SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN II MÙA CHAY
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY C
St 15, 5-12.17-18; Pl 3,17-4,1; Lc 9, 28b-36
Suy niệm 1:
Lời
Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cùng lên núi với Chúa Giêsu, để biến đổi đời sống
nhờ biết lắng nghe lời dạy của Chúa Giêsu, Con chí ái của Chúa Cha mà trở nên
hoàn thiện hơn như lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Các con hãy nên hoàn thiện, như
Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5, 48).
Nếu
Chúa nhật thứ I MC, Tin mừng mời gọi chúng ta hiệp
hành cùng theo Chúa Giêsu đi vào sa mạc dưới sự tác động của CTT
để chay tịnh và cầu nguyện, nhằm múc lấy sức mạnh ơn thiêng của Chúa mà chiến
đấu và chiến thắng những mưu chước cám dỗ của ma quỷ; thì Chúa nhật II MC
hôm nay, lời Chúa mời gọi chúng ta tiếp tục dấn bước theo
Chúa Giêsu tiến lên núi cao để biến đổi đời sống, hầu trở nên người con yêu dấu
của Chúa Cha.
Ơn
gọi của người Kitô hữu chính là trở nên người con trong Người Con yêu dấu của
Chúa Cha trong Đức Giêsu. Nhưng làm thế nào để ta trở nên người con yêu dấu của
Chúa Cha trong Đức Giêsu? Tin mừng hôm nay chỉ ra cho chúng ta một vài gợi ý
sau đây:
- Chấp nhận đi vào con đường thập giá.
Nếu
trước đó, khi loan báo về cuộc thương khó mà Chúa Giêsu sắp trãi qua, các môn
đệ, nhất là Phêrô đã không chấp nhận và quyết liệt can ngăn đi vào con đường
hẹp ấy; thì với cuộc biến hình này, Chúa Giêsu như muốn giúp các ông hiểu rằng:
vinh quang chỉ đến sau khi chấp nhận đi vào con đường thập giá.
- Tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Tin
mừng cho biết trong khi cầu nguyện trên núi cao, thì hình dạng Đức Giêsu bổng
biến đổi lạ thường: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y
phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”. Và rồi ngay lúc ấy,
Chúa Cha cũng đã xác nhận Đức Giêsu chính là Con yêu dấu của Người: “Đây
là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 3,16-17).
- Vâng nghe lời Chúa Giêsu chỉ dạy.
Với
sự hiện diện của Môsê (đại diện cho luật cựu ước) và Êlia (đại diện cho ngôn sứ
cựu ước) trong biến cố biến hình trên núi cao muốn xác định cho ta biết: Đức
Giêsu là Môsê mới và Êlia mới. Nơi Ngài gom tóm toàn thể lề luật và lời các
ngôn sứ được nói trong cựu ước. Từ nay nay lề luật và lời ngôn sứ được kiện
toàn nơi Chúa Giêsu. Bởi thế khi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã xác
quyết: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc lời các
ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.” (Mt
5,17). Vì thế mà Chúa Cha kêu gọi tất cả chúng ta từ nay hãy “vâng nghe
lời Người”.
*
Tóm lại, để trở nên người con yêu dấu của Chúa Cha trong Đức Giêsu, đòi buộc
chúng ta phải thực hiện hai việc sau đây:
1. Chấp nhận từ bỏ tất cả để tiến bước trên hành trình đức tin theo Đức Giêsu, với niềm
tín thác tuyệt đối vào thánh ý Thiên Chúa như tổ phụ Abraham khi xưa. (x. bài
đọc 1).
2. Phải luôn chú tâm lắng nghe và thực hành lời Chúa Giêsu
chỉ dạy. Hãy để cho lời Chúa thấm nhập vào mọi suy nghĩ, lời nói và việc làm
của chúng ta trong mọi sinh hoạt đời thường theo gương thánh Phaolô: “Tôi
sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl
2, 20). Được như thế thì Thiên Chúa sẽ dùng quyền năng của Ngài mà
chế ngự tất cả những yếu hèn trong ta và sẽ biến đổi chúng ta trở nên vinh sáng
như Ngài (x. bài đọc 2). Nhờ thế, chúng ta mới xứng danh là “con
yêu dấu của Chúa Cha”. Amen.
Suy niệm 2:
Tin
mừng hôm nay thuật lại cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi cao nhằm củng cố
niềm tin cho các môn đệ và mạc khải Thiên Tính của Người. Xin cho chúng ta luôn
tin tưởng vào Chúa Giêsu mà sẵn sàng đón nhận những thập giá xảy đến trong đời
sống.
Biến cố biến hình trên núi Tabor xảy ra sau khi Chúa Giêsu loan báo cho
các môn đệ biết về con đường thập giá mà Ngài phải trải qua. Nhưng trước đó,
Phêrô đã không chấp nhận con đường ấy, nên đã can ngăn quyết liệt. Vì vậy mà
ông đã bị Chúa Giêsu khiển trách rất nặng lời: “Satan,
hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài
người.” (Mc 8, 33). Đặt sự kiện biến hình trong bố cảnh ấy, ta mới hiểu được biến cố
hiển dung của Chúa Giêsu hôm nay là nhắm đến 2 mục đích:
- Củng cố đức tin cho các môn
đệ:
Qua lời tuyên bố của Chúa Cha từ trên cao: “Ðây
là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Chúa
Cha như muốn các môn đệ xác tín niềm tin vững vàng hơn vào Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa.
- Giúp các môn đệ can đảm chấp nhận con đường
thập giá:
Con đường thập giá là đường đau khổ, chẳng ai muốn đi. Sự kiện biến
hình rực rỡ trên đỉnh đồi Tabor chính là liều thuốc đắng bọc đường, gíúp các
môn đệ dễ dàng nuốt lấy vị đắng của hy sinh thập giá mà Chúa Giêsu sắp bước
vào; cũng như đủ sức vượt qua những khó khăn, gian khổ ngay cả hy sinh mạng
sống khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng nước trời sau này.
Chỉ có đức tin mới đem lại cho ta niềm hy vọng để dấn bước theo Chúa
trên con đường thập giá. Đức tin chính là sức mạnh giúp ta can đảm đón nhận
những nghịch cảnh trong cuộc đời. Nhờ đức tin mà chúng ta dễ dàng vâng theo
thánh ý Chúa, ngay khi mạng sống của ta bị đe dọa. Bởi ta tin rằng phía sau
thập giá sẽ là vinh quang phục sinh.
Xin
Chúa thương củng cố đức tin cho chúng ta, để chúng ta luôn trung kiên bước đi
theo Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống theo gương các thánh tử đạo Việt
Nam. Nhất là trong mùa chay thánh này biết hy sinh thời giờ, sức khỏe, đam mê
xấu, tiền của... để tích cực phụng thờ Chúa và hy sinh phục vụ mọi người trong
tinh thần bác ái yêu thương.
Suy niệm 3: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN VÀ VINH QUANG CỦA THẬP GIÁ
Anh chị em thân mến,
Hôm nay, Chúa Nhật II Mùa
Chay, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm vinh quang của Chúa Giêsu trong biến cố
Hiển Dung, đồng thời suy tư về hành trình đức tin của mỗi người chúng ta qua
gương của tổ phụ Abram và lời khuyên nhủ của Thánh Phaolô.
1. Đức tin
của Abram: Tin tưởng vào lời hứa của Thiên Chúa
Trong bài đọc I, chúng ta
thấy Abram, sau này ông được Thiên Chúa đổi tên là Abraham. Ông được Thiên Chúa
gọi ra khỏi vùng đất quen thuộc để bước vào một hành trình đầy bất định. Thiên
Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông như sao trời và một miền đất trù phú làm
gia sản, dù lúc đó ông chưa có con và đang sống như một kẻ lữ hành. Điều kỳ
diệu là Abram đã tin, dù ông không thấy ngay kết quả. Đức tin ấy được củng cố
qua giao ước mà Thiên Chúa lập với ông, biểu tượng bằng ngọn lửa và khói đi qua
giữa các con vật hy lễ.
Mùa Chay là thời gian
chúng ta cũng được mời gọi bước đi trong đức tin, tin tưởng vào lời hứa của
Thiên Chúa ngay cả khi chúng ta chưa thấy rõ đích đến. Cuộc sống Kitô hữu không
phải lúc nào cũng dễ dàng; đôi khi chúng ta phải đối diện với những thử thách,
nghi ngờ, hay đau khổ. Nhưng như Abram, chúng ta được mời gọi phó thác, để
Thiên Chúa dẫn dắt chúng ta qua "ngọn lửa" của hy lễ và
"khói" tựa như những khó khăn, hướng tới lời hứa về sự sống đời đời.
2. Vinh
quang Hiển Dung: Ánh sáng giữa thập giá
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu
dẫn ba môn đệ thân tín: Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Ở đó, các
ông được chứng kiến dung mạo Người biến đổi rạng ngời, áo trắng tinh, và nghe
tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy
vâng nghe lời Người!” Biến cố Hiển Dung xảy ra ngay sau khi Chúa Giêsu
tiên báo về cuộc khổ nạn của Người. Vinh quang này không phải để phủ nhận thập
giá, mà để củng cố niềm tin cho các môn đệ, cho họ thấy rằng sau đau khổ sẽ là
ánh sáng Phục Sinh.
Mùa Chay không chỉ là mùa
sám hối, mà còn là mùa hy vọng. Qua biến cố Hiển Dung, Chúa Giêsu muốn chúng ta
hiểu rằng con đường thập giá không phải là kết thúc, mà là lối dẫn đến vinh
quang. Khi chúng ta đối diện với những khó khăn trong cuộc sống: bệnh tật, thất
bại, hay mất mát…, chúng ta được mời gọi nhìn lên núi Hiển Dung, nơi Chúa Giêsu
tỏ lộ vinh quang, để tìm lấy sức mạnh và niềm tin vượt qua.
3. Sống theo
gương Chúa Kitô: Từ bỏ thế gian để hướng về Nước Trời
Thánh Phaolô, trong bài
đọc II, khuyên nhủ chúng ta hãy noi gương những người sống theo Chúa Kitô,
vì “quê hương chúng ta ở trên trời”. Ngài cảnh báo về những kẻ chỉ
biết chạy theo dục vọng trần thế, nhưng đồng thời khuyến khích chúng ta hướng
lòng về những giá trị vĩnh cửu.
Mùa Chay là thời gian để
chúng ta xét lại đời sống mình: Chúng ta đang sống vì điều gì? Lòng chúng ta
hướng về đâu? Chúng ta có dám từ bỏ những thói quen xấu, những đam mê lệch lạc
để sống theo lời mời gọi của Chúa không?
Anh chị em thân mến, Mùa
Chay là cơ hội để chúng ta:
- Củng cố đức tin: Như Abram, hãy tin
tưởng vào Thiên Chúa ngay cả khi con đường phía trước mịt mù.
- Chiêm ngắm thập giá và vinh quang: Hãy
dành thời gian cầu nguyện, tham dự Thánh lễ, để nhận ra rằng đau khổ hôm nay sẽ
dẫn chúng ta đến ánh sáng ngày mai.
- Sống xứng đáng với ơn gọi: Hãy thực
hành chay tịnh, bố thí, và hoán cải để đời sống chúng ta phản chiếu khuôn mặt
của Chúa Kitô.
Nguyện xin Chúa Giêsu,
Đấng đã hiển dung trên núi, ban cho chúng ta ơn can đảm bước theo Người trên
con đường thập giá, để một ngày kia, chúng ta cũng được chia sẻ vinh quang Phục
Sinh với Người. Amen. (St).
Suy niệm 4:
Tin Mừng hôm nay trình thuật lại biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi cao. Với biến cố trọng đại này, sứ điệp lời Chúa muốn nói với chúng ta nhiều điều. Nhưng để dễ nhớ, tôi xin đề cập đến hai điều căn bản sau đây:
- Thứ nhất: Chúa mời gọi chúng ta biến đổi đời sống.
Từ khi nhập thể làm người cho đến nay, các môn đệ
thấy Đức Giêsu chỉ là một người như bao người. Ngài cũng ăn uống, ngủ nghỉ và
có những sinh hoạt bình thường như bao người khác. Tuy nhiên qua cuộc biến
hình, các Tông đồ lại thấy dung nhan của một vị Thiên Chúa nơi Đức Giêsu được
tỏ hiện. Như vậy, Ngài không chỉ là con
người bình thường nhưng Ngài còn là Thiên Chúa.
Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên
người kitô hữu, và được gọi là con Thiên Chúa.
Kitô hữu tức là người có Chúa Kitô nơi mình. Chúng
ta có Chúa Kitô nơi mình nên chúng ta phải sống giống như Chúa đã sống. Để qua
đời sống của chúng ta, mọi người nhìn thấy được Chúa trong ta. Chúng ta phải
nói được như Thánh Phaolô rằng: “Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là
Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2, 20). Nếu như có lúc nào đó mà tính Kitô
hữu trong chúng ta bị biến dạng, thi hãy mạnh dạn biến đổi đời sống mình bằng
sự sám hối và lãnh nhận bí tích Giao hòa để với ơn Chúa, chúng ta được biến đổi
trở thành người kitô hữu đích thực.
- Thứ
hai: Chúa mời gọi chúng ta biết khiêm tốn vâng lời.
Vâng lời được xem là một trong những đức tính nhân
bản cao đẹp của con người. Đến nỗi nếu thiếu đức tính này, chúng ta không xứng
danh là một con người
Là phận con cháu, chúng ta được dạy phải vâng lời
ông bà, cha mẹ.
Là người học trò chúng ta được mời gọi phải nghe
lời thầy cô.
Trong đời sống đức tin, chúng ta được dạy phải
vâng lời Thiên Chúa và những người thay mặt Ngài.
Tin mừng hôm nay, Chúa Cha đã dạy chúng ta phải
biết vâng nghe lời Chúa Giêsu chỉ dạy: “Này là con Ta yêu dấu, hãy vâng
nghe Lời Người.” (Mc 14,9). Lời của Đức Giêsu được thể trong toàn bộ
cuốn Tin mừng. Vì thế, thực hành theo sự hướng dẫn của Tin mừng là chúng ta đã
vâng nghe lời Chúa Giêsu. Đó cũng là cách thức chúng ta thể hiện lòng yên mến Chúa
Giêsu. Vì, Chúa Giêsu đã dạy: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời
Thầy…” (x. Ga 14,21).
Lời của Chúa Giêsu được thể hiện qua Giáo huấn
chính thức của Hội Thánh, qua lời phán quyết của Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám
Mục liên hệ đến đức tin và luân lý.
Lời của Chúa Giêsu được thể hiện qua những lời dạy
bảo chính thức của các vị bề trên như: ông bà, cha mẹ, anh chị, thầy cô…Vậy
chúng ta hãy biết vâng nghe Lời Chúa qua những lời khuyên dạy của quý bề trên.
Được như vậy chúng ta mới trở nên con người dễ thương dễ mến.
Bài đọc I nêu lên cho chúng ta một tấm gương sáng
ngời về đức vâng lời của tổ phụ Abraham. Cho dẫu ông đang sống giàu sang
và sung túc ở thành Ur của dân Calđê, nhưng Thiên Chúa lại gọi ông bỏ
lại tất cả để đi đến một vùng đất vô định. Vậy mà ông lại sẵn sàng vâng phục
thánh ý Chúa. Cho dù phía trước còn mịt mù tăm tối và tương lai không có gì bảo
đảm. Nhưng ông luôn tin tưởng tuyệt đối vào lời mời gọi của Thiên
Chúa nên sẵn sàng vâng theo lời Người.
Kết quả cho thấy: tất cả những gì TC hứa với
ông Người đã thực hiện nên Abraham xứng đáng trở thành cha của những kẻ
tin.
Ước mong rằng, mỗi chúng ta cũng cần có tinh thần
vâng phục TC như tổ phụ Abraham, theo như tinh thần của sứ điệp lời Chúa hôm
nay mời gọi.
Xin cho chúng ta biết ngoan ngoãn vâng nghe lời
dạy của Chúa Giêsu, của GH, của ông bà cha mẹ và thầy cô…chỉ dạy, nhờ đó mà đời
sống của chúng ta mới được biến đổi mỗi ngày nên tốt đẹp hơn, hầu xứng danh là
con của Chúa trong Đức Giêsu, người con yêu quý của Chúa Cha. Amen.
Suy niệm 5:
1. Bài đọc I: Hy vọng vượt qua bóng tối
Trong bài đọc I, trích
sách Sáng Thế, thuật lại câu chuyện ông Áp-ra-ham được Thiên Chúa gọi ra khỏi
lều để ngắm nhìn bầu trời đầy sao. Thiên Chúa hứa rằng dòng dõi ông sẽ đông đúc
như các vì sao, dù lúc đó ông vẫn chưa có con. Điều đáng chú ý là Áp-ra-ham tin
vào lời hứa ấy, ngay cả khi mọi thực tại dường như chống lại ông: tuổi già, vợ
ông son sẻ. Chính niềm tin này đã làm cho ông “được kể là công chính”.
Sau đó, Thiên Chúa lập giao ước với ông qua nghi thức kỳ lạ: khói lửa đi qua
giữa các con vật bị xẻ đôi, biểu tượng của sự hiện diện và cam kết vĩnh cửu của
Ngài.
Trong Năm Thánh Hy Vọng,
câu chuyện của Áp-ra-ham nhắc nhở chúng ta rằng hy vọng không phải là điều dễ
dàng. Nó đòi hỏi chúng ta bước ra khỏi “chiếc lều” của sự an toàn, sợ hãi, hay
nghi ngờ, để ngước nhìn lên Thiên Chúa. Dù cuộc sống có tối tăm như bầu trời
đêm, lời hứa của Chúa vẫn là những “vì sao” soi sáng, dẫn chúng ta tiến bước.
Mùa Chay là thời gian để chúng ta xét lại: Liệu chúng ta có dám tin tưởng tuyệt
đối vào Chúa như Áp-ra-ham, ngay cả khi chưa thấy kết quả?
2. Bài đọc II: Hy vọng hướng về quê trời
Thánh Phao-lô kêu gọi các
tín hữu Philípphê noi gương ngài và hướng lòng về quê trời, nơi Chúa Giêsu sẽ
biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài.
Ngài nhắc nhở rằng chúng ta là công dân của Nước Trời, chứ không thuộc về thế
gian này. Lời mời gọi “hãy đứng vững trong Chúa” là nguồn động lực
để chúng ta không bị cuốn theo những cám dỗ trần tục.
Năm Thánh Hy Vọng 2025 mời
gọi chúng ta sống như những người hành hương, không bám víu vào những thứ mau
qua, nhưng đặt niềm tin vào lời hứa vĩnh cửu của Thiên Chúa. Mùa Chay là cơ hội
để chúng ta “lên đường”, bỏ lại những thói quen xấu, những sự ràng buộc làm
nặng lòng, để nhẹ nhàng thanh thản tiến bước về vinh quang Phục Sinh. Chúng ta
tự hỏi: Điều gì đang giữ chân tôi khỏi hành trình hy vọng này? Tôi có thực sự
khao khát quê trời không?
3. Tin Mừng: Hy vọng trong vinh quang của Chúa Giêsu
Tin Mừng hôm nay kể về
biến cố Chúa Giêsu Biến Hình trên núi Tabor. Chúa dẫn theo Phê-rô, Gio-an và
Gia-cô-bê lên núi cầu nguyện. Trong lúc cầu nguyện, dung mạo Ngài bừng sáng, áo
Ngài trắng tinh, và hai nhân vật lớn của Cựu Ước là Mô-sê và Ê-li-a xuất hiện
trò chuyện với Ngài về “cuộc xuất hành” mà Ngài sẽ hoàn tất tại Giê-ru-sa-lem,
tức là cuộc khổ nạn và phục sinh. Tiếng Chúa Cha từ đám mây vang lên: “Đây
là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người.”
Biến cố này là một tia
sáng hy vọng giữa hành trình Mùa Chay. Trước khi bước vào cuộc thương khó, Chúa
Giêsu cho các môn đệ thấy vinh quang của Ngài, để củng cố đức tin và khơi dậy
hy vọng trong họ. Dù con đường thập giá đầy đau khổ, nhưng đích đến là sự sống
lại vinh hiển. Năm Thánh Hy Vọng nhắc chúng ta rằng thập giá không phải là điểm
kết, mà là cánh cửa dẫn đến ánh sáng. Lời Chúa Cha “hãy vâng nghe lời Người”
là kim chỉ nam cho chúng ta: lắng nghe và sống theo lời Chúa Giêsu chính là
cách để hy vọng của chúng ta không bao giờ tàn lụi.
4. Áp dụng
vào đời sống trong Năm Thánh Hy Vọng
- Hy vọng
như Áp-ra-ham: Trong những khó khăn của cuộc sống, bệnh tật,
thất bại, hay bất an… tôi có dám tin vào lời hứa của Chúa không? Tôi có sẵn
sàng bước ra khỏi “chiếc lều” của sự bi quan để đặt trọn niềm tin vào Ngài?
- Hành hương như Phao-lô: Tôi có sống như
một người hành hương, hướng về quê trời, hay vẫn bị cuốn vào những lo toan trần
thế? Mùa Chay này, tôi có thể từ bỏ điều gì để nhẹ nhàng hơn trên hành trình
đức tin?
- Chiêm ngắm vinh quang như các môn đệ:
Tôi có dành thời gian cầu nguyện để gặp gỡ Chúa Giêsu, để Ngài biến đổi dung
mạo tâm hồn tôi không? Lời Ngài có thực sự là ánh sáng dẫn đường cho tôi giữa
bóng tối của cuộc đời?
5. Lời cầu nguyện
Lạy
Chúa Giêsu, trong Năm Thánh Hy Vọng, xin dạy con biết sống như người hành
hương, luôn tin tưởng vào lời hứa của Chúa Cha. Xin cho con sức mạnh để vác
thập giá mỗi ngày, với hy vọng mãnh liệt rằng vinh quang Phục Sinh đang chờ đợi
con. Xin biến đổi tâm hồn con qua cầu nguyện và Lời Ngài, để con trở thành
chứng nhân của hy vọng giữa thế giới hôm nay. Amen. (St).
Thứ hai: Lc 6, 36-38
Trong
cuộc sống, có lẽ không ai trong chúng ta muốn bị người khác dòm ngó, bới móc
mình. Vậy chúng ta cũng đừng làm cho người khác điều gì mà chính chúng ta cũng
không ưa thích.
Tin
mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy trở nên con cái đích thực của
Chúa bằng cách thể hiện lòng nhân từ với tha nhân theo mẫu gương của Chúa:
“Biết tha thứ và cho đi” hay ít nhất đừng tước lấy quyền của Chúa mà xét đóan
và kết án anh em mình.
Truyện kể:
Ông
bà già nọ rất yêu quý cháu nội đích tôn của mình. Một hôm hai ông bà ngồi bên
nhau xem cháu nội ngủ. Vì lẽ thương cháu quá, bà nội lên tiếng bảo:
-
Ông thấy không, hai con mắt nó khi ngủ giống tôi như đúc vậy!
-
Ông nội gật gù nói: À… thì giống, nhưng chỉ khi nó ngủ thôi, còn khi nó thức
cặp mắt nó có khác gì tôi đâu.
-
Ngắm xem cháu được một lúc, ông lại lên tiếng: Bà xem, khi nó ngủ cái miệng nó
giống in hệt tôi vậy đó!
-
À thì lúc ngủ, còn khi nó thức, ông trông cái miệng nó và miệng tôi có khác gì
nào! Bà trả lời.
-
Ông nội gật đầu bảo: Vậy tôi biết lý do tại sao nó lại nói chuyện và ăn hàng
nhiều rồi…(vì cái miệng giống bà).
Mong
ước lớn lao của ông bà cha mẹ là làm sao con cái trở nên giống mình, ít nhất là
ở hình thể bên ngoài. Nó sẽ còn tốt hơn nếu con cái giống mình về cả tâm tính.
“Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”.
Thiên
Chúa là người Cha giàu lòng yêu thương, cũng muốn chúng ta là những người con
trở nên giống Người.
Niềm
vui và hãnh diện của cha mẹ là con cái giống mình. Cũng thế Thiên Chúa Người
Cha của mọi người Cha sẽ vui mừng và hãnh diện biết mấy nếu chúng ta nên giống
Chúa.
Thiên
Chúa là Đấng Nhân Từ, vì thế Người cũng mong chúng ta phải có lòng nhân từ như
Người.
Để
thể hiện lòng nhân từ, một mặt Chúa dạy chúng ta “đừng xét đoán” và “đừng kết
án” ai cả. Mặt khác cách tích cực “hãy tha thứ” và “hãy cho đi”.
Nhưng
hình như do hậu quả của tội nguyên tổ và ảnh hưởng của bầu khí hận thù chống
đối của Satan xưa, nên chúng ta thường làm ngược lại điều Thiên Chúa mong muốn.
Chính
chất độc tội nguyên tổ đã tiêm vào người ta và bầu khí ô nhiễm chống đối của
Satan thấm nhập hồn ta nên hình dáng chúng ta đã bị biến dạng, tâm tính chúng
ta bị biến chất, không còn là hình ảnh tốt đẹp của Chúa nữa; cung cách đối xử
với nhau không còn dựa trên tình yêu, lòng nhân từ của Chúa nữa.
Chúng
ta thường thích xét đoán người khác hơn xét đoán chính mình. Chúng ta thường
thích lên án người khác hơn lên án chính mình. Trong khi Thiên Chúa là Đấng
toàn thiện, chí thánh, uy quyền nhưng Chúa không hề xét đoán hay lên án mà một
mực tìm cách cứu vớt và luôn kiên nhẫn chờ đợi kẻ có tội ăn năn sám hối để
Người tha thứ.
Thiên
Chúa là Tình Yêu và là Đấng nhân từ giàu lòng thương xót. Chúa muốn chúng ta
hãy trở nên giống Người bởi chính Người là Cha chúng ta.
Niềm
vui và hảnh diện của Cha là nhìn thấy con cái cố gắng để trở nên giống mình. Và
bình an và hạnh phúc của con cái chỉ có được khi biết vâng lời Cha và noi theo
nếp sống tốt đẹp của Cha mẹ mình.
Xin
Chúa cho chúng con, những người con Chúa ngày càng giống Chúa nhân từ quảng
đại. Không bao giờ xét đoán, phê bình chỉ trích, nói hành nói xấu, cáo gian ai.
Trái lại luôn có cái nhìn ngay thẳng và trong sáng. Luôn biết nghĩ tốt,
nói tốt, làm tốt cho mọi người. Biết cho đi không cần toan tính. Nhất là biết
sẵn sàng thứ tha cho nhau như Chúa hằng tha thứ cho chúng con. Amen.
Suy niệm 2:
Nhân
gian thương nói: “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Cha mẹ rất
vui khi con cái giống mình và con cái cũng cảm thấy hạnh phúc khi biết mình
giống cha mẹ. Giống về hình thể và tâm tính sẽ là vinh dự biết mấy! Cũng vậy
Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Người cũng sẽ rất vui khi thấy ta
giống Người về lòng nhân từ hay tha thứ.
Điểm
nhấn của đoạn tin mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta về mối
tương quan giữa con người với nhau. Mối tương quan này chính là tiêu chí và là
nền tảng để Chúa đánh giá về mối tương quan giữa chúng ta với Chúa. Nếu chúng
ta sống nhân từ hay tha thứ cho anh em mình thì Chúa sẽ bao dung tha thứ cho
ta. Nếu chúng ta dám quảng đại cho đi thì Chúa sẽ bù đắp lại cho ta dư đầy. Còn
ngược lại, nếu ta xét đoán người khác thì chính Chúa cũng sẽ xét đoán chúng ta;
chúng ta không tha thứ cho người khác Chúa cũng không tha cho ta và nếu ích kỉ
không dám hy sinh cho đi thì Chúa cũng bù đắp cho chúng ta.
Xét
đoán chủ quan, sống ích kỉ, thiếu lòng bao dung dấu chứng cho thấy con tim bị
lỗi nhịp và cái nhìn bị lệch chuẩn. Vì thế rất cần thanh luyện lại con tim
và chỉnh sửa lại đôi mắt qua việc cảm nhận tình yêu của Chúa dành cho ta và
dùng ánh sáng lời Chúa mà soi rọi lại đời sống của ta. Nhờ đó ta mới nhận ra
lòng nhân từ của TC dành cho ta mà thay đổi đời sống sao cho nên giống Chúa.
Thứ ba: Mt 23, 1-12
Tin
mừng hôm nay, Chúa Giêsu lên án mạnh mẽ lối sống giả hình của các kinh sư và
những người Pharisêu. Đồng thời Chúa cũng kêu mời chúng ta hãy sống theo những
gì họ dạy. Nhưng tránh làm theo những gì họ làm. Bởi họ dạy một đàng, lại làm
một ngã. Nói thì đúng, làm thì sai. Dạy sống đạo đức, nhưng lại sống bất nhân.
Xin
cho chúng ta biết can đảm sống và làm chứng cho sự thật với lòng thành giữa một
xã hội còn nhiều gian dối và lọc lừa.
Chuyện vui:
Để
phân biệt được đâu là người Việt, đâu là người Trung Quốc, đâu là người Nhật và
đâu là người Mỹ, người ta dựa vào hai yếu tố: “Nói” và “Làm”
Người
Mỹ: nói gì thì làm đấy.
Người
Nhật: nói rồi mới làm.
Người
Trung Quốc: làm trước nói sau.
Còn
người Việt Nam: nói một đàng làm một nẻo.
Tin
mừng hôm nay cho thấy một mặt Chúa Giêsu lên án lối sống giả hình của các Kinh
sư và Pharisêu, mặt khác Chúa cũng muốn chỉ cho các môn đệ và chúng ta hiểu
được đâu mới là giá trị đích thật của lòng đạo đức.
- Người có lòng đạo đức trước hết cần phải thống nhất đời sống.
Thống
nhất đời sống nghĩa là làm sao hiệp nhất giữa cái “là” và cái “làm”; giữ
"tâm tình", “lời nói” và "việc làm” phải xuyên suốt với nhau.
Những
Kinh sư và Pharisêu giảng dạy rất hay, nhưng họ không hề làm và sống theo những
gì họ nói. “Nói một đàng làm một nẻo”; “ngôn hành bất nhất”. Nên Chúa
Giêsu đã không ngần ngại lên tiếng cảnh báo dân chúng: “Những gì họ nói
với các ngươi, hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ.” Hình
như họ thích “buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ
lại không muốn giơ ngón tay lay thử.”
ĐGH
Phaolô VI cũng đã có lần cảnh tỉnh GH cũng như tất cả chúng ta:
"Con người ngày nay họ cần chứng nhân hơn thầy dạy, và nếu họ tin vào
lời thầy dạy thì chính thầy dạy đó là chứng nhân.” (Tông huấn Evangelii
Nuntiandi, s 41).
- Người có lòng đạo đức thật sự thì luôn biết sống khiêm tốn.
Những
Kinh sư và Pharisêu lúc nào cũng tự hào cho mình là người đạo đức hơn người.
Nên không lấy gì làm ngạc nhiên khi thấy họ thích “nới rộng thẻ kinh,
may dài tua áo”; cũng như ham “muốn được chỗ nhất trong đám
tiệc và ghế đầu trong hội đường” và “được bái chào nơi đường phố và
được người ta xưng hô là “thầy”.
Tất
cả những biểu hiện đó đã bộc lộ rất rõ nét thái độ kiêu căng, tự mãn, hám danh
nơi giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái thời bấy giờ. Nên họ không xứng hợp với
những giá trị và tiêu chuẩn đúng đắn nơi một con người đạo đức chân chính.
Xin
Chúa giúp chúng ta biết can đảm loại trừ lối sống phô trương, kiêu căng, giả
hình ra khỏi đời sống, mà yêu thích lối sống đơn sơ, chân thành và hiền
hòa với mọi người. Nhất là biết noi gương Chúa Giêsu yêu thương phục vụ
mọi người, đặc biệt là những người nghèo, bằng một tấm lòng trân quý, khiêm hạ
với mong muốn làm đẹp lòng Chúa và trở nên bạn nghĩa thiết với hết mọi người.
Amen.
Suy niệm 2:
Tin
mừng hôm nay, Chúa Giêsu lên án mạnh mẽ lối sống giả hình của những kinh sư và
biệt phái. Bởi lẽ đời sống họ bất nhất, nói mà không làm; hay nói một đàng làm
một nẻo.
Trong
suốt 3 năm rao giảng tin mừng, Chúa Giêsu chỉ nói lời yêu thương, khuyến khích
nâng đỡ những ai lầm đường lạc lối và sẵn sàng nói lời tha thứ cho những tội
nhân biết ăn năn sám hối và đặt niềm tin vào Chúa. Ít khi nào thấy Người lên
án, khiển trách nặng lời với ai, ngoại trừ những người cứng lòng tin, trong đó
đặc biệt là giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái thời bấy giờ là nhóm kinh sư và biệt
phái.
Qua
những lời khiển trách nặng lời của Chúa Giêsu dành cho họ, cho thấy tính chất
nguy hiểm của lối sống giả hình ảnh hưởng tiêu cực đến cá nhân và cộng đồng xã
hội to lớn như thế nào!
Kinh
sư và pharisêu là những người am hiểu luật lệ và là những nhà lãnh đạo tinh
thần. Là thành phần dành riêng để phụng thờ và tôn vinh Thiên Chúa và hướng dẫn
đời sống đạo cho dân. Nhưng vì muốn người khác tôn vinh và nể phục mình, nên họ
sẵn sàng chọn lối sống giả hình. Họ thích nói và biểu hiện việc đạo đức ra bên
ngoài chỉ vì lòng họ đầy kiêu căng tự mãn. Tất cả những việc làm của họ chỉ
nhằm đến là được người đời ca tụng. Nên họ: “thích được người khác chào hỏi dọc
đàng, thích ngồi những hàng ghế đầu trong đám tiệc cũng như nơi đền thờ; may
dài thêm tua áo…và thích người khác gọi là thầy!” Tất cả những biểu hiện đó thể
biểu hiện của lối sống tự mãn và muốn mọi thứ về phải được quy về mình, thay vì
Chúa. Muốn mình được tôn vinh thay cho Chúa. Nhận thấy lối sống giả tạo quá
tinh vi của những kinh sư và biệt phái nên Chúa Giêsu đã không ngần ngại khiển
trách nặng lời nhất để lên án lối sống bip bợm của họ.
Nói
người nghĩ ta! không khéo đời sống của ta cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Lắm khi
chúng ta chỉ thích nói những lời hay ý đẹp, nhưng ta lại không sống theo. Có
khi chúng ta chỉ thích giữ đạo hình thức với những tổ chức hoành tráng bên
ngoài, nhưng lòng thì trống rỗng. Có khi chúng ta chỉ muốn ghi danh vào sổ công
giáo, nhưng ta lại không sống niềm tin của mình. Lắm khi ta cũng siêng
năng đến nhà thờ tham dự thánh lễ, nhưng là để cho an lòng, chứ ta không thích
vào nhà thờ, không muốn thánh lễ kéo dài, không thích lắng nghe lời Chúa và dọn
mình để đón nhận Chúa Giêsu nơi bí tích thánh thể. Ta chỉ muốn đặt Chúa trong
nhà thờ, chứ không muốn Chúa hiệp hành cùng ta trong đời sống.
Xin
cho mùa chay này, mỗi người trong chúng ta biết hồi tâm chuyển hướng nhằm chấn
chỉnh lại đời sống sao cho giữa tư tưởng, lời nói và hành động luôn được thống
nhất với nhau như lòng Chúa hằng mong muốn.
Thứ tư: 2Sm 7,4-5a.12-14a.16; Rm 4,13.16-18.22; Mt 1,16.18-21.24a
(Lc2,41-51a)
KÍNH TRỌNG THỂ THÁNH GIUSE-BẠN TRĂM NĂM ĐỨC MARIA
GỢI Ý SÁM HỐI: Lc 15, 1-32
Khi
muốn nói một điều gì khó nói, người ta hay dùng cách nói ví von, khi muốn thổ
lộ một tâm tình sâu kín, khó bộc bạch nên lời, người ta phải nhờ đến cách nói
ẩn dụ và khi muốn diễn tả một chân lý tròn đầy mà không từ ngữ nào có thể diễn
đạt hết, người ta lại dùng đến câu chuyện. Có thể nói câu chuyện là con đường
ngắn nhất đưa đến chân lý. Chính vì muốn diễn đạt chân lý “Thiên Chúa là Tình
Yêu” mà Tin mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu đã dùng đến câu chuyện dụ
ngôn về: "Người cha nhân hậu" (ta thường gọi: dụ ngôn người con hoang
đàng), để mời gọi chúng ta thật lòng sám hối trở về cùng Chúa là Cha chúng ta.
Xét
cho cùng thì hai người con trong dụ ngôn chúng ta vừa nghe đều sai lầm, người
em sai lầm khi dứt tình cha con và bỏ nghĩa anh em để ra đi ăn chơi đàng điếm
thỏa thích theo dục vọng cá nhân của mình; còn người anh tuy ở trong gia đình,
nhưng lại xa cách gia đình, tuy ở trong nhà cha, nhưng tấm lòng anh xa cách
cha, bởi con tim của anh không hề đồng cảm và run lên cùng nhịp đập với trái
tim của cha mình. Nên cả hai rất cần phải sám hối để quay về sống trong tình
cha.
Mùa
chay là thời gian thuận tiện mà GH mở ra để mời gọi chúng ta sám hối, trở về
với Cha mình, là Thiên Chúa giàu lòng xót thương.
1. Trở về với Chúa là Cha như người con hoang đàng: Khi
xa Cha, anh tưởng đời mình sẽ hạnh phúc. Nhưng anh đã lầm, sau những ngày phiêu
lưu tìm cảm giác lạ, anh cảm thấy tâm hồn mình trống vắng, hụt hẩn và đau khổ.
Chỉ khi tìm về bên cha, anh ta mới tìm lại được hạnh phúc và bình an đích thực.
Thế là anh đã quyết tâm đứng lên trở về!
2. Trở về với anh em mình, như người anh cả: sự
ích kỉ nhỏ nhoi, đưa đến ghen tỵ. Vì nuôi dưỡng lòng ghen tỵ đã khiến anh trở
nên mù quáng không còn nhận ra tình anh em máu mủ. Tự thâm tâm anh chỉ xem đứa
em của mình chỉ là “thằng con của cha”, chứ không phải là người em
của mình. Lòng ghen tỵ dẫn đến so đo phân bì, coi mình là người xứng đáng được
cha ban thưởng, chứ không phải đứa em. Nên anh đã thốt lên những lời khó
nghe: “có bao giờ cha cho con dù chỉ con bê nhỏ để ăn mừng với chúng
bạn…vậy mà cha lại giết bê béo ăn mừng nó trở về”.
Tưởng
xưa nay anh gần bên cha, ở trong nhà cha nhưng hóa ra anh ở rất xa cha và ở bên
ngoài mái ấm gia đình. Anh cần phải trở về trong tình thân gia đình. Niềm vui
của cha phải là niềm vui của anh, và hạnh phúc của người em cũng phải là hạnh
phúc của anh.
3. Trở về với chính mình như người con hoang đàng: Trong
lúc khổ cực vất vả cảnh người làm thuê. Trong cơn đói khát rã rời đã giúp người
con hoang đàng nhớ lại tình cha. Và anh đã nhận ra tội lỗi của mình quá to lớn
đến nỗi anh nghĩ không còn xứng đáng làm con cha nữa. Nhưng vì cơn đói cồn cào
nên anh đã mạnh dạng trở về nhà cha với mong muốn được như người làm công, để
có được của ăn hàng ngày. Nhưng thật bất ngờ anh đã được người cha nhân từ tha
thứ và vui mừng phục hồi lại cho anh tước vị làm con như thưở ban đầu.
Ông
bà anh chị em, đặc biệt quý anh em gia trưởng thân mến, giờ đây chúng ta hãy
dành ra ít phút để xét mình về các mối tương quan: với Chúa, với tha nhân và
với chính mình hầu nhận ra những rạn nứt trong các mối hiệp thông ấy, để xin ơn
trở về, hầu đón nhận được tình thương và sự tha thứ của Chúa là người Cha giàu
lòng xót thương:
-
Hãy trở về với Chúa: bằng đời sống đức tin, đức cậy và lòng mến Chúa ngang qua
các việc đạo đức: cầu nguyện, học hỏi lời Chúa, siêng năng tham dự thánh lễ,
tích cực lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích thánh thể.
-
Hãy trở về với anh chị em mình: bằng cách nỗ lực chu toàn tốt bổn phận và trách
nhiệm của mình trong ơn gọi làm chồng, làm cha, làm kitô hữu nơi môi trường
trong gia đình và xã hội mà mình đang sống và làm việc.
-
Hãy trở về với chính lòng mình: bằng những hy sinh âm thầm trong chức năng
phụng sự Chúa và phục vụ GH. Dám hy sinh thời giờ, công sức, tiền của để nhiệt
tâm tham gia vào các sinh hoạt mục vụ của Họ đạo, với mong muốn hiệp hành cùng
với mọi người thăng tiến đời sống đức tin hướng đến sứ vụ loan báo niềm vui tin
mừng của Chúa đến cho mọi người.
Nếu
sự trở về của người con hoang đàng trong Tin mừng hôm nay, còn được người cha
vui mừng đón nhận vào nhà, phục hồi tước vị làm con và tổ chức tiệc mừng linh
đình, thì với những nỗ lực cố gắng trở về với Chúa, với tha nhân và chính mình
của ta trong niềm tin yêu, phó thác vào Thiên Chúa là Người Cha nhân lành, tin
rằng chúng ta cũng sẽ được Chúa đón nhận, tha thứ và ban dồi dào ân sủng qua bí
tích giao hòa mà chúng ta sắp lãnh nhận.
DẪN LỄ
Kính
thưa cộng đoàn,
Nhân
dịp kỉ niệm 150, ngày 08/12/1870, Đức Giáo Hoàng Pio IX bạn hành sắc lệnh
Quemadmodum Deus (cũng như Thiên Chúa) và tuyên bố chọn thánh Giuse làm đấng
bảo trợ cho toàn thể GH Công giáo.
Để
đánh dấu cho sự kiện này, ngày 08/12/2020, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã công
bố “năm kính Thánh Giuse đặc biệt” và
ban hành tông thư “Patris Corde” (Trái tim của người cha). Trong tông thư này,
ĐTC Phanxicô nêu lên 7 đức tính như là những chiều kích linh đạo nơi thánh
Giuse (người cha âm thầm yêu thương, dịu dàng, vâng phục, đón nhận, can đảm và
sáng tạo, làm việc, trong bóng tối) nhằm mời gọi các tín hữu noi gương bắt
chước trên con đường nên công chính.
Ngoài
ra Toà Ân giải tối cao cũng đã công bố sắc lệnh ban ơn toàn xá cho các tín hữu
với những quy định cụ thể có kèm điều kiện…
Thánh
Giuse không chỉ là bổn mạng của GH hoàn vũ mà ngài còn là bổn mạng của GH Việt
Nam, của giới gia trưởng, ngài còn là bổn mạng của nhiều anh em chúng ta. Vì
thế, hôm nay Họ đạo chúng ta tổ chức làm các việc đạo đức như cử hành nghi thức
sám hối, dọn lòng sám hối và xét mình xưng tội, nhất là long trọng hiệp dâng
Thánh Lễ đồng tế để tạ ơn Chúa, mừng kính Thánh Cả Giuse và cầu nguyện cách đặc
biệt cho quý anh em gia trưởng.
Nguyện
xin Chúa qua lời chuyển cầu thần thế của Thánh Cả Giuse, ban cho mọi người,
cách đặc biệt là những người chồng, người cha trong Họ đạo chúng ta có được:
- Tâm
hồn quảng đại, đảm nhận trách nhiệm bảo vệ và chăm sóc những ai bị bỏ rơi.
-
Biết loại trừ văn hoá hưởng thụ và vất bỏ, để nâng cao nền văn hoá đón nhận,
chăm sóc những gì bé nhỏ và những ai nghèo khổ.
-
Sẵn sàng tự hiến để hy sinh phục vụ tha nhân trong niềm vui vì lòng yêu mến
chân thành.
-
Nhất là biết tôn trọng quyền tự do chính đáng của mọi người theo mẫu gương
Thánh cả Giuse đã được ĐGH Phanxicô nêu lên trong Tông Thư Patris Corde.
Với
những tâm tình và ý nghĩa trên, giờ đây xin mời cộng đoàn đứng, hướng về đoàn
đồng tế, cùng với ca đoàn hiệp lời chúc tụng, tôn vinh và ngợi khen Chúa qua
bài hát nhập lễ…
SUY NIỆM 1: THÁNH GIUSE MẪU GƯƠNG THAM GIA
Mừng
kính Thánh Giuse hôm nay là dịp để chúng ta tuyên xưng lại lòng nhân lành của
Thiên Chúa, đã ưu ái tuyển chọn thánh nhân làm cha nuôi của Đức Giêsu để người
‘trông nom Đấng Cứu Thế’, bảo trợ cho Giáo Hội, cho giới gia trưởng và là gương
mẫu hiệp hành cho mỗi người chúng ta.
Khi
nhìn về giai đoạn đầu của thời Tân ước, chúng ta thấy Thiên Chúa đã mời gọi con
người cộng tác với Chúa trong chương trình cứu độ. Có khá nhiều cộng tác viên ở
giai đoạn đầu, nhưng nổi bật hơn cả là 3 nhân vật quan trọng sau: Đức Maria,
Thánh Giuse và Thánh Gioan Tẩy Giả.
Về
Đức Maria và Thánh Gioan Tẩy Giả thì các sách Tin Mừng đều có những trình thuật
khá chi tiết, riêng với Thánh Giuse thì quá sơ lược, sơ lược đến độ có thể nói
ngài chỉ như một ‘bóng mờ’, một vai ‘kép phụ’ trong chương trình cứu chuộc nhân
loại được thực hiện qua Đức Kitô.
Tuy
chỉ đóng vai ‘kép phụ’ là cha nuôi của Chúa Giêsu, nhưng Thánh Giuse luôn được
xem là một cộng tác viên đắc lực của Thiên Chúa. Vậy ta có thể học hỏi nơi
thánh nhân điều gì để trở nên một cộng tác viên đắc lực, tham gia vào trong đời
sống Giáo hội, với mong muốn góp phần mình vào việc loan báo niềm vui tin mừng
của Chúa.
Theo
trang Wikipedia, từ Cộng tác (Collaborare/
Collaboration) có nghĩa là tiến trình của hai hoặc nhiều người làm việc chung
với nhau để hoàn tất một công việc hoặc đạt tới một mục tiêu.
Vì
thế, trong khi giải quyết vấn đề, mỗi người cần phải đặt lợi ích chung trên lợi
ích cá nhân của mình, ngang qua sự dấn thân và hy sinh; đồng thời cũng cần phát
triển chiều sâu nội tâm của hành vi và giao tiếp để dẫn đến sự thành công của
nhóm.
Những
kỹ năng tương quan giữa cá nhân với nhau cần được phát triển như: sự cảm thông,
kiên nhẫn, linh hoạt, kiên trì, đối thoại, và biết chia sẻ trách nhiệm công
việc và nguồn lực. Chúng ta có thể nói tất cả những yếu tố trên đã được khắc
hoạ đậm nét nơi Thánh cả Giuse, qua các biến cố: Truyền Tin, Giáng Sinh,
Xuất hành sang Ai Cập và trở về Nazareth; sau đó là sự kiện tìm gặp Chúa Giêsu
trong đền thờ cũng như trải dài trong 30 năm sống đời ẩn dật của Chúa Giêsu. Ở
mỗi giai đoạn dù khó khăn hay thuận lợi trong sứ vụ được giao, Thánh Giuse đều
luôn vui vẻ âm thầm tham gia một cách tích cực nhất có thể.
-
Ngài cộng tác với Đức Maria, người bạn đời của mình bằng sự yêu thương, cảm
thông, tin tưởng và chia sẻ có trách nhiệm.
-
Ngài cộng tác với Thiên Chúa bằng sự khiêm nhường, tin tưởng và hoàn toàn vâng
phục thánh ý của Thiên Chúa.
Chính
nhờ sự cộng tác đầy trách nhiện và dạt dào yêu thương của Thánh cả Giuse mà con
trẻ Giêsu càng lớn lên càng “tăng trưởng về khôn ngoan và ân nghĩa
trước mặt Thiên Chúa và người đời” (Lc 2,52), Ngoài sự hấp thụ nền
giáo dục lành mạnh của thánh Giuse, trẻ Giêsu còn được thánh nhân truyền thụ
cho cái nghề thợ mộc để phụ giúp gia đình và tự nuôi sống bản thân mình. Vì thế
mà nhiều lần Đức Giêsu được nhìn nhận như là “con của bác thợ mộc.” (Mt
13,55), và thậm chí là anh “thợ mộc” (Mc 6,3).
Theo
một cách nhìn nào đó của người đương thời, thì người con trẻ Giêsu đã
được thừa hưởng sự chúc lành từ người cha nuôi của mình. Đức Giêsu đã đón nhận
nơi người cha nuôi của mình những đức tính tốt đẹp và những khả năng vượt trội
trong tinh thần tham gia để chuẩn bị vững vàng cho việc thi hành sứ mạng loan báo
tin mừng cứu độ sau này.
Sứ
vụ trông nom Đấng Cứu Thế của Thánh Giuse đã hoàn tất khi Chúa Giêsu trưởng
thành và bắt đầu đời sống công khai. Cũng kể từ đó vai ‘kép phụ’ của Thánh
Giuse hình như không bao giờ được Thánh kinh nhắc tới nữa, nhưng “người
cha ấy dù có tắt thở, ông vẫn không chết, bởi ông đã để lại người con
giống như mình” (Hc 30,4). Đó là lời của sách Huấn Ca nói đến. và lời
ấy thật đúng đắn trong trường hợp của Thánh Giuse, người cha nuôi của Chúa
Giêsu.
Noi
gương thánh cả Giuse, xin cho mỗi người chúng ta học biết cách trở nên những
cộng sự viên đắc lực và tín trung của Chúa trong sứ vụ tham gia vào đời sống
Giáo hội bằng cách khiêm tốn yêu thương phục vụ, sẵn sàng hy sinh chăm sóc và
đào luyệ những người mà mình có trách nhiệm, cũng như ý thức luôn chu toàn thật
tốt những công việc mà mình được Chúa và Giáo hội giao phó.
Nguyện
xin cha thánh Giuse bảo trợ, gìn giữ và chúc lành cho mọi người, đặc biệt cho
quý anh em trong giới gia trưởng chúng ta.
SUY
NIỆM 2: THÁNH GIUSE MẪU GƯƠNG HIỆP
HÀNH
Mừng
kính trọng thể Lễ Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức trinh nữ Maria, hòa nhịp trong
bố cảnh Hội Thánh đang “hướng tới một Hội Thánh hiệp hành: hiệp thông-tham
gia-sứ vụ”.GH như mời gọi chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Thánh Cả Giuse
để học đòi nơi ngài lối sống hiệp hành.
Có
lẽ, ai cũng hiểu hiệp hành nghĩa là cùng đi với nhau
trên một con đường, là đồng hành và sẻ chia cùng một “lối sống và sứ mạng
của Hội Thánh.” Trong một Giáo hội hiệp hành, mọi thành phần Dân Chúa
đều được mời gọi “đi chung” và “đi cùng trên một con đường” theo
Chúa Kitô dưới sự hướng dẫn chủa Chúa Thánh Thần.
-
Nếu trong Cựu ước Thiên
Chúa hằng đồng hành để bảo vệ,che chở và giải thoát Dân Người khỏi những đại
họa, như “400 năm nô lệ bên Ai Cập hay 70 năm lưu đày tại Babylon”, thì
khi đến thời Tân ước, Con Thiên
Chúa đã đến trần gian và đã hiệp hành với Dân Người. Chính Đức Giêsu đã đi
trên cùng một con đường với nhân loại, nói tiếng nói của con người,mang lấy
những yếu đuối, khổ đau như con người, và chết đau thương hơn cả con
người, nhằm đem lại ơn cứu chuộc cho con người.
Tuy
nhiên để cho Con Thiên Chúa nhập thể, nhập thế làm người và hiệp hành với nhân
loại chúng ta, thì Thiên Chúa rất cần đến sự tự do cộng tác của con người,
trong đó có sự vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa nơi Thánh cả Giuse.
Đọc
Tin mừng chúng ta ít khi nghe thấy lời nào của Thánh Giuse. Nhưng Thánh
Giuse lại có một vị trí và vai trò rất quan trọng trong chương trình cứu chuộc
của Thiên Chúa, bởi trong mọi nơi mọi lúc, ngài đều bước đi trong thánh ý của
Thiên Chúa, nên đã trở thành mẫu gương sáng ngời về lối sống hiệp hành, đáng
cho chúng ta noi theo:
1. Thánh Giuse mẫu gương của Hiệp thông.
Tin
mừng cho biết Thánh Giuse đã hiệp thông chặt chẽ với Đức Trinh Nữ Maria trong
nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa. Ngài đã âm thầm chia sẻ với Đức Maria
trong mọi biến cố vui buồn xảy đến nơi gia đình Thánh Gia. Ngài luôn hiện diện
sát cánh cùng với Đức Maria trên những nẻo đường gian khó. Cụ thể ngài đã dẫn
đưa Đức Maria đang mang thai về Bêlem để kê khai hộ khẩu, ở bên Đức Maria trong
những ngày mang thai khó nhọc và nâng đỡ Đức Maria lúc hạ sinh Hài Nhi Giêsu “nơi
hang đá bò lừa”, vì cả hai “không tìm được nhà trọ” (Lc 2, 7). Ít
lâu sau đó, ngài lại mau mắn lên đường, “đem Hài Nhi và mẹ Người trốn
sang Ai Cập” (Mt 2, 13-14). Định cư ở đất Ai Cập không bao lâu, ngài lại
phải nhanh nhẹn đưa gia đình trở về đất Israel và sinh sống tại vùng quê
Nazareth theo sự hướng dẫn của Chúa, qua lời mộng báo của Thiên Thần. (Mt
2,21).
2. Thánh Giuse mẫu gương của Tham gia.
Cùng
với Đức Maria, Thánh Giuse đã sẵn lòng đáp lời xin vâng, để tham gia vào chương
trình cứu độ như Thiên Chúa đã phán hứa từ ngàn xưa. Trong âm thầm và lặng lẽ, Thánh Giuse đã đảm nhận và gánh vác
trách nhiệm làm chồng và là cha nuôi của Đấng Cứu Thế mặc dù trước đó ngài “định tâm bỏ Đức Maria cách kín đáo”,
bởi lẽ ngài không biết vị hôn thê của mình mang thai là “do quyền năng Chúa
Thánh Thần.” (Mt 1,18-19). Rất có thể, Thánh Giuse đã từng muốn rẽ
sang một hướng đi khác để tự do bước đi trong kế hoạch của riêng mình. Giả như,
Thánh Giuse đã thật sự chọn bước đi một mình, hay nói cách khác, nếu Ngài không
đảm nhận trách vụ theo Thánh Ý Thiên Chúa, thì Ngài đã có thể thong dong bước
đi nhanh hơn trong kế hoạch của đời mình. Nhưng như thế thì liệu Ngài có thể đi
xa hơn trên hành trình cứu độ mà Thiên Chúa đã vạch sẵn cho nhân loại không?
Đây cũng là ý nghĩa của hiệp hành mà ĐGH Phanxicô nói đến trong Tông huấn
Christus Vivit: “Nếu bạn muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu bạn muốn
đi xa, hãy đi với những người khác” (CV s.167).
3. Thánh Giuse mẫu gương của Sứ vụ.
Để
thi hành sứ vụ cộng tác với Thiên Chúa, Thánh cả Giuse đã nỗ lực thi hành ơn
gọi của mình ngay trong đời sống gia đình qua việc: bảo vệ, chăm sóc, dưỡng
nuôi và giáo dục Đức Giêsu để Con Thiên Chúa được “khôn lớn, và được Thiên
Chúa cũng như mọi người thương mến.” (Lc 2, 52).
Từ
nơi ngôi làng Nazareth, không ai biết đến, vị cha nuôi đã lặng lẽ chuẩn bị
những hành trang cần thiết cho sứ vụ của Con Thiên Chúa. Nhờ sự hướng dẫn và
chăm sóc của Thánh Giuse mà Đức Giêsu đã lớn lên trong nhân đức và khôn
ngoan, chuẩn bị sẵn sàng cho sứ vụ công khai, loan báo tin mừng tình
thương cứu độ sau này.
Như
thế, từ nơi gia đình bé nhỏ, sứ vụ nối tiếp sứ vụ, tình yêu nối kết tình yêu,
và Hạt giống Tin mừng đã thật sự lan tỏa đến mọi người trên khắp cùng thế giới.
Trong
bài giảng Thánh lễ khai mạc Thượng Hội đồng Giám mục vào sáng Chúa Nhật mùng
10-10-2021, ĐGH Phanxicô đã nói: để có thể sống hiệp hành hoặc “đi với
nhau trên cùng một con đường”, chúng ta rất cần thực hiện tiến trình: “gặp
gỡ-lắng nghe-phân định”. Nơi Thánh Giuse, những cuộc gặp gỡ trực diện với
sứ thần đã “biến đổi và gợi ý cho Ngài những nẻo đường mới
mà Ngài chưa bao giờ nghĩ đến.” Qua sứ thần, Ngài đã tỉnh thức lắng nghe và
sẵn sàng mở lòng cho những hoạch định của Thiên Chúa. Nhờ sự nhạy bén phân định
Thánh Ý của Chúa, Ngài đã khiêm tốn tuân phục và mau mắn làm theo những lệnh
truyền ngay sau những lần gặp gỡ và lắng nghe lời sứ thần.
Thánh
Giuse đã thật sự từ bỏ ý riêng cùng với những dự tính cá nhân, để có thể hoàn
thành Thánh Ý của Chúa trong âm thầm, kiên định và tín thác. Và kết quả là
chương trình cứu độ của Thiên Chúa dành cho nhân loại đã được thực hiện!
-
Chiêm ngắm về cuộc đời của Thánh cả Giuse khi xưa, giúp anh em gia trưởng chúng
ta ý thức hơn về lối sống hiệp hành hành trong thời đại hôm nay. Đó là
tích cực và chủ động tham gia để bước đi cùng Thánh Giuse trên hành trình theo
Chúa Giêsu.
Biết
quan tâm nâng đỡ và dìu dắt nhau để chúng ta đi xa hơn trên hành trình đức tin.
Nhờ lối sống hiệp hành, mỗi chúng ta dễ dàng nhận ra những khả năng và giới hạn
của nhau. Nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, ta có thể dễ dàng nhận
ra ai đó trong anh chị em mình đang bước đi chậm chạp, nhưng điều đó không quan
trọng, quan trọng là chúng ta được cùng đi với nhau, để nâng đỡ và dìu dắt nhau
đi xa hơn trên cuộc hành trình đức tin.
Nhờ
lối sống hiệp hành, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra những khả năng và giới hạn của
nhau, để cảm thông, tôn trọng và đón nhận những khác biệt nơi từng ngôi vị.
Khi
ta có cảm thức cùng hiện diện và “cùng đi với nhau trên một con đường”, ta sẽ
để tâm quan sát và tìm cách thức xây dựng ích lợi chung, hầu có thể góp
phần bé nhỏ của mình vào trong đời sống chung của Giáo hội và Họ đạo.
Tinh
thần hiệp hành sẽ giúp chúng ta từng bước thích nghi và hội nhập, nhằm bớt dần
những ý riêng và sự dửng dưng, vô cảm cho những sinh hoạt mục vụ của cộng đoàn
Họ đạo. Một khi nhận ra những hoa trái tốt đẹp của “một Giáo hội hiệp hành”,
chúng ta sẽ có thao thức, sáng kiến và khao khát dấn thân nhiệt tâm hơn cho đời
sống hiệp thông, tham gia và sứ vụ mà Giáo hội đang mong muốn chúng ta
thực hiện trong ngàn năm thứ ba này.
Xin
cho chúng ta biết mở lòng trước những gợi ý của Chúa và GH gửi trao. Ước mong
mỗi chúng ta nhận ra giá trị, ý nghĩa và mục đích hết sức cần thiết của một
sống hiệp hành trong Giáo Hội, nơi Họ đạo và nơi gia đình chúng ta. Và xin cho
mỗi chúng ta luôn biết tích cực, chủ động tham gia tích cực vào đời sống giáo
hội, theo gương Thánh cả Giuse mà năm nay GH đang thúc đẩy và mời gọi.
- Hiệp thông: noi gương Thánh Giuse để
cùng với Mẹ Maria, chúng ta “đồng tâm nhất trí”
với nhau trong lời cầu nguyện và đồng thuận với nhau trong những hoạt động.
Chúng ta cần phải hiệp thông gắn bó mật thiết với Chúa nhờ
lời Chúa và bí tích Thánh thể. Chúng ta cùng hiệp thông để giúp nhau gia tăng những đặc sủng và khả năng Chúa ban nơi mỗi
người, biết đón nhận và giúp nhau thanh luyện bản thân để tích cực góp phần vào
sứ vụ xây dựng tình hiệp thông trong cộng đoàn, họ đạo, gia đình mình.
-
Tham gia: một chiều kích khác của Giáo hội hiệp hành,
đó là mỗi người chúng ta hãy tích cực đóng góp phần mình vào trong đời sống mục
vụ Giáo hội theo ơn gọi và chức năng của mình. Dù tôi đang đảm nhận trách vụ
hay vai trò nào, âm thầm hoặc công khai, hoạt động hay về hưu, mỗi chúng ta đều
phải chu toàn thật tốt bổn phận mà mình được GH trao phó. Với khả năng, sức lực
và thời gian Chúa ban riêng cho mỗi người, anh em hãy tận dụng ân sủng ấy để
chia sẻ, làm việc, dấn thân tham gia tích cực vào sứ vụ thăng tiến đời sống
giáo hội mỗi ngày nên tốt đẹp hơn.
-
Sứ vụ: Nghĩa là giới thiệu Chúa Giêsu và Tin Mừng
của Ngài cho tha nhân, và đây là sứ vụ của toàn Hội Thánh. Tham gia vào sứ vụ
này, anh em gia trưởng cần phải trung thành chức năng ngôn sứ
do Thiên Chúa trao ban ngày lãnh nhận bí tích rửa tội để quản trị đời sống
mình, giáo dục đức tin cho con cháu, rao giảng Tin Mừng cho lương dân và phục
vụ người nghèo, trong các lãnh vực: phụng vụ, đoàn thể, giáo dục, y tế và bác
ái xã hội... Chắc chắn, trên con đường thực thi sứ vụ ấy, anh em sẽ gặp
phải những thách đố và nhiều cám dỗ có khi chúng ta sẽ chán nản và muốn bỏ cuộc
khi gặp phải những khó khăn trong sứ vụ. Khi ấy anh em đừng vội nản chí sờn
lòng mà buông xuôi, bỏ cuộc, nhưng hãy biết kiên trì kết hợp mật thiết với Chúa. Người sẽ khai sáng và ban sức mạnh
giúp ta vượt thắng.
Ngoài
sự cậy dựa vào sức mạnh của Chúa, anh em cũng hãy chạy đến cùng Thánh Cả Giuse
để học hỏi và xin ngài hộ giúp, bởi niềm tin của GH dạy
chúng ta rằng: “xưa nay không ai kêu cầu Cha mà vô hiệu.
Cha có thần thế trước mặt Đức Chúa Trời đến nỗi người ta có thể nói rằng:” Trên
Trời thánh Giuse truyền lệnh hơn là van xin”.
Sau
nữa, như Thánh Giuse đã thực hiện trọn hảo tiến trình gặp gỡ, lắng nghe và phân định trong lối sống hiệp
hành, anh em chúng ta cũng nhìn lên Ngài để học hỏi và bước theo. Thật vậy,
trong ý định của bản thân, Thánh Giuse đã từng dự tính bước đi một mình và thực
hiện kế hoạch của riêng mình, khi Ngài “định tâm lìa bỏ” Đức
Maria “cách kín đáo”. Thế nhưng, nhờ cuộc gặp gỡ với sứ thần
và tỉnh thức lắng nghe, Ngài đã nhận ra Tiếng Chúa mời gọi. Sau những gặp gỡ,
lắng nghe, phân định ấy, Ngài đã hoàn toàn vâng phục Thánh Ý Chúa mà “đón rước” Đức Maria “về nhà mình”, Ngài
đã đồng ý cùng đi cùng với Đức Maria trên cuộc hành trình, cùng cưu mang và đưa
Con Thiên Chúa đến với nhân loại theo kế hoạch cứu độ nhiệm mầu của Thiên Chúa.
Tương tự, trong lối sống hiệp hành của mình, anh em gia trưởng chúng ta cũng
cần quan tâm đến việc gặp gỡ, lắng nghe và phân định.
-
Trước hết và trên hết, anh em phải thường xuyên gặp gỡ Chúa, Đấng yêu thương
chọn gọi và sai chúng ta ra đi thi hành sứ vụ của người gia trưởng, nhờ múc lấy
sức mạnh ân sủng và tình yêu của Chúa, anh em chúng ta mới có được những cuộc
gặp gỡ trực diện và chân thành với nhau. Nhờ sự bình tâm và có Chúa hiệp hành,
chúng ta mới sẵn sàng mở lòng khiêm tốn lắng nghe tiếng nói của nhau.
-
Anh em ý thức rằng, việc lắng nghe đích thực không bao giờ dễ dàng, nhưng Chúa
Thánh Thần sẽ làm việc nếu bản thân chúng ta luôn biết mở lòng và tỉnh thức đi
tìm Thánh Ý. Theo ĐGH Phanxicô, gặp gỡ và lắng nghe thôi chưa đủ; ta cần có sự
phân định sau đó: Chúa muốn tôi làm gì qua những cuộc gặp gỡ và lắng nghe tiếng
Chúa, Lời Chúa, giáo huấn giáo hội và lắng nghe nhau?
Cùng
với Thánh Cả Giuse và Mẹ Maria, chúng con xin tạ ơn Chúa đã cho chúng con cùng
nhau hiện diện, cùng nhau suy ngắm và ôn lại những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa
đã thực hiện trên cuộc đời của Thánh cả Giuse và tình thương mà Thiên Chúa dành
cho mỗi chúng ta.
Xin
cho chúng con biết mở lòng trước những gợi ý của Chúa gửi trao. Đặc biệt qua vị
cha nuôi Đấng Cứu Thế, ước mong mỗi chúng ta nhận ra: Bản thân cần sống hiệp hành như thế nào trong Giáo Hội, nơi cộng
đoàn họ đạo và gia đình? Và chúng ta sẽ giúp người khác sống hiệp hành ra sao
trong sứ vụ do Chúa và giáo hội trao phó cho mình? (St)
SUY NIỆM 3: THÁNH GIUSE MẪU GƯƠNG HIỆP HÀNH
Mừng
kính trọng thể lễ Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức trinh nữ Maria hôm nay, chúng
ta được mời gọi chiêm ngắm kỉ hơn về hình ảnh thánh cả Giuse, bổn mạng của Giáo
hội và của giới gia trưởng chúng ta trong tinh thần “hướng tới một Giáo hội
hiệp hành”.
Trong
chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Thiên Chúa đã mời gọi thánh Giuse cộng tác
với vai trò là người chủ gia đình. Người chủ gia đình ấy đã cùng với các thành
viên tham gia hiệp hành, làm nên một gia đình hiệp hành trọn vẹn. Ở nơi gia
đình ấy, người cha, người chồng là thánh Giuse đã tích cực hiệp hành trong mọi
cảnh huống của cuộc đời.
1. Trước hết Thánh Giuse hiệp hành trong mọi không gian.
Với
nhiều bối cảnh và trong những môi trường khác nhau của cuộc sống bôn ba, từ
việc đón vợ là Đức Maria về nhà mình, rồi cùng đồng hành với vợ trong những
ngày sắp sinh nở để trở về nguyên quán kê khai nhân khẩu theo lệnh của hoàng
đế, đến việc sinh con ở Belem, rồi lại tiếp tục đôn đáo trốn chạy sang Ai Cập
và rồi lại lên đường ngược trở về Nazaret...
Trong
tất cả các nơi ấy, chẳng có một nơi nào là ổn định cuộc sống để an cư lạc
nghiệp, được an nhàn thảnh thơi, thì lại phải vội vã lên đường. Nhưng Thánh
Giuse đã hoàn toàn hiệp hành cùng với Mẹ Maria và Hài Nhi Giêsu để bảo vệ Ngôi
Lời làm người, nhằm thực thi trọn vẹn chương trình và ý định của Thiên Chúa
trong tất cả những không gian ấy.
2. Thánh Giuse hiệp hành trong thời gian. Những năm đầu đời
của Chúa Giêsu nơi dương thế là khoảng thời gian căng thẳng, đòi hỏi sự hiệp
hành cao độ. 30 năm ẩn dật nơi làng quê Nazaret trong vai trò cha nuôi, tinh
thần hiệp hành trong tín thác vâng nghe. 3 năm Chúa Giêsu thực hiện sứ vụ rao
giảng công khai, biết bao buồn vui trộn lẫn đan xen nhau, vui khi Chúa Giêsu
được ủng hộ được tung hô, buồn khi Chúa Giêsu cũng bị ganh ghét cáo gian chống
đối... Người cha ấy vẫn âm thầm hiệp hành trong gia đình theo đường lối mà Chúa
muốn.
3. Thánh Giuse hiệp hành trong trải nghiệm đời sống đức tin. Ðã
có những ngày đức tin mờ tối, thánh Giuse dường như đã muốn âm thầm bỏ cuộc; đã
có những lúc đức tin như bị thử thách vượt quá sức, có lẽ thánh Giuse cũng cảm
nghiệm sự mệt mỏi chán chường. Vậy mà, thánh Giuse đã cùng mẹ Maria hiệp hành
trọn vẹn trong đức tin, đức cậy và đức ái.
Chúng
ta cảm nghiệm rằng sự nhiệt thành cộng tác vào chương trình cứu độ của thánh
Giuse là rất quan trọng, nó mang lại giá trị lớn lao. Thánh Giuse đã cùng đồng
hành với bạn mình là Đức Maria và con mình là Đức Giêsu trong mọi không gian,
trong thời gian với lòng yêu mến và đức tin trung kiên.
Lúc
nào đó trong cuộc đời, ta băn khoăn tự hỏi, giả như một thành viên trong gia
đình Nazaret hay thánh Giuse người gia trưởng không cộng tác vào chương trình
cứu chuộc của Thiên Chúa thì mọi sự sẽ ra sao?
Trong
đời sống Giáo hội, mỗi chúng ta được mời gọi theo gương thánh Giuse để cùng
chung chia vận mạng lịch sử, gánh lấy trách nhiệm mà không sợ gian khó. Tin
tưởng vào kế hoạch và sự quan phòng của Thiên Chúa, tin tưởng vào những người
cùng đồng hành mà Chúa gởi đến sống bên cạnh chúng ta, tin tưởng vào sức mạnh
Chúa ban cho chúng ta nhận ra rằng: "Ơn Ta đủ cho con."
Chúng
ta hãy cùng thánh Giuse tạ ơn Chúa vì Chúa đã đặt ta vào chương trình của Chúa,
Chúa đã nhớ đến ta trong muôn vàn tạo vật của Người. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì
Chúa đã trao cho chúng ta chương trình kì diệu của Chúa. Chúng ta hãy tự hỏi,
tại sao trong việc khó khăn này, Chúa lại chọn tôi mà không là ai khác? Tại sao
Chúa đặt tôi trong gia đình này, trong vị trí này? Phải chăng Chúa rất tin
tưởng nơi tôi?!
Tạ
ơn Chúa vì Chúa đã trao phó và gởi đến bên cạnh chúng ta những người đồng hành,
những người sống bên cạnh đem niềm vui ấm cúng và hạnh phúc, trong đó cũng
không thiếu những người đem đến thử thách, gian nan để rèn luyện sự chịu đựng
của chúng ta.
Ước
gì trong mỗi ngày sống, chúng ta xin Chúa cho ta được noi gương thánh Giuse,
hiệp hành trọn vẹn trong chương trình cứu độ mà Chúa muốn chúng ta thực hiện,
hiệp hành trong đời sống đức tin với những người sống bên cạnh chúng ta.
Lạy
Chúa, thánh Giuse xưa đã sống tinh thần hiệp hành triệt để, cộng tác hết mình
trong chương trình cứu độ của Chúa. Ngài đã lắng nghe, thấu cảm, hiệp thông và
tham gia trọn vẹn vào sứ vụ của Chúa Cứu Thế. Nhờ lời chuyển cầu của ngài, xin
Chúa cho chúng ta ý thức mình là thành phần của Giáo hội, một Giáo hội đang lữ
hành trên con đường đức tin, xin giúp chúng con biết tham gia vào sứ vụ Chúa
trao bằng việc cộng tác nhiệt thành.
Xin
cho chúng ta có được tâm tình tạ ơn tha thiết vì Chúa đã cho cộng tác vào
chương trình của Chúa. Amen.
(dựa vào ý tưởng của Nt. Maria Thérèse Bùi Thị
Minh Thùy, O.P)
SUY NIỆM 4: THÁNH GIUSE DẠY TA SÁM HỐI MÙA CHAY
Nếu mùa chay là mùa sám hối, trở về, thì có lẽ việc trở về sâu xa nhất
là trở về cõi lòng mình trong thinh lặng để nhận ra Thiên Chúa là Cha đầy yêu
thương, nhận ra tha nhân là anh em mình, nhất là nhận ra con người thật của
mình. Nhờ đó mà ta có những điều chỉnh cho đúng đắn phù hợp với ý Chúa hơn. Nếu
Giáo Hội đặt tháng kính Thánh Giuse vào Mùa Chay, thì mục đích đã rõ, bởi vì
ngài là khuôn mẫu của con người nội tâm, thinh lặng.
Xin Chúa cho chúng ta biết trân trọng và yêu quý đời sống thinh lặng,
nhất là biết học nơi thánh Giuse bài học về “đức thinh lặng”.
Không biết vô tình hay
hữu ý, năm nào cũng vậy GH đều mừng kính thánh Giuse
vào đúng lịch PV mùa chay. Chắn hẳn GH rất có lý. Bởi nếu mùa chay là
mùa sám hối, trở về thì có thể nói sự trở về sâu xa nhất chính là trở về với chính
mình và trở về với Thiên Chúa. Nói như vậy thì hơn ai hết Thánh Giuse
chính là mẫu gương tuyệt vời cho sự trở về, dạy chúng ta noi theo.
1. Trước hết thánh
Giuse dạy ta bài học trở về với chính mình trong thinh lặng.
Nếu đọc hết các
sách Tin Mừng, ta không thấy thuật lại bất cứ lời nào của thánh Giuse. Ngay cả
khi gặp trẻ Giêsu ở trong Đền Thờ Giêrusalem sau những ngày lo âu tìm kiếm hài nhi Giêsu,
cũng không thấy lời nào hé lộ của Thánh Giuse. Phải chăng, qua đó Thánh Kinh
muốn đề cao giá trị của sự thinh lặng nơi thánh cả Giuse. Đúng vậy,
- Thinh lặng là thái độ hết
sức quý giá: Người
đời thường nói: "Lời nói là bạc, im lặng là vàng". Thinh lặng quý hơn
lời nói, vì nói chỉ là bạc nhưng im lặng mới là vàng. Nhờ thinh lặng mà thánh
Giuse có thời giờ kết hiệp mật thiết với Chúa, dễ dàng nhận ra thánh ý Thiên
Chúa mà thực hiện trong đời sống mình.
- Thinh lặng là biểu hiện
của sự hiểu biết: Ông
bà ta vẫn nói: “Ngôn giả bất tri, tri giả bất ngôn”; nghĩa là người không biết
thì hay nói vì tưởng người khác không biết, ngườì biết thì lại không nói, vì
nghĩ rằng mọi người đều biết. Heidegger khuyên chúng ta thực tập thinh lặng,
bớt nói, bớt phát biểu, bớt bàn tán….không phải để ta nên ngu muội, vô tri,
nhưng để cho tâm khảm và suy nghĩ của chúng ta hoà quỵện với sinh linh vạn vật,
và chỉ khi đó chúng ta mới có thể thấu đạt hết mọi ngóc ngách, thông tường mọi
thế thái biến chuyển trong sự biểu đạt khôn cùng của nhân sinh và của nhiên
giới. Đó cũng là ý nghĩa mà nhà thơ tài danh của Ấn Độ Rabindranath Tagore muốn
chuyển tải khi ông viết: “Nước trong chậu thì sóng sánh; nước trong biển cả thì
thẫm đen.....”
Chính nhờ sự thinh
lặng trong đêm vắng mà Thánh Giuse đã nhận ra được ý muốn của Chúa, lắng nghe
được Lời Chúa nói. Phân biệt được điều gì đúng, điều gì sai mà chọn lựa cách
thế thực hiện sao cho đẹp ý Chúa nhất. Nên ngài xứng đáng được gọi là “đấng
công chính”.
- Thinh lặng chính là thầy
dạy khôn ngoan: Nhìn
vào đời sống, chúng ta thấy rằng mình đã sai lỗi quá nhiều trong lời nói. Bởi
vì “đa ngôn thì đa quá”. Nói nhiều thì trở nên nói dai và kéo theo nói dở, nói
ẩu và dại. Bởi đó hãy thận trọng trong lời nói. Ném một lông vịt vào trong gió,
thì làm sao nhặt lại được. Một lời nói ra, bốn ngựa đuổi theo cũng không
kịp “tứ mã nan truy” là vậy. Cho nên lời nói có thể trở thành nguy cơ
đánh mất tình thương, chia cắt tình thân và gây nên đau khổ cho nhau.
Vậy ta hãy học cùng
thánh Giuse bài học thinh lặng, nhất là trong nhữn giây phút căng thẳng và sóng
gió. Bởi nếu biết thinh lặng đúng lúc, ta sẽ chặng được 90% đổ vỡ đáng tiếc, vì
thinh lặng là thái độ khôn ngoan nhất của con người và là phương thuốc chữa
lành những sai lầm và tội lỗi cho chúng ta.
Truyện kể rằng: Xưa kia
một vị vua Ấn Độ, muốn thử nhân tài của một nước Chư hầu, ông liền
gửi tới nước này ba pho tượng vàng, giống hệt nhau. Vua Ấn Độ yêu cầu
vua nước Chư hầu phân biệt ba pho tượng vàng trên, đâu là pho tượng
quí giá nhất.
Vị vua
nước Chư hầu liền triệu tập các nhà thông thái tới để đánh giá ba pho
tượng vàng để tìm xem pho tượng nào quí giá nhất. Các nhà thông thái cho rằng,
muốn biết được giá trị của mỗi pho tượng thì phải căn cứ vào trọng lượng, vào
tuổi vàng tốt xấu, hoặc vào gia trị nghệ thuật. Nhưng rồi các nhà thông thái
đành bó tay, vì ba pho tượng này giống hệt nhau về nghệ thuật, khối lượng và
tuổi vàng.
Vị vua
nước Chư hầu rất buồn. Ngài liền cho loan báo khắp nước: Ai tìm được
bí mật giá trị của mỗi pho tượng sẽ được trọng thưởng.
Có một người tù, biết
chuyện nên xin được xem thử ba pho tượng và ra điều kiện là nếu anh ta tìm ra
giá trị hơn kém của ba pho tượng ấy, thì cho anh được tự do.
Lập tức nhà vua cho
anh xem ba pho tượng. Vừa ngó xong ba pho tượng, anh ta xin một cọng rơm. Và chỉ
trong ít phút, anh đã khám phá ra giá trị hơn kém của ba pho tượng vàng ấy.
- Anh lấy cọng rơm
chọc vào lỗ tai pho tượng thứ nhất, thì thấy cọng rơm xuyên từ lỗ tai này sang
lỗ tai kia, anh bảo: “đây là pho tượng ít giá trị nhất, vì nó tượng trưng cho
hạng người nghe điều gì ở tai này thì lập tức ra tai kia, không biết ghi nhớ,
không hề biết để tâm gì suy nghĩ điều đã nghe”.
- Anh ta lại lấy cọng
rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ hai, thì thấy cọng rơm đi từ lỗ tai chạy
xuống miệng pho tượng. Anh bảo: “pho tượng này hơn pho tượng trước là vì nó
tượng trưng cho hạng người biết nghe, biết nhớ nhưng mắc khuyết điểm là: vừa
nghe được gì đã vội nói ngay, không suy nghĩ xem điều mình nghe đúng hay sai,
nói ra có lợi hay có hại”.
- Anh lại lấy cọng rơm
chọc vào lỗ tai pho tượng thứ ba, thì thấy cọng rơm đi từ lỗ tai chạy xuống
bụng. Anh nói: “pho tượng này quý giá nhất, vì nó tượng trưng cho hạng người
biết nghe, biết nhớ, biết để lòng suy nghĩ, biết ghi vào tâm dạ mình.
Vua nước lớn nghe được
lời giải đáp của thần dân nước nhỏ thì vô cùng kính nể. Ông về nói với các
quan trong triều: “Nước họ có người thông minh tài giỏi như vậy, hẳn nước họ là
nước mạnh mẽ, hưng thịnh, ta nên giao hoà với họ chứ không nên giao chiến”.
2. Thứ hai thánh Giuse dạy
ta bài học về sự trở về với Chúa trong tín thác và sự vâng phục.
Nếu ông Giacaria nghi
ngờ về ý định của Thiên Chúa qua biến cố truyền tin nơi đền thờ. Và Mẹ Maria đã
ngỡ ngàng trước lời mời gọi của Thiên Chúa qua lời truyền tìn của sứ thần
Gabriel, thì thánh Giuse lại hoàn toàn vâng phục không một lời chấp vấn hay bối
rối gì cả.
Thánh Kinh thuật lại:
Khi biết được Đức Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần, Thánh Giuse
đã không ngần ngại nhận Đức Maria về nhà mình để chở che và nuôi dưỡng. Nhận
lãnh Đức Maria về nhà ,cũng đồng nghĩa Thánh Giuse giải cứu Đức Maria khỏi búa
rìu dư luận và thoát khỏi án tử. Khi bảo trợ Đức Maria cũng có nghĩa Thánh
Giuse góp phần bảo trợ Hài Nhi Giêsu nơi cung lòng Đức Maria được an toàn. Vì
khi ấy hài nhi Đức Giêsu được sinh ra một cách hợp pháp, đưa Đức Giêsu vào
trong dòng tộc vua Đavít, đúng như lời các ngôn sứ tiên báo từ ngàn xưa.
Vâng phục ý Chúa,
không chỉ bảo trợ cho Hài nhi Giêsu sinh ra hợp pháp mà thánh Giuse còn bảo
toàn mạng sống của Đức Giêsu khỏi nanh vuốt của vua Hêrôđê, qua sự kiện nhanh
chóng đem mẹ Người và Hài Nhi Giêsu vượt đường xa hiểm trở gần 500 cây số xuyên
qua sa mạc dài hơn 200 km không một bóng cây, không một ngọn cỏ, không một giọt
nước, rất gian khổ để đến Ai-cập tị nạn. Sau khi tình hình yên ổn, một lần
nữa thánh Giuse lại nghe theo lời báo mộng của Thiên sứ, bỏ đất Ai-cập đem gia
đình trở về quê hương xứ sở, và định cư tại Nagiarét để chăm sóc nuôi dưỡng
thánh gia bằng chính công sức lao động chân chính của mình với nghề thợ mộc.
Còn chúng ta thì khác,
chúng ta thường tìm ý mình hơn là ý Chúa. Và mỗi khi gặp phải những tai ương
hoạn nạn, chúng ta thường kêu trách và xúc phạm đến Chúa, vì chúng ta cho rằng
vâng lời chỉ là một hành động hèn nhát, mất tự do và chôn vùi nhân phẩm mình.
Thực tế cho thấy,
không phải lúc nào chúng ta cũng biết được kế hoạch của Thiên Chúa dành cho
chúng ta. Chúng ta chỉ biết rằng đường lối của Chúa thì khác với đường lối
của ta, nhưng lại là đường lối tuyệt vời nhất dành cho ta. Vì thế, ta hãy
tín thác và vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Nhờ thế ta mới trở nên những
người tôi trung và khôn ngoan như thánh cả Giuse.
Truyện kể rằng: Có 3 cái cây
trên một ngọn đồi trong rừng, cùng tranh luận với nhau về những hi vọng và giấc
mơ tương lai của mình...
- Cái cây đầu tiên
nói: “Tôi hi vọng một ngày nào đó tôi sẽ trở thành tủ đựng vàng bạc châu báu.
Tôi sẽ được nhét đầy vàng, bạc và ngọc quý, được trang hoàng với nghệ thuật
chạm khắc cầu kỳ và mọi người sẽ thấy rằng tôi rất đẹp”.
- Đến lượt mình cây
thứ hai nói: "Tôi ao ước sẽ được là một con thuyền mạnh mẽ. Tôi sẽ chuyên
chở các vị vua và hoàng hậu đến mọi nơi trên thế giới. Mọi người sẽ cảm thấy an
toàn khi ngồi trên thuyền tôi vì thân tàu mạnh mẽ và vững
chắc".
- Cuối cùng cây thứ ba
mơ ước: "Tôi muốn được là một cây cao lớn và mạnh mẽ nhất trong rừng. Mọi
người sẽ nhìn thấy tôi trên ngọn đồi, nhìn lên các cành của tôi và biết rằng
tôi đang vươn cao và gần bầu trời đến mức nào. Tôi sẽ mãi là cái cây vĩ đại
nhất và mọi người sẽ luôn nhớ đến tôi".
Sau nhiều năm cẩu
nguyện, ngày mong đợi của chúng cũng đến. Ngày nọ có một nhóm người lấy gỗ đến
khu rừng đó.
- Một người trong bọn
họ tiến đến bên cây thứ nhất và nói: "Cây này trông có vẻ chắc lắm đấy.
Tôi nghĩ là tôi sẽ bán nó cho anh thợ mộc" và anh bắt đầu đốn cây. Cái cây
cảm thấy rất hạnh phúc vì nó nghĩ rằng anh thợ mộc sẽ dùng nó để đóng thành một
hộp đựng đồ quý giá...
- Nhìn thấy cây thứ
hai, người thợ rừng bảo: "Cây này cũng chắc lắm đấy, ta sẽ bán nó cho một
hãng đóng thuyền". Cây thứ hai vô cùng sung sướng vì nghĩ rằng mình sắp
được đóng thành một con thuyền lớn.
- Khi người thợ rừng
tiến đến gần cây thứ ba, nó cảm thấy thật sợ hãi bởi vì nó biết rằng nếu ông ấy
hạ nó xuống thì giấc mơ của nó sẽ không thể nào thành hiện thực được. Một người
thợ bảo "Tôi chưa có dự định gì đặc biệt, nhưng tôi sẽ chặt cái cây này
xuống để dành". Và ông ta liền cưa nó xuống.
- Khi cây thứ nhất đến
tay người thợ mộc, ông đóng nó thành máng ăn cho ngựa. Sau đó ông ấy đặt nó
trong chuồng ngựa và chất đầy cỏ khô lên. Đây không phải là điều cây này mơ
ước.
- Còn cây thứ hai, nó
được xẻ ra và đóng thành một cái thuyền nhỏ dùng câu cá. Mơ ước được trở thành
một con thuyền mạnh mẽ và được chở các vị vua xem như kết thúc.
- Cây thứ ba thì bị cưa
thành những thanh gổ lớn và được xếp vào một góc tối tăm, hôi
hám.
Rồi năm tháng trôi
qua, những cái cây đã quên hết ước mơ của mình. Thế rồi một ngày nọ một người
đàn ông và một phụ nữ đến bên chuồng ngựa. Cô ấy sinh nở tại đây và họ đặt đứa
bé nằm trong lớp cỏ khô trong máng ăn được đóng từ cây thứ nhất. Người đàn ông
ao ước có được một cái giường cũi cho đứa bé và ông ấy đã sử dụng cái máng với
mục đích này. Cái cây thứ nhất cảm nhận được tầm quan trọng của việc này và nó
biết rằng nó đang giữ trong tay một tài sản quý báu nhất.
- Vài năm sau, có một
nhóm người bước lên chiếc thuyền câu được làm từ cây thứ hai. Một người đàn ông
mệt mỏi và ngủ thiếp đi. Trong khi đoàn người đang lênh đênh trên biển, một cơn
bão lớn nổi lên và cái cây không nghĩ rằng mình đủ mạnh để đưa họ qua cơn sóng
to gió lớn này. Họ đánh thức người đàn ông đang nằm ngủ, ông ấy đứng dậy và
phán bảo: "Biển yên sóng lặng". Ngay tức thì cơn bão tan
biến. Trong lúc này cây thứ hai biết rằng nó đang được chở vị vua cao cả trên
hết các vị vua trong thuyền.
- Cuối cùng cũng có
người đến và mang cái cây thứ ba đi. Nó được khiêng qua các con đường. Suốt dọc
đường người ta nhạo báng người đàn ông đang khiêng nó. Khi họ lên đến đỉnh đồi,
người đàn ông kia bị đóng đinh trên cây và bị treo ở đó cho đến chết. Ngày Chúa
nhật đến, cái cây cảm thấy mình đủ mạnh để đứng trên đỉnh đồi và thật gần với
Thượng Đế bởi vì Chúa đã bị đóng trên thân mình của nó.
Do vậy, khi mọi việc
diễn tiến không đúng với những gì ta mơ ước, hãy luôn tin tưởng và phó thác vào
quyền năng và tình thươn của Chúa, bởi vì Người luôn luôn có sẵn kế hoạch cho
chúng ta. Hãy vững tin rồi chúng ta sẽ nhận được quà tặng từ Người. Giống như
những cây kia, cuối cùng cũng đạt được giấc mơ cao đẹp của mình, tuy không hoàn
toàn giống như những gì chúng nguyện cầu, nhưng lại tuyệt hảo nhất vượt trên
mọi ước vọng sâu xa của chúng.
Lạy Chúa, giữa bao triết lý và lắm luồng tư tưởng trong xã hội này, chúng con phải chọn lựa như thế nào?. Giữa những nền văn hóa đa dạng và những nền văn minh phức tạp, chúng con biết đâu là đúng, đâu là sai? Xin cho chúng con, đặc biệt là quý anh em gia trưởng, biết học nơi thánh Giuse bài học của thinh lặng để trở về với chính mình và với Chúa. Xin cho chúng con biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi hơn là tiếng đời thúc đẩy mà cố gắng thi hành theo ý muốn của Chúa với hy vọng trở nên công chính theo gương thánh cả Giuse mà chúng con mừng kính trọng thể hôm nay. Amen.
TÂM TÌNH SAU LỄ
Trong
tông thư “Patris Corde” (Trái tim của người cha”, được Đức Thánh Cha Phanxico
công bố ngày 08/12/2020, nhân dịp kỉ niệm tròn 150, Đức Giáo Hoàng Pio IX bạn
hành sắc lệnh Quemadmodum Deus (cũng như Thiên Chúa) và tuyên bố chọn thánh
Giuse làm đấng bảo trợ cho toàn thể GH Công giáo.
ĐTC
Phanxicô nêu lên 7 đức tính như là những chiều kích linh đạo nơi thánh Giuse
(người cha âm thầm yêu thương, dịu dàng, vâng phục, đón nhận, can đảm và sáng
tạo, làm việc, trong bóng tối) nhằm mời gọi các tín hữu noi gương bắt chước
trên con đường nên công chính. Đó cũng lã là những đức tính cần thiết tôi muốn
cầu chúc cho quý anh em gia trưởng nhân ngày mừng bổn mạng hôm nay.
BỐN CÁCH NOI GƯƠNG THÁNH GIUSE HÀNG NGÀY
Tác giả: Philip Kosloski
Chuyển ngữ và biên tập: Phêrô Phạm Văn Trung
Từ: aleteia.org (14/12/2020
Để
tôn vinh Thánh Giuse thì những lời cầu nguyện và lòng sùng kính là quan trọng,
nhưng điều quan trọng hơn vẫn là noi gương cuộc đời và gương
sáng của Thánh cả Giuse.
"Cha Louis Lallemant, đã
chọn Thánh Giuse làm mẫu mực cho đời sống nội tâm, và mỗi ngày cha đều thực
hành các bài tập sau đây để tôn vinh Thánh Giuse."
1. LẮNG NGHE CHÚA THÁNH THẦN: Đầu tiên là nâng cao tâm
trí của mình lên cõi lòng của Thánh Giuse và suy xét xem Ngài đã vâng theo
thế nào trước sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần. Sau đó, xét lòng mình, tự hạ
mình xuống vì những lần chống đối của chính mình, và tự động viên mình làm theo
những linh cảm của ân sủng một cách trung thành hơn.
2. KẾT HỢP CẦU NGUYỆN VỚI CÔNG VIỆC: Điều thứ hai là lưu tâm
đến sự trọn hảo mà Thánh Giuse đã có khi kết hợp đời sống nội tâm với nghề nghiệp trong hoàn cảnh sống
của Ngài. Sau đó ngẫm lại cuộc đời của chính mình, chúng ta xét xem có
khuyết điểm nào để sửa chữa không. Bằng việc thực hành thánh thiện này,
Cha Lalemant đã đạt được sự kết hợp tuyệt vời với Thiên Chúa và biết làm cách
nào để duy trì sự kết hợp đó giữa những công việc có vẻ như gây mất tập trung
nhất.
3. LÒNG SÙNG KÍNH ĐỨC TRINH NỮ MARIA: Thứ ba là hiệp nhất về
mặt thiêng liêng với Đức Maria, là Mẹ Thiên Chúa; và quan tâm đến những
soi sáng đáng ngưỡng mộ mà thánh Giuse đã có được khi Ngài suy tưởng về sự đồng
trinh và thiên chức làm mẹ của Đức Maria. Cha Lalemant khuyến khích chúng
ta yêu mến vị tổ phụ thánh thiện này vì tình yêu của Thánh Giuse dành cho vị
phu nhân thánh thiện của Ngài.
4. TÔN THỜ CHÚA HÀI ĐỒNG: Điều thứ tư là thể hiện
sự tôn thờ sâu lắng và thi hành các công việc phục vụ của người cha như Thánh
Giuse đã dành cho Hài Nhi Giêsu. Cha Lalemant đã xin được phép cùng với
Thánh Giuse tôn thờ, yêu thương và phục vụ Con trẻ thần linh này với tình yêu
mến và sự tôn kính sâu sắc nhất.
(Nguồn: https://phatdiem.org/)
* Mùa chay: Mt 20, 17-28
Suy niệm 1:
Tham
vọng thế gian: làm lớn, đứng đầu là để được ăn trên ngồi trước, để hà hiếp, bốc
lột người khác.
Tham
vọng nước trời: làm lớn là động lực trao dồi khả năng nhằm để phục vụ mọi
người. Làm lớn không phải để ngồi trên cao chỉ tay năm ngón, nhưng là cơ hội
phục vụ nhiều người tốt hơn.
Khi
còn ở đại chủng viện, cha tu đức hay hỏi các thầy: tiêu chí đi tu để làm gì?
Dĩ
nhiên các thầy thánh thiện thì trả lời: để có điều kiện tốt hơn để phục vụ
Chúa, phục vụ mọi người. Ít thầy nào dám trả lời: đi tu để “làm cha”. Dẫu rằng
lòng luôn ước muốn đi tu là để “làm cha”. Bởi lẽ không làm linh mục, thì vào
đại chủng viện làm gì?
Ước
muốn làm linh mục của các thầy chủng viện là ước muốn chính đáng. Nhưng cần xem
lại quan niệm làm “cha đời” và “cha đạo” như thế nào?
Theo
Pastores Dabo Vobis, thì linh mục phải là hiện thân của Đức Kitô trong tư cách:
là Đầu và Tôi Tớ, là Mục tử và hôn phu của Hội Thánh. Làm linh mục không vì mục
tiêu danh vọng, thống trị, nhưng để phục vụ với con tim hiền hậu và khiêm tốn.
Các
tông đồ khi theo Chúa có lẽ cũng luôn muốn mình được chỗ tốt nhất, được vinh
dự, được làm lớn, làm thủ lãnh để sai bảo người khác nên đã nhiều lần thố lộ
ước muốn ấy bằng những cách thế khác nhau:
Bằng
cách trực tiếp đến xin Chúa cho một anh ngồi bên hữu, một anh ngồi bên tả, như
hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an con ông Dê-bê-đê.
Khi
đi ngày không được thì đi đêm, thấy đi đường thẳng không an toàn thì đi đường
vòng. Khi ngại miệng xin xỏ thì nhờ người thân như trường hợp mà tin mừng hôm
nay thuật lại. Bà mẹ của hai ông Gia-cô-bê và Gio-an đến thỉnh cầu Chúa Giêsu
cho hai đứa con yêu của bà được một cậu bên tả và một cậu bên hữu khi Chúa được
vinh quang.
Các
tông đồ khác tuy ngại không dám bộc bạch ước muốn đứng đầu nhưng cũng đã tỏ ra
khó chịu và bực mình với Gia-cô-bê và Gio-an vì lòng ghen tỵ, không muốn cho
hai anh em kia phần hơn.
Tập
thể nào, tổ chức nào cũng cần có người đứng đầu để điều khiển các sinh hoạt;
không thể có cảnh “cá đối bằng đầu” được.
Giáo
hội cũng thế, cần có người đứng đầu, lãnh đạo. Nhưng điều quan trọng Chúa muốn
là đừng dùng địa vị của mình để cai trị áp bức người khác, hay tự cao tự đại
nhưng để phục vụ. Không phải dùng quyền để bảo vệ cá nhân mình nhưng xử dụng
quyền để bảo vệ quyền lợi cho tất cả mọi người.
Lòng
kiêu ngạo tranh đấu để làm đầu mọi người vốn là điều không tốt, nhưng lòng ganh
tỵ thì cũng chẳng hay ho gì. Hai tật xấu này thường làm cản trở sự phát triển
đời sống cá nhân và tập thể về mọi phương diện, cần loại bỏ.
Tinh
thần cạnh tranh cũng không phải là xấu. Nhưng cạnh tranh để làm gì mới là điều
đáng nói. Cạnh tranh mà ghanh tỵ mà ghen ghét mà triệt hạ, đấu đá lẫn nhau thì
đáng lên án.
Xin
Chúa cho chúng ta luôn có tham vọng tốt để phát triển tối đa khả năng Chúa ban
và biết xử dụng những khả năng đó để phục vụ cho mọi người mỗi ngày tốt hơn.
Xin cũng cho chúng ta biết từ bỏ thái độ ghen tỵ khi thấy người khác thành đạt
và tốt đẹp hơn chúng ta.
Suy niệm 2:
Ước
mong được làm lớn, đứng đầu là điều chính đáng, không có gì xấu, nó chỉ xấu khi
ước muốn ấy trở nên tham vọng thống trị và hưởng thụ ích kỷ mà thôi. Đó chính
là sứ điệp mà tin mừng hôm nay Chúa muốn dạy cho các môn đệ cũng như cho chúng
ta.
Đọc
Phúc âm chúng ta gặp thấy ít là 3 lần Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của
Ngài. Nhưng đáng tiếc là cả 3 lần ấy đã không được các môn đệ lưu tâm và chia
sẻ. Tệ hơn nữa, các môn đệ còn tranh giành địa vị xem ai làm người làm lớn,
đứng đầu trong anh em.
-
Lần thứ nhất (Mt 16, 21), sau khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài,
thì Phêrô đã đứng ra can ngăn và phản đối quyết liệt đến nỗi Chúa Giêsu phải
quở trách nặng lời với Phêrô là “Satan”.
-
Lần thứ hai (Mt 17, 22-23), đang khi đi dọc đàng, Chúa Giêsu loan báo về cuộc
khổ nạn của Ngài, thì các môn đệ chẳng những làm lơ như không nghe mà còn lại
bàn tán với nhau xem ai là người lớn nhất.
-
Lần thứ ba là hôm nay, sau khi Chúa Giêsu nói về cuộc thương khó mà Ngài phải
chịu, thì ngay lúc ấy bà mẹ của hai ông Giacôbê và Gioan con của ông Dê-bê-đê
lại đến van xin Chúa Giêsu cho hai đứa con của bà được ngồi bên hữu và bên tả
Chúa Giêsu sau này khi đất nước được thành lập.
Đây
không chỉ là ước mong của bà mẹ mà còn là mong ước của hai người con bà. Bởi có
lần hai ông này cũng đã từng ngỏ lời xin với Chúa Giêsu hai chức quan to nhất.
Các
môn đệ khác cũng không nằm ngoài tham vọng ấy. Nên ngay khi bà mẹ hai ông này
xin chỗ nhất trong thiên hạ thì họ tỏ ra bực mình và đã tỏ ra thái độ khó chịu
với hai anh em nhà Dêbêđê.
Chắc
hẳn khi các môn đệ bỏ tất cả để dấn bước theo Chúa Giêsu không chỉ vì ngưỡng mộ
tài đức vẹn toàn của Thầy Giêsu mà trên hết các ông còn mong muốn được một chỗ
đứng quyền lực trong xã hội, sau khi mà Chúa Giêsu giải phóng đất nước khỏi ác
đô hộ của đế quốc Rôma và thâu giang sơn về một mối.
Ước
mong đó không xấu nên không thấy Chúa Giêsu phản đối, cấm đoán, nhưng điều Ngài
hướng đến làm lớn để làm gì mới là điều quan trọng. Chính vì thế Ngài hỏi mới
hỏi lại có “uống nổi chén đắng không?”. Nghĩa là có chấp nhận hy
sinh phục vụ và sẵn sàng chịu đau khổ để chu toàn sứ vụ lãnh đạo không?
Rồi
Ngài giải thích cho các ông biết được sự khác biệt giữa quan niệm làm lớn theo
kiểu thế gian và theo kiểu nước trời như thế nào.
Làm
lớn theo tinh thần của Chúa không phải là để thống trị, không phải là để được
ăn trên ngồi trước hay tìm tư lợi cho riêng mình hay phe nhóm mình nhưng là để
có cơ hội thuận lợi nhằm hy sinh phục vụ ích lợi cho nhiều người hơn.
Ước
mong làm lớn, đứng đầu không chỉ là mong ước của bản thân mỗi người trong chúng
ta mà còn là ước mong của những người làm cha làm mẹ. Đó là ước mong chính đáng
với mong muốn để ta thêm động lực phấn đấu thăng tiến bản thân, thay đổi cuộc
sống mỗi ngày nên tốt hơn.
Xin
cho chúng ta hiểu được ý nghĩa của hai chữ “chức trách” trong nhiệm vụ lãnh
đạo. Đối với người môn đệ Chúa, chức vụ càng lớn thì trách nhiệm càng nặng nề;
làm lớn theo tinh thần của Chúa là phải khiêm tốn cúi xuống phục vụ mọi người
với tinh thần hy sinh quên mình vì lòng yêu mến chân thành.
Thứ năm: Lc 16,19-31
Mùa
chay là thời gian thuận tiện để mời gọi chúng ta trở về sống lại các mối hiệp
thông với Chúa, với nhau và với chính mình. Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta
về mối sống hiệp thông với tha nhân qua việc giúp đỡ những ai nghèo khổ với tình
bác ái chân thành. Đó chính là cách thức đưa dẫn ta vào hưởng hạnh phúc nước
trời.
Với
cái nhìn tự nhiên theo thói đời thì ông phú hộ mà Chúa Giêsu nói đến trong bài
tin mừng hôm nay, xem ra cũng đáng khen! Ông chẳng làm gì nên tội. Không ăn
trộm ăn cắp ai, không cho vay ăn lời dù lãi chỉ bằng ngân hàng nhà nước, không
lấn ranh chiếm đất ai cả cho dù là trong ý muốn. Ông cũng chẳng lê lết sang nhà
hàng xóm để nhiều chuyện, cũng không thấy ông phiền trách hay nói hành nói xấu
ai. Đời ông không hề cờ bạc, không số đầu số đuôi. Cho dẫu ông có lắm tiền
nhiều của nhưng chẳng thấy ông đi bia om hay vào hàng quán ăn uống phung phí…
sống được như ông thời nay xem ra đã là tốt quá còn gì!
Phải
chi trái đất này chỉ một mình ông thì không có gì để nói. Phải chi xã hội này
mọi người đều giàu có như ông thì số phận ông ta đâu có hẵm hiêu và đau đớn đến
thế. Cũng tại cái anh Lazarô nghèo nàn và bệnh tật hiện diện trên thế gian này
nên cuộc sống giàu sang, sung sướng của ông đã trở nên nguy hiểm, bất an. Bất
an không vì sợ trộm cắp nhưng vì phải chia sẻ; nguy hiểm không vì tiệc tùng ăn
uống linh đình nhưng vì luật tình yêu đòi buộc ông phải thực thi tình bác ái.
Cuộc
đời luôn biến đổi không dò. Hôm qua là chủ nay có thể là đầy tớ, hôm qua giàu
có hôm nay lại nghèo khổ. Hôm nay là sung sướng thoải mái nhưng ngày mai biết
đâu lại gian lao, khốn khổ… Cuộc đời của ông phú hộ và Lazarô cũng đổi thay sau
cái chết. Giàu có, sung sướng, tiện nghị, yến tiệc linh đình nhưng thiếu chia
sẻ bác ái đã trở thành vực sâu u tối giam hãm nhà phú hộ muôn đời.
Chấp
nhận đau khổ, bệnh tật trong thân phận nghèo nàn, khiêm tốn không hề than
trách, nhưng một mực tin tưởng phó thác vào tình thương Chúa như Lazarô, đã trở
thành những bậc thang đưa ông lên cao vút đến nổi khoảng cách từ Lazarô đến nhà
phú hộ xa vời vợi không thể qua lại được.
Chúa
sẽ xét xử chúng ta về những việc làm bác ái ta đã làm hay không làm cho tha
nhân. “Nào những kẻ được Cha Ta chúc phúc hãy vào hưởng vinh quang cùng
Ta. Vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn…..” (Mt 25, 34)
Như
thế, ông phú hộ bị phạt không vì ông ta lắm tiền nhiều của, cũng không vì ăn
sang mặc đẹp, nhưng ông ta bị phạt bởi vì ông không biết dùng của cải tiền bạc
mà giúp đỡ người nghèo.
Xin
chúa cho chúng ta biết vâng lời Chúa và Giáo Hội, hằng ngày biết dùng của cải
Chúa ban mà làm lợi ích cho mình và tha nhân về phần hồn cũng như phần xác; và
cho chúng con dù giàu hay nghèo cũng luôn sống đẹp lòng Chúa, vâng theo thánh ý
Chúa để mai sau được hưởng hạnh phúc bên Chúa muôn đời.
Thứ sáu: Mt 21, 33-43. 45-46
Suy niệm 1:
Dụ
ngôn ám chỉ ông chủ vườn nho là Thiên Chúa.
Đầy
tớ ông chủ là các ngôn sứ.
Tá
điền là những người khước từ, không chấp nhận lời Thiên Chúa phán dạy. Cụ
thể là giới tư tế Do Thái giáo.
Người
con trai của chủ vườn nho là Giêsu.
Dụ ngôn vẽ lên hình ảnh đối lập giữa tình thương, lòng bao dung, sự
nhẫn nại của Thiên Chúa trước sự phản phúc vì tham vọng ích kỉ và lòng độc ác
của con người.
Bằng tình thương ông chủ đã tạo lập vườn nho và chuẩn bị đầy đủ những
phương tiện cần thiết để phát triển; rồi tin tưởng giao phó cho tá điền chăm
sóc, làm lợi.
Với tấm lòng bao dung, ông chủ đã lần lượt gửi những đầy tớ tin cậy của
mình đến để nhắc nhở, khích lệ các tá điền làm việc có trách nhiệm, nhằm sinh
lại nhiều hoa lợi cho chủ.
Cuối cùng với lòng nhẫn nại, ông chủ đã gửi đến chính người con yêu của
mình, với hy vọng các tá điền cảm nếm được tình thương sự quan tâm của ông chủ
mà thức tỉnh, lo chu toàn bổn phận.
Đổi
lại tình thương của chủ là sự bất cần của những tá điền. Họ không màn đến tình
thương và sự tin tưởng của ông chủ dành cho họ, nên họ đã chễnh mãn trong bổn phận canh tác và chăm sóc vườn nho.
Đổi
lấy tấm lòng bao dung của chủ là sự ích kỉ tham lam bất chính của các tá điền
nên đã dã tâm chiếm đoạt luôn hoa lợi của chủ.
Đổi
lấy sự nhẫn nại của chủ là sự nhẫn tâm của các tá điền. Họ sẵn sàng ra tay manh
động, độc ác giết chết luôn người con thừa tự của ông chủ và không ngại vứt xác
ra ngoài vườn.
Hình
ảnh của các tá điền trên không những ám chỉ các tư tế Do Thái xưa, mà ám chỉ
đến mỗi chúng ta.
Ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, Chúa đã thương chọn
tôi vào làm vườn nho của Ngài. Ngài đã xây dựng luật lệ, lập nên
các bí tích và dùng chính Lời Ngài mà chỉ dạy, bảo vệ và nuôi dưỡng đời sống
đức tin của chúng ta. Những thứ ấy ví như hàng rào, bồn đạp nho, vọng
gác trong vườn. Thế nhưng vì sự chễnh mãn, chúng ta đã không nghĩ đến tình
thương và sự ưu ái của Chúa, không lo vun trồng đức tin Chúa ban nên đã gạt bỏ
ngoài tai những lời Chúa dạy, không buồn thực thi lề luật Chúa, không thiết tha
với những ơn ích của các bí tích mang lại.
Với mưu cầu lợi ích cá nhân, chúng ta đã thực hiện những việc làm xấu
xa trái lại với những lời nhắc nhở chỉ bảo của các đấng bề trên, Giáo hội là sứ
giả của Chúa, gây ra gương mù, gương xấu cho những người trong
gia đình, trong khu xóm…. Đó là cách chúng ta giết chết những đầy tớ Chúa
gửi đến.
Biết bao lần trong đời sống, chúng ta cũng
đã bỏ ngoài tai lời dạy của chính con một Người là Đức Giêsu Kitô,
Con yêu dấu của Chúa Cha. Ấy là chúng ta đã nhẫn tâm giết chết chính Đức Giêsu
con yêu dấu của Thiên Chúa!
Rõ ràng Chúa muốn cứu độ mọi người, nhưng vẫn có
những hạng người biết lề luật nhưng không biết tuân giữ lề luật. Họ chỉ nói mà
không thực hành. Chúa Giêsu đã nhiều lần lên án họ và cảnh tỉnh cho họ biết
Nước Trời cũng sẽ vuột mất khỏi tay họ.
Lạy Chúa xin ban cho chúng con một tấm lòng thành
để chúng con luôn sẵn sàng lắng nghe và thực thi lời Chúa và Giáo huấn của
Giáo Hội.
Suy niệm 2:
Trong
cuộc sống này, điều quan trọng nhất là mỗi người cần phải nhận thức được bản
thân mình là ai, giá trị mình là gì, chỗ đứng của mình ở đâu và mình cần phải
làm gì? Đúng như người xưa có câu: “biết người, biết ta, trăm trận trăm thắng”.
Đừng
quá ảo tưởng về bản thân mình để rồi phải nhận lấy kết cục bi đát đầy thảm
thương như những tên tá điền sát nhân trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu đề cập đến
trong đoạn tin mừng hôm nay: “Ông chủ sẽ tru diệt bọn hung ác đó và cho
người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp hoa lợi”.
- Vì
không nhận thức được mình là ai. Nên những tá điền có ảo tưởng mình là ông chủ.
Từ đó tự mãn cho mình cái quyền định đoạt mọi thứ, nên đã ra tay giết
chết tất cả các đầy tớ, ngay cả người con yêu dấu của ông
chủ sai đến nhắc nhở họ.
- Do
không hiểu được giá trị của mình nằm ở đâu, nên những tá điền đã chểnh
mảng không chu toàn tốt bổn phận canh tác vườn do ông chủ tin tưởng
trao phó. Họ không biết rằng cuộc đời họ chỉ có giá trị một khi biết
vâng lời làm theo ý chủ mình. Bởi lẽ số phận sống
chết của họ hoàn toàn tuỳ thuộc vào quyết định của ông chủ.
- Cuối
cùng vì không biết mình đang đứng ở vị thế nào, cứ ngỡ mình là chủ, trong
khi mình chỉ là người quản lý. Vì thế họ mới có tham vọng chiếm
hữu tất cả vườn nho của chủ. Và sẵn sàng ra tay giết chết ngay
cả người con thừa tự của chủ mình.
Vườn
nho ấy là cuộc đời ta, gia đình ta, GH và là xã hội… chúng ta đang sống.
Tá điền ấy là mỗi chúng ta được Chúa yêu thương tin tưởng đặt vào nơi các môi
trường ấy. Chính vì thế đừng quên mình là ai, giá trị mình ơ chỗ nào,
và vị thế và trách nhiệm mình ra sao trước mặt Chúa là chủ của ta.
Xin cho chúng ta hiểu được mình là ai? Cảm nhận được tình thương Chúa yêu ta
như thế nào? Để ta cố gắng hơn trong việc chu toàn tốt
bổn phận được Chúa trao phó, với tất cả lòng tôn kính và yêu mến ngài.
Suy niệm 3:
Đoạn Tin Mừng hôm nay,
Chúa Giêsu cảnh báo mạnh mẽ về sự cứng lòng tin và thái độ khước từ tình thương
của Thiên Chúa của dân Do Thái nói chung và cách riêng những lãnh đạo tôn giáo.
Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu
muốn đề cập đến những vấn đề sau đây:
1. Tình yêu và lòng kiên nhẫn
của Thiên Chúa:
- Hình
ảnh ông chủ vườn nho thể hiện tình yêu và lòng kiên nhẫn vô bờ bến của Thiên
Chúa đối với con người. Ngài đã ban tặng cho chúng ta mọi ân huệ, mong muốn
chúng ta sinh hoa kết trái tốt lành.
- Dù bị khước từ và thậm
chí bị giết hại, Ngài vẫn không ngừng gửi đến những sứ giả, cuối cùng là chính
Con Một của Ngài, để kêu gọi chúng ta trở về.
2.
Sự cứng lòng và thái độ khước từ của con
người:
- Những tá điền sát nhân
tượng trưng cho những người cứng lòng tin, khước từ tình thương của Thiên Chúa
và tìm cách chiếm đoạt những ân huệ Ngài ban.
- Họ là những người lãnh
đạo tôn giáo Do Thái thời Chúa Giêsu, những người đã từ chối nhận Ngài là Đấng
Mêsia và tìm cách giết hại Ngài.
- Chúng ta cũng cần xét
mình xem, có khi nào ta cũng có những thái độ cứng lòng, khước từ tình yêu của
Chúa không?
3.
Hậu quả của sự khước từ:
- Dụ ngôn cho thấy hậu quả
tất yếu của sự khước từ tình thương của Thiên Chúa là sự mất mát và hủy diệt.
- Vườn nho sẽ bị lấy đi và
trao cho những người khác, những người biết trân trọng và sinh hoa kết trái.
Mùa Chay là thời gian
thuận tiện giúp chúng ta nhìn lại bản thân mình, hầu nhận ra những lầm lỗi
thiếu sót mà hoán cải đời sống để quay nẻo chính đường ngay.
Xin cho mỗi người trong chúng ta luôn biết trân trọng những ân huệ Chúa
ban mà tích cực sống yêu thương, công bằng và bác ái… với mong muốn góp phần xây
dựng một thế giới này mỗi ngày thêm tốt đẹp hơn. Được như thế thì mùa chay này
mới mang lại cho ta nhiều ơn ích thiêng liêng.
Thứ bảy: Lc 15,1-3.11-32.
Chúa
là Người Cha nhân hậu, giàu lòng lòng yêu thương, cảm thông và sẵn sàng tha thứ
những lầm lỗi của chúng ta, một khi chúng ta nhận ra sai lỗi và quyết tâm đổi
mới đời sống. Đó là nội dung của sứ điệp lời Chúa hôm nay gởi đến chúng ta. Xin
cho chúng ta cảm nhận được tình yêu của Chúa mà quyết tâm từ bỏ tội lỗi, quay
về sống trong ân sủng của Người.
Người
đời thường nói: con cưng là con hư. Nếu cưng không đúng cách sẽ làm hư hỏng con
cái. Nhưng con đã hư rồi thì liều thuốc duy nhất để chữa là tình thương.
Tin
mừng hôm nay, không trình bày cho chúng ta biết trước khi hai người con hư,
người cha đã yêu thương chúng như thế nào. Nhưng chỉ cho ta biết, người cha đã
dùng tấm lòng yêu thương tha thiết để cảm hóa hai đứa con sau khi chúng đã ra
hư đốn.
Người
con thứ: Nhẫn tâm cắt đứt tình cha và sẵn sàng bỏ nghĩa anh em, gom lấy nữa
phần gia sản gia đình ra đi phiêu lưu tìm cảm giác lạ. Từ nay thay vì ngủ nhà
cha, anh ngủ nhà trọ. Thay những bữa cơm đơn sơ ở nhà cha bằng những bữa tiệc
linh đình nơi nhà hàng sang trọng. Thay vòng tay yêu thương chân tình của cha
già, bằng những vòng tay ân ái gian trá của các kiều nữ trẻ trung xinh đẹp.
Nhưng
khách sạn dù có thoải mái, cơm nhà hàng dù có sang trọng đặc biệt, và nằm trong
vòng tay của các kiều nữ xinh đẹp dù êm ái, thì rồi anh cũng chẳng thấy bình an
và hạnh phúc. Kết quả của phiêu lưu tìm cảm giác lạ trong thác loạn đã làm anh
tan gia bại sản, thân xác tiều tụy và đau khổ, kiếp sống không ra con người.
Dẫu
thế tình cha vẫn ấm áp như ngày nào. Vui mừng chào đón người con như thuợng
khách. Sẵn sàng tha thứ, yêu thương. Tình yêu vẫn nguyên vẹn tha thiết và nồng
nàn như xưa.
Người
con cả cũng chẳng hơn gì đứa em hư hỏng. dù cần cù lam lũ, không hề bất tuân
lệnh cha. Nhưng đầu anh lại có nhiều toan tính, lòng anh đầy ích kỷ và ghen tỵ.
Trong khi mọi người vui mừng vì em mình đã chết nay sống lại đã mất nay tìm
thấy. Vậy mà anh lại kể công và phân bì với em mình cùng cha già. Trong khi
người cha không hề coi anh là người ngoài thì chính anh lại xem mình là kẻ xa
lạ vì không thừa nhận mình là con cha và là người anh của đứa con thứ: “
Cha coi đã bao năm con hầu hạ Cha, thế mà chưa bao giờ Cha cho lấy một con bê
con để ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con cha kia (không phải là em con), sau
khi nuốt hết của cải của cha với bọn đĩ điếm, nay trở về, cha lại cho con bê
béo ăn mừng”.
Thấu
hiểu hết lòng con, người cha ra năn nỉ con vào chia sẻ niềm vui và ân cần giải
thích cho con hiểu rằng: nó là em con và con là con cha. Cha muốn con vui trong
phận làm con và làm anh và hãy vui mừng và hãnh diện vì luôn được sống trong
tình thương của cha.
Hình
ảnh của hai đứa con trong dụ ngôn có lúc cũng hiện diện nơi mỗi chúng ta. Có
lúc ta cũng muốn chối bỏ chúa, bỏ đạo, bỏ nhà thờ. Có lúc chúng ta cũng muốn
phiêu lưu tìm cảm giác lạ quá độ của bia rượu, thuốc lá, cà phê, trai gái, bất
trung và sa đoạ như đứa con thứ. Cũng lắm lúc chúng ta sống trong ít kỷ tham
lam toan tính, tìm lợi mình, muốn hại người. nuông chiều và nuôi dưỡng lòng
ghanh tị. Cảm thấy khó chiụ khi ai đó giàu hơn chúng ta, giỏi hơn chúng ta, đạo
đức hơn chúng ta, được nhiều người thương mến hơn chúng ta.
Chúa
Người Cha thấu hiểu lòng của mỗi chúng ta. Nhưng Chúa cũng là Đấng giàu lòng
yêu thương tha thứ, mong muốn ta nhận ra lầm lỗi mà sửa đổi. Mùa chay là mùa
trở về, xin cho chúng ta biết bỏ đi con đường đi hoang tội lỗi mà
can đảm quay về nhà Cha để cảm nhận tình của Cha yêu ta là dường nào. Nhờ thế
ta quyết tâm đổi mới đời sống mỗi ngày nên tốt hơn, hầu xứng đáng với tình yêu
của Cha dành cho chúng ta.
SUY NIỆM
LỜI CHÚA TUẦN II MÙA CHAY
Lm. Minh Anh, Tgp Huế
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY NĂM B
CAI SỮA VÀ CHIÊM NGẮM
“Người đưa các ông đi
riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao”.
“Số phận của mỗi Kitô
hữu được viết giữa hai ngọn núi: Golgotha, nơi cai sữa; và Taborê, nơi chiêm
ngắm. Phẩm chất đời sống đức tin của mỗi người được quyết định bởi mức độ hy
sinh và chiêm ngắm của họ!” - Vima Dasan.
Kính thưa Anh Chị em,
Thật thú vị, ý tưởng
‘cai sữa và chiêm ngắm’ của Vima Dasan được gặp lại qua phụng vụ Lời Chúa Chúa
Nhật hôm nay. Sự trưởng thành trong niềm tin vào Thiên Chúa của bất cứ ai nhất
định phải trải qua hai giai đoạn không thể thiếu trên ‘hai ngọn núi’ cuộc đời
của họ!
Thiên Chúa không nhặt
những chiếc bình của con người để sử dụng mà trước hết không cai sữa cho họ và
huấn luyện họ. Ngài đã huấn luyện từ xa cho Abraham, “Hãy rời quê hương, bà con
và nhà cha ngươi để đến xứ Ta sẽ chỉ!”. Abraham phải dò dẫm, tập lắng nghe, và
Thiên Chúa đã chuẩn bị ông bằng việc cai sữa khỏi mọi tình cảm và của cải. Khắc
nghiệt nhất là việc ông phải hiến tế Isaac, con ruột, trên núi Môrigia - bài
đọc một.
Mùa Chay, ‘mùa lên
núi’, mùa bạn học biết việc ‘cai sữa’, mùa hiến tế những gì còn ràng buộc cái
tôi vốn đang dính trết với những gì thuộc thế gian. Tuy nhiên, đừng lo! Thiên
Chúa đã dự liệu. Núi Môrigia, nơi Abraham hiến tế con, còn có tên là núi ‘Chúa
sẽ liệu’; ở đó, ông nhận biết một Thiên Chúa có trái tim thương xót. Ngài tha
chết cho con ông! Nhờ đó, lòng tin của ông vào Ngài ngày càng tuyệt đối, và ông
sẽ là “Cha các kẻ tin”. Phaolô hẳn đã nhớ lại ngọn núi ân phúc này để nói đến
cái chết không thể thiếu cho ơn cứu độ nhân loại vốn cũng đã xảy ra trên một
ngọn núi ‘Chúa sẽ liệu’ khác, “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng
tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” - bài đọc hai.
Bạn và tôi phải đến
Môrigia, hoặc Golgotha đời mình, nơi chúng ta học cách ‘cai sữa’ và hiến tế
những gì yêu quý nhất, ‘những Isaac’ đời mình; đồng thời, phải đến Taborê, nơi
chúng ta sẽ học cách chiêm ngắm và cầu nguyện trong Thánh Linh. Vấn đề của Kitô
hữu thời hiện đại là nhiều người không còn muốn đến bất kỳ ngọn núi phát triển
tâm linh nào. Và đó là lý do tại sao một số trong chúng ta chậm trưởng thành
trong đời sống đức tin.
Một ngọn núi cấp thiết
khác không thể thiếu trong đời sống là ngọn núi chiêm ngắm và cầu nguyện. Trên
Taborê, Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ thoáng thấy Ngôi Vị thần linh của Ngài.
Việc chứng kiến vinh quang thần tính nơi Thầy mình hẳn sẽ giúp họ mỗi khi bị
cám dỗ nản lòng hay tuyệt vọng trước những quẫn bách hoặc những đòi hỏi thánh
thiện Ngài đặt ra. Cũng thế, bạn và tôi hãy thường xuyên sống lại những giây
phút ngọt ngào Chúa ban bằng việc chiêm ngắm và cầu nguyện hầu đủ sức vượt
những chướng ngại cuộc đời.
Anh Chị em,
“Người đưa các ông…
tới một ngọn núi cao”. Tất cả chúng ta cần phải rời xa nhau, thường xuyên lên
những ngọn núi đời mình trong một không gian thinh lặng để tìm lại chính mình
và nhận biết rõ hơn tiếng nói của Chúa. Nhưng chúng ta không thể ở lại đó! Cuộc
gặp gỡ với Thiên Chúa trong chiêm ngắm và cầu nguyện truyền cảm hứng cho chúng
ta một lần nữa để “xuống núi” và trở về thung lũng, nơi chúng ta gặp nhiều anh
chị em đang bị đè nặng bởi sự mệt mỏi, bất công, nghèo đói cả về vật chất lẫn
tinh thần và nâng đỡ họ.
Chúng ta có thể cầu
nguyện,
“Lạy Chúa, chẳng có
cuộc lên núi nào là dễ chịu, cho con yêu mến việc ‘cai sữa và chiêm ngắm’ mà
Chúa đã chuẩn bị cho con cách này cách khác!”, Amen.
Thứ hai: QUÁ ĐỖI KHẬP KHIỄNG
“Hãy nhân từ, như Cha
các con là Ðấng nhân từ!”.
Ngày kia, Paderewski
đến London công diễn; Parker, một nhạc sĩ tài năng, đến nghe. Quá cảm kích; về
nhà, Parker gọi người hầu, “Mang cây rìu cho tôi! Tôi chưa bao giờ nghe một bản
nhạc tuyệt vời đến thế; nếu phải so sánh, dẫu là một so sánh ‘quá đỗi khập
khiễng’, tôi chẳng là gì cả! Phải bổ cây đàn của tôi ra từng mảnh!”. Và dù
không làm thế, nhưng Parker nhận ra rằng, không bao giờ ông có thể trở thành
một Paderewski, may lắm là hơi giống ông ta! Để được vậy, ông cần một trái tim
vĩ đại như trái tim người nhạc sĩ vĩ đại!
Kính thưa Anh Chị em,
Parker “Cần một trái
tim vĩ đại như trái tim người nhạc sĩ vĩ đại!”. Thật thú vị, Lời Chúa hôm nay
tiết lộ, Thiên Chúa cũng có một trái tim vĩ đại; và thú vị hơn, nếu phải so
sánh về mức nhân ái, dù là một so sánh ‘quá đỗi khập khiễng’, Chúa Giêsu buộc
chúng ta lấy trái tim Thiên Chúa làm tiêu chí! Ngài nói, “Hãy nhân từ, như Cha
các con là Ðấng nhân từ!”.
Đó không chỉ là một đề
nghị, nhưng là một đòi buộc! Nhìn vào lịch sử cứu độ, toàn bộ mặc khải là một
tình yêu không mệt mỏi Thiên Chúa dành cho nhân loại. Ngài yêu nó với một trái
tim không biên giới. Cái chết thập giá của Con Một Ngài là đỉnh cao của câu
chuyện tình giữa Chúa và người, một chuyện tình lớn đến nỗi chỉ mình Thiên Chúa
hiểu! So với tình yêu vô bờ này, tình yêu con người sẽ luôn què quặt, chắp vá
và ‘quá đỗi khập khiễng’.
Trái tim con người thì
sao? Chúa Giêsu biết trái tim con người là một chiến trường! Hãy xem, chúng ta
thường tự đưa mình đi ‘khắp thế giới’ để tự bào chữa cho những bất công đã
chịu; hoặc mặc dù không còn nhớ đến những gì đã xảy ra, chúng ta vẫn thường tìm
cách ‘cung phụng’ những vết thương lòng. Tuy nhiên, sẽ dễ dàng hơn nếu bạn và
tôi biết nhìn vào trái tim người xúc phạm mình và không làm ngơ trước những
điều tốt đang có ở đó. Hãy đặt cược vào phía điều thiện và tin rằng, cuối cùng,
sự thiện hấp dẫn trái tim hơn là cái ác được thần tượng hoá! Nhìn vào trái tim,
Chúa Giêsu luôn đặt cược vào mặt tốt!
Những gì Đaniel thốt
lên trong bài đọc hôm nay cho thấy trái tim tuyệt vời của ông! Lời nguyện sám
hối của ông ‘mang tính quốc gia’, mô tả sự trọn hảo của Thiên Chúa và sự bất
toàn của con người. Đó là một lời cầu nguyện khiêm nhường, thờ phượng, xưng thú
và cầu xin xót thương, “Chúng con đã phạm tội, đã làm điều gian ác”. Thật là
‘hàm ân’ với tâm tình của Thánh Vịnh đáp ca, “Lạy Chúa, Chúa không cứ tội chúng
con mà xét xử!”.
Anh Chị em,
“Hãy nhân từ, như Cha
các con là Ðấng nhân từ!”. Nhân từ như Thiên Chúa là có một trái tim như trái
tim của Ngài. Con Thiên Chúa đã làm người, với một trái tim người, cho con
người noi theo! Ngài đã từ bỏ áo trong áo ngoài, từ bỏ danh lợi, từ bỏ tất cả.
Trên thập giá, Ngài phơi trần một trái tim thoi thóp và rồi, bị đâm thủng cho
đến khi khô đét; mà trong đó, chỉ có xót thương! Thông thường, chúng ta cảm
thấy hài lòng khi so sánh và tự cho mình hơn người khác; thế mà, không phải với
họ, nhưng với Thiên Chúa, với Chúa Giêsu là ‘mẫu mực’ để chúng ta so sánh, dẫu
đây là một so sánh không tưởng.
Chúng ta có thể cầu
nguyện,
“Lạy Chúa, thế giới
cần những con người có những trái tim vĩ đại, đó là những trái tim “đập nhịp
xót thương”, xin ban cho con một trái tim có tên “Giêsu!””, Amen.
Thứ ba: TÌM MỘT LỐI VÀO
“Này chúng ta lên
Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp!”.
Thế kỷ 17, Oliver
Cromwell, lãnh chúa nước Anh, kết án tử hình một người lính trọng tội. Giờ hành
quyết dự liệu sẽ diễn ra lúc chuông giới nghiêm đổ. Nhưng đêm ấy, chuông không
đổ! Vị hôn thê của người lính đã tìm một lối vào trại binh; cô leo lên tháp,
bám vào chiếc chuông, ngăn nó ngân lên. Lãnh chúa triệu tập cô, buộc cô giải
trình. Cô khóc và chìa cho ông hai bàn tay rách bươm đầy máu. Phép lạ đã xảy
ra! Trái tim vị lãnh chúa thổn thức; ông nói, “Tình yêu của cô sẽ tồn tại.
Chuông không đổ, và máu cũng không!”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Chuông không đổ, và
máu cũng không!”; bởi lẽ, vị hôn thê của người lính đã ‘tìm một lối vào’ khiến
cho một con tim thổn thức để tình yêu được tồn tại! Cả hai bài đọc hôm nay cũng
nói đến một lối vào và tình yêu của Thiên Chúa mãi tồn tại. Lối vào đó mang tên
“Khổ Đau”; trên đó, Giêrêmia của Cựu Ước và Giêsu của Tân Ước sẽ phải bước đi.
Bị dân mình tẩy chay,
Giêrêmia kêu cầu Chúa, “Lạy Chúa, xin nghe những kẻ tố cáo con nói đó!”; “Chúng
đào hố nhằm làm con mất mạng!” - bài đọc một. Thánh Vịnh đáp ca cũng đồng tình,
“Lạy Chúa, xin lấy tình thương mà cứu độ con!”. Xem ra vị ngôn sứ nài van Chúa
cất khỏi ông con đường “Khổ Đau”, và dường như Giêrêmia đang ‘tìm một lối ra’.
Chúa Giêsu thì ngược
lại, Tin Mừng tường thuật chuyến đi lên Giêrusalem của Thầy trò Ngài. Ngài
không ‘tìm lối ra’, nhưng ‘tìm một lối vào’. Tuy nhiên, dù đang ‘đi lên’ với
Thầy, các môn đệ xem ra chỉ muốn ‘đi xuống!’. Bằng chứng là cuộc đối thoại
không đáng có của ‘môn đệ mười ba’, bà Zêbêđê; và điều này đã khiến “mười môn
đệ kia tức tối với hai anh em”. Xót xa thay! Đang khi Thầy ngưỡng chuyện trên
trời, trò lại vọng chuyện dưới đất; Thầy lo chuyện bị nộp, trò tính chuyện trị
vì; Thầy tìm vui lòng Cha, trò muốn thoả dạ mẹ. Rõ ràng, Thầy trò lệch pha!
Thầy ‘tìm một lối vào’, trò ‘tìm một lối ra!’.
Chúa Giêsu đã phản ứng
làm sao? Với một nhân cách hiếu hoà, Ngài khoan thai tiết lộ cho họ sự thật gai
gốc. Ngài nói cho họ chén thù chén tạc mà cùng Ngài, họ sắp uống; và cuối cùng,
dạy cho họ bài học phục vụ. Ngài kết luận, “Con Người đến không để được người
ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn
người!”. Như vậy, Chúa Giêsu đã không nhìn chén đắng và thập giá dưới lăng kính
tiêu cực; thay vào đó, dưới ánh sáng cứu độ. Không chỉ đón nhận, Ngài ôm lấy
nó. Ngài quyết ‘tìm một lối vào’ vì cuối đường hầm, một chân trời mới sẽ mở ra,
một đại lộ ánh quang phục sinh rạng ngời, “Nhưng ngày thứ ba, Người sẽ trỗi
dậy!”.
Anh Chị em,
“Này chúng ta lên
Giêrusalem!”. Tình yêu của vị hôn thê với đôi tay đầy máu đã được đền đáp bằng
mạng sống của người cô yêu. Tình yêu của Con Thiên Chúa với đôi tay, đôi chân
và thân xác đầy máu của Ngài cũng đã được đền đáp bằng ‘phần rỗi đời đời của cả
nhân loại!’. Noi gương Chúa Giêsu, bạn và tôi sẽ vượt qua bất kỳ thập giá nào.
Thay vì ‘tìm một lối ra’, chúng ta ‘tìm một lối vào’; ôm chặt thánh giá đời
mình tháp vào thánh giá đời Ngài. Và nhất định nó cũng sẽ trở thành công cụ ân
sủng cho bạn, cho tôi, cho cả thế giới!
Chúng ta có thể cầu
nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con
sợ hãi ‘yêu mến và ôm lấy’ thập giá đời con tháp vào thập giá đời Chúa. Con sẽ
cứu được linh hồn con và cứu cả hành tinh này!”, Amen.
Thứ tư: ĐƯỢC GỌI ĐỂ TOẢ SÁNG
“Ai nâng mình lên, sẽ
phải hạ xuống; ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên!”.
Irving Stone, người
nghiên cứu “sự vĩ đại”, dành cả cuộc đời để viết tiểu sử, tiểu thuyết về các
thiên tài. Ông từng được hỏi, “Liệu có một mẫu số chung nào cho tất cả các nhân
vật này?”. Ông nói, “Tôi viết về những con người mà một lúc nào đó trong đời,
họ đã có một tầm nhìn, một ước mơ phải hoàn thành. Và họ đã nỗ lực!”; “Họ bị
đánh vào đầu, bị gièm pha… và trong nhiều năm, chẳng đi đến đâu! Nhưng mỗi khi
bị đánh gục, họ khiêm tốn đứng lên. Không ai có thể tiêu diệt họ! Và cuối cùng,
họ toả rạng một khi đã khiêm tốn hoàn thành ‘một phần’ điều họ đặt ra. Vì lẽ,
họ ‘được gọi để toả sáng!”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Có những con người đã
ngã gục, nhưng khiêm tốn đứng lên; và cuối cùng, họ toả sáng!”. Trong Tin Mừng
hôm nay, Chúa Giêsu tiết lộ một bí quyết để mỗi người có thể làm được điều
đó, “Ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên!”; nó có tên “Khiêm
Nhường!”.
Chẳng có gì sai khi
nói, Chúa Giêsu muốn bạn và tôi được tôn vinh! Ngài muốn bạn được thế giới chú
ý; muốn ánh sáng tốt lành của bạn toả sáng và tạo nên những khác biệt! Nhưng
Ngài muốn nó được thực hiện trong sự thật, không bằng ‘phô diễn’, ‘nhân tạo’
hay vay mượn; nhưng hồn nhiên, trong sáng.
Khiêm nhường, một đức
tính giúp chúng ta trở nên chính mình. Nó cho phép vượt qua bất kỳ tính cách
sai lầm nào mà mỗi người có thể có; và đơn giản, “tôi” là “tôi”. Nó không gì
khác hơn là ‘trung thực về chính mình’; nghĩa là sẵn sàng đón nhận bản thân với
những tính cách tốt và không tốt của nó. Khi mọi người nhìn thấy những phẩm
chất tốt nơi chúng ta, họ rất ấn tượng; không phải ‘quá nhiều’ theo cách thế
gian, nhưng theo lẽ thường của con người. Họ không nhìn chúng ta với cái nhìn
ghen tỵ; đúng hơn, họ nhìn và yêu lấy những gì chúng ta có. Họ thích chúng,
ngưỡng mộ chúng và muốn bắt chước! Bạn sẽ là ‘một ai đó’ hấp dẫn, mà người khác
muốn gặp và làm quen. Thế thôi!
Bài đọc Isaia có chung
một chủ đề. Vị ngôn sứ kêu gọi dân hãy khiêm tốn! Ông mỉa mai gọi các nhà lãnh
đạo là những người “làm đầu của Sôđôma”, con cái Israel là “dân Gômôra”. Đây là
hai thành phố thời Abraham, một ‘hình ảnh thu nhỏ’, biểu tượng của tất cả những
gì tội lỗi nhất, xấu xa nhất, chống lại Thiên Chúa nhất. Nhưng với Isaia, Thiên
Chúa không lên án dân, Ngài kêu gọi họ ăn năn, “Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết và
vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta!”. Ngài bộc lộ một lời hứa,
“Ai sống đời hoàn hảo, Ta cho hưởng ơn cứu độ Chúa Trời!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Anh Chị em,
“Ai hạ mình xuống, sẽ
được nâng lên!”. Ai hạ mình tột cùng
trong nhân loại bằng Con Thiên Chúa? Ngài đã huỷ mình ra không khi mang lấy
kiếp người! ‘Sinh ngoài đồng, sống ngoài đường, chết ngoài đồi’. Chính vì thế,
Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài, cho Ngài toả sáng với biến cố Phục Sinh; để mọi
người thuộc mọi thời, “Khi nghe danh thánh Giêsu, muôn loài trên trời, dưới đất
và trong nơi âm phủ, phải bái quỳ!”. Quả thế, Chúa Giêsu Kitô, người Thầy,
người Bạn tuyệt vời, ước mong chúng ta, những môn đệ ‘được gọi để toả sáng’ của
Ngài, tiếp tục “khiêm tốn đứng lên, sau mỗi lần ngã gục” toả chiếu cho thế
giới, kiến tạo một sự khác biệt’, bằng cách đi con đường Ngài đã đi, ‘khiêm
hạ!’.
Chúng ta có thể cầu
nguyện,
“Lạy Chúa, xin tước
khỏi con mọi ảo ảnh phù hoa; để như ngọn hải đăng không cần phải hụ còi, con
lặng lẽ toả rạng ánh sáng của Chúa!”, Amen.
Thứ năm: MỘT PHẦN ĐỊNH MỆNH
“Ta là Chúa, Ta dò xét
lòng người, thử thách mọi tâm can. Ta sẽ thưởng phạt ai nấy tuỳ theo cách nó
sống và việc nó làm!”.
“Hãy trân trọng từng
phút giây bạn có; chia sẻ cho người khác khi còn kịp! Ngày kia, bạn sẽ thấy của
cải vô dụng như thế nào. Người nghèo luôn có đó, họ không phải là một phần của
cảnh quan tô điểm cuộc sống của bạn, nhưng là ‘một phần định mệnh’ của bạn! Hãy
nhớ, chiếc đồng hồ không ngừng chạy, không đợi bất cứ ai, vì bất cứ lý do gì!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Đồng tình với ý tưởng
của nhà tu đức trên, Lời Chúa hôm nay cho thấy, tha nhân không phải là một phần
của cảnh quan, nhưng là những con người cần được tôn trọng, yêu thương, ‘một
phần định mệnh’ của bạn. Chúa Giêsu từng ví họ là Ngài, là “Nhà Tạm di động”
của Ngài - Phanxicô.
Bài đọc Giêrêmia tiết
lộ, Thiên Chúa ghi nhận và ân thưởng cho mọi hành vi bác ái của bạn, “Ta là
Chúa, Ta dò xét lòng người, thử thách mọi tâm can. Ta sẽ thưởng phạt ai nấy tuỳ
theo cách nó sống và việc nó làm!”. Đó là những con người nương ẩn nơi Chúa,
“Phúc thay người đặt tin tưởng nơi Chúa!” - Thánh Vịnh đáp ca cũng đồng tình.
Trái với những ai
‘nương ẩn’ nơi Chúa, Tin Mừng thuật chuyện một người ‘ẩn nương’ nơi của cải! Đó
là một phú hộ sống xa hoa, cách biệt với người nghèo, đam mê thời trang và
những món ăn ngon. Tuy thế, ông không làm hại ai; ông không tước đoạt Lazarô,
người hành khất nghèo khó; không ngại việc Lazarô lảng vảng; cũng chẳng miệt
thị Lazarô biếng nhác. Vậy thì đâu là tội của ông? Tội của ông là không coi
Lazarô như một con người; ông cho rằng, Lazarô chỉ là một phần của cảnh quan
trang trí nhà ông. Một người mù đã từng nói, “Tôi thấy người ta đi lại như cây
cối!”. Đúng thế, nhà phú hộ xem ra cũng chỉ nhìn thấy Lazarô ‘ngang mức cây
cối!’.
Lazarô, biểu tượng cho
mọi ‘tiếng kêu thầm lặng’ thời hiện đại và những mâu thuẫn của một thế giới mà
của cải và tài nguyên vô ngần đang nằm trong tay một số người. Điều này giúp
chúng ta hiểu rằng, bỏ qua một người nghèo, hoặc coi họ chỉ ‘ngang mức cây cối’
đích thị là khinh miệt Thiên Chúa! Họ là ‘một phần định mệnh’ của bạn và tôi
như Lazarô là ‘một phần định mệnh’ của ông nhà giàu!
Anh Chị em,
“Ta là Chúa, trả công
cho mỗi người!”. Như thế, người nghèo không phải là một điều gì chúng ta muốn,
hoặc không muốn. Họ là những món quà Chúa gửi đến cho chúng ta! Nhờ họ và qua
họ, chúng ta lãnh nhận bao ân phúc của Chúa. Đừng quên, Thiên Chúa không bao giờ
xem chúng ta là một phần cảnh quan có cũng được không cũng được đối với Ngài.
Chúng ta là những con trai, con gái rất yêu dấu được máu châu báu của Con Một
Ngài đổ ra để cứu chuộc. Mùa chay, mùa bạn và tôi ý thức, ngày kia “của cải sẽ
vô dụng như thế nào”; mùa sử dụng của cải để “làm những gì có thể khi còn kịp”;
mùa mỗi người không còn coi anh chị em mình ‘ngang mức cây cối’ nhưng là những
hiện thân của Chúa Giêsu, hầu có thể yêu thương, trân trọng và cứu giúp! Họ là
con cái Chúa.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cho con
biết rằng, con luôn mắc nợ người nghèo, họ là ‘một phần định mệnh’ của con. Dạy
con biết chia sẻ khi còn kịp!”, Amen.
Thứ sáu: ĐỦ ĐỂ ĐÁNH CƯỢC
“Ông cho tá điền canh
tác, rồi trẩy đi xa!”.
Pliny the Elder - nhà
văn Rôma thời Chúa Giêsu - viết về việc xây một tháp cao hơn 30m: “Hai vạn công
nhân kéo dây và cần cẩu. Trách nhiệm và rủi ro thật lớn! Chỉ một sai sót, tháp
sẽ đổ, huỷ hoại hàng năm làm việc. Vì thế, nhà vua ra lệnh trói con trai của kỹ
sư trưởng vào đỉnh tháp; vua nghĩ, nó ‘đủ để đánh cược’ cho trách nhiệm của
viên kỹ sư!”.
Kính thưa Anh Chị em,
‘Đủ để đánh cược’, một
trong những chủ đề của hai bài đọc hôm nay! Bài đọc Sáng Thế cho thấy tình yêu
quan phòng của Thiên Chúa thật lớn lao, ‘đủ để đánh cược’ cậu út Giuse; qua
cậu, Ngài cứu cả một dân tộc. Với bài Tin Mừng, ông chủ tự xây một vườn nho trước
khi giao nó cho tá điền, ông đánh giá nó ‘đủ để đánh cược’ mạng sống của các
đầy tớ và cả mạng sống của con trai mình!
Do lòng dạ xấu xa của
những người anh, Giuse bị bán sang Ai Cập như một nô lệ; nhưng, chính Giuse,
người được Thiên Chúa sai đi để chuẩn bị cho việc cứu sống dòng tộc Israel -
bài đọc một. Thánh Vịnh đáp ca nhắc lại hồng ân bí nhiệm này, “Hãy nhớ lại
những kỳ công Chúa thực hiện!”. Giuse là hình ảnh báo trước Đức Giêsu Kitô,
Đấng mà Thiên Chúa sẽ đem đánh cược để cứu sống đời đời cả một nhân loại.
Tin Mừng nói đến vườn
nho - hình ảnh của Hội Thánh - mà Thiên Chúa đang đặt vào tay bạn và tôi. Ngài
không chỉ trao cho chúng ta một công việc để làm, nhưng còn trao sự cứu rỗi đời
đời linh hồn của những người khác một cách bí ẩn! Với tất cả tình yêu, ông chủ
đã dành cho khu vườn nhà mình những gì tốt đẹp nhất; dựng rào dậu bên ngoài,
xây bồn đạp bên trong, đặt tháp canh ở giữa. Ông không ở lại để giám sát chặt
chẽ các tá điền; thậm chí, không đặt các quy tắc hay chỉ định các phương pháp;
ông để tá điền tự làm tất cả khi họ thấy phù hợp. Cũng thế, Thiên Chúa trao Hội
Thánh cho chúng ta; ban Thánh Thần để trợ giúp. Ngài biết, làm việc vườn nho
của Ngài là một việc vô cùng khó khăn, và Ngài kiên nhẫn đồng hành với những
thất bại của mỗi người.
Và còn hơn thế, mỗi
ngày, qua các Bí tích; đặc biệt, Bí tích Thánh Thể và Hoà Giải, nhờ Chúa Kitô
và trong Chúa Kitô, Ngài làm mọi thứ có thể để chống lại chủ nghĩa ích kỷ; đồng
thời, truyền cảm hứng bằng sự hiểu biết và lòng thương xót. Tình yêu của Thiên
Chúa thật vô bờ, nó vĩ đại vô cùng, ‘đủ để đánh cược’ với tội lỗi của con
người!
Anh Chị em,
“Ông cho tá điền canh
tác”. Thiên Chúa trao vườn nho Hội Thánh cho bạn và tôi để chúng ta canh tác;
Ngài biết ân sủng và Thánh Thần của Ngài đủ sức làm những gì còn lại. Hội Thánh
là của Chúa; các cộng đoàn lớn nhỏ là của Chúa, cũng như thân xác và linh hồn
mỗi người là của Chúa! Dù đó là một Hội Thánh địa phương, một cộng đoàn hay một
gia đình… thì Thiên Chúa vẫn là chủ; không phải chúng ta! Đúng thế, những gì
Ngài trao thật lớn lao và đầy trách nhiệm. Và Ngài đang rất kỳ vọng nơi mỗi
người! Vì thế, bạn và tôi đừng làm Ngài thất vọng; trái lại, hãy cộng tác với
ân sủng mà trổ sinh hoa trái thiêng liêng trong chính mình và giúp người khác
trổ sinh hoa trái trong chính họ!
Chúng ta có thể cầu
nguyện,
“Lạy Chúa, trong mọi
đấng bậc, đừng để con chểnh mảng với trách nhiệm và bổn phận. Cho con dám đánh
cược ‘cả cuộc sống’ và ‘mọi ý riêng’ trước sứ mệnh Chúa uỷ thác!”, Amen.
Thứ bảy: HỌC CÁCH MỪNG VUI
“Còn thằng con của cha
đó, sau khi đã nuốt hết tài sản của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại
giết bê béo ăn mừng!”.
“Nó phải trở về nơi nó
thuộc về!”. Đó là những gì tuyệt phẩm “Đứa Con Hoang Đàng” của Mitch Irion mô
tả! Nó phải trở về dù nó ‘đen đủi hơn một thằng quỷ!’. Cha nó vui mừng vì nó đã
tìm được nơi nó thuộc về; ở đó, nó mất hút! Vạt áo đỏ như máu, tượng trưng tình
yêu của cha, đã lấp kín nó! Spurgeon nhận định, “Thật lạ khi một số người nói
quá nhiều về những gì Chúa làm cho họ, nhưng lại quá tằn tiện nói về những gì
người khác nhận được. Hãy ‘học cách mừng vui’ như Thiên Chúa vui mừng!”.
Kính thưa Anh Chị em,
‘Học cách mừng vui’
như Thiên Chúa vui mừng! Đó là những gì dụ ngôn hôm nay nói đến. Người anh tỏ
ra bất bình trước bữa tiệc cha mình dành cho đứa em hư đốn trở về. Có công bằng
không? Câu trả lời đúng sẽ là: đây là một câu hỏi sai! Vì lẽ, anh phải ‘học
cách mừng vui’ như cha anh vui mừng!
Bạn và tôi dễ sống
theo cách ‘mọi thứ phải công bằng’; và khi người khác nhận nhiều hơn, chúng ta
có thể tức giận và cay đắng. Hành động xót thương của cha dành cho đứa con ‘tàn
đời’ chính là điều người anh cần học. Anh cần biết, bất kể cậu em đã làm gì,
dẫu nó đòi chia gia tài - khác nào mong cha chết - hoặc coi bản thân là trung
tâm dẫn đến việc cố tìm hạnh phúc ở bất cứ đâu, ngoại trừ một nơi mà nó thực sự
tìm thấy: Cha! Dẫu thế, người cha vẫn yêu nó và hân hoan khi nó trở về. Như
vậy, đứa em cần lòng thương xót không chỉ của cha, nhưng của cả anh nó, để nó
có thể tin rằng, nó đã lựa chọn đúng khi trở về.
Người anh đã chung
thuỷ với cha suốt bao năm cũng không bị đối xử bất công chút nào! Sự bất bình
của anh đến từ việc bản thân anh thiếu lòng thương xót như cha anh. Anh không
thể thương đứa em ở mức độ tương tự cha anh thương; và do đó, không thấy được
sự cần thiết cần có một lời an ủi như một cách giúp nó hiểu rằng, nó được tha
và được chào đón trở lại. Lòng thương xót vượt xa những gì thoạt đầu được coi
là công bằng. Muốn được thương xót, bạn và tôi cần sẵn lòng trao tặng nó cho ai
cần đến nó nhất.
Thánh Vịnh đáp ca khẳng
định, “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu!”, cũng là Đấng mà ngôn sứ
Mikha xác tín, “Đấng chịu đựng lỗi lầm”; “Sẽ lại thương xót chúng ta.
Tội lỗi chúng ta, Người chà đạp dưới chân; mọi lỗi lầm chúng ta, Người ném
xuống đáy biển” - bài đọc một.
Anh Chị em,
“Chúa là Đấng từ bi
nhân hậu!”. Hôm nay, hãy suy gẫm
về việc bạn sẵn sàng trở nên nhân hậu và rộng lượng đến mức nào, đặc biệt là
đối với những ai xem ra không xứng đáng với điều đó. Hãy nhắc nhở bản thân
rằng, ân sủng thường không tính đến công bằng; ân sủng hào phóng đến mức gây
sốc! Hãy dấn thân vào lòng quảng đại sâu xa này đối với bất cứ ai, nhất là
những ai đang tổn thương; đồng thời, tìm mọi cách mà bạn có thể ủi an người
khác bằng lòng thương xót của Chúa. Nếu bạn làm thế, và biết ‘học cách mừng
vui’ như Thiên Chúa, tình yêu quảng đại đó cũng sẽ ban phước dư dật cho lòng
bạn.
Chúng ta có thể cầu
nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con xụ mặt xuống khi thấy ơn lành Chúa đổ xuống trên người khác. Cho con đủ cao thượng để mừng vui khi thấy anh chị em con may mắn hơn mình!”, Amen.
SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN II
MÙA CHAY
Lm. Minh Anh, Tgp Huế
CHÚA NHẬT II MÙA
CHAY C
St 15, 5-12.17-18; Pl
3,17-4,1; Lc 9, 28b-36
Suy niệm 1:
Bạn thân mến,
Đức Chúa Giê-su biến
hình sáng láng tốt lành là một trong những biến cố quan trọng của Phúc Âm, để củng
cố đức tin cho các tông đồ, cũng như mạc khải cho các ngài biết về vinh quang
và nguồn gốc của Đức Chúa Giê-su, từ cuộc biến hình này của Ngài, mà Ngài muốn
hướng chúng ta đến hai điểm:
- Sự đổi mới ở đời
này.
- Sự biến hình ở đời
sau.
1. Đổi mới ở đời này.
Điển hình một: Người
hàng xóm của chúng ta có tật xấu là hay đi nói chuyện của người khác khiến ai
cũng phải tránh, hôm nay tự nhiên trở nên tốt lành sẵn lòng giúp đỡ người khác,
ăn nói nhỏ nhẹ: đó là cuộc biến hình đổi đời của họ...
Điển hình hai: Anh
thanh niên ấy ngày ngày uống rượu, đức hạnh được gọi là xấu xa, hôm nay tự
nhiên sống tốt lành, siêng năng đi lễ và hay giúp đỡ người khác: đó là cuộc biến
hình đổi mới của anh ta.
Điển hình ba: Trong
cuộc sống hằng ngày tôi đã tự kiêu, thường hay phê bình người khác, thường hay
thoá mạ chửi bới người khác, nay tôi đã trở nên một người sống chan hoà giữa
anh em chị em, tôi đã đổi mới cuộc sống của mình cho phù hợp với tinh thần Phúc
Âm...
Cuộc đổi mới này của
người hàng xóm, của người thanh niên, của tôi hoặc của bạn hoặc của tất cả những
người tội lỗi nào khác, đều được ân sủng của Thiên Chúa đánh động trong tâm hồn,
Đức Chúa Giê-su biến hình trên núi là để cho những người tội lỗi hôm nay là
chúng ta có niềm hi vọng: đó là hy vọng từ cõi chết qua sự sống, từ tội lỗi đến
hoán cải và trở nên con người mới trong Đức Ki-tô.
Cuộc đổi mới này
không đợi đến ngày tận thế, cũng như không đợi đến ngày lên thiên đàng mới được
biến hình sáng láng tốt lành, nhưng cuộc đổi mới này sẽ ảnh hưởng rất lớn trong
ngày chúng ta đứng trước tòa phán xét của Thiên Chúa.
2. Biến hình ở đời sau.
Cuộc biến hình của
chúng ta ở đời sau đều tuỳ thuộc vào cuộc đổi mới của chúng ta ở ngày hôm nay,
ngày hôm nay chúng ta đổi mới con người cũ của mình, từ cuộc sống bon chen phù
phiếm vật chất đến cuộc sống tích cực tìm Nước Chúa trong đời sống thường ngày;
ngày hôm nay chúng ta đổi mới cuộc sống không phù hợp với đạo lý Phúc Âm của
mình, để trở thành con người mẫu mực tuân giữ và thực hành Lời Chúa dạy trong
cuộc sống.
Đức Chúa Giê-su đã biến
hình trước mặt các tông đồ không phải là chuyện thần thoại cổ tích, nhưng là một
thực tại có thật với quyền năng của Thiên Chúa, thực tại này sẽ được bày tỏ rõ
ràng trong ngày Ngài phục sinh vinh hiển, và dù cho Ngài có chịu nhiều đau khổ,
chịu chết nhục nhã chăng nữa, thì thực tại vinh quang này vẫn sẽ được thực hiện,
bởi vì đó là chân lý của những ai tin vào Ngài...
Bạn thân mến,
Thánh sử Lu-ca tường
thuật rằng, có ông Môi-sen và tiên tri Ê-li-a hiện ra khi Đức Chúa Giê-su biến
hình sáng láng là để cho chúng ta biết rằng: Đức Chúa Giê-su đến để làm cho lề
luật nên trọn hảo, và lời loan báo của các tiên tri về Ngài đã được ứng nghiệm.
Tuy nhiên có một điều
rõ ràng nhất mà chúng ta cảm nghiệm được khi đổi mới con người cũ của mình, đó
là khi chúng ta tuân giữ lề luật và giới răn của Chúa, khi chúng ta quyết tâm
trở nên người môn đệ của Chúa, thì chúng ta cảm thấy như có một sức mạnh thần
thiêng thôi thúc trong tâm hồn, khiến chúng ta vui vẻ hân hoan và sống hướng
thiện ngay trong đời sống đời thường, đó chính là sự đổi mới cuộc sống đích thực
của tâm hồn chúng ta, khi chúng ta thực hành Lời Chúa vậy.
Xin Thiên Chúa chúc
lành cho chúng ta.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Suy
niệm 2: NGƯỚC MẮT LÊN!
“Y
phục Người trở nên trắng tinh chói loà”.
Cạnh một con mương nhỏ, có cây tầm xuân
lặng lẽ. Cho đến một buổi chiều, một người đến, đào quanh và nâng nó lên. Tầm
xuân vùng vằng, “Ông làm gì vậy?”. Người ấy vẫn lặng lẽ đem nó về trồng giữa vườn
hoa. Nó càu nhàu, “Sai lầm!”. Vài tuần sau, người ấy trở lại với một con dao sắc,
anh rạch một đường trên thân cây tầm xuân; tháp vào một mảnh hồng. Hè đến, những
nụ hồng xinh xắn rực rỡ trên chiếc áo cũ kỹ. Người ấy nói, “Ngước mắt lên! Vẻ đẹp
của bạn không do những gì bạn tạo ra, nhưng do những gì được tháp vào!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng
ta ‘ngước mắt lên’, ngắm xem vinh quang Thiên Chúa, Đấng đã tháp ‘mảnh Giêsu’
vào linh hồn bạn và tôi. Đồng thời, nhìn lên Giêsu khi Ngài biến hình trên núi
trong thiên tính huy hoàng rực rỡ trên chiếc áo cũ kỹ nhân tính, “Y phục Người
trở nên trắng tinh chói loà”.
Bài đọc một kể chuyện một cụ già ‘ngước
mắt lên’ và được tháp vào. Một đêm kia, Chúa dẫn Abraham ra ngoài và bảo, “Ngước
mắt lên, thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không. Dòng dõi ngươi sẽ như thế
đó!”. Abraham ngước lên, vị Thần cao cả đã thương nhìn ông; ông tin lời hứa của
Ngài. Cả chúng ta hôm nay, được mời gọi thôi đừng nhìn xuống, nhưng ‘ngước mắt
lên’, để biết rằng, “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong
đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta!” - bài đọc hai. Với bài Tin Mừng,
chúng ta không chỉ được mời ‘ngước mắt lên’, nhưng còn được mời ‘lên núi’ với
Chúa Giêsu như ba môn đệ, cùng Ngài cầu nguyện, chiêm ngắm vinh quang Thiên
Chúa và được biến đổi.
Hình ảnh Chúa Giêsu chói ngời vinh quang
chứa chan hy vọng! Các môn đệ thấy Thầy rạng rỡ trong tư cách Ngôi Hai trong Ba
Ngôi Chí Thánh. Biến cố này xảy ra khi tâm hồn các ông đang xao động vì cuộc
thương khó Ngài tiên báo. Mùa Chay, mùa vượt qua những khó khăn khi nhìn xuống
lòng mình - yếu hèn, vạy vò, bứt rứt - vốn có thể đưa đến ngã lòng, chán nản,
thậm chí tuyệt vọng. Vì thế, để khắc phục, bạn và tôi hãy ‘ngước mắt lên’, cho
phép mình tháp vào Giêsu - Đấng ôm lấy tội - sẽ nhúng linh hồn chúng ta trong
máu của Ngài, hầu chúng ta được chết và sống lại với Ngài. Đó là ý nghĩa của đại
lễ Phục Sinh chúng ta đang hướng về. “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của
tôi!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Anh Chị em,
“Vẻ đẹp của bạn không do những gì bạn tạo
ra, nhưng do những gì được tháp vào!”. Đấng tháp vào chúng ta - Đức Giêsu Kitô
- vừa là người, vừa là Chúa! Là người, Ngài thấu cảm mọi yếu hèn phận người; là
Chúa - trong vỏ bọc của đau khổ và sỉ nhục - bị treo trên thập giá cũng là Đấng
Phục Sinh, chiến thắng tội lỗi và thần chết. ‘Ngước mắt lên’, chúng ta không sợ
hãi, ngã lòng khi phải chiến đấu với những ươn hèn của mình trong những ngày
Chay thánh. Vì với Ngài, chúng ta được chữa lành, bình an và hạnh phúc. Tháp nhập
đời mình vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, chúng ta trổ hoa. Dẫu đau
đớn, rướm máu như những gì cây tầm xuân trải nghiệm, bạn và tôi hãy cứ để Ngài
tháp nhập!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, giúp con nhìn lên Chúa với niềm
tin tuyệt đối; cho con luôn tháp vào Ngài, vì không chỉ được thứ tha, con còn
được biến đổi và ‘trổ hoa rực rỡ!’”, Amen.
Thứ hai: Lc 6, 36-38
CẢM
THƯƠNG
“Hãy
có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ!”.
“Lòng thương xót không gượng ép. Nó như
cơn mưa từ thiên đường tưới đẫm phước huệ xuống người cho và kẻ nhận. Nó hùng mạnh
nhất trong những kẻ hùng mạnh nhất. Quyền trượng một vị vua cho thấy sức mạnh
quyền lực thế gian - trong đó - ẩn chứa sợ hãi và kinh hoàng. Lòng thương xót
cao hơn quyền trượng này, nó ngự trị trong trái tim của các vị vua, nó là thuộc
tính của Thiên Chúa. Và quyền lực trần gian sẽ thể hiện như quyền lực của Chúa
khi lòng thương xót và cảm thương ban phước huệ cho công lý!” - Shakespeare.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay tiết lộ, “Lòng thương
xót cao hơn quyền trượng của một vị vua” bởi nó là thuộc tính của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu dạy chúng ta ‘cảm thương’ anh chị em mình như Thiên Chúa ‘cảm
thương’; Ngài nói, “Hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ!”.
Đó không chỉ là một đề nghị, nhưng là một
đòi buộc! Nhìn vào lịch sử cứu độ, toàn bộ mặc khải là một tình yêu không mệt mỏi
Thiên Chúa dành cho con người. Ngài yêu con người với một tình yêu không biên
giới. Cái chết thập giá của Con Một Ngài là đỉnh cao của câu chuyện tình giữa
Chúa và người, một chuyện tình lớn đến nỗi chỉ mình Thiên Chúa hiểu! So với
tình yêu vô bờ này, tình yêu con người luôn què quặt, chắp vá và khập khiễng.
Trái tim con người thì sao? Trái tim của
nó là một bãi chiến trường! Hãy xem, chúng ta thường tự đưa mình đi ‘khắp thế
giới’ để tự bào chữa cho những bất công đã chịu; hoặc dẫu không nhớ đến những
gì đã xảy ra, chúng ta vẫn thường tìm cách ‘cung phụng’ những vết thương lòng.
Tuy nhiên, sẽ dễ dàng hơn nếu bạn và tôi biết ‘cảm thương’ khi nhìn vào trái
tim kẻ xúc phạm mình và không làm ngơ trước những điều tốt đang có ở đó. Hãy đặt
cược vào phía điều thiện và tin rằng, cuối cùng, sự thiện hấp dẫn trái tim hơn
là cái ác ‘được thần tượng hoá!’. Nhìn vào trái tim, Chúa Giêsu luôn đặt cược
cho mặt tốt của nó!
Những gì Đaniel thốt lên cho thấy trái
tim tuyệt vời của ông! Lời cầu của ông - ‘mang tính quốc gia’ - mô tả sự thánh
thiện của Thiên Chúa và sự bất toàn của con người - bài đọc một. Đaniel không
ngồi phán xét những thiếu sót và tội lỗi của dân; thay vào đó, ông cầu xin Chúa
‘cảm thương’, tha thứ và phục hồi. Sự xấu hổ sẽ biến thành niềm vui và hy vọng
nếu chúng ta xưng ra với Chúa và cầu xin tình yêu chữa lành của Ngài. Thánh Vịnh
đáp ca thật ‘hàm ân’, “Lạy Chúa, Chúa không cứ tội chúng con mà xét xử!”.
Anh Chị em,
“Hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là
Đấng nhân từ!”. Nhân từ như Thiên Chúa là có một trái tim ‘cảm thương’ như trái
tim Ngài. “Kêu gọi chúng ta nhân từ như Thiên Chúa, Chúa Giêsu không có ý nói đến
số lượng! Ngài yêu cầu các môn đệ của Ngài trở thành những dấu chỉ, những kênh
dẫn, những chứng nhân cho lòng thương xót của Ngài!” - Phanxicô. Trên thập giá,
Chúa Giêsu phơi trần một trái tim thoi thóp, bị đâm thủng mà trong đó, chỉ có
‘cảm thương!’. Hãy cầu xin cho mình có một trái tim như trái tim của Ngài!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, thế giới cần những trái tim
‘đập nhịp xót thương’. Đừng để tim con ‘lạc nhịp’ với những nhịp ‘cảm thương’ của
trái tim Chúa!”, Amen.
Thứ ba: Mt 23, 1-12
TOẢ
RẠNG
“Ai
hạ mình xuống, sẽ được tôn lên!”.
Irving Stone, người dành cả cuộc đời để
viết về sự vĩ đại của các thiên tài. Ông từng được hỏi, “Liệu có mẫu số chung
nào cho các nhân vật này?”. Ông nói, “Tôi viết về những con người mà một lúc
nào đó trong đời, họ đã có một tầm nhìn, một ước mơ phải hoàn thành. Và họ đã nỗ
lực!”; “Họ bị đánh vào đầu, bị gièm pha… và trong nhiều năm, chẳng đi đến đâu!
Nhưng mỗi khi bị đánh gục, họ khiêm tốn đứng lên. Không ai có thể tiêu diệt họ!
Và một khi đã hoàn thành ‘một phần’ điều họ đặt ra, họ toả rạng!”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Có những con người đã ngã gục, nhưng
khiêm tốn đứng lên; và cuối cùng, họ toả rạng!”. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa
Giêsu tiết lộ bí quyết để mỗi người chúng ta có thể ‘tỏa rạng’, “Ai hạ mình xuống,
sẽ được tôn lên!”. Nó có tên “Khiêm Nhường!”.
Chẳng có gì sai khi nói, Chúa Giêsu muốn
mỗi người chúng ta được tôn vinh! Ngài muốn bạn được thế giới biết đến; muốn
ánh sáng tốt lành của bạn rạng ngời và tạo nên những khác biệt! Tuy nhiên, Ngài
muốn nó được thực hiện trong sự thật, không bằng ‘phô diễn’, ‘nhân tạo’ hay
‘vay mượn’; nhưng ‘tỏa rạng’ cách hồn nhiên, trong sáng.
“Khiêm nhường” là trở nên chính mình. Nó
cho phép vượt qua bất kỳ tính cách sai lầm nào mà mỗi người có thể có - và đơn
giản - “tôi” là “tôi”. Nó không gì khác hơn là ‘trung thực về mình’; nghĩa là sẵn
sàng đón nhận bản thân với những tính cách ‘tốt và không tốt’ của nó. Khi mọi
người nhìn thấy những phẩm chất tốt nơi chúng ta, họ rất ấn tượng; không phải
‘quá nhiều’ theo cách thế gian. Họ không nhìn chúng ta cách ghen tỵ; đúng hơn,
họ nhìn và yêu lấy những gì chúng ta có. Họ thích, ngưỡng mộ chúng và muốn bắt
chước! Bạn sẽ là ‘một ai đó’ hấp dẫn, mà người khác muốn gặp và làm quen. Thế
thôi!
Bài đọc Isaia có chung một chủ đề. Vị
ngôn sứ kêu gọi dân hãy khiêm tốn! Ông mỉa mai gọi các nhà lãnh đạo là “làm đầu
Sôđôma”, Israel là “dân Gômôra”; hai thành phố - thời Abraham - biểu tượng của
tất cả những gì tội lỗi nhất, xấu xa nhất, chống lại Thiên Chúa nhất. Dẫu thế,
Thiên Chúa không lên án dân, nhưng kêu gọi họ sám hối, “Hãy rửa cho sạch, tẩy
cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta!”. Ngài hứa, “Ai
sống đời hoàn hảo, Ta cho hưởng ơn cứu độ Chúa Trời!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Anh Chị em,
“Ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên!”. Ai
hạ mình tột cùng bằng Con Thiên Chúa? Ngài huỷ mình ra không khi làm người!
Sinh ngoài đồng, sống ngoài đường, chết ngoài đồi. Vì thế, Chúa Cha đã siêu tôn
Ngài; để “Khi nghe danh thánh Giêsu, mọi loài trên trời, dưới đất và trong nơi
âm phủ, phải bái quỳ!”. Ngài ước mong chúng ta - môn đệ của Ngài - tiếp tục
“khiêm tốn đứng lên, sau mỗi lần ngã gục” ‘toả rạng’ cho thế giới, ‘kiến tạo một
sự khác biệt’, bằng cách đi con đường Ngài đi, ‘khiêm hạ!’. “Tôi nói cho anh chị
em biết, cá nhân tôi rất đau lòng khi thấy nhiều người - về mặt tâm lý - sống để
theo đuổi những lời ca ngợi phù phiếm. Là môn đệ Giêsu, chúng ta không được làm
như vậy; thái độ giữa chúng ta là đơn sơ và huynh đệ. Tất cả chúng ta đều là
anh chị em!” - Phanxicô.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con tranh chấp địa vị,
chức tước, huyễn danh; hầu như ngọn hải đăng không hụ còi, con lặng lẽ ‘toả rạng’
ánh huy hoàng yêu thương của Chúa!”, Amen.
Thứ tư: 2Sm
7,4-5a.12-14a.16; Rm 4,13.16-18.22; Mt 1,16.18-21.24a (Lc2,41-51a)
KÍNH TRỌNG
THỂ THÁNH GIUSE-BẠN TRĂM NĂM ĐỨC MARIA
CÔNG
CHÍNH, VÂNG PHỤC
“Giuse,
chồng bà, là người công chính!”; “Tỉnh giấc, Giuse làm như sứ thần Chúa dạy”.
“Hãy nhớ đến vị tộc trưởng vĩ đại bị bán
sang Ai Cập! Thánh Giuse không chỉ nhận tên ông mà còn nhận sự trong trắng của
ông! Giuse Cựu Ước ‘giỏi đọc’ giấc mơ; Giuse Tân Ước ‘giỏi tin’ giấc mơ. Giuse
Cựu Ước ‘tích trữ ngũ cốc’ cho một dân; Giuse Tân Ước ‘trông coi Bánh Hằng Sống’
cho muôn dân. Và còn hơn thế, bảo tồn những gì Chúa hứa cho Abraham và nhà
Đavít!” - Thánh Bernard.
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng ngày lễ kính thánh Giuse cho thấy
sự vĩ đại của ngài chủ yếu là do sự ‘công chính’ về mặt đạo đức và sự ‘vâng phục’
ý muốn của Thiên Chúa.
Thánh Giuse không được thụ thai vô nhiễm
như Đức Mẹ, không thần thánh như Chúa Giêsu; nhưng Giuse là người đứng đầu của
Thánh Gia, người bảo vệ và là người nuôi sống Thánh Gia. Giuse trở thành người
cha hợp pháp của Đấng Cứu Thế và là chồng của Mẹ Thiên Chúa. Như vậy, trước hết
và quan trọng nhất, Giuse vĩ đại vì những lựa chọn mà ngài đã thực hiện trong
cuộc sống mình. Tin Mừng hôm nay gọi Giuse là người “công chính” và là người
“làm như sứ thần Chúa dạy”. Vì vậy, sự vĩ đại của Giuse chủ yếu là do sự ‘công
chính’ về mặt đạo đức và sự ‘vâng phục’ ý muốn của Chúa Trời.
Trước hết, sự ‘công chính’. Nhờ đâu
Giuse có thể tin? Thưa, một lương tâm trong sạch! Yêu Maria, tuy nhiên, sự thật
- “Maria có thai” - quá khắc nghiệt; và dẫu quan tâm Maria, Giuse vẫn cảm thấy
bị phản bội! Nhưng với một lương tâm trong sạch, Giuse hy sinh ước mơ cưới
Maria để sau đó, lặng lẽ “bỏ bà cách kín đáo”. Và Chúa đã nhìn thấy sự ‘công
chính’ này, Ngài tiết lộ cho Giuse sự thật về sự chính trực của Maria. Một
‘thông điệp ngắn’ trong một ‘giấc mơ ngắn’ đủ để Giuse đón nhận tất cả với sự
ngạc nhiên!
Tiếp đến, sự ‘vâng phục’. Hãy nhìn vào bốn
giấc mơ! Giấc mơ đầu tiên, “Đừng ngại đón Maria vợ ông về, vì người con bà cưu
mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần!”. Giấc mơ thứ hai, “Hãy đứng dậy, đem
Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập!”. Giấc mơ thứ ba, “Hãy đứng dậy, đem Hài
Nhi và mẹ Người về Israel!”. Và giấc mơ thứ tư, Giuse được cảnh báo nên về
Galilê thay vì Giuđê.
Khi những giấc mơ này được đọc liên tiếp,
rõ ràng Giuse đã tiếp nhận chúng như những thông điệp hiển nhiên từ Thiên Chúa.
Giuse đã đáp lại tất cả những gì Ngài chỉ dạy bằng một sự ‘vâng phục’ và quyết
tâm trọn vẹn. Những mệnh lệnh Giuse nhận được không phải là không đáng kể! Sự mềm
mỏng của Giuse đòi hỏi ngài và gia đình phải đi xa, trú ngụ ở những vùng đất lạ
lẫm và Giuse đã làm như vậy với tất cả lòng tin.
Anh Chị em,
Đức Gioan Phaolô II đã trao tặng thánh
Giuse danh hiệu “Người bảo vệ Đấng Cứu Chuộc”, vì Giuse đã thể hiện sự cam kết
không lay chuyển trước những gì Thiên Chúa trao. “Trong các Tin Mừng, Giuse xuất
hiện như một người mạnh mẽ và can đảm; tuy nhiên, trong trái tim ngài, chúng ta
thấy một sự dịu dàng vô cùng, đó không phải là nhân đức của kẻ yếu đuối mà là dấu
hiệu của sức mạnh tinh thần và khả năng quan tâm vì lòng trắc ẩn, vì sự cởi mở
chân thành với người khác, vì tình yêu!” - Phanxicô.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy thánh Giuse, dạy con ‘công chính’
và ‘vâng phục’ như ngài, để sự hiện diện ẩn giấu của Chúa trong con được phát
triển và đạt đến sự trưởng thành trọn vẹn!”, Amen.
Thứ năm: Lc 16,19-31
MỘT
PHẦN ĐỊNH MỆNH
“Ta
là Chúa, Ta dò xét lòng người, thử thách mọi tâm can. Ta sẽ thưởng phạt ai nấy
tuỳ theo cách nó sống và việc nó làm!”.
“Hãy trân trọng từng phút giây bạn có;
chia sẻ cho người khác khi còn kịp! Ngày kia, bạn sẽ thấy của cải vô dụng như
thế nào. Người nghèo luôn có đó, họ không phải là ‘một phần cảnh quan’ tô điểm
cuộc sống bạn, nhưng là ‘một phần định mệnh’ của bạn! Hãy nhớ, chiếc đồng hồ
không ngừng chạy, không đợi bất cứ ai vì bất cứ lý do gì!” - Anon.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay cho thấy, tha nhân
không phải là ‘một phần cảnh quan’, nhưng là ‘một phần định mệnh’ của bạn! Họ
là những con người cần được tôn trọng, yêu thương. Chúa Giêsu từng ví họ là
chính Ngài, “Không có sứ giả nào, cũng không có thông điệp nào có thể thay thế
được người nghèo mà chúng ta gặp trên hành trình, bởi trong họ - những “Nhà Tạm
di động” của Ngài - chính Chúa Giêsu đến gặp chúng ta!” - Phanxicô.
Bài đọc Giêrêmia tiết lộ, Thiên Chúa ghi
nhận và ân thưởng cho mọi hành vi bác ái của bạn, “Ta là Chúa, Ta dò xét lòng
người, thử thách mọi tâm can. Ta sẽ thưởng phạt ai nấy tuỳ theo cách nó sống và
việc nó làm!”. Như vậy, ai sống bác ái yêu thương, người ấy làm đẹp lòng Chúa,
Đấng họ nương thân, “Phúc thay người đặt tin tưởng nơi Chúa!” - Thánh Vịnh đáp
ca.
Trái với những ai ‘nương thân’ nơi Chúa,
Tin Mừng thuật chuyện một người ‘ẩn nương’ nơi của cải! Đó là một phú hộ sống
xa hoa, cách biệt với người nghèo, đam mê thời trang và những món ăn ngon. Tuy
thế, ông không làm hại ai; không tước đoạt Lazarô nghèo khó; không ngại việc
Lazarô lảng vảng; cũng chẳng miệt thị Lazarô. Vậy thì đâu là tội của ông? Tội của
ông là không coi Lazarô như một con người; với ông, Lazarô chỉ là ‘một phần cảnh
quan’ trang trí nhà ông. Một người mù đã từng nói, “Tôi thấy người ta đi đi lại
lại như cây cối!”. Đúng thế, nhà phú hộ xem ra chỉ thấy Lazarô ‘ngang mức cây cối!’.
Lazarô, biểu tượng cho mọi ‘tiếng kêu thầm
lặng’ thời hiện đại mà của cải và tài nguyên đang nằm trong tay một số người.
Điều này giúp chúng ta hiểu rằng, bỏ qua một người nghèo, hoặc coi họ chỉ
‘ngang mức cây cối’ đích thị là khinh miệt Thiên Chúa! Họ là ‘một phần định mệnh’
của bạn và tôi như Lazarô là ‘một phần định mệnh’ của ông nhà giàu!
Anh Chị em,
“Ta thưởng phạt ai nấy tuỳ theo cách nó
sống và việc nó làm!”. Như thế, người nghèo không phải là một điều gì chúng ta
muốn, hoặc không muốn. Họ là những món quà Chúa gửi đến! Nhờ họ, qua họ, chúng
ta lãnh nhận bao ân phúc. Đừng quên, Thiên Chúa không bao giờ xem chúng ta là
‘một phần cảnh quan’ - có cũng được, không cũng được - đối với Ngài. Chúng ta
là những con trai, con gái rất yêu dấu được máu châu báu của Con Một Ngài đổ ra
để cứu chuộc. Mùa Chay, mùa ý thức ngày kia “của cải sẽ vô dụng như thế nào”;
mùa để “làm những gì có thể khi còn kịp”; mùa bạn và tôi không còn coi anh chị
em mình ‘ngang mức cây cối’ nhưng là những ‘sứ giả’ mang ‘thông điệp’ của Chúa,
hầu có thể yêu thương, trân trọng và cứu giúp!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, dạy con biết, con luôn nợ người
nghèo, họ là ‘một phần định mệnh’ của con. Dạy con biết chia sẻ khi còn kịp, vì
con sẽ chỉ mang theo những gì con đã cho đi!”, Amen.
Thứ sáu: Mt 21, 33-43. 45-46
TIẾN
THÂN HAY QUÊN MÌNH?
“Nước
Thiên Chúa, Người sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm
cho Nước ấy sinh hoa lợi!”.
“Mọi người đều có tiềm năng tiến lên
trong cuộc sống, nhưng không chỉ là ‘leo lên’ những nấc thang hay tích lũy những
lời khen; vì như thế, bạn chỉ tìm ‘tiến thân!’. Tiến lên trong cuộc sống là sử
dụng những trải nghiệm, những khó khăn, tiếng nói của bạn để nâng cao không chỉ
bản thân mà cả những người chung quanh. Thành công không được đo bằng những gì
bạn tích lũy mà bằng những gì bạn cho đi!” - Maya Angelou.
Kính thưa Anh Chị em,
“Thành công được đo bằng những gì bạn
cho đi!”. Lời Chúa hôm nay đặt ra câu hỏi liệu bạn có nằm trong số những người
mà Nước Thiên Chúa sẽ bị lấy đi? Hay trong số những người mà nó sẽ được trao để
sinh lợi? Nói cách khác, trong vườn nho Chúa, bạn chỉ tìm ‘tiến thân’ hay chỉ
muốn ‘quên mình’ để phục vụ Thiên Chúa và đồng loại?
Nhóm đầu tiên - những người sẽ bị tước mất
Vương Quốc - là những tá điền xấu. Một trong những tội lỗi lớn nhất của họ là
lòng tham. Họ ích kỷ khi coi vườn nho là nơi có thể làm giàu cho bản thân và ít
quan tâm đến lợi ích của Chủ, của người khác. Buồn thay, chúng ta dễ dàng áp dụng
lối nghĩ này vào cuộc sống mình! Thật dễ dàng để coi cuộc sống là một loạt các
cơ hội hầu - cách này cách khác - chỉ để ‘tiến thân’. Thật dễ dàng để tiếp cận
cuộc sống theo cách mà chúng ta liên tục tìm kiếm lợi ích, địa vị và chức tước
thay vì chân thành tìm vinh quang Chúa và mưu ích cho các linh hồn.
Nhóm thứ hai - những người mà Vương Quốc
của Chúa sẽ được ban - để nó sinh quả tốt, là những người hiểu rằng, mục đích cốt
lõi của cuộc sống không chỉ là làm giàu bản thân mà còn là chia sẻ tình yêu của
Thiên Chúa với người khác. Đây là những người ‘quên mình’ luôn tìm cách để có
thể trở thành một phước lành thực sự cho tha nhân.
Tuy nhiên, lòng quảng đại mà chúng ta được
kêu gọi trước hết là để xây dựng Vương Quốc. Và điều này được thực hiện thông
qua các việc từ thiện, nhưng đó phải là “từ thiện” được thúc đẩy bởi Phúc Âm và
có Phúc Âm là mục đích trước hết và trên hết. Chăm sóc người nghèo, giảng dạy,
phục vụ và những việc tương tự chỉ tốt khi Chúa Kitô là động lực và mục tiêu cuối
cùng. Cuộc sống của chúng ta phải làm cho Chúa Kitô được biết, được yêu, được
hiểu và được noi theo nhiều hơn.
Trên thực tế, cả khi phục vụ nhiều người,
nhưng nếu chúng ta phục vụ ‘vì những lý do khác’ ngoài mục đích cuối cùng là
chia sẻ Phúc Âm của Chúa Kitô, thì công việc của chúng ta vẫn sẽ không tạo ra
những hoa trái tốt là xây dựng Vương Quốc. Chúng ta sẽ chỉ là những ‘nhà từ thiện’
chứ không phải là những tông đồ của tình yêu Chúa.
Anh Chị em,
“Thành công được đo bằng những gì bạn
cho đi!”. “Trong bất kỳ thời đại nào, người có thẩm quyền, bất kỳ thẩm quyền
nào - ngay cả trong Giáo Hội - có thể bị cám dỗ ‘tiến thân’, làm việc vì lợi
ích riêng thay vì lợi ích của Chúa. Thẩm quyền thực sự là để phục vụ, không phải
để bóc lột người khác. Vườn nho là của Chúa, không phải của chúng ta!” -
Phanxicô.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con rơi vào cám dỗ chỉ
muốn ‘tiến thân’; cho con biết ‘quên mình’ trong vườn nho Chúa. Vì lẽ, vườn nho
là của Chúa, không phải của con!”, Amen.
Thứ bảy: Lc 15,1-3.11-32
HỌC
MỪNG VUI
“Còn
thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết tài sản của cha với bọn điếm, nay trở
về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”.
“Nó phải trở về nơi nó thuộc về! Nó phải
trở về dù nó đen đủi hơn một thằng quỷ!”. Đó là những gì kiệt tác “Đứa Con
Hoang Đàng” của Mitch Irion mô tả! Cha nó vui mừng vì nó đã tìm được ‘nơi nó
thuộc về’; ở đó, nó ‘mất hút!’. Vạt áo đỏ như máu - tượng trưng tình yêu - của
ông đã lấp kín nó! “Thật lạ, khi một số người nói quá nhiều về những gì Chúa
làm cho họ, nhưng lại quá tằn tiện nói về những gì người khác nhận được từ
Ngài. Hãy ‘học mừng vui’ như Thiên Chúa vui mừng!” - Spurgeon.
Kính thưa Anh Chị em,
Hãy ‘học mừng vui’ như Thiên Chúa vui mừng!
Đó là những gì Tin Mừng hôm nay lưu ý. Người anh tỏ ra bất bình trước bữa tiệc
người cha dành cho đứa em hư đốn trở về. Có công bằng không? Câu trả lời đúng sẽ
là: đây là một câu hỏi sai! Vì lẽ, anh phải ‘học mừng vui’ như cha anh vui mừng!
Chúng ta dễ sống theo cách ‘mọi thứ phải
công bằng’; và khi người khác nhận nhiều hơn, chúng ta có thể mím môi, tức giận
và cay đắng. Hành động xót thương của người cha dành cho đứa con ‘tàn đời’
chính là điều người anh cần học. Anh cần biết, bất kể cậu em đã làm gì, nó đòi
chia gia tài - khác nào mong cha chết - hoặc tự do tìm hạnh phúc ở bất cứ đâu -
sống phóng đãng - ngoại trừ một nơi mà nó thực sự tìm thấy: Cha! Dẫu thế, người
cha vẫn yêu nó và hân hoan khi nó trở về. Như vậy, đứa em cần lòng thương xót
không chỉ của cha, nhưng của cả anh nó, để nó có thể tin rằng, nó đã lựa chọn
đúng khi trở về.
Người anh chung thuỷ với cha suốt bao
năm cũng không hề bị đối xử bất công! Sự bất bình của anh đến từ việc lòng anh
‘nghèo thương xót’, không như cha anh, một người ‘giàu xót thương’. Anh không
thể thương đứa em ở mức độ tương tự cha anh thương nó; và do đó, không thấy được
sự cần thiết cần có một lời ủi an như một cách giúp nó hiểu rằng, nó được tha,
được chào và trở về là một chọn lựa đúng đắn. Lòng thương xót vượt quá những gì
thoạt đầu được coi là công bằng. Vậy muốn được xót thương, bạn và tôi cần sẵn
lòng trao nó cho ai cần nhất! “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu!” - Thánh Vịnh đáp
ca - cũng là “Đấng chịu đựng lỗi lầm”; “Sẽ lại thương xót chúng ta. Tội lỗi
chúng ta, Người chà đạp dưới chân; mọi lỗi lầm chúng ta, Người ném xuống đáy biển!”
- bài đọc một.
Anh Chị em,
“Chúa là Đấng từ bi nhân hậu!”. Hôm nay,
hãy suy ngẫm về việc bạn sẵn sàng trở nên nhân hậu và rộng lượng đến mức nào, đặc
biệt là đối với những ai xem ra không xứng đáng với điều đó. Hãy nhủ lòng rằng,
ân sủng thường không tính đến công bằng; nó thường hào phóng đến mức gây sốc!
Hãy cam kết vào lòng quảng đại sâu xa này đối với bất cứ ai, nhất là những ai
đang thương tổn; đồng thời, tìm mọi cách mà bạn có thể ủi an người anh em bằng
lòng thương xót của Chúa. Được như thế, bạn đã biết mừng vui như Thiên Chúa vui
mừng, và tình yêu quảng đại đó sẽ đổ xuống lòng bạn vô vàn phước huệ.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con ủ dột khi thấy
anh chị em con may mắn hơn mình; dạy con biết vui với người vui, khóc với người
khóc!”, Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét