- Nhận biết và trân
quý: Đầu tiên, chúng ta cần nhận biết những nén bạc mà Chúa đã thương trao
cho chúng ta và trân quý nó với tất cả tấm lòng biết ơn.
- Tìm cách biến đổi: tích cực sử dụng những nén bạc Chúa ban để biến đổi bản thân, gia
đình, cộng đoàn và thế giới xung quanh chúng ta.
- Chia sẻ: Chia sẻ những gì chúng ta có với người khác.
- Phát triển: Luôn tìm cách phát triển và hoàn thiện bản thân.
- Tin tưởng: Tin tưởng vào sự hướng dẫn của Chúa và đặt niềm tin vào kế hoạch của
Ngài.
Tóm lại: Dụ ngôn về mười nén bạc là một lời mời gọi chúng ta sống một cuộc đời
có ý nghĩa và mục đích. Bằng cách sử dụng những nén bạc của Chúa một cách khôn
ngoan và trung thành, chúng ta không chỉ làm đẹp lòng Chúa mà còn mang lại niềm
vui và hạnh phúc cho chính mình và những người xung quanh.
Thứ năm: Dcr 2, 14-17; Mt 12, 46-50
Nhớ Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ
Suy niệm 1:
Hôm nay GH kính nhớ sự kiện Đức Maria dâng mình trong đền
thánh. Với lòng yêu mến Chúa và trung thành với luật Do Thái ngay từ nhỏ,
Đức Mẹ đã sẵn sàng dâng mình vào đền thánh để phụng sự Chúa. Chính tình yêu mến
và muốn gắn kết sâu xa với Chúa Đức Maira đã khiêm tốn lắng nghe và thực thi thánh ý của
Chúa. Vì thế, Mẹ Maria xứng đáng trở nên thành viên thân thiết trong
gia đình Thiên Chúa Ba Ngôi.
Xin cho chúng
ta biết noi gương Mẹ Maria biết khiêm tốn lắng nghe và thực thi Lời Chúa để
xứng danh là Con Mẹ và trở nên thành viên gia đình thiêng liêng của Chúa.
Nhờ tích tích rửa tội chúng ta trở thành con Chúa và là thành viên trong GH. Nên ngoài gia đình tự nhiên liên hệ bằng huyết thống, chúng ta còn có một gia đình thiêng liêng nhờ được sinh ra trong cùng một đức tin. Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định cho ta biết, để trở nên thành viên trong gia đình của GH và con cùng một Cha trên trời, điều kiện tiên quyết chính là biết:“lắng nghe và thực hành Lời Chúa”.
Nếu để trở
thành người con ngoan trong gia đình tự nhiên theo huyết thống, ta phải lắng
nghe và thi hành những điều do cha mẹ và anh chị hướng dẫn chỉ bảo. Cũng vậy, để trở
thành con ngoan của Chúa và anh chị em trong gia đình thiêng liêng đức tin, ta cần phải lắng nghe và thực hành Lời Chúa dưới sự hướng dẫn của
GH.
Hơn ai hết,
Đức Maria là người luôn để tâm lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa trong
suốt cuộc đời mình. Nên Đức Maria xứng đáng trở nên người Mẹ của Chúa và là kiểu mẫu cho
đời sống cho mỗi người chúng ta.
Khi khám phá
những giọt máu trong chiếc khăn liệm thành Turin, các nhà khoa học chứng minh
cho biết đó là loại máu B: Bái ái, bao dung và bình an. Dòng máu ấy cũng chính
là dòng máu của Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu.
Xin cho chúng
ta luôn biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa như Mẹ Maria để dòng máu bác ái,
bao dung và bình an của Chúa Giêsu cũng lưu truyền trong thân thể chúng ta. Nhờ
đó mà ta xứng đáng trở thành người thân của Chúa trong gia đình của Người.
Suy niệm 2: VÂNG NGHE VÀ THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Lễ Đức Mẹ Dâng Mình Trong
Đền Thờ là một dịp đặc biệt để chúng ta chiêm ngưỡng mẫu gương tuyệt vời của
Đức Mẹ Maria. Hành động dâng mình vào đền thờ của Đức Maria không chỉ là một
nghi thức tôn giáo mà còn là một lời khẳng định mạnh mẽ về sự tin tưởng tuyệt
đối vào thánh ý của Thiên Chúa.
1. Ý nghĩa của lễ Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ:
- Hành động dâng mình vào
đền thờ của Đức Mẹ là một lời tuyên bố rõ ràng về việc Mẹ hoàn toàn dâng hiến
cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Mẹ sẵn sàng để cho ý Chúa được thực hiện trong
cuộc đời mình.
- Đức Mẹ là mẫu gương sáng
cho mỗi người Kitô hữu. Qua việc dâng mình cho Chúa, Mẹ dạy chúng ta về tầm
quan trọng của việc sống một đời sống thánh thiện và hoàn toàn phục vụ Thiên
Chúa.
- Việc dâng mình vào đền
thờ đánh dấu bước khởi đầu của cuộc hành trình theo Chúa của Đức Maria. Cả cuộc
đời Đức Maria là một chứng tá sống động cho tình yêu và sự trung thành với
Thiên Chúa.
2. Vâng nghe và thực hành lời Chúa:
- Giống như Đức Maria,
chúng ta cũng được mời gọi lắng nghe tiếng Chúa gọi trong cuộc sống hàng ngày. Nhờ
và qua lời cầu nguyện, việc đọc Kinh Thánh, hay những sự kiện xảy ra chung
quanh chúng ta trong cuộc sống hàng ngày.
- Khi đã nhận ra tiếng
Chúa gọi, chúng ta cần có thái độ sẵn sàng đáp trả. Cũng như Đức Mẹ, chúng ta
hãy nói “xin vâng” với ý muốn của Chúa.
- Vâng nghe lời Chúa không
chỉ dừng lại ở việc nói “xin vâng” mà còn phải được thể hiện qua hành động cụ
thể trong cuộc sống hàng ngày. Chúng ta cần cố gắng sống theo những gì Chúa
dạy.
Lễ Đức Mẹ Dâng Mình Trong Đền Thờ là một dịp để chúng ta nhìn lại bản
thân và quyết tâm sống một đời sống thánh thiện hơn. Qua mẫu gương của Đức Mẹ,
chúng ta được mời gọi dâng hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho Thiên Chúa và sống
một cuộc đời xứng đáng làm con cái Chúa.
* Mùa thường niên: Lc 19, 41-44
Theo
triết lý Á Đông: “Sự vật hễ có hình thì có hoại”, như lời sách Giảng viên
đã nói: “Phù hoa nối tiếp phù hoa, chi chi chăng nữa cũng là phù hoa”(Gv 1, 2). Thật vậy, tất cả mọi vật
trần gian rồi sẽ qua đi. Chỉ duy Thiên Chúa là tồn tại mãi, bởi chính Người là
đá tảng vững bền. Đó là sứ điệp Tin mừng hôm nay muốn nói với chúng ta. Xin cho
chúng ta luôn tin tưởng phó thác vào Chúa.
Vật
chất, tiện nghi đem lại cho con người cuộc sống thoải mái và sung túc. Tuy
nhiên nó cũng dễ đẩy con người vào vòng xóay của hưởng thụ mà quên đi những giá
trị cao quý.
Do đó
Tin mừng hôm nay cho biết Chúa Giêsu đã rơi lệ khi nhìn thấy thành Giêrusalem.
Có lẽ nỗi buồn này một phần vì biết rằng đền thờ Giêrusalem tráng lệ và là biểu
tượng tự hào của dân tộc Do Thái sẽ có ngày sụp đổ tan tành. Nhưng trên hết,
Chúa Giêsu khóc vì nhận thấy tình trạng suy đồi về luân lý đạo đức của dân tộc,
vì họ quá bám víu vào vật chất mà quên đi xây dựng đền thánh tâm hồn.
Lời
tiên báo của Chúa Giêsu đã được ứng nghiệm vào năm 72, khi đó tướng Titô của đế
quốc Rôma đã đem quân sang xâm chiếm và phá hủy hoàn toàn thành thánh
Giêrusalem, khiến không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào. Họ đã nhẫn tâm bán
bổ tôn giáo bằng cách giẫm đạp lên nơi thờ phượng Thiên Chúa. Khiến người Do
Thái phải khóc than tiếc nối.
Lời
tiên báo của Chúa Giêsu vẫn còn giá trị cho đến ngày nay. Thời đại mà con người
quá lệ thuộc vào của cải vật chất. Vì coi trọng đồng tiền và chỉ muốn xây dựng
cuộc sống mình trên nền tảng vật chất. Do đó họ sẵn sàng bán rẻ lương tâm và
chà đạp lên những giá trị đạo đức để rồi sẵn sàng bán bổ thần thánh. Nhìn vào
cuộc sống hưởng thụ và chạy theo tiền bạc hôm nay, có lẽ Chúa Giêsu cũng đang
đau buồn và rơi lệ như xưa.
Xin
Chúa cho chúng ta biết nương tựa vào sức mạnh của Chúa và kiên quyết xây dựng
đời mình trên đá tảng vững bền là Đức Kitô mà vượt thắng được sức mạnh tàn phá
của kẻ thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt để bảo vệ được ngôi đền thánh tâm
hồn xứng đáng là nơi Thiên Chúa ngự trị. Nhờ đó mà ơn cứu độ và sứ điệp hòa
bình của Chúa Giêsu mới đến được với ta.
Thứ sáu: Lc 19, 45-48
Sự
kiện Chúa Giêsu đánh đuổi những con buôn ra khỏi đền thờ mà bài Tin mừng hôm
nay tường thuật, nhắc nhở chúng ta hai điều quan trọng trong đời sống đức tin:
- Ý
thức tầm quan trọng của ngôi Nhà Thờ vật chất: Bởi nơi đây là nơi hiện diện
cách đặc biệt của TC, là nơi quy tụ những người tín hữu tôn thờ Thiên
Chúa, là nơi biểu tỏ đức tin, là nơi gặp gỡ và sống tình huynh đệ bác ái Kitô
giáo, là nơi tụ họp để lắng nghe và được giải thích lời Chúa, là nơi để lãnh
nhận các ơn thiêng cao quý Chúa ban qua các bí tích và lời cầu nguyện… Nơi đây
Đức Tin của người kitô hữu mỗi ngày được nuôi dưỡng và lớn mạnh hơn. Do đó, mỗi
chúng ta cần phải ý thức tầm quan trọng và giá trị thánh thiêng của Nhà Thờ mà
chung tay xây dựng và góp phần gìn giữ Nhà Thờ được sạch đẹp; luôn giữ thái độ
xứng hợp khi bước vào Nhà Thờ; nhất là biết siêng năng kính viếng Chúa nơi Nhà
Thờ.
- Ý
thức giá trị cao quý của đền thờ tâm hồn: Sự kiện Chúa Giêsu đánh đuổi những
con buôn ra khỏi đền thờ còn nhắc nhớ chúng ta về giá trị thánh thiêng của ngôi
đền thờ tâm hồn. Bởi tâm hồn chúng ta chính là nơi Thiên Chúa Ba Ngôi thích ngự
trị nhất. Nhưng rất có thể ngôi đền thờ tâm hồn chúng ta vẫn còn ngỗn ngang bởi
những toan tính lợi danh, những đam mê dục vọng. Nơi ấy vẫn còn chất chứa nhiều
tính hư tật xấu và tội lỗi nên rất cần được Chúa thanh tẩy cho thanh sạch, hầu
xứng đáng là nơi ngự trị của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Xin
cho mỗi người chúng ta biết góp phần tích cực trong việc gìn giữ và bảo vệ ngôi
nhà thờ vật chất cũng như canh tân ngôi nhà tâm hồn của mình sao cho xứng đáng
là nơi TC ngự trị. Nhờ đó mà cuộc đời của chúng ta mới có thể trổ sinh nhiều
hoa trái tốt lành, mang lại niềm vui và ơn ích cho người và cho đời.
Thứ bảy: Lc 20, 27-40
Nhớ Thánh Clémenté I, giáo hoàng, tử đạo
Suy niệm 1:
Có
thể nói hầu hết mọi người đều tin có sự sống lại và cuộc sống đời sau. Nhưng về
tình trạng sự sống đời sau như thế nào thì có sự khác nhau. Vậy quan niệm về
vấn đề này của người Kitô hữu chúng ta thế nào? Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn
nói đến trong bài Tin mừng hôm nay. Chúng ta lắng nghe lời Chúa dạy để có quan
niệm đúng đắn trong vấn đề này.
Thời
Chúa Giêsu có khá nhiều nhóm: Pharisêu, Biệt phái, Luật sĩ, Hêrôđê và Saducêô...
Mỗi nhóm lại theo đuổi một lý tưởng khác nhau nên có những quan điểm khác biệt.
Nhóm Saducêô thì không tin có sự sống lại và không có sự sống đời sau. Họ có
quan niệm theo duy vật chủ nghĩa, chết là hết. Vì thế, họ tìm mọi cách để chối
bỏ niềm tin về sự sống lại. Hôm nay, họ đối chất với Chúa Giêsu về vấn đề này
nhằm phản bát niềm tin vào sự sống lại do Chúa Giêsu rao giảng.
Họ
đặt ra 1 câu chuyện lố bịch về 1 gia đình có 7 người anh em. Theo luật thế
huynh của Môi-sen thì nếu người anh lớn cưới vợ chẳng may chết đi không con,
thì người em kế đó phải cưới lấy người vợ góa đó, để sinh con nối dõi tông
đường. Vậy có cả thảy 7 người anh em cùng cưới 1 bà vợ. Nhưng lần lượt cả thảy
7 người anh em đó đều chết mà không con. Cuối cùng người vợ góa đó cũng chết.
Vậy nếu có sự sống lại thì ai sẽ là người chồng của chị ta?
Tình
thế họ đặt ra xem ra rất hóc búa, khó xử, nhưng Chúa Giêsu đã dựa trên nền tảng
Thánh Kinh đoạn nói về Môisen diện kiến Thiên Chúa nơi bụi gai cháy sáng, để
minh chứng cho biết: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết,
mà là của kẻ sống”. Bởi lẽ Người là “Thiên Chúa hằng hữu”.
Người
cũng cho biết sự sống mai sau là sự sống vĩnh cửu nên không còn phải lấy vợ
cưới chồng để duy trì giống nòi nữa. Và tình trạng sự sống mai sau không giống
như sự sống con người ở trần gian mà như các Thiên Thần.
Với
những lời minh chứng ấy, Chúa Giêsu đã làm cho họ phải câm miệng không còn vênh
váo, khoát lát nữa.
Trong
cuộc sống này, mỗi người có những quan niệm và cái nhìn khác nhau "chín người
mười ý". Cho nên thường đưa đến những bất đồng ý kiến với nhau. Chân lý
không thuộc đám đông cũng không phải ở bất kỳ ai, nhưng chân lý thuộc về Thiên
Chúa. Vì thế một mặt ta cần tránh thái độ kiêu căng, tự mãn, chủ quan loại trừ
mọi quan điểm của người khác; trái lại phải có cái nhìn tôn trọng và cởi mở
trước những ý kiến khác biệt. Là người Kitô hữu, chúng ta phải luôn tin
tưởng vào Lời Chúa dạy và GH hướng dẫn nên cần phải xác tín vững chắc vào sự
sống lại và sự thưởng phạt đời sau.
Xin
cho chúng ta biết gắn kết với Chúa trong lời cầu nguyện, siêng năng tham dự
thánh lễ và kết hợp với Chúa trong Bí tích Thánh Thể; nhất là khiêm tốn lắng
nghe và thực thi lời Chúa mà trung thành sống giới luật yêu thương do Chúa chỉ
dạy. Nhờ đó ta mới có thể hưởng được tình trạng hạnh phúc viên mãn như các
Thiên Thần mai này. Amen.
* Thánh giáo hoàng Clêmentê I là vị giáo hoàng thứ 3 trong lịch sử Giáo hội. Ngài sống vào cuối thế kỷ thứ nhất. Đọc lại tiểu sử của Ngài, ta nhận ra những đức tính nổi bật sau đây:
- Tình yêu đối với Lời Chúa: Thánh Clêmentê I là một người yêu mến Kinh
Thánh sâu sắc. Ngài đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu và suy niệm Lời Chúa,
và điều này đã giúp Ngài có được một kiến thức sâu rộng về giáo lý của Giáo
hội. Qua đó, chúng ta được mời gọi hãy dành thời gian mỗi ngày để đọc và suy
niệm Lời Chúa, để Lời Chúa có thể thấm nhuần vào tâm hồn và hướng dẫn cuộc sống
của chúng ta.
- Lòng khiêm tốn và tận tâm phục vụ: Mặc dù là một vị Giáo hoàng, nhưng Thánh
Clêmentê I luôn tỏ ra khiêm tốn và sẵn sàng phục vụ tha nhân. Ngài đã không
ngừng quan tâm đến các tín hữu, đặc biệt là những người nghèo khổ và yếu đuối.
Điều này cho chúng ta thấy rằng, bất kể vị trí xã hội hay chức vụ nào, chúng ta
đều được mời gọi sống một cuộc đời phục vụ.
- Lòng can đảm và trung thành: Thánh Clêmentê I đã không ngần ngại đối
mặt với những thử thách và hy sinh để bảo vệ đức tin. Ngài đã chịu tử đạo vì
đức tin, chứng tỏ lòng trung thành tuyệt đối của ngài đối với Chúa Kitô. Chúng
ta cũng được mời gọi sống một cuộc đời trung thành với Chúa, dù gặp phải khó
khăn nào.
- Sự hiệp nhất trong Giáo hội: Trong bức thư gửi tín hữu Côrintô, Thánh
Clêmentê I đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hiệp nhất trong Giáo hội. Ngài đã
kêu gọi các tín hữu hãy sống hòa hợp với nhau và cùng nhau xây dựng cộng đoàn
giáo hội. Điều này cho chúng ta thấy rằng, sự hiệp nhất là điều cần thiết để
Giáo hội phát triển, nhất là khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng.
Thánh Clêmentê I đã đóng góp rất lớn vào việc xây dựng và củng cố đời
sống đức tin cho Giáo hội trong những năm đầu tiên. Ngài đã giúp định hình cấu
trúc và tổ chức của Giáo hội, cũng như giáo lý và các nghi thức phụng vụ. Đọc
lại bức thư gửi tín hữu Côrintô của Ngài cho ta nhận ra rằng, đó là một tác
phẩm thần học sâu sắc, có ảnh hưởng lớn đến đời sống đức tin của các thế hệ tín
hữu sau này. Thánh nhân đã sống và sẵn sàng chết vì đức tin. Cuộc đời và cái
chết của Ngài là một minh chứng hùng hồn cho tình yêu của Ngài đối với Chúa
Kitô và Giáo hội.
Xin Chúa cho chúng ta biết dành thời gian để đọc và suy niệm Lời Chúa mỗi ngày. Tích cực sống bác ái và hy sinh phục vụ mọi người, đặc biệt là những người nghèo khổ và yếu đuối. Can đảm sống đạo và cương quyết bảo vệ đức tin cho dẫu phải đối mặt với những gian nan thử thách. Luôn kết hợp mật thiết với Chúa bằng đời sống cầu nguyện và tích cực tham gia vào các hoạt động mục vụ của họ đạo làm nên một lối sống hiệp hành, nhằm nuôi dưỡng và củng cố đức tin của mình.
Suy niệm 2: VỮNG TIN VÀO SỰ SỐNG VĨNH CỬU
Lời Chúa hôm nay đã đưa chúng ta đến một chân lý sâu sắc về đức tin, đó là sự sống lại.
Bằng trí khôn ngoan và quyền năng của mình, Chúa Giêsu đã khẳng định với những
người Xa-đốc một cách rõ ràng về sự sống vĩnh cửu, một cuộc sống hoàn toàn khác
biệt so với cuộc sống trần thế.
Điểm nhấn trong bài Tin Mừng hôm nay:
1. Sự sống lại không phải là sự tiếp nối của cuộc sống trần thế: Chúa Giêsu dạy rằng, trong cuộc sống vĩnh cửu,
con người sẽ không còn ràng buộc bởi những nhu cầu vật chất như hôn nhân. Thay
vào đó, chúng ta sẽ trở nên giống như các thiên thần, những thụ tạo hoàn hảo
của Thiên Chúa.
2. Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống: Qua câu chuyện về Môsê và các vị tổ phụ, Chúa Giêsu khẳng định rằng
Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của những người đã chết, mà là Thiên Chúa
của những người đang sống, cả trong hiện tại và trong sự vĩnh cửu.
3. Liên hệ với cuộc đời Thánh Clêmentê:
Thánh Clêmentê, vị Giáo
hoàng đầu tiên tử đạo, là một tấm gương sáng ngời về đức tin vào sự sống lại.
Ngài đã sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình để bảo vệ chân lý này. Cuộc đời của
ngài cho chúng ta thấy rằng:
- Đức tin vào sự sống lại là động lực mạnh mẽ: Niềm tin vào sự sống
vĩnh cửu đã giúp Thánh Clêmentê vượt qua mọi thử thách và đau khổ. Ngài đã sống
một cuộc đời khiết tịnh và phục vụ tha nhân, hướng tới mục tiêu cao cả là được
sống đời đời với Chúa.
- Sự tử đạo là một chứng tá cao quý: Bằng việc hy sinh mạng sống,
Thánh Clêmentê đã chứng tỏ rằng đức tin của ngài là chân thật và vững chắc.
Ngài đã trở thành một vị tử đạo, một người làm chứng cho Chúa Kitô bằng chính
máu đào của mình.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì đã mạc khải cho chúng ta về sự sống vĩnh cửu.
Xin cho chúng ta luôn đặt trọn niềm tin vào lời Chúa hứa mà cố gắng sống một
cuộc đời thánh thiện, với niềm hy vọng được hưởng hạnh phúc đời đời. Amen.
Suy niệm 3: NOI GƯƠNG THÁNH CLÊMENTÊ
Thánh Clêmentê I, vị Giáo
hoàng đầu tiên tử đạo, đã để lại cho hậu thế một tấm gương sáng ngời về đức tin
và lòng yêu mến Chúa. Qua bức thư gửi tín hữu Côrintô, chúng ta có thể chiêm
ngưỡng những nhân đức cao đẹp mà ngài đã thể hiện:
1. Tình yêu thương và sự đoàn kết: Thánh Clêmentê luôn nhấn mạnh tầm
quan trọng của tình yêu thương huynh đệ và sự đoàn kết trong cộng đoàn. Ngài
kêu gọi mọi người sống hòa thuận, yêu thương lẫn nhau như những chi thể trong
một cơ thể duy nhất.
2. Khiêm nhường và phục vụ: Ngài là một vị mục tử khiêm tốn, luôn sẵn
sàng phục vụ cộng đoàn. Ngài đã không ngần ngại viết thư khuyên nhủ và giải
quyết những mâu thuẫn trong Giáo hội Côrintô.
3. Đức tin vững vàng: Thánh Clêmentê có một đức tin vững vàng vào Chúa
Giêsu Kitô và các giáo huấn của Ngài. Chính đức tin này đã giúp ngài vượt qua
mọi khó khăn và thử thách trong cuộc sống.
4. Sự kiên trì và can đảm: Ngài đã thể hiện sự kiên trì và can đảm khi
đối mặt với những khó khăn và sự chống đối. Ngài đã không hề nao núng trước
những đe dọa và cuối cùng đã hy sinh mạng sống vì đức tin.
5. Tình yêu mến Kinh Thánh: Thánh Clêmentê là một người yêu mến Kinh
Thánh và thường xuyên trích dẫn các câu Kinh Thánh trong các bài giảng và thư từ
của mình. Ngài cho thấy Kinh Thánh là nguồn mạch nuôi dưỡng đức tin và đời sống
đạo đức.
* Những bài học chúng ta rút ra từ cuộc đời của Thánh Clêmentê:
- Sống chan hòa và yêu thương: Chúng ta nên học tập tấm gương của
Thánh Clêmentê, luôn sống chan hòa và yêu thương mọi người xung quanh, đặc biệt
là những người trong cộng đoàn đức tin.
- Khiêm tốn phục vụ: Dù ở bất kỳ vị trí nào, chúng ta cũng nên khiêm
tốn phục vụ tha nhân, xem công việc phục vụ là một đặc ân chứ không phải là một
gánh nặng.
- Vững tin vào Chúa: Dù gặp phải khó khăn nào, chúng ta cũng phải
luôn vững tin vào Chúa và sự quan phòng của Ngài.
- Kiên trì và can đảm: Chúng ta cần có sự kiên trì và can đảm để đối
mặt với những thử thách trong cuộc sống, nhất là khi phải bảo vệ đức tin của
mình.
- Sống theo Lời Chúa: Kinh Thánh là nguồn mạch nuôi dưỡng đời sống
tinh thần của chúng ta. Chúng ta nên dành thời gian đọc Kinh Thánh và suy niệm
Lời Chúa mỗi ngày.
Thánh Clêmentê là một tấm gương sáng cho mọi Kitô hữu. Cuộc đời và những đức tính cao đẹp của ngài sẽ mãi là nguồn cảm hứng cho chúng ta trên con đường đi đến sự thánh thiện.
* Thánh Clê-men-tê I, Giáo hoàng, Tử đạo
Các thánh tử đạo là những người đã can trường làm chứng cho Chúa. Giáo
Hội vững mạnh là được xây dựng trên nền tảng đức tin vững mạnh và dòng máu anh
dũng các ngài. Thánh Cơ-lê-men-tê I, giáo hoàng thứ tư Roma và nhân chứng của
Chúa Giêsu Kitô vào cuối thế kỷ thứ nhất, vào năm 185.
Thánh Clê-men-tê I
Thánh nhân là vị giáo hoàng thứ 4 trong lịch sử Giáo Hội. Người ta ít
biết về thời niên thiếu của thánh nhân.Thánh Cơ-lê-men-tê I sống vào cuối thế
kỷ thứ nhất. Ngài là một nhà hùng biện, yêu mến Thánh Kinh và thấu suốt tư
tưởng, giáo lý của Chúa Giêsu.
Thánh Irênê thuật rằng: thánh Phêrô vị giáo hoàng tiên khởi đã truyền
ngôi cho Linô, Anaclê kế vị Linô và sau Anaclê là thánh Cơ-lê-men-tê I. Thánh
nhân đăng quang, một trong những việc làm phi thường của Ngài là giàn xếp cuộc
nổi loạn của cộng đoàn tín hữu Corintô.
Ðọc bức thư Ngài gửi cho cộng đoàn tín hữu Corintô,mọi người nhận ra
Ngài là vị mục tử hiền từ, bác ái và khiêm nhượng. Ngài là người đã sống họa
lại hình ảnh của Chúa Giêsu nhân từ, hiền hậu.
Ngài đã sống trọn vẹn con người của Ngài đến nỗi ta có thể nói được như
thánh Phaolô: "Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Ðức Kitô
sống trong tôi". Chính vì sống con đường của Chúa Giêsu, con đường
thập giá của Ngài. Thánh nhân đã được phúc tử vì đạo dưới thời Hoàng đế Trajan.
Thánh nhân đã bị bắt, bị kết án tử hình. Lý hình đã cột đá nặng vào cổ Ngài,
quăng Ngài xuống biển sâu. Người ta đã vớt được xác Ngài và đưa về La-mã, dưới
triều Ðức Giáo hoàng Adrianô II. Thiên Chúa và Giáo Hội đã tôn vinh Ngài.
Cầu nguyện
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con khâm phục Chúa đã làm cho
các thánh nên can trường. Chúa đã giúp thánh Cơ-lê-men-tê là tư tế và tử đạo
của Ðức Kitô biết lấy máu đào mà minh chứng những mầu nhiệm thánh nhân cử hành,
và biết nêu gương sáng để củng cố Tin Mừng người rao giảng. Hôm nay, chúng con
mừng kính Người, xin cho chúng con được tràn đầy niềm phấn khởi hân hoan. ( Lời
nguyện nhập lễ thánh Cơ-lê-men-tê I, giáo hoàng, tử đạo).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXXIII
THƯỜNG NIÊN
Lm. Minh Anh,Tgp Huế
THỨ
HAI: NGƯỜI MÙ THÀNH GIÊRIKHÔ
Giáo Hội sắp
kết thúc năm phụng vụ với lễ Chúa Giêsu Kitô Vua để nhắc nhở mỗi người chúng ta
về sự thật căn bản về Thiên Chúa là Đấng khởi đầu và là cùng đích của mọi sự,
là Alpha và Ômêga.
Con người và
vũ trụ đã được Thiên Chúa sáng tạo, đặt vào trong hiện hữu và cuối cùng sẽ trở
về cùng Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.
Trong thời
gian chờ đợi ngày trở về cuối cùng này, mỗi người chúng ta phải sống như thế
nào?
Trong tuần lễ
này, chúng ta hãy đối chiếu cuộc sống của mình với lời dạy của Chúa trong Phúc
Âm, nhưng không phải chỉ đối chiếu suông mà thôi, mà mỗi chúng ta cần sửa chữa,
cần dứt bỏ đi những gì không phù hợp với lời dạy của Chúa.
Bài Phúc Âm
hôm nay trình thuật lại cuộc gặp gỡ hồng phúc giữa Chúa Giêsu và người mù thành
Giê-ri-khô. Thái độ của anh mù này có thể nêu gương cho mỗi người chúng ta. Nên
biết, đây không phải là dụ ngôn mà là một biến cố thật sự đã xảy ra, trong đó
ta có thể quan sát và nhận thấy có hai thái độ:
- Thái
độ của những người cản trở không
cho anh mù đến với Chúa Giêsu, dường như họ cho rằng mình mới có quyền hay đặc
quyền được ở gần bên Chúa. Còn người mù ăn xin kia thì không có phẩm giá, không
được kính trọng và không được đến gần bên Chúa, nhất là không có quyền đi theo
Chúa. Ðây là những người độc quyền, họ muốn giới hạn hành động của Thiên Chúa
theo những tiêu chuẩn phàm trần do chính họ đặt ra.
Trong mối
tương quan giữa con người với Thiên Chúa trên bình diện ân sủng và cứu rỗi, con
người không có quyền cậy dựa vào công trạng và lợi ích cá nhân mình mà đòi buộc
Thiên Chúa phải làm như thế này hay như thế nọ. Bởi lẽ tất cả ân sủng là ơn ban
nhưng không của Thiên Chúa, không ai có quyền giới hạn ân sủng đó cho riêng
mình hay trong phạm vi mà mình quy định mà thôi.
- Thái
độ thứ hai nơi anh mù. Ý thức
thân phận của mình, không có gì để khoe khoang hay đòi hỏi, nhất là đòi hỏi
Thiên Chúa, anh mù chỉ khiêm tốn kêu xin: “Lạy con vua Ðavít, xin
thương xót tôi”. Người ta càng ngăn cản thì anh càng la to hơn: “Lạy
con vua Ðavít, xin thương xót tôi”.
Sự mù lòa thể
xác và nghèo hèn vật chất không phải là một ngăn trở không cho con người đến
gần Chúa, gặp gỡ Chúa và đón nhận ơn ban của Chúa. Tin vào điều ấy nơi Đức Kitô
nên anh mù đã kêu xin Chúa cứu chữa: “Lạy Ngài, xin cho con được nhìn
thấy”. Sau khi anh mù được sáng mắt, anh còn tiến thêm một bước quan
trọng thứ hai là đi theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa, đến độ những kẻ chung
quanh cũng bị lôi cuốn theo cùng anh ca tụng Thiên Chúa: “Tức khắc anh
thấy được và anh đi theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân liền ca
ngợi Thiên Chúa”.
Trong Phúc Âm
cũng có nhiều trường hợp con người được Thiên Chúa làm phép lạ, ban cho ơn
lành, nhưng rất ít người nào có được phản ứng như anh mù này: “Anh đi
theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa”.
Anh đã sống
trọn vẹn điều mà chúng ta có thể diễn tả qua từ ngữ “Sống trọn vẹn ơn gọi
Kitô”. Theo Chúa, ca tụng Chúa và làm cho anh chị em chung quanh ca tụng Thiên
Chúa. Điều này giúp chúng ta nhớ lại lời căn dặn của Chúa Giêsu với các môn đệ
của Ngài như sau: “Ánh sáng của anh em phải chiếu dọi cho mọi người để
họ xem thấy việc lành của anh em mà ngợi khen Cha của anh em ở trên trời”. (Mt
5,16)
Lạy Chúa,
Người mù thành
Giêrikhô thức tỉnh chúng con, những kẻ đã lãnh nhận nhiều ơn lành của Chúa mà
lại không biết đến gần Chúa, kêu cầu Chúa, theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa. Qủa
thật chúng con đã mù loà về con mắt đức tin nên càng ngày chúng con càng sống
xa cách và bội bạc với Chúa.
Lạy Chúa, xin
thương giải thoát chúng con khỏi sự mù lòa nguy hiểm này.
(Trích trong
‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: BÊN VỆ ĐƯỜNG
“Có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường!”.
Ira David Sankey, một ca sĩ, một nhà soạn thánh ca, sau nhiều năm bị
mù, chia sẻ, “Như một người ngồi bên vệ đường, tôi chỉ còn một chút bóng tối
trần gian nữa; và sau đó, là mặt trời rạng rỡ trên ngai vàng của Cha. Thiên
Chúa là Tình Yêu. Chúc ngủ ngon!”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Chúc ngủ ngon!”, lời chúc của Ira Sankey khá chua xót khi ông sắp giã
từ ‘nơi tối’ của ‘những người đang ngủ’; nơi mà bấy lâu, ông “chỉ còn một chút
bóng tối” cuối cùng, đợi ngày về với Mặt Trời ngời ánh bình minh. Và với Tin
Mừng hôm nay, bạn và tôi có thể gặp lại chính mình nơi một người mù khác,
Bartimê, một người ‘bên vệ đường!’.
Đã bao lần trong cuộc đời, chúng ta cảm thấy mình lây lất khác nào
Bartimê; không thấy gì, không thể đứng lên, cũng không thể bước ra chính lộ và
chỉ có thể ngồi bẹp ‘bên vệ đường’. Chúng ta có thể cũng đã trải nghiệm một sự
thất vọng và không may mắn nào đó; không chỉ thể chất, mà còn tinh thần hay
tình cảm! Nhiều người đi qua nhìn thấy. Một số có thể ném cho bạn và tôi một
đồng xu, dẫu chúng không thực sự giúp chúng ta thoát khỏi sự chán nản hoặc khó
khăn của mình; số khác, có thể đã chế nhạo; số khác, thậm chí, có thể đã mắng
mỏ chúng ta, “Hãy im đi!” như những người đã mắng mỏ Bartimê.
Thế nhưng, giữa dòng người đó, vẫn có ‘một Ai đó’ khả dĩ có lòng xót
thương, Giêsu! Ngài đã cho Bartimê điều anh không thể tự cho mình, thị giác.
Cũng vậy, bao lần Giêsu đi qua cuộc đời chúng ta, Ngài cũng dừng lại để trao
tặng điều chúng ta không thể tự cho mình, đức tin. Nhưng bạn và tôi có la lên,
có van vỉ Ngài như Bartimê đã van vỉ khi biết Ngài đi qua không? Hoặc chúng ta
có thường xuyên cầu xin Ngài gia tăng lòng tin không?
Sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi cuộc đời chúng ta chịu một số lời
mắng mỏ, một số cú đánh thực sự, một số thất bại, và thậm chí, một số sa ngã
trong một tội lỗi nào đó. Nhưng, Chúa Giêsu không muốn chúng ta nản lòng, Ngài
muốn chúng ta coi đây là cơ hội để hướng về Ngài hơn, nguồn sức mạnh và sự đỡ
nâng. Những la ó dành cho chúng ta luôn còn mãi. Thế nhưng, khó khăn trong cuộc
đời có thể đánh bại chúng ta, hoặc cũng có thể khiến chúng ta mạnh mẽ. Cách
chúng làm cho chúng ta mạnh mẽ, như đã làm cho Bartimê, là nuôi dưỡng trong
chúng ta một sự tin tưởng và một sự lệ thuộc hoàn toàn vào lòng xót thương của
Thiên Chúa, “Lạy con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”.
Anh Chị em,
“Xin dủ lòng thương tôi!”. Sự mù loà của Bartimê chỉ là phần nổi của
tảng băng chìm; chắc chắn trong anh còn có những vết thương, tủi nhục, ước mơ
tan vỡ, sai lầm và hối hận. Anh đã cầu xin bằng cả trái tim; bạn và tôi thì
sao? Lời cầu của chúng ta có bao gồm lịch sử của mình, những vết thương, tủi
nhục, những giấc mơ tan vỡ, những lỗi lầm và hối tiếc? Cầu nguyện hời hợt chẳng
giúp ích gì cả. Tôi có kể câu chuyện đời mình cho Chúa Giêsu? Hay lời cầu của
chúng ta thiếu cảm xúc, chân thành. Đừng quên, Chúa Giêsu nóng lòng tuôn đổ ân
sủng và niềm vui cho chúng ta; tiếc thay, chính chúng ta lại giữ khoảng cách
qua sự rụt rè, lười biếng hoặc thiếu niềm tin. Vì thế, đừng ngạc nhiên, bạn và
tôi cứ ngồi mãi ‘bên vệ đường’.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, Đấng không muốn con lây lất. Bứng con lên, đưa con vào ‘Vùng
Sáng’, và con cũng có thể bông đùa một chút với những người khác, “Chúc ngủ
ngon!”, Amen.
THỨ BA: ĐỨC MẸ DÂNG MÌNH TRONG ĐỀN THỜ
TÒNG THUỘC
“Hỡi mọi xác phàm, hãy lặng thinh trước nhan Thiên Chúa!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Bài đọc Zacharia được chọn một cách kỹ lưỡng trong ngày lễ Đức Mẹ Dâng
Mình nêu bật mối quan hệ ‘tòng thuộc’ tuyệt đối của con người Đức Maria vào
Thiên Chúa.
Thiếu nữ Sion Zacharia nói đến không chỉ là hình ảnh của Israel, nhưng
còn là hình ảnh của Maria, người Thiên Chúa chọn, “Hỡi con gái Sion, hãy vui
sướng reo hò, vì này Ta đang đến để ở lại giữa ngươi”. Thiên Chúa ở lại giữa
Israel vì Israel thuộc về Ngài; Ngài ở lại, “ở cùng” Maria, vì Mẹ ‘tòng thuộc’
Ngài tuyệt đối. Để có thể hiểu được hồng ân được “ở cùng” này, con người phải
biết lặng thinh và chìm sâu vào trong Thiên Chúa. Ngôn sứ Zacharia thật thâm
trầm khi kết luận, “Hỡi mọi xác phàm, hãy lặng thinh trước nhan Thiên Chúa!”.
Tin Mừng ngày lễ nói đến cuộc tìm thăm Chúa Giêsu của Mẹ Maria và anh
em Ngài. Ở đó, Ngài đã thốt lên những lời ‘gây sốc’, “Ai là mẹ tôi? Ai là anh
em tôi?”. Chúa Giêsu thường không ngại nói ra những lời vượt quá trí hiểu.
Nhưng thật thú vị, Ngài không quen làm sáng tỏ chúng một cách chóng vánh; đúng
hơn, Ngài thường để những ai không hiểu phải biết lặng thinh, hầu lời Ngài có
thể chìm sâu vào trong. Từ đó, họ mới có thể hiểu nó.
Hẳn đã có một sự im lặng vần vũ đám đông khi Chúa Giêsu thốt ra những
lời trên. Nhiều người nghĩ, Ngài khá cứng cỏi. Nhưng không phải thế, Ngài muốn
Lời phải được chìm sâu vào trong nơi những ai đang nghe Ngài. Vì sau đó, đưa
tay chỉ các môn đệ, Ngài nói, “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi
hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh em chị em tôi, là
mẹ tôi!”. Qua đó, Chúa Giêsu đề cao người Mẹ Đầy Ơn Phúc của mình vì sự vâng
phục tuyệt đối ý muốn của Chúa Cha. Ngài cho biết, quan hệ ‘huyết thống’ đã
quan trọng, nhưng mối quan hệ ‘tòng thuộc’ vào Thiên Chúa sẽ quan trọng hơn.
Như vậy, một ‘Maria vâng phục’ sẽ là mẹ của Ngài ‘nhiều hơn’ một ‘Maria huyết
thống!’.
Với một đức tin trọn vẹn, một lòng mến sắt son, Maria hẳn đã hiểu hơn
ai hết; và tất nhiên, cũng hơn ai hết, Mẹ đầy niềm vui. Sự hiểu biết sâu sắc đó
tất yếu dẫn đến một niềm vui thẳm sâu nơi Mẹ. Thánh Vịnh đáp ca bộc lộ tâm tình
này, “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí
thánh chí tôn!”.
Một người mẹ kia có thói quen lạ thường! Mỗi khi con trai cô có điều gì
bất ổn, cô dắt nó vào rừng, đặt nó ngồi trên một tảng đá, bảo nó nhắm mắt lại.
Đoạn, lấy cây sáo mang theo, cô thổi cho nó nghe từ ca khúc này đến ca khúc
khác, từ trầm buồn đến réo rắt. Cô sẽ thổi cho đến khi nào con trai cô vui trở
lại, và nó mỉm cười. Bấy giờ, hai mẹ con mới ra về.
Anh Chị em,
“Hãy lặng thinh trước nhan Thiên Chúa!”. Thánh Gioan Phaolô II gọi
Maria là “Người Nữ Thánh Thể”. Liệu bạn và tôi có để Đức Mẹ ‘dẫn vào rừng’,
chìm sâu vào Thánh Thể mỗi ngày, nhất là khi gặp những khó khăn trong đời? Với
Thánh Thể, chúng ta sẽ lặng thinh, chìm sâu vào trong Ngài, trong Lời Ngài; ở
đó, chúng ta chờ đợi thánh ý Chúa như Mẹ, lắng nghe tiếng của Thánh Thần như Mẹ
thay vì chạy vạy tìm câu trả lời ở nơi đâu khác. Và từ Thánh Thể, một câu hỏi
quan trọng sẽ luôn đặt ra cho chúng ta, dù chúng ta là ai, ở bất cứ đấng bậc
nào, “Con thuộc về ai?”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Mẹ Maria, dạy con biết ‘tòng thuộc’ tuyệt đối vào Chúa. Để được
vậy, cho con vui thích cầm tay Mẹ ‘vào rừng’ mỗi ngày, để lặng thinh, để chìm
sâu vào trong “vực Giêsu!”. Amen.
THỨ TƯ: LỬA TÔNG ĐỒ
“Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến!”.
Elton Trueblood từng so sánh việc tông đồ với việc truyền lửa, “Rất dễ
xác định khi một thứ gì đó bốc cháy; nó đốt các vật chung quanh. Ngọn lửa nào
không cháy lan, cuối cùng, sẽ tắt. Về mặt nào đó, một Kitô hữu không có ‘lửa
tông đồ’ là một mâu thuẫn. Lửa không cháy cũng là một mâu thuẫn! Hãy xem lại
việc kết hiệp của họ với Chúa Kitô!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng hôm nay nói đến ‘lửa tông đồ’, biểu hiện ở ba hạng người,
tượng trưng cho ba thái độ trước nén bạc ân sủng Chúa trao. Họ được trao một
nén như nhau, cùng nhận một mệnh lệnh như nhau, “Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới
khi tôi đến!”.
Đối tượng đầu tiên là những người đã “sinh lợi” theo lệnh chủ, người
“sinh lợi” mười nén, kẻ “sinh lợi” năm nén. Hạng thứ hai, “bọc khăn giữ kỹ” nén
bạc. Và hạng thứ ba, những người “ghét” ông chủ; ở đây là ghét Thiên Chúa,
không muốn Ngài làm Vua của họ.
Khi nhà Vua trở lại, hạng đầu tiên phúc trình những kết quả đáng mừng.
Đây là những môn đệ đầy lửa. Thiên Chúa không trao ân sủng để ai đó cất giữ cho
riêng mình, nhưng sử dụng nó để mở rộng Vương Quốc. Ngài kỳ vọng mỗi người sẽ
tạo nên ‘một sự khác biệt vĩnh viễn’ trong cuộc sống của những người khác. Với
họ, việc tông đồ không là một gánh nặng nhưng là niềm vui, một niềm vui tiếp
thêm sức mạnh cho ‘lửa tông đồ’. Kết quả của sự nhiệt thành nơi họ sẽ tác động,
như lửa cháy lan, theo cấp số nhân đối với Vương Quốc.
Bà mẹ ngoan cường trong bài đọc Macabê hôm nay là một mẫu gương ngời
sáng trong việc “sinh lợi” cho Vương Quốc. Để bảo vệ lề luật, bà chứng kiến cái
chết của bảy người con trong một ngày vì bà tin rằng, “Đấng Tạo Hoá càn khôn đã
nắn đúc nên loài người... Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho
các con thần khí và sự sống”.
Hạng thứ hai, những người đã “bọc khăn giữ kỹ”. Đó là những tôi tớ
không có ‘lửa tông đồ’. Họ sợ hãi; sợ hãi làm họ tê liệt. Phụng sự Chúa đòi hỏi
lòng can đảm, đòi hỏi bạn và tôi ra khỏi vùng an toàn. Đầy tớ trong dụ ngôn đã
linh cảm chủ sẽ không chấp nhận sự sợ hãi như một cái cớ có thể chấp nhận được
để không nhiệt tâm sinh lợi.
Hạng thứ ba, đây là những người ra sức phá hoại Vương Quốc. Thế giới
tràn ngập hạng này. Điều cần nói về họ chính là điều Chúa Giêsu đã nói, “Còn
bọn thù địch của tôi kia, những người không muốn tôi làm vua… hãy dẫn chúng lại
đây và giết chết trước mặt tôi!”.
Anh Chị em,
“Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến!”. Ước gì bạn và tôi thuộc
hạng “sinh lợi” cho Chủ! Hãy vui mừng nếu chúng ta là những tôi tớ thuộc hạng
này; nhưng nếu là người đang đấu tranh với sự sợ hãi, hoặc sợ phải sống đức tin
một cách ngoan cường… chúng ta cần nhiều thời gian hơn cho dụ ngôn này. Hãy dấn
thân và xác tín rằng, sẽ không bao giờ hối hận khi chúng ta đặt cả trái tim,
linh hồn vào việc phụng sự Chúa. Để là những con người có thể ‘cháy lan’, như
Elton Trueblood lưu ý, bạn và tôi hãy ra sức “kết hiệp với Chúa Kitô”, đêm ngày
tìm kiếm Ngài. Tâm tình của Thánh Vịnh đáp ca thật đáng ao ước, “Lạy Chúa, khi
thức giấc, con được thoả tình chiêm ngưỡng Thánh Nhan!”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để thời gian, sức khoẻ và những nhọc nhằn khiến ‘lửa
tông đồ’ trong con mai một! Con sẽ ‘cháy lan’ mãi, cháy cho các thế hệ, cả sau
khi con hoá thành tro!”, Amen.
THỨ NĂM: LÀM CHO THANH KHIẾT
“Chúa Giêsu vào Đền Thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán”.
“Cuộc sống là một công trình! Xây trên đá cẩm thạch, nó sẽ bị huỷ diệt;
trên đồng thau, thời gian sẽ làm trôi đi; trên danh tiếng, gió thổi và nó biến
mất. Nhưng nếu được xây trên lòng kính sợ Chúa và tình yêu đồng loại, nó sẽ bền
vững đến muôn đời. Và điều quan trọng, nó phải được ‘làm cho thanh khiết’ bên
trong mỗi ngày!” - Daniel Webster.
Kính thưa Anh Chị em,
“Nó phải được ‘làm cho thanh khiết’ bên trong!”, đó cũng là chủ đề của
Lời Chúa hôm nay. Bài đọc Macabê nói đến cuộc thanh tẩy đền thờ vốn đã bị ô uế
bởi dân ngoại; Tin Mừng nói đến cuộc thanh tẩy đền thờ vốn có nguy cơ biến
thành sào huyệt trộm cướp.
Sau thuở hồi hương, dân Chúa tẩy uế đền thờ; Giuđa và anh em ông nói,
“Này, chúng ta lên thanh tẩy và cung hiến Nơi Thánh!”; “Dân chúng vui mừng khôn
xiết”. Như lời Thánh Vịnh đáp ca, họ hoan hỷ hát khen, “Lạy Chúa, xin ca tụng
Danh Thánh hiển vinh!”.
Với bài Tin Mừng, câu chuyện tẩy uế đền thờ Giêrusalem của Chúa Giêsu
không chỉ tường thuật một hành động xa xưa nhưng còn tiết lộ ước muốn sâu xa
của Ngài: ‘làm cho thanh khiết’ ‘đền thờ thế giới’; và ‘làm cho thanh khiết’
đền thờ tâm hồn mỗi người.
‘Đền thờ thế giới’ trước hết là Hội Thánh vốn là con tim của thế giới,
nơi thông chuyển sự sống Chúa Kitô; thông chuyển mọi ước muốn của con người lên
Thiên Chúa và ngược lại. Nhưng qua dòng lịch sử, tà tâm và tham vọng của nhiều
người đã ngấm vào nó. Điều này không có gì mới! Vì thế, không ít người đã bị
tổn thương vì các thành viên của Hội Thánh. Chúa Giêsu không hứa một Hội Thánh
hoàn hảo, Ngài chỉ hứa ở cùng nó.
Đức Phanxicô nói, “Đền thờ là biểu tượng của Hội Thánh. Hội Thánh sẽ
luôn chịu sự áp lực của những cám dỗ thế tục và cám dỗ của quyền lực; đó không
phải là quyền năng Chúa Giêsu muốn dành cho Hội Thánh. Ngài không nói, “Không,
đừng làm điều này! Đem ra ngoài kia!”; thay vào đó, Ngài nói, “Các ngươi đã tạo
nên một ổ trộm cướp ở đây!”. Bước vào tiến trình suy thoái này, kết cục thật là
khủng khiếp. Rất tệ! Một con tim có vấn đề, không thể làm tốt công việc của nó;
và khi ‘con tim của thế giới’ èo uột, Hội Thánh không thể thông chuyển sự sống
Chúa Kitô và đóng vai trò trung gian của mình!”.
Thứ đến, linh hồn mỗi người là đền thờ cần được Chúa Giêsu ‘làm cho
thanh khiết’ mọi bẩn thỉu trong đó. Thật không dễ, nó đòi hỏi một sự khiêm
nhường và đầu phục tuyệt đối; bằng không, nó sẽ trở nên vô hồn, trống rỗng,
hoặc chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, một bảo tàng viện, hay thậm chí là một nhà
kho khi bên trong không có chỗ cho Thiên Chúa.
Anh Chị em,
“Nó phải được ‘làm cho thanh khiết!’”. Chúa Giêsu hiểu thế nào là sức
nặng của tội lỗi, thế nào là ô uế trong cái không gian linh thánh của mỗi
người. Ngài đã dùng nước và máu từ cạnh sườn mà “thanh tẩy lương tâm chúng ta
sạch mọi vết nhơ tội lỗi”. Ngài muốn thanh tẩy Hội Thánh, xã hội, cộng đoàn và
gia đình chúng ta; đặc biệt, tâm hồn mỗi người. Đừng sợ để cơn thịnh nộ thánh
thiện của Ngài phát huy tác dụng. Hãy cầu nguyện để được tẩy sạch bên trong
trên mọi cấp độ, hầu có thể cùng Ngài xây dựng Vương Quốc.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, con không xây dựng cuộc sống trên cẩm thạch, trên đồng thau;
nhưng phần nào trên danh tiếng. Cứ mạnh tay thanh luyện con ở mọi cấp độ hầu
con được sạch!”, Amen.
THỨ SÁU: CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Ts. Trần Mỹ
Duyệt
“Tiếng nhạc oai hùng vang trên khắp cõi trời Việt
Nam. Tiếng lòng tha thiết con dân nước Nam hòa khúc khải hoàn ca. Đồng thanh ta
hát khen mừng bao Đấng Anh Hùng xưa đã thắng gian lao tòa cao chói lói trên
trời hiển vinh muôn đời. Đồng thanh ta hát khen mừng bao Đấng Anh Hùng. Nay
chiến thắng khải hoàn trên nơi phúc vinh sáng ngời”. [1]
Mỗi lần lễ kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, những
dòng nhạc trên lại vang lên, kéo theo những cảm xúc bùi ngùi gợi nhớ lại một
thời mà các vị anh hùng đức tin, cha ông của chúng ta đã sống, và đã chết vì
niềm tin của mình.
Do sự chối bỏ và thù ghét Thiên Chúa, người ta đã
giết hại các ngài. Trải qua các thế kỷ, mọi thời đại, mọi nơi trên thế giới,
hàng hàng, lớp lớp những anh hùng tử đạo đã can đảm hiến dâng mạng sống mình vì
đức tin, vì tình yêu mến Thiên Chúa. Lịch sử Giáo Hội cho biết, ngay từ sơ khai
thời các Tông Đồ những cuộc bắt bớ, bỏ tù, tra tấn và chém giết đã xảy ra đối
với các ngài và những ai theo chân Chúa Kitô. Thân xác các ngài tuy bị giết,
nhưng linh hồn các ngài ở trên Thiên Đàng. Và đó là lý do tại sao chúng ta cử
hành lễ mừng kính các ngài.
Chúa Kitô đang ở trên thiên đàng, Đấng đã được
sinh ra trên mặt đất để những người dưới đất có thể được sinh ra trên thiên
đàng. Chúng ta tôn kính, cầu xin các vị tử đạo vì gương sáng và cái chết anh
hùng của các ngài để củng cố niềm tin của chúng ta. Cái chết của các ngài
cũng cho chúng ta biết rằng, Kitô hữu là những người được tuyển chọn bởi Thiên
Chúa, để có thể bắt chước Chúa Kitô trong cuộc sống, và chúng ta cũng có thể
được ban thêm ơn chết vì Ngài.
Các
Thánh Tử Đạo Việt Nam
Lịch sử Giáo Hội Việt Nam hơn 300 năm bị cấm cách,
bắt bớ qua 53 sắc lệnh khởi đi từ những năm 1625 thời chúa Sãi – Nguyễn Phước
Nguyên, kéo dài đến các triều đại Nhà Nguyễn gồm Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự
Đức, ước tính có đến hàng trăm ngàn người đã bị giết vì đạo. Trong số đó có 117
vị đã được tôn phong Hiển Thánh, [2] và 1 vị được tôn phong Chân Phước. [3] Các
ngài là những nhân chứng về cuộc đời của Chúa Kitô và đã sẵn sàng hy sinh mạng
sống mình vì niềm tin của mình.
Tại sao các ngài được gọi là tử đạo? Tử đạo là một
người tự nguyện chấp nhận cái chết hơn là chối bỏ tôn giáo của mình bằng lời
nói hoặc việc làm. Đối với các vị Tử Đạo Việt Nam, hành động chối bỏ rõ ràng
nhất là “bước qua thánh giá”, hoặc “đạp trên thánh giá”. Lòng trung kiên này
phải trả bằng mạng sống. Danh xưng tử đạo cũng có thể chỉ về những người
đã hy sinh đời mình hoặc việc gì mà giá trị lớn lao vì chân lý. Thí dụ, Thánh
Maximilian Kolbe (1894-1941) đã chấp nhận chết thay cho một bạn tù thời Đức
Quốc Xã. Thánh Damien (1840-1889) đã hy sinh phục vụ những người cùi tại
Molokai, Hawaii. Ngài đã lây bệnh cùi và chết như một người cùi.
117 Thánh Tử đạo Việt Nam, tuy nhiên, xét về nguồn
gốc quốc tịch, một số đến từ Tây Ban Nha và Pháp. Trong đó gồm:
Tây Ban Nha: 11 vị gồm 6 Giám Mục và 5 linh mục dòng Đa Minh.
Pháp: 10 vị
gồm 2 Giám Mục và 8 linh mục thuộc Hội Thừa Sai Paris (Société des
Missions étrangères de Paris).
Việt Nam: 96 vị
gồm 37 linh mục và 59 giáo dân – trong đó có 14 thầy giảng, 1 chủng sinh và 1
phụ nữ là bà Anê Lê Thị Thành.
Các ngài đã bị giết dưới những triều đại sau đây:
Chúa Trịnh Doanh (1740-1767): 2 vị.
Chúa Trịnh Sâm (1767-1782): 2 vị.
Vua Cảnh Thịnh (1782-1802): 2 vị.
Vua Minh Mạng (1820-1841): 58 vị.
Vua Thiệu Trị (1841-1847): 3 vị.
Vua Tự Đức (1847-1883): 50 vị.
Những
cái chết Tử Đạo
Các vị Tử Đạo nói chung đã bị giết bằng nhiều
cách, thời gian đầu của Kitô giáo, đa số các ngài bị đóng đinh, bị chém đầu,
một số bị lột da, bị cắt từng miếng, bị nướng trên vỉ sắt, bị bỏ vào vạc dầu
sôi, hoặc bị nhốt và chết rũ tù… Cái chết của các vị Tử Đạo Việt Nam cũng không
ngoại lệ. Các ngài đã chịu nhiều tra tấn, cực hình và hy sinh mạng sống dưới
nhiều hình thức:
- Bá đao : bị lý hình dùng dao
cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng. Cách chết này có 1 vị.
- Lăng trì : chặt chân chặt tay
trước khi bị chém đầu. Cách chết này có 4 vị.
- Thiêu sinh : bị thiêu sống.
Chết cách này có 6 vị.
- Xử trảm : bị chém đầu. Chết
cách này có 75 vị.
- Xử giảo : bị tròng dây vào cổ
và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết. Cách chết này có 22 vị.
- Chết rũ tù : bị tra tấn, hành
hạ, rồi bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù. Chết cách này có 9
vị. [4]
Riêng Chân Phước Andrê Phú Yên (1625-1644), tử
đạo tại Gò Xử, Thành Chiêm, Điện Bàn, Quảng Nam. Nay thuộc giáo họ Phước
Kiều, giáo phận Đà Nẵng. Ngài được cho là đã bị đâm sau lưng bằng giáo,
trước khi bị chém đầu vào chiều hôm 26 tháng 07 năm 1644.
Được
tôn phong
Ngành vạn tuế Tử Đạo đã được trao cho các ngài
trên Thiên Quốc. Trong số 117 vị tử đạo Việt Nam từ 1745 đến 1862, đã được Giáo
Hội tôn phong Chân Phước qua 4 đợt:
64 vị do Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, ngày 27 tháng 5
năm 1900.
8 vị do Thánh Giáo Hoàng Piô X, ngày 20 tháng 5
năm 1906.
20 vị do Thánh Giáo Hoàng Piô X, ngày 2 tháng 5
năm 1909.
25 vị do Đức Giáo Hoàng Piô XII, ngày 29 tháng 4
năm 1951.
Các ngài đã được tuyên phong Hiển Thánh do Thánh
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, ngày 19 tháng 6 năm 1988. Thầy giảng Andrê Phú Yên,
vị tử đạo tiên khởi, cũng được tuyên phong Chân Phước ngày 5 tháng 3 năm 2000
do Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Giáo hội Công Giáo khắp thế giới cử
hành lễ kính chung cho các Thánh Tử Đạo Việt Nam ngày 24
tháng 11 với bậc lễ nhớ theo Lịch Chung Rôma. Riêng
Giáo Hội Việt Nam mừng kính trọng thể các ngài vào
Chúa Nhật giữa tháng 11, trước lễ Chúa Kitô Vua.
Mừng kính các Thánh Tử Đạo, chúng ta nhớ đến những
dòng máu mà các ngài đã đổ ra vì danh Chúa, vì tình yêu mến Ngài. Những dòng
máu đức tin. Hơn 100 ngàn anh hùng tử đạo, máu ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ
truyền giáo tại Việt Nam. Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, Tổng Giám Mục Hà
nội, trong Thánh Lễ Đại Trào kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam khai mạc Năm Thánh
tại Sở Kiện – Tổng Giáo Phận Hà Nội, ngày 24 tháng 11 năm 2009, đã suy niệm về
ý nghĩa của những dòng máu này:
“Có điều máu lênh láng nhưng không tanh tưởi bởi
không phải là những thứ máu oan khốc nơi chiến trường tuôn chảy trong hờn căm
oán ghét. Máu đẹp như những cánh hoa vì xuất phát từ tình yêu cao quý. Máu
dường như tỏa hương thơm bởi khơi nguồn từ những trái tim chan chứa yêu thương.
Máu không ghê tởm nhưng gợi lòng kính trọng. Máu không tạo oán thù nhưng vực
dậy yêu thương. Đó là những dòng máu làm chứng cho tình yêu.”[5]
“Hồi chiêng dứt tiếng đầu rơi chốn pháp trường.
Hồn thiêng lâng lâng về thiên quốc xa vời. Từ nay thôi những ngày tân khổ u
buồn, về quê phúc vinh hưởng nhan Chúa muôn đời”. [6] Xin các Thánh Tử Đạo
cầu cho chúng con biết trung kiên sống đức tin, sẵn sàng chấp nhận tử đạo bằng
lòng mến Chúa qua những việc thường ngày dù bị gian khổ, vất vả, bắt bớ để cũng
như các ngài, ngày sau chung phần vinh phúc trên thiên đàng.
THỨ BẢY: ĐỜI ĐỜI, RẤT ĐỜI ĐỜI
“Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ
sống”.
Frederick, người theo thuyết bất khả tri; Von Zealand, tướng quân thân
tín của vua, ngược lại, là một Kitô hữu. Trong một lễ hội, Frederick giễu cợt
Chúa Giêsu, mọi người cười ngất ngưỡng, đến nỗi người lính già đứng dậy thưa,
“Bệ hạ, ngài biết tôi không sợ chết! Tôi thắng 38 trận cho ngài. Tôi sẽ sớm
trình diện Giêsu, Đấng ngài đang phạm thượng; Đấng vĩ đại hơn ngài, Đấng ‘đời
đời, rất đời đời!’. Giờ đây, tôi chào ngài như một người yêu mến Đấng Cứu Rỗi
mình, tôi đang ở ngưỡng cửa vĩnh cửu!”. Không gian trở nên im ắng, và với cung
giọng run rẩy, vua nói, “Tướng quân! Tôi xin ngài thứ lỗi!”. Bữa tiệc lặng lẽ
kết thúc!
Kính thưa Anh Chị em,
Đấng ‘đời đời, rất đời đời’ của Von Zealand chính là “Thiên Chúa của kẻ
sống” mà Tin Mừng hôm nay tiết lộ. Để hiểu được lời này, Karl Rahner nói, “Bạn
hãy thả mình vào cung lòng của Thiên Chúa một cách vô điều kiện!”.
Tin Mừng tường thuật việc những người Sadducêô đưa ra một kịch bản trái
khoáy để gài bẫy Chúa Giêsu: một phụ nữ đã là vợ của bảy anh em; khi sống lại,
nàng sẽ là vợ ai? Chúa Giêsu giải thích, “Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống!”. Hôn
nhân chỉ dành cho đời này, không phải cho đời sau. Vì vậy, sẽ không ai là chồng
của nàng!
Với giáo huấn này, một số người sẽ gặp khó khăn! Họ mong muốn vẫn là
vợ, là chồng của người phối ngẫu của mình trên thiên đàng. Hãy yên tâm, các mối
dây yêu thương chúng ta đã hình thành trên dương thế sẽ vẫn còn, và thậm chí,
được củng cố hơn ở trên trời! Chúng sẽ vẫn bền chặt hơn bao giờ hết. Tuy nhiên,
hôn nhân, theo nghĩa trần thế, sẽ không còn; nó được thay thế bằng tình yêu
trong sáng của một cuộc sống mới.
Karl Rahner nói, “Bước theo Chúa Kitô, niềm tin vào sự phục sinh mai
ngày của Kitô hữu được móc, được đính chặt tận chóp đỉnh trên cùng bản tính
hằng sống của Thiên Chúa; Ngài hằng sống, vô cùng, ‘đời đời, rất đời đời’… nên
tình yêu của Ngài cũng vĩnh hằng, miên viễn và đời đời như Ngài”. Thánh Vịnh
đáp ca bày tỏ niềm tri ân, “Lạy Chúa, con mừng rỡ vì ơn Ngài cứu độ!”. Không có
thiên đàng, không có cuộc sống vĩnh cửu, Kitô giáo sẽ giảm thiểu chỉ còn là đạo
đức học hay một triết lý sống. Niềm tin vào sự phục sinh là cần thiết để mọi
hành động yêu thương không phải là phù du và tự nó kết thúc, nhưng có thể trở
thành hạt giống định sẵn để nên hoa trái vĩnh cửu trong ngôi vườn của Cha.
Anh Chị em,
“Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống!”. Với câu trả lời của Chúa Giêsu, Đức
Phanxicô kết luận, “Trước hết, Chúa Giêsu mời gọi những người đối thoại với
Ngài - và cả chúng ta - hãy biết, chiều kích trần thế mà chúng ta đang sống
không phải là chiều kích duy nhất, nhưng còn có một chiều kích khác, không chịu
tác động của sự chết, sẽ biểu lộ đầy đủ rằng, chúng ta là con trai con gái của
Thiên Chúa! Thật là một niềm an ủi và hy vọng vô bờ khi được nghe những lời đơn
giản và rõ ràng này của Chúa Giêsu về cuộc sống bên kia cái chết. Chúng ta rất
cần nó, nhất là trong thời đại hôm nay, một thời đại rất giàu kiến thức về vũ
trụ nhưng lại thiếu khôn ngoan về sự sống đời đời!”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, con sợ chết, không thắng trận nào cho Chúa, lại sợ sớm trình diện Ngài. Cho con dám thả mình vào cung lòng Chúa. Đừng để con sống như không có đời sau!”, Amen.
SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXXIII THƯỜNG NIÊN
Lm. Minh Anh, Tgp Huế
CHÚA NHẬT XXXIII THƯỜNG NIÊN B
KÍNH TRỌNG THỂ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO
VIỆT NAM
Suy niệm 1: SỐNG CHẾT VÌ CHÚA
Lm Nguyễn Xuân Trường
Ai cũng muốn sống chứ nào ai
thích chết! Vậy tại sao Các Thánh Tử Đạo lại sẵn lòng chịu chết? Thưa vì các
ngài luôn coi Đạo đứng đầu nên dám chết cho Chúa.
1. Đạo đứng đầu. Bài Sách
Thánh thứ nhất kể chuyện bà mẹ anh hùng can đảm khuyên 7 đứa con sẵn lòng chịu
chết chứ không chịu vi phạm luật Môsê cấm ăn thịt heo. Bà và các con đã “trọng
Luật Chúa hơn bản thân mình.” Đó là những người coi Đạo đứng đầu. Cũng thế, Các
Thánh Tử Đạo đã nhất định không chối Đạo, bỏ Đạo cho dù phải chịu đủ mọi nỗi
gian truân, khốn khổ, hiểm nguy, bắt bớ, tù đày, gươm đao. Không một sức mạnh
trần gian nào có thể “tách được các ngài ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa.”
2. Chết cho Chúa. Một khi đã coi
Đạo đứng đầu, đã tin yêu Chúa mãnh liệt như thế, thì người ta sẽ sẵn lòng chết
vì Chúa. Tình yêu khiến người ta sẵn lòng chết cho người mình yêu như Chúa
Giêsu khẳng định: Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người đã hy sinh
tính mạng vì bạn hữu. Chết cho Chúa chính là sự từ bỏ lớn nhất đến cả mạng sống
mình để theo Ngài như lời mời gọi: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình,
vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ
cứu được mạng sống ấy.” Các Thánh Tử Đạo đã dạy chúng ta một bài học vô giá,
đó là: Hội Thánh Chúa phát triển là nhờ những tín hữu dám sống chết cho
Chúa.
Các Thánh Tử Đạo chịu chết
như hạt giống gieo xuống đất không mất đi uổng phí, nhưng lại sinh nhiều bông hạt
như lời đáp ca: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.”
Máu Các Thánh Tử Đạo đã làm trổ sinh nhiều hoa trái đức tin trên quê hương đất
nước Việt Nam. Xin cho chúng ta tiếp bước noi gương các ngài: coi Đạo đứng đầu
để dám chết cho Chúa. Amen.
Suy niệm 2: GIÁ TRỊ SỰ SỐNG
Lm JB Nguyễn Minh Hùng
Đọc hạnh các thánh Tử Đạo Việt
Nam, tôi không tưởng tượng nổi, người ViệT bình thường đôn hậu, chân chất, mến
khách là thế, lại nổi loạn đến mức độc ác không thể diễn tả hết. Nhất là những
người cầm quyền trị quốc lại có thể nhẫn tâm vô cùng đến vậy.
Bằng đủ mọi kiểu, đủ mọi
cách, và biết bao nhiêu hình thức quỹ quyệt nhất (treo cổ, thiêu sống, róc thịt
đến trăm mảnh, chặt tay chân trước khi chặt đầu, phanh thây, tra tấn đến chết…)
vượt ra ngoài lương tâm của một người bình thường để trở thành dã man nhất, mất
tính người nhất..., mà người ta sử dụng để đe dọa, sát hại, trấn áp các Kirtô hữu.
Càng không thể tưởng tượng
trước sự tàn khốc của bạo quyền, ta càng cảm nhận một sức mạnh vô cùng lạ lùng,
vô cùng kỳ diệu của từng chiến sĩ Chúa Kitô. Các ngài chấp nhận đi đến tận cùng
của cái chết, dù biết rõ chết là phải nếm trải tất cả những trò độc ác đến kinh
hoàng của lòng người dành cho mình.
Tưởng chừng sức mạnh của sự
thâm độc, của bạo quyền sẽ thắng, có ai ngờ, các tín hữu Việt Nam, những con
người rất đỗi bình thường, chỉ với sức mạnh tinh thần vì đức tin và cho đức tin
mà lại cứ chiến thắng hiển vang, cứ hiên ngang, cứ ngẩng đầu cao, cứ thẳng đứng
như đang ôm cả trời cao đất rộng.
Ngược lại, thế gian càng ra
sức triệt tiêu đức tin, nó càng khiếp sợ, càng run rẫy, càng bị ám ảnh trước tất
cả mọi thái độ bình an, thanh thoát, cao thượng đáng cảm phục đến vô vàn lần của
cha ông chúng ta, những người Việt Nam Công Giáo hào hùng, quật khởi trong một
tinh thần đức tin dữ dội.
Nhìn hình ảnh các thánh Tử Đạo
Việt Nam quá đỗi kiên trung trước mọi sức mạnh bạo quyền, tôi lại thấy lời Chúa
Giêsu dạy thật thấm thía, thật sâu lắng. Hơn ai hết các thánh Tử Đạo đã sống lời
ấy: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong
người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con chẳng làm
được gì” (Ga 15,5).
Sức mạnh phi thường mà các
thánh Tử Đạo Việt Nam có được, chắc chắn không phải của riêng các ngài, nhưng
là của chung ơn Chúa ban và sự gắn kết cả cuộc đời các ngài với Chúa.
Dù ở bất kỳ nơi đâu, trong
lao tù, giữa lúc bị mang đi bêu xấu, bị xúc phạm danh dự nặng nề, bị tra tấn đến
chết đi sống lại, hay phải đối mặt từng giờ với những kẻ khát máu, các thánh Tử
Đạo luôn sống tinh thần đức tin trong Chúa. Các ngài tự nguyện sống tinh thần của
cành nho để luôn tháp nhập vào cây nho là chính Chúa Kitô. Các ngài nhận được sức
mạnh thần linh từ chính Chúa Kitô, từ chính thánh giá Chúa Kitô như ánh sáng
soi rọi giúp các ngài lao tới.
Cái chết tự nó chẳng có giá
trị gì. Chính Sự Sống mới kỳ diệu. Sự Sống ấy phát xuất và vượt thắng từ Chúa
Kitô, nhờ Chúa Kitô, thân cây đích thực, để các ngài, một khi gắn chặt mình với
Chúa Kitô đã làm dấy lên tình yêu, dấy lên sự sống tuôn trào từ tình yêu ấy.
Tin vào Sự Sống, các thánh Tử
Đạo càng yêu. Các thánh yêu mến Chúa, yêu mến con người, tha thứ cho những kẻ
bách hại mình.
Càng yêu bao nhiêu, các
thánh Tử Đạo càng can đảm nhận lấy cái chết bấy nhiêu. Chết là vì yêu, yêu đến
cùng. Chết là để chứng tỏ tình yêu, các thánh Tử Đạo không lùi bước trước cái
chết đang tấn công mình, dù kinh khủng nhất, tàn khốc nhất.
Như vậy, nơi các thánh Tử Đạo
có ba chiều kích bổ sung cho nhau, giúp các ngài đi đến cùng của sự dâng hiến.
Ba chiều kích đó là: Chết để đại tới niềm hy vọng Sự Sống. Và chính Sự Sống đã
thúc đẩy tình yêu. Rồi chính tình yêu đã cho các ngài lòng can đảm để để đón nhận
cái chết.
Bài học về tình yêu và Sự Sống
trong cái chết của các thánh Tử Đạo dạy ta biết sống tinh thần tử đạo trong
chính cuộc đời mình. Đó là hiến dâng từng giây phút của đời chúng ta để phụng sự
Chúa và phục vụ tha nhân.
Tấm gương của các thánh Tử Đạo
kêu mời chúng ta, mỗi ngày chết đi những yếu đuối tầm thường, để can đảm làm chứng
và đấu tranh đến cùng cho chân lý Sự Sống.
Hội Thánh thời nào cũng cần
những người dám sống vì đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
Tin vào Sự Sống là tin vào
ơn được mặc lấy sự phục sinh của Chúa Kitô.
Niềm tin Sự Sống sẽ thúc đẩy
chúng ta nỗ lực sống tinh thần tử đạo một cách trung thành suốt đời ta.
Sống tinh thần tử đạo không
đổ máu, không hy sinh mạng sống, nhưng đòi phải chấp nhận mọi nghịch cảnh, mọi
dồn ép, mọi khó khăn, lắm lúc phải hy sinh cả tương lai cuộc đời trần thế của
mình.
Tin vào Sự Sống: đó là một hứa
hẹn cho ta về một ngày rạng rỡ, ngày đoàn tụ trong cõi đời đời với cha anh, những
bậc anh hùng của chúng ta.
Ước gì chúng ta không để mất đức tin được đổi bằng giá máu của biết bao
nhiêu vị Tử đạo.
Ước gì chúng ta không ngừng làm chứng tá đức tin ấy cho từng con người
trên quê hương thân yêu này.
Suy niệm 3: TÌM HIỂU ĐÔI NÉT VỀ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Trong suốt 300 năm bắt Đạo, trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây
Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam đã có hơn 100 ngàn Đấng Tử
Đạo được ghi nhận trong sổ sách, trong số này, có 58 Giám mục và Linh mục ngoại
quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Italia, 15
Linh mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 270 Nữ tu Mến Thánh Giá, 99.182 Giáo dân.
Đó là chưa kể con số rất đông các tín hữu bị chết mất tích trong các
cơn bắt Đạo vì lưu đày, vì phải trốn tránh vào những nơi hẻo lánh...
Đó là chưa kể rất nhiều tín hữu phải chết do cuộc Phân Sáp bốn trăm
ngàn người Công Giáo dưới triều Vua Tự Đức...
Đó còn là chưa kể con số hơn mười mấy vạn người công giáo bị chết khi
có Phong trài Văn Thân nổi lên tàn sat người Công Giáo...
Như thế, con số Cha Ông Tử Đạo chúng ta, trong ba trăm năm bị bắt Đạo,
phải tính lên đến ba trăm ngàn người trong vòng ba trăm năm. Nếu tính theo tỷ
lệ, trong ba trăm năm bắt Đạo, cứ một trăm năm thì có một trăm ngàn Vị Tử đạo.
Và theo tỷ lệ này, cứ một năm, có một ngàn Vị Tử Đạo; và đổ đồng, cứ một ngày,
có hơn hai Vị Tử Đạo!
1. Vài tư liệu
a. Thời gian và con số:
· Thời gian bắt đầu vào năm 1580 và chỉ kết thúc
hoàn toàn vào năm 1888, kéo dài gần 3 thế kỷ.
· Có khoảng 400.000 người bị lưu đầy, phát lưu và
phân sáp. Hơn 100.000 người đã chết vì đạo trong số này đã có 117 vị được Giáo
Hội chính thức tôn phong lên hàng hiển thánh vào ngày 19.6.1988.
b. Về các hình khổ: Các
ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được như:
· Gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn,
bỏ đói.
· Bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu
vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng.
· Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết tức là bị chặt
đầu, bị xử giảo tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống.
· Vô cùng man rợ và hiểm độc như bị xử lăng trì,
phân thây ra từng mảnh hay là xứ bá đao.
c. Quá trình Giáo Hội tuyên Thánh
· Ngày 27-5-1900 Đức Thánh Cha Lêo XIII tuyên 64
vị lên hàng chân phước.
· Ngày 20-5-1906 Đức Thánh Cha Piô X tuyên thêm 8
vị lên hàng chân phước.
· Ngày 02-5-1909 cũng Đức Thánh Cha Piô X tuyên
thêm 20 vị nữa lên hàng chân phước.
· Ngày 29-4-1951 Đức Thánh Cha Piô XII tuyên 25
vị lên hàng chân phước.
· Ngày 19-6-1988 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
tuyên hiển Thánh cho 117 vị chân phước tử vì đạo tại Việt Nam
Trong 117 vị được tuyên Thánh có:
· 8 Giám mục ( Giám mục thuộc dòng Đaminh và 2
Giám mục thuộc Hội thừa sai Paris)
· 50 Linh mục (Gồm 37 là người Việt Nam, 8
thuộc Hội thừa sai Paris và 5 thuộc dòng Đaminh)
· 15 Thầy giảng
· 44 Giáo dân thuộc đủ mọi thành phần xã hội:
công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ...
d. Theo loại hình phạt
· 79 vị bị trảm quyết tức là bị chặt đầu. Như vậy
là con số bị trảm quyết nhiều nhất.
· 18 vị bị xử giảo tức là bị thắt cổ.
· 8 vị chết rũ tù
· 6 vị bị thiêu sinh
· 4 vị bị lăng trì tức là phân thây ra từng mảnh
· 1 vị bị tử thương
· 1 vị bị bá đao
e. Về thời gian
· 2 vị chịu tử đạo thời Trịnh Doanh
· 2 vị chịu tử đạo thời Trịnh Sâm
· 2 vị chịu tử đạo thời Cảnh Thịnh.
· 57 vị chịu tử đạo thời Minh Mạng
· 3 vị chịu tử đạo thời Thiệu Trị
· 51 vị chịu tử đạo thời Tự Đức
2. Những cuộc bắt Đạo trong thế kỷ XVII (1625-1692)
Cũng như Giáo Hội Rôma ngày xưa, Giáo Hội Việt Nam từ giây
phút đầu tiên được nghe rao giảng Tin Mừng, đã phải đối phó với những cơn giông
tố dữ dội cấm Đạo nổi lên ác liệt.
Trong thế kỷ XVII (1625-1692)
- Dưới thờ Vua Sãi Vương bắt Đạo: cấm người công giáo làm bàn thờ trong
nhà, không được mang chuỗi tượng công khai, chịu những hình khổ của tù nhân,
không được làm những chức phận gì trong triều đình. Các nhà thờ bị triệt hạ,
các linh mục ngoại quốc bị tập trung về Hội An và bị trục xuất ra khỏi nước.
- Dưới thời Vua Thượng Vương bắt Đạo: người công giáo bị bắt bỏ
tù, rồi lập hồ sơ đưa ra toà án: nếu là thầy giảng hay linh mục không chịu bỏ
đạo thì chém đầu; nếu là giáo dân không chịu bỏ Đạo thì bị đánh bách trượng, bị
cạo trọc đầu, bị chặt các đầu mút ngón tay, bị thả về tàn phế như vậy, không
được cấp dưỡng gì hết.
- Dưới thời Vua Hiền Vương bắt Đạo: các nhà thờ và các nhà nguyện
công, tư bị triệt hạ; các tượng ảnh bị thiêu đốt, các thầy giảng và các chức
việc bị bỏ tù; các linh mục ngoại quốc bị trục xuất ra khỏi nước; nhiều hình
khổ rùng rợn được áp dụng như giam đói, giam khát, bị chặt đầu, phân thây, treo
ngược vào cột để xé xác ra làm sáu phần; cho voi chà nát; đâm gươm vào hông;
chặt đứt hai tay, hai chân, chỉ còn đầu và thân mình.
- Dưới thời Vua Vua Ngãi Vương bắt Đạo: cấm ba tội, là tội đánh
bạc, tội đá gà và tội theo đạo Công Giáo; các nhà thờ bị triệt hạ; thường dân
theo Đạo Công Giáo thì bị bắt bỏ tù, sĩ quan có đạo thì bị truất chức; ai tố
cáo người công giáo đi dự lễ thì được thưởng, ai biết mà không chịu đi tố cáo
thì bị tội; ai không chịu chối Đạo thì phải mang gông phơi nắng chín ngày, bị
thắt cổ, bị treo chân vào cột đánh đòn.
3. Những cuộc bắt Đạo trong thế kỷ XVIII (1698-1801)
- Dưới thời Vua Minh Vương: người công giáo chịu thuế nặng gấp ba
lần người không công giáo; ai cũng được tự do làm hại người công giáo bất cứ
bằng cách nào; áp dụng nhiều hình khổ lạ hơn như xẻo hai tai, vấn dẻ vào các
ngón tay rồi đổ dầu mà đốt; lấy dao khắc hình Thánh Giá vào trán người công giáo
rồi xiềng hai chân với cổ lại, bắt đi bứt cỏ nuôi voi của Nhà Vua suốt đời,
hình phạt nầy được gọi là Thảo tượng chung thân; lập chuồng giam người công
giáo như giam súc vật: chuồng lợp lá, chật chội, người công giáo bị giam trong
đó, có lính canh đêm ngày không cho họ ra khỏi, nhưng bên ngoài, lại có dọn đồ
ăn rất ngon, lính canh đứng ngoài cứ hô to: “Nước đó, cơm cá đó. Cứ bỏ đạo
rồi ra mà ăn, mà uống”...
- Dưới thời Vua Võ Vương và Nhà Trịnh: hình khổ được áp dụng thêm,
là kẹp các đầu ngón tay cho ra máu; lập nhà giam Sinh Tử, có hai cửa, một cửa
gọi là Cửa Sinh, một cửa gọi là Cửa Tử, cửa Sinh có Dấu Thánh Giá, ai bước qua
để đi ra thì được sống, cửa Tử có để thanh gươm, ai bước qua là tỏ dấu không
muốn bỏ Đạo, thì bị xử tử.
- Trong thời kỳ Nhà Tây Sơn bắt Đạo, đặc biệt tại Thừa Thiên và
Quảng Trị, giáo dân phải bị tàn sát dữ dội. Riêng tại Quảng Trị, trong thời kỳ
này, nhiều giáo dân phải bỏ nhà cửa, bồng bế con cái chạy trốn vào rừng núi La
Vang, và được Đức Mẹ Maria hiện ra an ủi năm 1798.
4. Những cuộc bắt Đạo trong thế kỷ XIX (1830-1885)
- Dưới thời Vua Minh Mạng bắt Đạo: các nhà lao xá như Trấn Phủ,
Khám Đường được thành lập để giam người công giáo; đày người công giáo đến
những nơi rừng thiêng nước độc; áp dụng hình khổ Bá Đao; xử giảo thắt cổ; bắt
tám người công giáo phải mang một cái gông dài như cái thang để khỏi phải chạy
trốn.
- Dưới thờ Vua Tự Đức bắt Đạo: lệnh ban ra giết các linh mục Việt
Nam và các linh mục ngoại quốc; tróc nã các nữ tu Dòng Mến Thánh Giá; quân sĩ
nào theo đạo Công Giáo, trước khi ra trận, phải Phạm Ảnh, nghĩa là phải bước
qua Thánh Giá; thi hành kế hoạch Phân Sáp để tiêu diệt tận gốc người Công Giáo.
- Cuối thế kỷ XIX, xảy ra nhiều cuộc tàn sát người Công Giáo bởi Phong
trào Văn Thân. Thời kỳ Văn Thân này tương đối ngắn, nhưng có đến sáu vạn giáo
dân bị thảm sát. Riêng tại một tỉnh Bình Định, có 24.000 giáo dân bị giết. Tại
Quảng Trị, chỉ trong vòng một tháng, hơn 8.000 giáo dân bị giết.
5. Kế hoạch Phân Sáp để tận diệt người Công Giáo
Kế hoạch Phân Sáp được thi hành trong năm 1851 và 1856. Do sự thi hành
kế hoạch này mà 400.000 giáo dân phải bị đi phân sáp, từ 50.000 đến 60.000 giáo
dân phải chết nơi phân sáp, 3.500 giáo dân bị xử tử, 100 làng công giáo bị đốt
phá bình địa, 2.000 Họ đạo bị tịch thu tài sản ruộng đất, 115 linh mục Việt Nam
và 10 giáo sĩ ngoại quốc bị giết, 80 Dòng Mến Thánh Giá bị phá tan, 2.000 nữ tu
Mến Thánh Giá phải tan tác, 100 nữ tu Mến Thánh Giá chết vì Đạo.
Kế hoạch Phân Sáp gồm 4 mặt:
a. Không cho người công giáo ở trong làng công giáo của mình, nhưng
phải đến ở trong các làng bên lương;
b. Mỗi người công giáo phải bị 5 người lương canh gác cẩn mật;
c. Các làng công giáo bị bị phá huỷ, của cải ruộng đất người công giáo
bị tịch thu và giao vào tay những người bên lương, những người này xử dụng và
nộp thuế lại cho Nhà Nước;
d. Không cho đàn ông công giáo ở với đàn bà công giáo; không cho vợ
chồng công giáo ở một nơi với nhau, mỗi người phải đi ở một nơi xa nhau; con
cái phải để cho người lương nuôi.
Đức Chân Phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã từng nói: “Giáo hội Việt
nam đã phát sinh những nhân chứng, đặc biệt là Các Vị Tử Đạo, lời tiền nhân nói
không sai: Máu đào là hạt giống phát sinh Kitô hữu, vì do máu Các Đấng Tử Đạo
của dân tộc và Giáo hội Việt nam mà đức tin trong thế hệ trước đã mọc lên, đức
tin của thế hệ hiện tại được bảo toàn, và hy vọng đức tin của thế hệ mai sau
được gìn giữ”.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Thứ hai: CON ĐƯỜNG SÁNG
“Anh muốn tôi làm gì cho anh?”.
“Người chọn nơi
bắt đầu của một con đường, sẽ chọn nơi nó dẫn đến!” - Harry Fosdick.
Kính thưa Anh Chị
em,
Với vị trí và bối
cảnh của câu chuyện “Người Mù” hôm nay, Luca hẳn có ý khi đặt nó nằm giữa hai
câu chuyện khác, cả hai đều nói về những người giàu có. Để từ đó, với Luca, có
thể nói, ai gặp được Chúa Giêsu - nơi bắt đầu của một con đường - người ấy chọn
nơi nó dẫn đến - ‘Con Đường Sáng!’.
Câu chuyện thứ
nhất về một người đàn ông sùng đạo, không chấp nhận điều kiện của Chúa Giêsu là
ông phải chia sẻ của cải cho người nghèo trước khi trở thành môn đệ của Ngài.
Câu chuyện còn lại là về một người đàn ông được cho là không sùng đạo - Giakêu
- nhưng sau khi gặp Chúa Giêsu, ông cho người nghèo phần lớn của cải. Trong số
những người này, ai thực sự mù và ai thực sự gặp Chúa Giêsu, ‘Con Đường Sáng!’.
Mở đầu, Luca cho
biết Chúa Giêsu đang tiến vào Giêricô; và ngang qua Giêricô, Ngài sẽ lên
Giêrusalem. Trong hành trình đó, Ngài sẽ tỏ mình cho Giakêu - một người giàu mù
loà. Và câu chuyện tiếp tục với một anh mù ăn xin bên vệ đường và đúng là ‘con
đường’ lên Giêrusalem. Khi anh nghe thấy Chúa Giêsu đang đi ngang qua, anh kêu
lớn, “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”. Gọi Chúa Giêsu là
“Con vua Đavít”, anh ám chỉ vai trò Thiên Sai của Ngài. Mọi người bảo anh im
đi. Một kẻ ăn xin vô dụng như anh không có quyền làm phiền Thầy. Nhưng người
đàn ông đó phớt lờ và tiếp tục kêu lên. Chúa Giêsu dừng lại. Nếu anh không tiếp
tục kêu van, Chúa Giêsu có thể đã không nghe thấy anh và có thể đã biến mất mãi
mãi khỏi cuộc đời anh. Điều đó xảy ra với chúng ta thường xuyên như thế nào?
Chúa Giêsu ra lệnh
đưa anh đến với Ngài. Một lần nữa, chúng ta luôn luôn biết đến Chúa Giêsu thông
qua những người khác - và đôi khi thông qua tôi, và chỉ thông qua tôi - mà những
người khác biết Ngài. Tôi có thể là mối liên kết duy nhất mà một người có với
Chúa Giêsu - một điều đáng suy ngẫm! Mặt khác, tôi có thể là người duy nhất cản
trở ai đó tiếp cận Chúa Giêsu và Con Đường của Ngài. Điều gì sẽ xảy ra với những
ai được gọi là “cớ vấp ngã” - chướng ngại vật - cản trở người khác đến với
Ngài?
Anh Chị em,
“Anh muốn tôi
làm gì cho anh?”. Đó cũng là câu hỏi Chúa Giêsu ‘nặc nặc’ hỏi bạn và tôi. Câu
trả lời của chúng ta có thay đổi theo năm tháng? Hãy suy ngẫm về những gì tôi
thực sự muốn từ Ngài và van xin Ngài. “Xin cho tôi nhìn thấy!”. Theo nghĩa rộng
hơn, mỗi người chúng ta đều cần nhìn thấy. Chính thị lực kém ngăn chúng ta biết
Chúa Giêsu và thấy ‘nơi’ Ngài muốn chúng ta đến. Khó có thể đưa ra một yêu cầu
nào tốt hơn! Và “Hãy nhìn thấy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh!”. Người mù
đã làm gì khi anh nhìn thấy? Anh đã trở thành một người theo Chúa Giêsu, anh
tôn vinh Thiên Chúa. Không còn mù, không còn là một người ăn xin, không còn bên
đường, nhưng anh đi trên con đường với Chúa Giêsu. Và Chúa Giêsu - ‘Con Đường
Sáng’ - đường lên Giêrusalem và ‘tất cả những gì nó có ý nghĩa’. Và đó là bằng
chứng tuyệt đối nhất về tình yêu của Chúa Giêsu dành cho tôi, ‘muốn cho tôi’;
dành cho bạn, ‘muốn cho bạn!’.
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa, xin dủ
lòng thương con, xin chữa bằng được chứng mù mãn tính của con!”, Amen.
Thứ ba: MỞ TỪ BÊN TRONG
“Này đây Ta đứng trước cửa và gõ!”.
“The Light of
the World”, “Ánh Sáng Của Thế Giới” là tên một kiệt tác của Holman Hunt. Bức
tranh cho thấy Chúa Giêsu, giữa đêm khuya, đầu đội mão của một vị Vua, tay xách
một ngọn đèn. Ngài đứng trước một ngôi nhà, gõ cửa và chờ đợi. Điều đáng chú ý
là cửa không có tay nắm ở phía ngoài; nó chỉ có thể ‘mở từ bên trong!’.
Kính thưa Anh Chị
em,
Từ bài đọc Khải
Huyền, chúng ta có một đoạn văn tuyệt vời, “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai
nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy!”.
Và Giakêu trong bài Tin Mừng đã làm được điều đó! Ông đã mở cửa trái tim cho
Chúa Giêsu - ‘mở từ bên trong’ - và Ngài đã vào nhà ông, dùng bữa với ông.
Đây là một trong
những hình ảnh đẹp nhất của Tân Ước, nó bao hàm một ước muốn sâu sắc rằng, Chúa
Giêsu phải đến, trở thành một phần cuộc đời chúng ta; và không chỉ một phần,
Ngài sẽ là chủ tâm hồn chúng ta. Nhưng việc cho phép Ngài đi vào hoàn toàn tuỳ
thuộc chúng ta; tuỳ thuộc vào việc chúng ta có dám ‘leo lên cao’, hoán cải trái
tim để chào đón Ngài không! Như thế, việc thay đổi một trái tim quả là một chiến
thắng vẻ vang oai hùng nhất trong tất cả mọi chiến thắng. Thánh Vịnh đáp ca thật
ý nghĩa, “Ai thắng, Ta sẽ cho ngự bên Ta trên ngai của Ta!”.
Giakêu đã thắng,
ông được đồng bàn với Chúa Giêsu! Giakêu đã ‘hé mở’ lòng mình và Chúa Giêsu ùa
vào! Ông can đảm đánh mất sĩ diện, coi thường danh dự, quên cả tuổi tác khi
‘leo lên cao’ như một em bé hòng xem rõ Chúa Giêsu. Sở dĩ ông làm được điều đó
bởi ông gặp được ánh mắt nhân từ và lời yêu thương của Ngài, “Này Giakêu, xuống
mau đi!”. Gặp được Ngài, ông đã tìm thấy nhiều hơn những gì có thể tưởng tượng.
Ông không còn “hâm hẩm, không nóng, không lạnh”; nhưng thể hiện sự ăn năn sâu
thẳm bằng quyết định trao một nửa tài sản cho người nghèo và đền bù gấp bốn cho
mỗi hành vi biển lận. Thay đổi của trái tim đã dẫn ông đến thay đổi cuộc đời.
Anh Chị em,
“Này Giakêu, xuống
mau đi!”. “Ánh mắt của Thiên Chúa không nhìn vào quá khứ lầm lỗi, nhưng nhìn
vào những gì chúng ta có thể trở thành. Và nếu đôi khi cảm thấy mình “thấp bé”,
chúng ta không đủ sức đương đầu với những thách đố và càng không thuộc về Tin Mừng,
sa lầy trong các vấn đề và tội lỗi, thì Chúa Giêsu luôn nhìn chúng ta bằng tình
yêu. Như với Giakêu, Ngài đến, gọi tên và nếu chúng ta mở cửa, Ngài sẽ ùa vào.
Vấn đề là chúng ta có ‘mở từ bên trong’ cho Ngài không! Vậy chúng ta bất lực và
cam chịu, hay chính xác là khi cảm thấy chán nản, chúng ta tìm Ngài? Và sau đó,
chúng ta có ánh mắt nào hướng về những ai đã sai lầm và đang đấu tranh để đứng
dậy từ đống tro tàn của những sai lầm của họ? Đó có phải là ánh mắt từ trên
cao, phán xét, khinh thường, loại trừ? Hãy nhớ, việc nhìn xuống ai đó chỉ để
giúp họ đứng lên là chính đáng: không gì hơn thế! Kitô hữu phải có cái nhìn của
Chúa Kitô, Đấng ôm ấp từ bên dưới, tìm kiếm những ai lạc lối với lòng trắc ẩn.
Đây phải là cái nhìn của Giáo Hội - luôn luôn - cái nhìn của Chúa Kitô, không
phải là cái nhìn lên án!” - Phanxicô.
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cho
con một trái tim hoán cải, biết mở ra. Từ đó, con nhìn những anh chị em lạc lối
không với ánh mắt phán xét từ trên cao, nhưng ‘ôm ấp từ bên dưới!’”, Amen.
Thứ tư: TIẾN VỀ VĨNH CỬU
“Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói
sẽ chẳng qua đi!”.
“Tại sao trái
tim chúng ta không liên tục hướng về thiên đàng? Không liên lỉ trầm ngâm về nó?
Hãy cúi mình nghiên cứu sự vĩnh hằng, bận tâm về cuộc sống sắp tới, tập trung
vào những suy tư! Đừng để những suy nghĩ đó trở nên viển vông, nhưng hãy tắm
mình trong những thú vui thiên đàng, chúng ta đang tiến về vĩnh cửu!” - Richard
Baxter.
Kính thưa Anh Chị
em,
“Hãy tắm mình
trong những thú vui thiên đàng!”. Trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu
nói, “Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi!”. Khẳng định này
thúc giục một sự thay đổi mang tính quyết định trong cuộc đời chúng ta; quyết định
cách chúng ta hiểu về thế giới; quyết định đâu là điều chúng ta mong đợi; và
quyết định cả cách chúng ta phải lựa chọn những gì đang khi ‘tiến về vĩnh cửu’.
Trước hết, “Trời
đất sẽ qua đi!”, đó là một sự thật! ‘Thiên đàng’ tại thế như nó đang là sẽ qua
đi. Sự thật này nói với chúng ta rằng, đừng quá gắn bó với những gì thuộc về thế
giới đang trôi qua này. Của cải vật chất có thể mang lại sự hài lòng nhưng chỉ
‘tạm thời’ không bao giờ là ‘vĩnh viễn’. Vậy, nếu chúng ta sống, chỉ để tích
lũy những gì thuộc về đất; hãy biết, tất cả cuối cùng, sẽ qua đi. Khi con người
gắn bó với một điều gì đó không phải là Thiên Chúa, kết quả luôn luôn là sợ
hãi! Với Chúa, chúng ta - con cái Ngài - biết điểm kết thúc, biết điều gì đang
đợi, vì biết rằng, tôi đang ‘tiến về vĩnh cửu’.
Thứ đến, bạn
mong đợi điều gì? Mong điều Chúa hứa! Chúa Giêsu hứa ban sự sống mới trong ân sủng
Thánh Thần, một sự sống mà Ngài đã đổ máu ra để mua lấy. Vì thế, đừng sợ hy vọng
vào lời hứa của Chúa! – bài đọc một. Ngài không bao giờ hứa hảo!
Cuối cùng, chọn
lựa thế nào? “Lời Thầy sẽ chẳng qua đi!”. Khôn ngoan của chúng ta là chọn Lời
Chúa. Bằng cách nắm lấy Lời, bám vào Lời, đi vào Lời, tin vào Lời và sống Lời…
Lời Chúa sẽ thay đổi chúng ta, và như thế, chúng ta đang nắm lấy vĩnh cửu; nắm
lấy ‘của cải’ đời đời. Đây là một sự thật quan trọng để hiểu và sống khi ‘tiến
về vĩnh cửu’. Thánh Vịnh đáp ca thật ý nghĩa, “Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì
con tìm nương tựa Chúa!”. Đó là lời của một người cậy trông vào Đấng mà “Nhờ việc
hiến dâng duy nhất, đã làm cho những kẻ được thánh hoá nên hoàn hảo đến muôn đời”
- bài đọc hai.
Anh Chị em,
“Trời đất sẽ qua
đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi!”. “Chúng ta đang đầu tư cuộc sống của
mình vào điều gì? Vào những thứ qua đi, như tiền bạc, thành công, ngoại hình, sức
khoẻ? Chúng ta sẽ không mang theo bất kỳ thứ nào trong số đó. Chúng ta có gắn
bó với chúng như thể chúng ta sẽ sống ở đây mãi mãi? Khi còn trẻ và khoẻ mạnh,
mọi thứ đều ổn, nhưng khi đến lúc phải ra đi, chúng ta phải để lại mọi thứ phía
sau. Lời Chúa cảnh báo: thế giới này sẽ qua đi. Chỉ có tình yêu sẽ còn lại. Do
đó, việc dựa cuộc sống của một người vào Lời Chúa không phải là trốn tránh lịch
sử, mà là đắm mình vào những thực tại trần gian để làm cho chúng trở nên vững
chắc, biến đổi chúng bằng tình yêu, ‘in dấu trên chúng’ dấu hiệu của sự vĩnh cửu,
dấu hiệu của Chúa!” - Phanxicô.
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cho
con biết tắm mình trong những thú vui thiên đàng. Giúp con trầm ngâm, nghiên cứu,
bận tâm đến những gì không thuộc cõi thấp!”, Amen.
TỪNG XU MỘT
“Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi
đến!”.
“Thời gian là
nén bạc cuộc đời. Đó là số vốn duy nhất bạn có và chỉ bạn mới có thể xác định
nó sẽ được sử dụng thế nào. Hãy cẩn thận, bằng không người khác sẽ ‘tiêu nó’
thay bạn. Hãy làm lợi những gì bạn được trao, bắt đầu với từng xu một!” - Carl
Sandburg.
Kính thưa Anh Chị
em,
Ý tưởng của
Sandburg được gặp lại trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu dạy chúng ta nên làm
gì trong khi mong chờ Ngài đến. Dụ ngôn cho biết, sau khi trao cho mỗi gia nhân
một nén bạc, ông chủ nói, “Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến!”. Bằng
cách nào? ‘Từng xu một!’.
Mỗi Chúa Nhật,
qua Kinh Tin Kính, chúng ta chứng thực niềm tin của mình, “Chúa sẽ lại đến
trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết”; nhưng ngày nào, giờ nào Chúa
đến, chúng ta không biết. Vậy, phải làm gì trong thời gian này? Hãy tận dụng thời
gian để trung thành sống các giá trị của Vương Quốc bằng cách làm lợi nén bạc
đã nhận, bắt đầu với ‘từng xu một!’.
Trong dụ ngôn, hầu
như mỗi người chỉ nhận được một nén, nhưng một số sẽ đầu tư nó tốt hơn những
người khác. Với Bí tích Rửa Tội, chúng ta lãnh nhận ‘một nén’ các ân sủng như
nhau dưới dạng hạt giống. Và việc nhận lãnh này tuỳ thuộc vào mỗi người để bảo
đảm rằng, chúng được chăm bón, tưới tiêu và có đủ ánh sáng mặt trời để phát triển
hầu sinh hoa trái. Những món quà ân sủng này được ban mọi ngày, từng ngày, để mỗi
người biết rằng, chúng ta là con cái rất yêu dấu của Chúa và là người thừa kế
Nước Trời. Thực hiện các nhân đức - nhân lên ân sủng - tựa hồ chắt chiu từng
phân vàng, 'từng xu một!'.
“Thiên Chúa là
tình yêu”, bản chất của Ngài là “Thánh”. Bài đọc Khải Huyền và Thánh Vịnh đáp
ca khẳng định “Thánh! Thánh! Chí Thánh! Chúa là Thiên Chúa toàn năng!”. Sự
thánh thiện của Thiên Chúa thể hiện qua sự ‘tự hiến’ của Ngài. Vì thế, người giấu
nén bạc sẽ không thể khám phá hoặc hiểu được thực tế ‘tự hiến’ này của Thiên
Chúa, nhưng những ai đã ‘dám tiêu’ nén bạc của mình sẽ khám phá ra điều này và
họ sẽ kiếm được nhiều hơn. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một ví dụ
hoàn hảo về việc ‘dám tiêu’ và sự ‘tự hiến’ sinh ích này. Cũng thế, chúng ta sẽ
trổ sinh hoa trái nhiều hơn bằng cách sử dụng tài năng và thời gian Chúa ban để
sinh lợi cho Vương Quốc khi bòn bọt ‘từng xu một’ qua việc chết đi mỗi ngày.
Anh Chị em,
“Hãy lo làm ăn
sinh lợi cho tới khi tôi đến!”. Thiên Chúa là ông chủ vô cùng rộng lượng, Ngài
‘tiêu nhiều’, dám ‘tiêu cả Con Một’ cho thế gian. Cũng thế, Chúa Giêsu cũng
‘tiêu rộng’ đến nỗi không còn gì trên thập giá. Ngài muốn chúng ta ‘tiêu tốn’
cho Ngài và cho tha nhân. Càng chiêm ngắm việc ‘tự hiến’ của Ngài, bạn và tôi
càng can đảm ‘tiêu hao’ cho vinh quang Ngài và cho phần rỗi thế giới. Ai trung
thành với việc sinh lợi cho Vương Quốc - mục đích của Thiên Chúa khi tạo dựng -
dù chỉ ‘từng xu một’ sẽ được giao phó nhiều hơn. Ai bỏ bê, phung phí điều đã
lãnh nhận sẽ đánh mất những gì mình đang có!
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa, tất cả
những gì ‘con có’, những gì ‘con là’ đều đến từ Chúa và thuộc về Chúa. Đừng để
người khác ‘tiêu nó’ thay con và Chúa không có lấy một xu lãi!”, Amen.
Thứ năm: ĐỨC MARIA DÂNG MÌNH TRONG ĐỀN
THỜ
TÒNG THUỘC
“Chúng sẽ thành dân thánh của Ta, và Ta
sẽ cư ngụ ở giữa ngươi!”; “Hãy lặng thinh trước nhan Thiên Chúa!”.
Kính thưa Anh Chị
em,
Bài đọc Zacharia
được chọn một cách kỹ lưỡng - cho ngày lễ Đức Mẹ Dâng Mình - nêu bật mối quan hệ
mật thiết của Israel với Thiên Chúa. Bởi lẽ, chính Thiên Chúa sẽ cư ngụ giữa
dân thánh và họ phải ‘tòng thuộc’ vào Ngài.
Thiếu nữ Sion
Zacharia nói đến không chỉ là hình ảnh của Israel - dân được chọn - nhưng còn
là hình ảnh của Đức Maria, người được Thiên Chúa tuyển lựa. Như đã “ở giữa”
Israel, Thiên Chúa “ở cùng” Maria, người ‘tòng thuộc’ tuyệt đối vào Ngài. Để có
thể hiểu được hồng ân “ở giữa, ở cùng” này - Zacharia thật sâu sắc - con người
phải biết chìm sâu trong Thiên Chúa, “Hỡi mọi xác phàm, hãy lặng thinh trước
nhan Thiên Chúa!”.
Tin Mừng hôm nay
cũng nói đến ‘sự lặng thinh và chìm sâu vào trong’ này! Mẹ Maria và anh em Chúa
Giêsu tìm thăm Ngài; nhưng ngay lúc đó, Ngài đã thốt lên những lời ‘gây sốc’,
“Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”. Ngài thường không ngại nói ra những lời vượt
quá trí hiểu để những ai không hiểu ‘có thể hiểu’ phải biết lặng thinh khi lời
Ngài đã chìm sâu vào trong.
Hẳn đã có một sự
im lặng vần vũ giữa đám đông khi họ nghe những lời Chúa Giêsu thốt ra. Nhiều
người nghĩ, Ngài khá cứng cỏi. Không phải thế, Ngài muốn Lời phải được nghiền
ngẫm; vì sau đó, đưa tay chỉ các môn đệ, Ngài giải thích, “Đây là mẹ tôi, đây
là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người
ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi!”. Qua đó, Ngài cho biết, quan hệ ‘huyết thống’
đã quan trọng, nhưng quan hệ 'tòng thuộc' vào Thiên Chúa sẽ quan trọng hơn. Như
vậy, một ‘Maria vâng phục’, thi hành Lời Chúa sẽ là mẹ của Ngài ‘nhiều hơn’ một
‘Maria máu mủ!’. Hẳn Mẹ đã hiểu điều này hơn ai hết; và tất nhiên, cũng hơn ai
hết, Mẹ đầy niềm vui. Thánh Vịnh đáp ca thật sâu lắng, “Đấng Toàn Năng đã làm
cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!”.
Một người mẹ kia
có thói quen lạ thường! Mỗi khi con trai cô có điều gì bất ổn, cô dắt nó vào rừng,
đặt nó ngồi trên một tảng đá, bảo nó nhắm mắt lại. Đoạn, lấy cây sáo mang theo,
cô thổi cho nó nghe từ ca khúc này đến ca khúc khác, từ trầm buồn đến réo rắt.
Cô sẽ thổi cho đến khi nào con trai cô vui trở lại, và nó mỉm cười. Bấy giờ,
hai mẹ con mới ra về.
Anh Chị em,
“Hãy lặng thinh
trước nhan Thiên Chúa!”. Gioan Phaolô II gọi Maria là “Người Nữ Thánh Thể”. Liệu
bạn và tôi có để Mẹ Maria ‘dẫn vào rừng’, chìm sâu vào Thánh Thể Giêsu mỗi
ngày, nhất là những khi gặp gian nan? Với Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta sẽ lặng
thinh, chìm sâu trong Ngài, trong Lời Ngài. Ở đó, chúng ta chờ đợi thánh ý Chúa
như Mẹ đã chờ đợi; lắng nghe tiếng của Thánh Thần như Mẹ đã lắng nghe - thay vì
chạy vạy tìm câu trả lời ở những nơi đâu khác. Và từ Thánh Thể, một câu hỏi
quan trọng sẽ luôn đặt ra cho chúng ta, dù chúng ta là ai, ở đấng bậc nào, “Con
thuộc về ai?”; “Con có ‘tòng thuộc’ vào Đấng đã dựng nên con, cho con tất cả những
gì con có, những gì con là?”.
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Mẹ, dạy con
vui thích cầm tay Mẹ ‘vào rừng’ mỗi ngày, hầu con chìm vào ‘vực Giêsu’; nhờ đó,
con không con lệ thuộc vào một điều gì khác, một ai khác - ngoài Chúa!”, Amen.
Thứ sáu: KHÔNG GIAN CHO CHÚA
“Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện, thế mà các
người đã biến thành sào huyệt của bọn cướp!”.
“Một thuộc tính
chỉ một mình Thiên Chúa có, là sự hiện diện của Ngài bao trùm mọi lúc và mọi
nơi. Ngài không bị ràng buộc bởi thời gian và không gian. Điều đó không có
nghĩa là thiên nhiên - một phần của Chúa - đáng được tôn thờ. Tạo vật tách biệt
với Tạo Thành nhưng không phải là không tuỳ thuộc vào Ngài; tuy nhiên, bất cứ một
tạo vật nào vẫn cần một ‘không gian cho Chúa!’” - Anon.
Kính thưa Anh Chị
em,
“Một ‘không gian
cho Chúa!’”. Đó là những gì Tin Mừng nói đến hôm nay. Chúa Giêsu không chấp nhận
một đền thờ ngổn ngang, Ngài nhất định thanh tẩy nó, vì “Nhà Ta sẽ là nhà cầu
nguyện, thế mà các người đã biến thành sào huyệt của bọn cướp!”.
Vào đền thờ,
Chúa Giêsu thấy nó được vận hành bởi kẻ mua người bán; Ngài xua đuổi họ. Đừng
nghĩ Chúa Giêsu là kẻ thù của thương mại! Thực tế, nhiều lần Phúc Âm đề cập đến
việc mua bán mà không có bất kỳ hàm ý tiêu cực nào. Tuy nhiên, Chúa Giêsu tức
giận vì hai lý do chính. Thứ nhất, việc kinh doanh được thực hiện bên trong đền
thờ đang khi nó có thể được thực hiện bên ngoài. Thứ hai - quan trọng hơn - có
thể các thượng tế trong đền thờ đã thông đồng với các hoạt động kinh doanh béo
bở này và do đó, họ sẽ hưởng lợi từ nó. Đức Phanxicô gọi nó là “hối lộ thánh
thiện”. Và hẳn như vậy vì Tin Mừng cho biết, “Các thượng tế và kinh sư tìm cách
giết Ngài”.
“Họ tìm cách giết
Ngài, nhưng không biết phải làm sao, vì toàn dân say mê nghe Ngài”. “Sức mạnh của
Chúa Giêsu nằm trong lời và trong tình yêu của Ngài. Và nơi nào có Chúa Giêsu,
nơi đó không có chỗ cho tính thế gian; không có chỗ cho sự tham nhũng! Đây là một
thách thức đối với mỗi người chúng ta; đây là cuộc đấu tranh mà Giáo Hội phải đối
mặt mỗi ngày. Chúng ta phải luôn lắng nghe lời Chúa Giêsu và không bao giờ được
tìm kiếm sự an ủi từ một chủ khác - Mammon. Ngài từng nói, “Không ai có thể làm
tôi hai chủ!”. Thiên Chúa hoặc tiền bạc; Thiên Chúa hoặc quyền lực!” - Phanxicô.
Anh Chị em,
“Nhà Ta sẽ là
nhà cầu nguyện!”. Lời Chúa mời gọi bạn và tôi đánh giá đền thờ lòng mình! “Nào
anh em chẳng biết, anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa
ngự trong anh em sao?”. Đây là một câu hỏi cấp bách giúp chúng ta nhìn lại tâm
hồn, hầu xem liệu trong đó có đủ ‘không gian cho Chúa’ - sự hiện diện và lời của
Ngài - không; hay ở đó đang có đủ các ‘loại hình kinh doanh’ - thậm chí có cả
“mại thánh” hay “hối lộ thánh thiện?”. Ngoài ra, chúng ta có thể tự hỏi, liệu
tâm hồn tôi có bị chiếm dụng bởi những tức giận, phẫn uất, cay đắng và bất
khoan dung? Nó có bị lấn chiếm bởi những cảm giác tội lỗi hoặc sai lầm quá khứ,
khiến chúng ta dành quá nhiều thời gian tập trung vào bản thân và những thiếu
sót khiến linh hồn phải sống trong lo lắng và sợ hãi - thay vì để cho lòng
thương xót và sự bình an của Chúa lấp đầy?
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa, giúp
con ‘dọn chợ’ lòng con, vì nó thực sự phải là một không gian thánh đầy sự hiện
diện của Chúa. Nhờ đó, hạt Lời mới có đất tốt và đủ nắng để lớn lên!”, Amen.
Thứ bảy: Nhớ Thánh Clémenté giáo hoàng,
tử đạo
Suy niệm 1: Tin Mừng tường thuật việc những người Sadducêô
đưa ra một kịch bản trái khoáy để gài bẫy Chúa Giêsu: một phụ nữ đã là vợ của
bảy anh em; khi sống lại, nàng sẽ là vợ ai?
Chúa Giêsu giải thích, “Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống!”. Hôn nhân chỉ
dành cho đời này, không phải cho đời sau. Vì vậy, sẽ không ai là chồng của
nàng!
Với giáo huấn này, một số người sẽ gặp khó khăn! Họ mong muốn vẫn là
vợ, là chồng của người phối ngẫu của mình trên thiên đàng. Hãy yên tâm, các mối
dây yêu thương chúng ta đã hình thành trên dương thế sẽ vẫn còn, và thậm chí,
được củng cố hơn ở trên trời! Chúng sẽ vẫn bền chặt hơn bao giờ hết. Tuy nhiên,
hôn nhân, theo nghĩa trần thế, sẽ không còn; nó được thay thế bằng tình yêu
trong sáng của một cuộc sống mới.
Karl Rahner nói, “Bước theo Chúa Kitô, niềm tin vào sự phục sinh mai
ngày của Kitô hữu được móc, được đính chặt tận chóp đỉnh trên cùng bản tính
hằng sống của Thiên Chúa; Ngài hằng sống, vô cùng, ‘đời đời, rất đời đời’… nên
tình yêu của Ngài cũng vĩnh hằng, miên viễn và đời đời như Ngài”.
Thánh Vịnh đáp ca bày tỏ niềm tri ân, “Lạy Chúa, con mừng rỡ vì ơn Ngài cứu độ!”. Không có thiên đàng,
không có cuộc sống vĩnh cửu, Kitô giáo sẽ giảm thiểu chỉ còn là đạo đức học hay
một triết lý sống. Niềm tin vào sự phục sinh là cần thiết để mọi hành động yêu
thương không phải là phù du và tự nó kết thúc, nhưng có thể trở thành hạt giống
định sẵn để nên hoa trái vĩnh cửu trong ngôi vườn của Cha.
Anh Chị em,
“Chúa là Thiên Chúa
của kẻ sống!”. Với câu
trả lời của Chúa Giêsu, Đức Phanxicô kết luận, “Trước hết, Chúa Giêsu mời gọi
những người đối thoại với Ngài - và cả chúng ta - hãy biết, chiều kích trần thế
mà chúng ta đang sống không phải là chiều kích duy nhất, nhưng còn có một chiều
kích khác, không chịu tác động của sự chết, sẽ biểu lộ đầy đủ rằng, chúng ta là
con trai con gái của Thiên Chúa! Thật là một niềm an ủi và hy vọng vô bờ khi
được nghe những lời đơn giản và rõ ràng này của Chúa Giêsu về cuộc sống bên kia
cái chết. Chúng ta rất cần nó, nhất là trong thời đại hôm nay, một thời đại rất
giàu kiến thức về vũ trụ nhưng lại thiếu khôn ngoan về sự sống đời đời!”.
Chúng ta có thể cầu
nguyện,
“Lạy Chúa, con sợ
chết, không thắng trận nào cho Chúa, lại sợ sớm trình diện Ngài. Cho con dám
thả mình vào cung lòng Chúa. Đừng để con sống như không có đời sau!”, Amen.
1. Sự khác biệt giữa người Sa-đốc và niềm tin của Giáo hội
- Người Sa-đốc: Họ
không tin vào sự sống lại, thiên thần, hoặc linh hồn. Niềm tin của họ dựa trên
những gì có thể nhìn thấy và cảm nhận được trong cuộc sống hiện tại.
- Giáo hội Công giáo: Niềm
tin vào sự sống lại là một giáo lý cốt lõi. Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định
điều này, và sự phục sinh của Ngài là bằng chứng rõ ràng nhất. Các thánh Tông
đồ và các tín hữu đầu tiên cũng đã sống và chết vì niềm tin này.
2. Thánh Clêmentê đã tin vào sự sống lại và đã sống niềm tin ấy.
Thánh
Clêmentê, như bao tín hữu khác, đã lắng nghe và tin vào lời giảng dạy của Chúa
Giêsu. Sự phục sinh của Chúa là bằng chứng sống động nhất về sự sống đời đời.
Thánh
nhân cũng đã chứng kiến nhiều phép lạ và sự biến đổi trong cuộc sống của các
tín hữu. Những điều này đã củng cố niềm tin của ngài vào quyền năng của Thiên
Chúa và sự sống vĩnh cửu.
Niềm
tin vào sự sống lại mang đến cho Thánh Clêmentê và các tín hữu một hy vọng vững
chắc vào một tương lai tốt đẹp hơn, nơi họ sẽ được sống hạnh phúc đời đời với
Thiên Chúa.
3. Ý nghĩa của niềm tin vào sự sống lại đối với chúng ta
- Niềm
tin này là động lực thôi thúc chúng ta sống một cuộc đời có ý nghĩa, làm việc
lành và tránh xa tội lỗi.
- Khi đối mặt với mất mát và đau khổ, niềm tin vào sự sống lại mang đến
cho chúng ta sự an ủi và hy vọng.
- Niềm tin này cũng giúp chúng ta nhận ra rằng cuộc sống trần thế chỉ là
một hành trình ngắn ngủi và mục đích cuối cùng của chúng ta là được sống với
Thiên Chúa viên mãn trong tình trạng hạnh phúc đời đời.
Niềm tin vào sự sống lại là một phần không thể thiếu trong đức tin Kitô
giáo. Thánh Clêmentê đã sống và chết vì niềm tin này, và chúng ta cũng nên làm
như vậy. Bằng cách sống một cuộc đời thánh thiện và chia sẻ niềm tin với người
khác, được như vậy là chúng ta đang góp phần xây dựng một thế giới này tốt đẹp
hơn.
Suy niệm 2: LÀM CHO PHONG PHÚ
“Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ
sống!”.
“Đến như một tên cướp mà còn
được cứu, thì không ai có thể cho phép mình tuyệt vọng. Và cũng chỉ bởi một người
làm được điều đó, thì không ai có thể giả định cứu độ thay Ngài. Đức Kitô Cứu Độ
- Đấng biến đổi và làm cho phong phú!” - J. C. Ryle.
Kính thưa Anh Chị em,
Ý tưởng của J. C. Ryle được
xác nhận qua Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu trả lời cho những người Sađuccêô về
việc sống lại. Qua đó, Ngài tiết lộ, tình yêu không chết, nó chỉ biến đổi và
‘làm cho phong phú!’. Bởi lẽ, Chúa là “Thiên Chúa của kẻ sống!”.
Kịch bản lố bịch mà những
người không tin sự sống lại đưa ra nhằm gài bẫy Chúa Giêsu là một câu chuyện giả
tưởng về bảy anh em có chung một người vợ. Họ thách thức Ngài, “Đến ngày sống lại,
nàng sẽ là vợ ai?”. Đặt vấn đề như thế, họ dè bỉu những người đặt niềm tin vào
thế giới bên kia và điều đó trông nực cười! Với sự điềm tĩnh, Chúa Giêsu đáp,
“Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, con cái đời sau thì không!”; nói cách khác,
hôn nhân chỉ thuộc thời đại này, nó không thuộc thời đại phục sinh.
Với Chúa Giêsu, sau cuộc sống
đời này là một cuộc sống khác, chất lượng hơn, thiêng liêng hơn. Đó là một cuộc
sống nói lên sự ‘liên tục của một tình yêu’ nơi một ‘Thiên Chúa liên tục đời đời’.
Tình yêu - dù của Thiên Chúa hay của loài người - không chết, nó chỉ biến đổi
và ‘làm cho phong phú!’. Ngài xác định, sau cuộc sống đời này, chúng ta sống một
cuộc sống bất tử; vì lẽ, “Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống!”. Ngài là bạn của các
tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp khi họ còn sống; và tình bạn này không thể chấm
dứt bởi cái chết. Họ gọi Thiên Chúa là núi đá ngàn năm bền vững, “Chúc tụng
Chúa là núi đá cho tôi nương ẩn!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Cũng vậy, Chúa Kitô hiện diện
trong sự liên tục của một Giêsu tử nạn và phục sinh, “Đức Kitô, hôm qua cũng
như hôm nay, chỉ là một”. Sau khi sống lại, Ngài hiện diện theo một cách khác.
Trong Ngài, chúng ta được lôi kéo đến gần Chúa; và vì thế, đến gần nhau. Vì vậy,
sau khi chết, chúng ta vẫn ở trong mối quan hệ cá nhân với Thiên Chúa với người
khác; bằng cách đó, chúng ta có thể yên tâm rằng, những mối quan hệ quan trọng
nhất - ‘với Chúa, với người’ - sẽ không bị cái chết phá hủy nhưng được biến đổi
và ‘làm cho phong phú!’. Ý nghĩa thay mầu nhiệm Các Thánh Thông Công!
Anh Chị em,
“Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống!”,
“Chúng ta đang trên một hành trình, trên một cuộc hành hương hướng đến sự viên
mãn của cuộc sống - phúc kiến - và đó là điều soi sáng cho hành trình của chúng
ta! Do đó, cái chết đứng sau chúng ta, chứ không phải trước chúng ta. Trước
chúng ta là Thiên Chúa của sự sống. Trước chúng ta là sự đánh bại cuối cùng của
tội lỗi và sự chết, sự khởi đầu của một thời đại mới của niềm vui và ánh sáng
vô tận. Nhưng ngay trên trái đất này, trong lời cầu nguyện, trong các Bí tích,
trong tình huynh đệ, chúng ta đã gặp Chúa Giêsu và tình yêu của Ngài; và do đó,
chúng ta có thể đã nếm được một chút gì đó của cuộc sống phục sinh!” -
Phanxicô. Bạn đang hướng về đất hay hướng về trời?
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con sống như không có đời sau - vô thần; và con ‘duy vật’ lúc nào không hay!”, Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét