SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XIII THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt Giang
KÍNH TRỌNG THỂ THÁNH PHÊ-RÔ VÀ PHAO-LÔ, TÔNG ĐỒ
Cv 12, 1-11; 2Tm 4, 6-8.17-18;
Mt 16, 13-19
Suy niệm 1: PHÊ-RÔ VÀ PHAO-LÔ-CHỨNG NHÂN CỦA NIỀM TIN VÀ HY VỌNG
- Bài đọc 1: Trích sách
Công Vụ Tông đồ cho thấy sự quan phòng kì diệu của Chúa qua việc
Người đã sai sứ thần đến giải thoát thánh Phê-rô cách lạ lùng khi ngài đang bị
giam giữ trong ngục với nhiều chốt chặn có nhiều lính canh gác.
- Bài đọc 2: Trích thư thánh
Phao-lô tông đồ gửi cho ông Ti-mô-thê. Qua lá thư này thánh
Phao-lô xác tín mạnh mẽ: chính vì có Chúa là sức mạnh của mình, nên
ngài mới có thể hoàn thành sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại cách
tốt đẹp. Giờ đây, ngài chỉ còn trông đợi vòng hoa chiến thắng dành
cho người công chính.
- Bài Tin Mừng hôm
nay ghi lại lời tuyên xưng của tông đồ Phê-rô vào thầy Giê-su của mình, với
niềm xác tín mạnh mẽ: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng
sống”, trước câu hỏi thăm dò của Đức Giêsu: "Phần các con, các
con bảo Thầy là ai?". Với câu trả lời ấy phần nào đã làm cho Chúa Giê-su
hài lòng, vì Phê-rô đã trả lời đúng thực với "chức danh" của Ngài nên
Ngài đã khen ngợi Phê-rô, cho dù con người của Phê-rô còn nhiều thiếu sót và
yếu đuối. Nhưng mà Ngài vẫn tin tưởng trao phó cho Phê-rô nhiệm vụ cao quý là
lãnh đạo GH do chính Ngài thiết lập.
Nếu Thánh Phê-rô đã tuyên xưng
mạnh mẽ niềm tin vào Thầy Giê-su là “Đức Ki-tô Con TC hằng sống”; và đã sẵn
sàng hy sinh mạng sống mình với lời tuyên xưng ấy, thì Thánh Phao-lô cũng không
kém cạnh. Thánh Phao-lô đã xác quyết mạnh mẽ rằng: “Cái lợi tuyệt vời nhất trong cuộc đời của ngài chính là được biết Chúa
Giê-su và thuộc trọn về Người”. Cuộc sống của tông đồ Phao-lô gắn bó mật
thiết với Chúa Giêsu đến nỗi: "Tôi sống, nhưng không còn là tôi, nhưng
là Ðức Ki-tô sống trong tôi.” (Gl 2,20). Với niềm xác tín ấy, thánh
nhân đã dấn thân trọn vẹn cuộc đời mình cho sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa
cho dân ngoại và ngài đã sẵn sàng hy cả mạng sống mình để làm chứng niềm tin
ấy.
Việc tuyên
xưng ngoài miệng sẽ trở nên mất giá trị và vô nghĩa nếu không sống chết cho
những gì mình đã tuyên xưng. Ước gì mỗi chúng ta luôn biết noi gương hai vị
thánh tông đồ Phê-rô và Phao-lô không chỉ tuyên xưng danh Chúa trên môi miệng
qua lời Kinh Tin Kính mà còn biết tích cực thực hiện những điều mình tuyên xưng
ấy bằng những hành động cụ thể trong cuộc sống hằng ngày, với niềm tin tưởng và
hy vọng vào tình yêu và sức mạnh ân sủng của Chúa.
Suy niệm 2:
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta hân hoan mừng
kính lễ hai thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô. Hai ngài là cột trụ Chúa dùng để
xây dựng toà nhà Hội Thánh và là sứ giả nhiệt tâm loan báo Tin Mừng của Chúa
đến tận cùng trái đất.
Thánh Phê-rô là người anh cả, luôn đại diện cho
các Tông đồ tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Giê-su Ki-tô. Thánh
Phao-lô là Tông đồ của các dân ngoại. Nhờ kinh nghiệm gặp gỡ Đấng Phục Sinh,
ngài đã đi khắp nơi rao giảng về Đấng đã chịu chết và Phục sinh vì nhân loại,
nhờ đó chúng ta được ơn nhận biết Chúa.
Cả hai Vị Thánh đều đã trải qua những kinh nghiệm
về tội lỗi và sự yếu đuối của kiếp người, nhưng điều đặc biệt là được Chúa
thương xót thứ tha.
Mừng lễ hai thánh Tông Đồ hôm nay, chúng ta cùng
cầu xin Chúa cho Giáo Hội luôn noi gương hai thánh Phê-rô và thánh
Phao-lô biết gắn kết đời mình vào Chúa Giê-su, và mạnh mẽ loan báo
tin mừng của Chúa cho mọi người bằng đời sống chứng tá yêu thương và hiệp nhất.
Mừng lễ trọng hai thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô là dịp chúng ta suy ngắm
hai khuôn mặt trổi vượt và quan trọng trong Hội Thánh. Tuy nhiên cả hai
con người ấy đều có một quá khứ lầm lỗi, thiếu sót nhưng hai ngài đã
được Chúa yêu thương tha thứ và biến đổi trở thành hai ngôi sao sáng, hai
cột trụ chính của tòa nhà Giáo hội do Chúa Giê-su thiết lập.
1. Thánh Phê-rô: Trước khi
gặp Chúa Giêsu, chưa theo Chúa, Phê-rô được gọi là Si-mon, con ông Gio-na, là
một ngư phủ lành nghề nhưng quê mùa, chất phác và bộc trực. Ông đã có gia đình,
có vợ con đề huề.
Trong Tin Mừng, Phê-rô thể hiện rất rõ cá tính của mình: một Si-mon yếu
đuối, nhẹ dạ, nhất thời, bồng bột và dễ thay đổi, phản bội trong những lúc gặp
khó khăn thử thách (x. Mt 14,22; 16,23). Nhưng trong ông, cũng có một Phê-rô
khiêm tốn, chất phác và rất hăng hái, biết sám hối và nhận lỗi của mình (x. Mt
26,69); một Phê-rô mạnh mẽ và vững vàng trong Đức tin, lòng mến, cũng như trong
sứ vụ: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai.” (Ga 6,68); “Thầy
là Đức Ki-tô Con Thiên Chúa Hằng Sống.” (Mt 16,16).
Sau khi gặp Chúa Giêsu, được Chúa mời gọi, ông đã từ bỏ tất cả để theo
Chúa. Chúa đặt cho ông một danh xưng mới: đó là “Phê-rô, nghĩa là đá,
trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy.” (Mt 16,18). Với danh
xưng này, Phê-rô trở thành Tông Đồ của Chúa, và được chọn làm thủ lãnh của nhóm
Mười Hai. Phêrô đã sống và gắn bó với Chúa Giêsu trong suốt ba năm trên mọi nẻo
đường rao giảng. Sau khi Chúa về trời, Phê-rô cùng với các Tông Đồ đi khắp nơi
rao giảng Tin Mừng. Phê-rô đã đến giảng đạo tại Rô-ma, rồi bị bắt và bị đóng
đinh trên đồi Gia-ni-co-lo. Theo truyền thống kể lại, khi nghe tin sẽ bị bắt,
Phêrô hoảng sợ tìm đường trốn khỏi Rô-ma để về quê, trên đường đi, ngài đã gặp
Chúa Giêsu đang vác thánh giá vào thành Rô-ma, Phê-rô hỏi Chúa: “Quo vadis -
Thầy đi đâu?” Chúa Giêsu trả lời: “Thầy vào thành Rô-ma để chịu tử nạn lần thứ
hai.” Hiểu ra ý Chúa nên Phêrô đã trở lại với đoàn chiên của ngài và chấp nhận
án tử hình trên thập giá. Đang khi chịu đóng đinh, Phêrô xin lính La Mã đóng đinh
đầu ngược, vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được đóng đinh giống như Chúa
Giêsu.
Một điều rất rõ mà chúng ta thấy trong cuộc đời của thánh Phêrô là khi nào
ông càng cậy dựa vào sức mình, vào khả năng mình thì ông càng thất bại và tỏ ra
yếu đuối. Nhưng khi nào ông càng bám lấy Chúa, tin vào Chúa, Phêrô càng thành
công, càng trở nên vững vàng và rất cao cả!
2. Thánh Phao-lô: Cũng thế, nơi Thánh Phao-lô, có một Sao-lô trước khi gặp Đấng Phục Sinh,
Sao-lô ấy không phải là một chàng trai ăn chơi lêu lổng, nhưng là một người
nhiệt thành với truyền thống đạo Do Thái. Là con của một gia đình khá giả,
Sao-lô được học hành chu đáo. Vì lòng trung thành với truyền thống cha ông,
Sao-lô hăng hái đi bắt bớ các Kitô hữu đầu tiên vốn thuộc về một tôn giáo mới
đang đe dọa sự tồn tại của đạo Do Thái.
Cú té ngựa trên đường Đa-mát đã làm cho Sao--lô thay đổi hoàn toàn. Sao-lô
gặp Đấng Phục Sinh, và được Người đặt cho một tên mới đó là Phao-lô, vị Tông Đồ
của dân ngoại. Sau cuộc trở lại này, Phao-lô hăng say rao giảng Đức Kitô. Ông
đã sang Hy Lạp và La Mã nhiều lần để rao giảng Tin Mừng, rồi chịu tử đạo chặt
đầu vì Tin Mừng ở ngoài thành Rô-ma.
Cũng như Phê-rô và Phao-lô, chúng ta đều là những con người đầy khiếm
khuyết tội lỗi, nhưng Chúa vẫn yêu thương tin tưởng vào tương lai tốt đẹp nơi
chúng ta nếu chúng ta biết noi gương hai thánh tông đồ Phê-rô và Phao-lô can
đảm khép lại quá khứ mà hướng đến tương lai trong khiêm tốn, tin tưởng, yêu mến
và cậy trông vào sức mạnh và tình thương của Chúa.
Ước gì mỗi chúng ta đừng bao giờ thất vọng về những lầm lỗi thiếu sót của
mình. Nhưng qua đó chúng ta nhận ra được tình thương lòng bao dung tha thứ của
Chúa mà cố gắng biến đổi đời sống mỗi ngày nên hoàn thiện hơn theo thánh ý của
Chúa. Nhờ đó, ta mới có thể chu toàn ơn gọi và sứ mạng sống chứng nhân và loan
báo Tin mừng tình thương của Chúa trong cuộc sống hàng ngày. (St)
Suy niệm 3:
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội hân hoan mừng kính hai Thánh Tông đồ Phêrô và
Phaolô, hai cột trụ vững chắc của Giáo Hội. Hai ngài là những vị anh hùng đức
tin, đã dâng hiến cả cuộc đời mình để loan báo Tin Mừng Cứu Độ cho muôn người.
- Thánh Phêrô, vị Giáo
Hoàng đầu tiên, được Chúa Giêsu Kitô trao cho quyền chăn dắt đoàn chiên của
Người. Ngài nổi tiếng với lòng can đảm, dám xưng nhận Đức Giêsu là Con Thiên
Chúa, đồng thời sẵn sàng chết vì Người. Thánh Phêrô là biểu tượng cho sự kiên
định và lòng trung thành đối với Chúa.
- Thánh Phaolô, trước đây
là một kẻ bắt bớ Kitô hữu, nhưng sau khi gặp Chúa Giêsu Kitô trên đường đi
Đamascô, ngài đã hoàn toàn được biến đổi và trở thành một Tông đồ nhiệt thành
nhất. Thánh Phaolô đã không ngại gian khổ, hiểm nguy, đi khắp nơi để loan báo
Tin Mừng cho người Do Thái và dân ngoại. Ngài là biểu tượng cho sự nhiệt
huyết và lòng dấn thân cho sứ mạng truyền giáo.
- Hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, đã để lại cho chúng ta một kho tàng di sản quý giá về đức tin và lòng
yêu mến. Qua gương sống của hai ngài, chúng ta được mời gọi noi gương sống gắn
bó với Chúa, can đảm xưng nhận đức tin, và nhiệt thành loan báo Tin Mừng cho
mọi người.
Trong ngày lễ trọng kính này, chúng ta hãy:
1. Cùng nhau cầu nguyện cho Giáo Hội, xin Chúa ban cho Giáo Hội luôn
trung thành với sứ mạng loan báo Tin Mừng, và kiên định trong đức tin.
2. Cùng cầu nguyện cho mỗi người chúng ta biết noi gương hai Thánh Tông
Đồ, sống gắn bó với Chúa, can đảm xưng nhận đức tin, và nhiệt thành loan
báo Tin Mừng cho mọi người xung quanh.
3. Chúng ta cùng nhau dâng lời tạ ơn Chúa vì đã ban cho Giáo
Hội hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, những vị anh hùng đức tin, những cột trụ
vững chắc của Giáo Hội.
Lạy Thánh Phêrô và Phaolô, xin hai ngài cầu cho chúng ta được noi gương sống của hai ngài, gắn bó với Chúa, can đảm xưng nhận đức tin, và nhiệt thành loan báo Tin Mừng cho mọi người. (St)
Suy niệm 4: SỐNG NIỀM HY VỌNG THEO GƯƠNG THÁNH PHÊ-RÔ VÀ PHAO-LÔ
1. Hai con người-Một sứ mạng
Phê-rô và Phao-lô-hai
vị đại thánh có cá tính, quá khứ và hành trình rất khác nhau.
- Một người là ngư
phủ ít học, nóng nảy, từng chối Thầy ba lần.
- Người kia là trí
thức thành Tarsô, từng hăng say bách hại Kitô hữu.
Vậy mà, bởi ơn
Chúa, cả hai đã trở thành những trụ cột vững chắc của Giáo Hội sơ khai.
- Phê-rô được Đức
Giê-su trao quyền lãnh đạo Hội Thánh, là “tảng
đá” của sự hiệp nhất.
- Phao-lô trở nên “tông đồ dân ngoại”, rao giảng Tin Mừng
đến tận cùng thế giới.
Cả hai đều đã hiến
mạng vì Chúa tại Rôma, lấy máu đào làm chứng cho niềm tin.
2. Cảm nghiệm một Đức Kitô đang sống
Điều làm nên sự lớn
lao của hai thánh Tông đồ không nằm ở lý lịch cá nhân, mà ở chỗ các ngài đã gặp
gỡ và cảm nghiệm một Đức Kitô sống động.
- Phê-rô tuy yếu đuối, nhưng đã tuyên
xưng cách chân thành: “Thầy là Đấng Kitô,
Con Thiên Chúa hằng sống.”
- Phao-lô đã bị đánh ngã trên đường
Đa-mát, nhưng chính từ cú ngã ấy, ông đứng lên trong ánh sáng đức tin: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà
là Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2,20)
Chính kinh nghiệm
về Đức Kitô đã biến đổi các ngài thành người của sứ vụ, người của hy vọng, và
người của lòng mến vô biên.
3. Nhìn lại chính mình-sống niềm hy vọng giữa Hội Thánh
Trong Năm Thánh
2025-Năm Thánh của Hy Vọng-Giáo Hội mời gọi mỗi người Kitô hữu noi gương hai
thánh Tông đồ để sống niềm hy vọng giữa lòng thế giới đầy biến động:
- Hy vọng không
phải là lạc quan mù quáng, mà là niềm tin rằng Đức Kitô đang sống, đang dẫn dắt
Hội Thánh, và đang đi với ta qua từng chặng đời.
- Hy vọng đòi ta
can đảm dấn thân, như Phê-rô và Phao-lô, trung thành với ơn gọi dù gặp thử
thách, chống đối hay bách hại.
- Hy vọng còn là
biết đặt Hội Thánh và thế giới trong tay Chúa Quan Phòng, dẫu con thuyền Giáo
Hội có lúc như bị sóng gió vùi dập.
Xin cho chúng ta biết yêu mến Hội Thánh, yêu mến sứ mạng tông đồ, và vững
lòng bước đi giữa thế giới hôm nay với đức tin như Phê-rô và lòng nhiệt thành
như Phao-lô.
Nếu xưa kia, Chúa Giêsu đã xây Hội Thánh trên đá tảng là Phê-rô, và trao cho Phao-lô sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, thì ngày nay Chúa cũng trao cho chúng ta nhiệm vụ ấy. Xin cho chúng ta luôn can đảm tuyên xưng đức tin, sống trung tín với sứ mạng loan báo Tin Mừng với mong muốn góp phần xây dựng Hội Thánh giữa bao thách đố như ngày hôm nay. Xin cho niềm hy vọng nơi chúng ta được bén rễ sâu trong Chúa. Nhờ đó niềm vui Tin Mừng của Chúa mới được lan tỏa mạnh mẽ khắp nơi. Amen.
Suy niệm 4:
Hôm nay, cùng với
toàn thể Hội Thánh, chúng ta long trọng mừng kính hai cột trụ của Giáo Hội:
Thánh Phê-rô và Thánh Phao-lô. Một Phê-rô là ngư phủ Galilê đơn sơ, một Phao-lô
là trí thức Do Thái lỗi lạc. Hai con người rất khác nhau, nhưng lại có một điểm
chung: được Thiên Chúa tuyển chọn và biến đổi cách lạ lùng, để trở nên những
chứng nhân phi thường của Tin Mừng.
Chúng ta hãy chiêm
ngắm ơn gọi và sứ vụ của các ngài qua ba từ khóa quan trọng: Yếu đuối-Được gọi
-Trung tín.
1. YẾU ĐUỐI:
Thánh Phê-rô là một
con người bộc trực, mạnh mẽ nhưng nông nổi. Ngài đã từng hứa sẽ sống chết vì
Thầy, nhưng rồi lại ba lần chối Thầy trong đêm tối.
Thánh Phao-lô lại
là người hăng hái... truy lùng và bắt bớ những ai tin vào Đức Kitô.
Cả hai đều không
hoàn hảo, không xứng đáng theo tiêu chuẩn con người. Nhưng chính trong sự yếu
đuối ấy, ánh sáng lòng thương xót của Thiên Chúa đã chiếu rọi, để họ nhận ra
thân phận mình và mở lòng ra với ơn gọi mới.
Điều đó nhắc chúng
ta rằng: Thiên Chúa không chọn người hoàn hảo, nhưng chọn người sẵn sàng để
Ngài biến đổi. Nhìn vào Phê-rô và Phao-lô, chúng ta có thể dám tin rằng: ơn gọi
nên thánh khởi đi từ chính sự mỏng giòn của ta.
2. ĐƯỢC GỌI:
Thánh Phê-rô được
gọi khi đang vá lưới bên bờ hồ, giữa đời thường. Phao-lô được gọi ngay trên
đường Đa-mát, lúc đang còn “thù địch với
Đức Kitô”. Không ai trong hai vị tự chọn lấy mình, nhưng Thiên Chúa đã chọn
họ, gọi họ và sai họ đi.
Ơn gọi không chỉ
dành riêng cho những người "ngoại hạng", nhưng là lời mời gọi cá vị
Thiên Chúa dành cho từng người chúng ta: hãy sống cho Ngài, làm chứng cho Tin
Mừng bằng chính đời sống thường ngày.
Mỗi người chúng ta,
qua Bí tích Rửa Tội, cũng đã được mời gọi như Phê-rô và Phao-lô: sống giữa đời,
nhưng thuộc về Đức Kitô và sống cho vinh quang của Ngài.
3. TRUNG TÍN:
Điểm sáng nhất nơi
hai vị Tông đồ là lòng trung tín đến hơi thở cuối cùng.
Phê-rô, sau bao lần
vấp ngã, đã đứng lên, yêu mến và lãnh nhận thập giá như Thầy mình: chịu đóng
đinh ngược đầu tại Rôma.
Phao-lô, sau bao
chuyến truyền giáo, sau khi “chiến đấu
trong cuộc chiến chính nghĩa”, đã hiến dâng mạng sống qua cái chết vì đạo.
Hai ngài không phải
là những người bắt đầu cách hoàn hảo, nhưng là những người kết thúc cách trung
tín.
Hội Thánh được xây
dựng không phải bởi những con người vô tì vết, nhưng bởi những con người dám để
Chúa dẫn dắt, hoán cải và dấn thân không ngừng.
4. HÀNH TRÌNH CỦA
MỖI CHÚNG TA:
Anh chị em thân
mến,
Mừng lễ hai thánh
Phê-rô và Phao-lô hôm nay, chúng ta không chỉ nhìn về quá khứ, mà còn nhìn vào
hành trình ơn gọi của chính mình.
Mỗi người chúng ta
cũng mang trong mình sự yếu đuối, nhưng nếu biết mở lòng, lắng nghe tiếng gọi
của Chúa và trung tín từng ngày, thì chắc chắn chúng ta cũng có thể trở thành
“Tông đồ giữa lòng đời”.
Xin hai thánh Phê-rô và Phao-lô, qua đời sống và cái chết anh hùng của các ngài, cầu bầu cho chúng ta biết sống đức tin vững vàng, yêu mến Hội Thánh, và dấn thân truyền giáo trong môi trường sống của mình. Amen.
CHÚA NHẬT MÙA THƯỜNG NIÊN-NĂM C
1V 19,16b.19-21; Gl 5,1.13-18; Lc 9,51-62
Suy
niệm 1:
Tin
mừng hôm nay cho chúng ta biết những điều kiện cần thiết phải có để trở nên
người môn đệ chân chính của Chúa Giêsu:
1. Phải có tinh thần siêu thoát. Tin mừng cho biết trường hợp của người thứ nhất tự
nguyện xin theo Chúa bất cứ nơi đâu. Nhưng Chúa Giêsu cho biết theo Người sẽ
phải chấp nhận cuộc sống vô sản, không nhà cửa, không tiền bạc, không nơi ăn
chốn ở và phải chấp nhận sống phiêu bạt rày đây mai đó. “Con
chồn có hang, chim trời có tổ, Con người không có nơi gối đầu”. Không biết anh ta có chấp nhận theo hay không? Tin mừng không nói
rõ.
2. Phải biết ưu tiên cho việc chọn lựa. Trường hợp của người thứ hai. Chúa Giêsu đích thân kêu gọi anh ta: “Hãy
theo Ta”. Nhưng điều kiện anh ta đưa ra là: “Xin cho phép
tôi đi chôn cha tôi trước đã“. Một điều kiện xem ra rất cấp
thiết và phù hợp với đạo làm người, không ai có thể chối cải được! Nếu theo
Chúa mà phải bỏ cha mẹ và không lo cho cha mẹ trong lúc cuối đời thì quả là
người con bất hiếu, không xứng với đạo làm người, sao xứng danh làm
môn đệ của Chúa được. Ấy vậy mà Chúa Giêsu lại tỏ ra cương quyết đòi hỏi: “Hãy
để kẻ chết chôn kẻ chết, phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa”.
Chắn
chắn là Chúa Giêsu không hề xem thường đạo hiếu, bởi trong 10 điều
răn, thì ngay sau 3 điều răn đầu nói về bổn phận với Chúa, thì điều răn
thừ 4, Chúa dạy phải thảo kính cha mẹ. Nhưng nếu một khi rơi vào tình thế
phải chọn lựa giữa việc thờ và kính; giữa đạo làm người và làm con Chúa; giữa
việc Chúa và việc con người; giữa ý Chúa và ý ta… thì chúng ta
phải ưu tiên dành cho Chúa. Việc rao giảng Nước Thiên Chúa là việc
làm tối quan trọng vì đem tin mừng cứu độ đến cho con người, nên phải là
việc cấp bách và ưu tiên hàng đầu. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã quyết liệt đòi
hỏi như thế. Tin mừng cũng không cho biết anh ta có theo Chúa Giêsu hay không.
3. Phải chấp nhận từ bỏ cách dứt khoát. Trường hợp của người thứ ba. Anh
ta cũng xin theo Chúa nhưng với điều kiện là cho phép anh ta về
từ giã gia đình trước đã. Tuy nhiên Chúa Giêsu không đồng ý với lý do đó, Người
nói :“Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng thì không xứng
đáng với Nước Thiên Chúa”. Nếu theo Chúa mà còn vướn bận
chuyện gia đình, còn lưu luyến bởi những tình cảm thân quen, thì khó lòng
dốc hết toàn tâm toàn lực phụng sự Chúa và chăm lo
cho nước trời. Vì thế, Chúa Giêsu đòi hỏi anh ta phải dứt bỏ những vướn
bận ấy, mới xứng đáng làm môn đệ Người. Cuối cùng ta cũng không biết anh
ta có theo Chúa hay không.
-
Tóm lại: Muốn đi theo
làm môn đệ Chúa Giêsu đòi hỏi ta không chỉ bỏ một phần hay từ từ, nhưng Chúa
đòi buộc ta phải từ bỏ cách dứt khoát và trọn vẹn để gắn bó đời mình
với Chúa và cho Nước Trời. Tiền bạc của cải, tình cảm gia đình, bổn
phận trần thế… là những thứ rất cần thiết cho con người; nhưng không phải là
giá trị tuyệt đối nên nếu không vượt lên những thứ ấy để dành con tim trọn vẹn
cho Chúa và Nước Trời, chắc chắn ta sẽ không xứng đáng làm môn đệ đích thực của
Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta biết ưu tiên đặt Chúa làm trọng tâm trong đời sống
chúng ta để sẵn sàng khướt từ mọi giá trị trần thế mà gắn kết đời ta trong Chúa
và cho những giá trị của Tin mừng.
Suy niệm 2:
Phụng vụ lời
Chúa hôm nay nhấn mạnh đến lời mời gọi theo Chúa trong sứ vụ làm ngôn sứ
và nhấn mạnh đến những điều kiện cần thiết để trở
nên người môn đệ đích thực của Người.
Chúng ta hãy
chú tâm lắng nghe lời dạy của Chúa và xin cho chúng ta luôn sẵn sàng
đáp lại những điều kiện mà Chúa đòi buộc, hầu mỗi người trong chúng ta xứng
đáng là môn đệ của Người.
Các Bài đọc
Lời Chúa trong Phụng vụ đều nhấn mạnh đến lời mời gọi của Chúa:
- Bài đọc
1: Chúa kêu gọi
ông Êlisê làm ngôn sứ thay cho ông Êlia. Ông dọn tiệc từ giã mọi người và từ bỏ
tất cả đi theo Êlia. Ông đã nêu gương sẵn sàng hy sinh theo Chúa cho chúng ta.
- Bài đọc
2: Thánh Phaolô
cho biết, Chúa Giêsu đã giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi để được sống tự do.
Vậy chúng ta phải sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Nên hãy nhớ
rằng không bao giờ được lợi dụng quyền tự do ấy mà
chiều theo những ham muốn xác thịt bất chính.
- Bài tin
Mừng: Chúa
Giêsu đưa ra những điều kiện quan trọng cho những ai muốn bước theo làm môn đệ
của Ngài:
1. Phải có
lòng quảng đại tha thứ như Người đã thương tha cho dân làng Samari.
2. Luôn sẵn
sàng từ bỏ trọn vẹn vẹn và dứt khoát mọi vướt bận trần gian, ngay
cả việc hiến dâng mạng sống mình vì phần rỗi nhân loại theo
gương Chúa.
Cả 3 trường
hợp được kể lại trong phần hai của đoạn tin mừng hôm nay, cho chúng
ta hiểu rằng: Để theo Chúa, thì cần phải dành cho Người một
sự chọn lựa ưu tiên và trên hết. Ưu tiên ấy là lý tưởng sống vượt lên mọi tình
cảm tự nhiên và mọi mối liên hệ trần thế. Khi dốc quyết theo Chúa, người môn đệ
ấy mới có thể trở thành con người tự do để thanh thản tiến bước trong
niềm tin yêu và tín thác dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta chỉ có thể thật sự trở thành môn đệ
Chúa, cũng như chu toàn sứ mệnh sống và làm chứng
cho tin mừng nước Chúa, một khi chúng ta biết thành tâm lắng nghe
và tích cực thực hiện những điều kiện do Chúa đòi buộc qua lời Chúa hôm
nay với tình yêu mến.
Xin Chúa ban ơn giúp sức để ta can đảm từ bỏ những
vướng bận đi ngược lại với những giá trị của tin mừng do Chúa đòi buộc, nhờ đó
ta được tự do tiến bước theo Chúa trong ơn gọi và sứ vụ của người môn đệ Người.
Thứ hai: St 18,16-33; Mt 8, 18-22.
Suy niệm 1:
Điều kiện nào để trở thành môn đệ chân chính của Chúa Giêsu? Tin mừng hôm
nay cho chúng ta biết cần phải có hai điều kiện căn bản sau đây:
- Thứ nhất: phải chấp nhận đời sống siêu thoát và khó nghèo.
Một vị Kinh sư tự nguyện đến xin theo Chúa bất cứ nơi đâu. Nhưng Chúa Giêsu
cho biết theo Người sẽ phải chấp nhận cuộc sống vô sản: không nhà cửa, không
tiền bạc, không nơi ăn chốn ở và phải phiêu bạt khắp nơi "Con chồn
có hang, chim trời có tổ, Con người không có nơi gối đầu". Không
biết anh ta có chấp nhận theo hay không? Tin mừng không nói rõ.
- Thứ hai: phải ưu tiên chọn Chúa và sứ vụ loan báo Tin mừng.
Một môn đệ khác nữa muốn theo Chúa, nhưng lại xin về để lo bổn phận chôn
cất cha mình "xin cho phép con về chôn cất cha con trước
đã". Chu toàn đạo hiếu là việc làm đáng khen bởi rất phù hợp với
đạo làm người. Vì theo Chúa mà phải bỏ cha mẹ và không lo cho cha mẹ trong lúc
cuối đời thì quả là người con bất hiếu, không xứng đạo làm người, nói chi làm
môn đệ của Chúa. Ấy vậy mà Chúa Giêsu lại tỏ ra cương quyết đòi hỏi "cứ
để kẻ chết chôn kẻ chết của họ." Chắc chắn là Chúa Giêsu không hề
xem thường đạo hiếu, bởi trong 10 điều răn, thì ngay sau 3 điều răn đầu nói về
bổn phận với Chúa thì điều răn thứ 4 Chúa dạy phải thảo kính cha mẹ. Nhưng nếu
một khi rơi vào tình thế phải chọn lựa giữa việc thờ và kính; giữa đạo làm
người và làm con Chúa; nhất là giữa việc Chúa và việc con người; giữa ý Chúa và
ý ta thì ta phải ưu tiên cho Chúa. Việc rao giảng Nước Thiên Chúa là việc làm
tối quan trọng vì đem đến niềm vui tin mừng cứu độ đến cho con người nên phải
là việc cấp bách và ưu tiên hàng đầu. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã quyết liệt
đòi hỏi như thế. Tin mừng cũng không cho biết anh ta có theo Chúa Giêsu hay
không?
- Tóm lại: Muốn đi theo làm môn đệ Chúa Giêsu, đòi hỏi ta không chỉ bỏ một phần hay từ
từ nhưng Chúa đòi ta phải từ bỏ cách dứt khoát và trọn vẹn để gắn bó đời mình
cho Chúa và Nước Trời. Tiền bạc, của cải, tình cảm gia đình, bổn phận trần
thế... là những thứ rất cần thiết cho con người nhưng nếu không vượt lên những
thứ ấy để dành con tim trọn vẹn cho Chúa và Nước Trời thì ta sẽ không xứng đáng
làm môn đệ đích thực của Chúa Giêsu.
Xin Chúa cho chúng ta biết ưu tiên đặt Chúa làm trọng tâm trong đời sống
chúng ta mà sẵn sàng khướt từ mọi giá trị trần thế hầu gắn kết đời mình cho
những giá trị của Tin mừng.
Suy niệm 2: LỜI CHÚA MỜI GỌI VÀ SỰ ĐÁP TRẢ KHÁC NHAU
Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 8,18-22) thuật lại hai lời mời gọi của Chúa Giêsu và hai cách đáp trả khác nhau của hai người môn đệ.
1. Lời mời gọi thứ nhất:
- Đối tượng:
Một kinh sư Do Thái
- Nội dung: "Anh hãy đi theo tôi" (Mt 8,18)
- Sự đáp trả: “Xin Chúa cho phép con về chôn cất cha con
đã" (Mt 8,19).
2. Lời mời gọi thứ hai:
- Đối tượng: Một môn đệ khác.
- Nội dung: "Hãy đi theo tôi" (Mt 8,21).
- Sự đáp trả: "Thưa Thầy, xin cho phép con về chào từ biệt gia
đình con đã." (Mt 8,21)
* Lời mời gọi
của Chúa Giêsu:
- Luôn mang tính cá nhân, hướng đến từng người.
- Mời gọi mỗi người bước theo Ngài, sống theo Tin Mừng.
- Yêu cầu sự dấn thân, từ bỏ và hy sinh.
* Sự đáp trả của các môn đệ:
- Thể hiện những lý do, ràng buộc khác nhau.
- Cho thấy thái độ chưa sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Chúa một cách trọn
vẹn.
* Lời kêu gọi:
Hãy sẵn sàng đáp lời mời gọi của
Chúa:
- Sống gắn bó với Chúa qua lời cầu nguyện, tham dự Thánh lễ và rước lễ
thường xuyên.
- Tham gia vào các hoạt động tông đồ, bác ái.
- Sống Tin Mừng trong mọi hoàn cảnh.
Tránh những ràng buộc trần gian:
- Không để những lo toan vật chất, những mối quan hệ ràng buộc níu chân ta
lại.
- Can đảm từ bỏ những gì cản trở ta theo Chúa.
Tin tưởng vào tình yêu và sự quan phòng của Chúa:
- Chúa luôn đồng hành và nâng đỡ ta trên con đường theo Ngài.
- Ngài sẽ ban cho ta mọi ơn cần thiết để hoàn thành sứ mạng Ngài trao.
* Lời cầu
nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết lắng nghe
lời mời gọi của Chúa và can đảm đáp lại bằng chính cuộc sống của chúng con. Xin
cho chúng con luôn tin tưởng vào tình yêu và sự quan phòng của Chúa, để chúng
con có thể sống gắn bó với Chúa và nhiệt thành thi hành sứ mạng Ngài trao.
Amen.
Kết luận:
Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy can đảm đáp lời mời gọi của Chúa và sống theo Tin Mừng cách trọn vẹn. Hãy nhớ rằng, Chúa luôn đồng hành và nâng đỡ ta trên con đường theo Ngài. (St)
Suy niệm 3: ĐỪNG BAO GIỜ ĐÁNH MẤT NIỀM HY
VỌNG VÀO LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
Bài đọc 1 hôm nay trình thuật lại cuộc đối thoại của
ông Áp-ra-ham với Thiên Chúa về số phận của thành Xơ-đôm, nơi tội lỗi đã lên
tới đỉnh điểm.
Điều lạ là: ông không xin Thiên Chúa tiêu diệt tội nhân, nhưng tìm cách “cứu vớt” họ
bằng lời nài xin đầy lòng xót thương và tin tưởng: “Giả như có 50 người công
chính, rồi 45, rồi 40, 30, 20… nếu chỉ còn 10 thì sao?”
Ông Áp-ra-ham không mặc cả với Thiên Chúa như một
con buôn, mà ông cầu thay cho người tội lỗi bằng một con tim chan chứa tình
người và niềm hy vọng. Dù ông biết Xơ-đôm đáng án phạt, nhưng ông vẫn hy vọng
rằng lòng thương xót Thiên Chúa lớn hơn
tội lỗi con người.
Và đúng vậy! Thiên Chúa không tiêu diệt nếu còn có
10 người công chính. Như vậy chỉ cần một ít ánh sáng cũng đủ làm tan đi bóng
tối.
Trong một thế giới hôm nay đầy tội lỗi, chiến
tranh, ích kỷ và vô cảm, Lời Chúa nhắc nhở chúng ta đừng bao giờ thất vọng về con người và xã hội, dù có lúc dường như
quá tăm tối. Thiên Chúa không bỏ rơi nhân loại. Chỉ cần một nhóm nhỏ người công
chính, một cộng đoàn bé nhỏ biết sống Tin Mừng, là Chúa sẵn sàng ra tay cứu độ.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay tự vấn mỗi người chúng ta:
- Tôi có thường nhìn người khác bằng ánh mắt kết
án, hay bằng cái nhìn cảm thông như Áp-ra-ham?
- Tôi có là người "công chính" để nhờ
tôi, người khác được cứu độ không?
- Tôi có bao giờ cầu nguyện và hy sinh cho một ai đó đang sống trong lầm lạc chưa?
Xin
Chúa cho chúng ta biết cầu thay nguyện giúp cho những ai đang trong tình trạng
tội lỗi, theo gương tổ phụ Áp-ra-ham; và hằng sống công chính giữa một thế giới
còn nhiều bóng tối của bất công, với niềm hy vọng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Amen.
Thứ ba: Am 3, 1-8; 4, 11-12; Mt 8, 23-27
Suy niệm 1:
Cuộc
đời chúng ta có lúc yên bình nhưng lắm khi cũng gặp phải sóng gió, khiến chúng
ta sợ hãi bất an. Xin Chúa luôn ở bên để che chở, chấn an và giúp ta biết
chọn lựa hướng sống sao cho đẹp ý Chúa, nhờ đó thuyền đời của ta mới
dễ dàng vượt qua những sóng gió hiểm nguy giữa biển đời này để cập bến
bình an, nhờ sức mạnh của Chúa.
Những
hình ảnh được đề cập trong đoạn Tin mừng hôm nay giúp chúng ta hiểu rằng: Các
môn đệ chính là mỗi người chúng ta. Con thuyền là hình ảnh của Giáo Hội. Biển
khơi là hình ảnh trần gian. Phong ba, bảo tố là những thử thách xảy ra trong
cuộc sống do ma quỷ gây nên.
-
Giống như các môn đệ xưa
bước theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng đã bước vào con thuyền của Giáo Hội mà Chúa
Giêsu thiết lập từ khi ta lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy. Từ đó ta đã ở trong con
thuyền của Giáo hội và cùng nhau hiệp hành theo Chúa Giêsu tiến bước trên hải
trình trần gian này rồi.
-
Tựa như con thuyền của các
môn đệ xưa đã bị sóng to, gió lớn đánh phá dữ dội, thì ở mọi thời, mọi nơi Giáo
Hội cách chung; cách riêng thuyền đời của mỗi chúng ta cũng phải
đương đầu với những làn sóng chống phá, bôi nhọ và bách hại gắt gao do những
thế lực của ma quỷ gây ra.
-
Ví như những cơn sóng
gió bất ngờ xảy đến, đó là những vết đen đáng tiếc xảy ra trong Giáo Hội; hay
những đau khổ, thất bại và bất hạnh xảy đến trong cuộc sống hàng ngày
làm cho niềm tin của chúng ta như chao đảo, lắm khi mất cả phương hướng cho
cuộc sống.
-
Sánh như các tông đồ vì
nghi ngờ vào quyền năng của Chúa khiến các ông sợ hãi. Cuộc đời của người Kitô
hữu chúng ta khi đối mặt với những khó khăn, đau khổ và thử thách… trong cuộc
sống cũng làm chúng ta lo sợ, nghi ngờ vào quyền năng của Chúa và lắm khi đánh
mất cả niềm tin và hy vọng mà buông mình chìm sâu vào dòng chảy của biển đời.
Nhưng chúng ta hãy vững tin vì Chúa Giêsu luôn ở bên chúng ta để nâng đỡ và ra
tay cứu giúp, nếu chúng ta biết trông cậy và tha thiết kêu cầu Người như các
môn đệ: "Lạy
Thầy, xin cứu lấy chúng con kẻo chết mất!".
Xin Chúa ban thêm lòng tin kiên vững nơi chúng con, để dù trong bất cứ hoàn cảnh thử thách nào, ngay cả những lúc bước đi trong đêm tối của đức tin, chúng con vẫn an tâm tiến bước trên biển đời. Xin Chúa luôn hiện diện và đồng hành với chúng con, để đưa dẫn chúng con đạt tới bến bờ bình an.
Suy niệm: 2
Hình ảnh các môn đệ hốt hoảng trong cơn bão tố
giữa biển khơi, gợi lên những cơn “bão đời” mà chúng ta từng trải qua: thất
bại, bệnh tật, hoang mang, chia ly, mất mát… Nhiều khi, trong lúc ấy, ta cảm
thấy như Chúa đang “ngủ”, vắng bóng, im lặng, không can thiệp gì cả.
“Lạy Thầy, chúng con chết mất!” Lời kêu cứu ấy tưởng chừng như là một lời sự trách móc, nhưng lại là một lời cầu nguyện rất chân
thành, trong lúc tuyệt
vọng. Và Chúa đã ra tay: “Ngài truyền cho sóng gió yên lặng.”
Câu hỏi được đặt ra với các môn đệ là: “Người
này là ai mà cả gió và biển cũng vâng lệnh?” Có phải Thầy mình chỉ là một nhà giảng thuyết tài danh
hay như một tiên tri hay làm phép lạ? Thưa không, Ngài chính Thiên Chúa, vì chỉ có Thiên Chúa toàn
năng mới có quyền khống chế trên thiên nhiên.
Còn chúng ta thì sao? Trong những lúc sóng gió
cuộc đời, ta tin vào điều gì, và ta bám víu vào ai? Có khi ta hoảng loạn, mất
phương hướng, như người mất đức tin. Nhưng chính trong những lúc tưởng như Chúa
ngủ, Chúa đang dạy ta điều gì đó: lòng
tin trưởng thành không phải là thấy mọi sự êm đẹp, mà là vẫn tin dù sóng gió
nổi lên.
Giống như lời ngôn sứ Amốt hôm nay: “Hãy
chuẩn bị mà gặp Thiên Chúa của ngươi”. Nhưng không phải chỉ gặp Ngài ở nơi yên ổn, mà còn gặp Ngài trong chính cơn bão của cuộc đời.
Ngài không hứa sẽ dẹp hết mọi sóng gió, nhưng Ngài hứa sẽ đi cùng ta, ở giữa ta, và cứu độ ta.
Trong
cuộc lữ hành trần thế, nhiều khi ta cảm thấy cuộc đời của mình tựa như chiếc
thuyền chao đảo giữa biển khơi. Xin Chúa cho chúng ta luôn biết tin tưởng vào
hy vọng vào quyền năng của Chúa mà tha thiết kêu lên: "Lạy Thầy, xin cứu
con!" như các môn đệ xưa. Và nếu như thấy Chúa im lặng, chúng ta cũng hãy
tin tưởng, hy vọng vào đường lối và tình
yêu của Chúa.
Suy niệm 3:
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ về lòng
tin và nỗi sợ. Biển hồ Galilê không lớn, nhưng thường hay nổi sóng dữ dội
bất ngờ. Trong hoàn cảnh ấy, các môn đệ dù có người là ngư phủ chuyên nghiệp
nhưng vẫn hoảng loạn, chạy đến đánh thức Chúa Giêsu đang ngủ: “Thưa Thầy, xin cứu chúng con!”
Hình ảnh con thuyền chao đảo giữa sóng gió là hình
ảnh của Hội Thánh và cuộc đời mỗi người giữa phong ba trần thế.
Có những lúc chúng ta tưởng chừng Chúa "ngủ quên", im lặng trước bao
đau khổ, thử thách, bệnh tật, nghèo đói, chiến tranh, chia rẽ, khủng hoảng đức
tin...
Nhưng chính trong khoảnh khắc ta kêu lên với Chúa bằng tất cả lòng tin yếu ớt, thì
Chúa ra tay. Lời quở trách nhẹ nhàng nhưng sâu xa: “Sao nhát thế, hỡi những
người kém lòng tin!” không phải để trách móc, mà để thức tỉnh lòng tin
còn non yếu nơi các môn đệ và nơi chúng ta hôm nay.
Chúa không hứa sẽ không có sóng gió, nhưng Ngài
hứa luôn ở trên thuyền đời ta, để cùng ta vượt qua sóng gió bằng niềm
tin.
Những
lúc thuyền đời chúng con bị chao đảo vì phong ba bão tố, xin Chúa giúp chúng
con không hoảng loạn nhưng biết chạy đến với Chúa bằng lời cầu nguyện đầy tin
tưởng. Xin Chúa củng cố đức tin yếu đuối của chúng con, để chúng con luôn vững
lòng bước theo Chúa, dù có những khi tưởng chừng Ngài đang “ngủ quên”.
Xin cho con xác tín rằng: Chúa luôn hiện diện, luôn yêu thương và quyền năng,
và không gì là không thể đối với Chúa. Amen.
Thứ tư: Mt 8, 28-34.
Suy niệm 1:
Tin Mừng hôm nay cho biết, tại vùng đất dân ngoại Ghê-ra-sa, đạo binh ma quỷ đang thống trị và dùng mọi thủ đoạn để hãm hại con người.
- Thủ đoạn thứ nhất: Hành hạ thân xác con người.
Khi quỷ đã nhập vào ai thì nó làm cho người ấy phải điêu đứng khổ sở. Hai
người bị quỷ ám mà Tin Mừng hôm nay nói đến đã phải sống cô độc trong đám mồ
mả. Trông họ rất dữ tợn và hung ác, khiến cho không ai dám qua lại lối ấy.
- Thủ đoạn thứ hai: Xúi
dục con người chống lại Thiên Chúa.
Ngay sau khi bị Chúa Giêsu trục xuất ra khỏi người bị nó ám hại, thì tức
khắc ma quỷ quay sang cám dỗ về lòng ham mê của cải nơi con người. Chính
lòng say mê của cải mà dân trong vùng ấy chống lại Chúa Giêsu, bằng cách xin
Ngài rời khỏi vùng đất của họ. Bởi lẽ họ sợ rằng hôm nay thiệt hại đàn heo,
tiếp theo ngày mai sẽ mất đi tài sản quý giá gì nữa? Vì vậy, họ quyết tâm xua
đuổi Chúa Giêsu ra xa họ.
Ngày nay có lẽ ma quỷ ít khi trực tiếp nhập vào con
người, làm cho họ phải điêu đứng khổ sở như ngày
xưa. Nhưng chúng thường bày ra muôn ngàn cách thế để lôi
kéo con người chống lại Thiên Chúa. Thúc đẩy con người hành động đến mất
cả nhân tính như: giết người cướp của; tự do đồng tình luyến ái; nghiện
ngập rượu chè, xì ke ma túy, hoang dâm…Để chống lại mưu mô của quỷ dữ, Chúa
Giêsu mời gọi chúng ta không ngừng chay tịnh, cầu nguyện nhất là sống theo Lời
Chúa chỉ dạy.
Xin cho chúng ta biết chay tịnh cỏi lòng, chuyên chăm cầu nguyện. Nhất là biết dùng Lời Chúa như là kim chỉ nam định hướng cuộc sống chúng ta.
Suy niệm 2:
Tin Mừng hôm
nay thuật lại việc Chúa Giêsu
trừ quỷ cho hai người bị quỷ ám ở vùng Ghê-ra-xa.
Đây không
chỉ là một phép lạ về thể lý hay tâm linh, mà còn là một cuộc đối đầu giữa
quyền lực sự sáng (Chúa Giêsu) và bóng tối (ma quỷ). Dù không ai dám đến gần
hai người bị quỷ ám ấy, nhưng Chúa lại bước tới, mang theo quyền năng và lòng
thương xót.
Quỷ dữ nhận
ra Ngài là Con Thiên Chúa và run sợ: “Chưa tới lúc mà Ngài đã đến đây
để hành hạ chúng tôi sao?” Điều này cho thấy chúng biết trước
giờ phán xét, và nhận ra quyền uy của Đấng Cứu Thế.
Tuy nhiên,
điều làm chúng ta ngỡ ngàng là phản ứng của dân làng sau phép lạ. Thay vì vui
mừng bởi hai người được cứu, họ lại xin Chúa rời khỏi vùng của họ, có thể
vì sợ hãi, hoặc vì thiệt hại vật chất (đàn heo bị chết). Họ chọn yên ổn,
chọn của cải, hơn là đón nhận ánh sáng và sự thay đổi từ Chúa.
Lời của ngôn
sứ A-mốt trong bài đọc 1 hôm nay đã vang lên như một lời cảnh tỉnh cho những ai
sống đạo chỉ bằng hình thức: “Ta ghét, Ta khinh các lễ lạt của các
ngươi… Ta không đoái đến của lễ… Hãy để cho công lý chảy ra như suối, và đức
công chính như dòng sông không bao giờ cạn.”
Xin Chúa đừng để chúng ta vì sợ mất một chút lợi lộc trần thế mà khước từ
đón nhận Chúa. Nhưng xin cho chúng ta biết nhận ra Chúa đang bước đến trong đời
con, để chữa lành, để giải thoát, để ban sự sống thật.
Và nếu cần phải “mất” điều gì đó để đổi lấy sự hiện diện của Chúa, xin cho ta được can đảm chấp nhận “mất đi”, để có Chúa là tất cả đời ta. Amen.
* Đọc thêm: Về vấn đề ma quỷ
1. Ma quỷ có không?
Theo Thánh Kinh và giáo huấn của Giáo Hội thì
* có ma quỷ, và những hiện tượng ma quỷ gây ra là có thật
* ma quỷ có nhiều khả năng phi thường, và có thể gây ảnh hưởng trên con
người, kể cả nơi thân xác, như: quấy, phá, hành, hại, ám và nhập.
* Nhưng Chúa thì quyền thế và mạnh hơn ma quỷ, nên ta cần giữ vững lòng tin
nơi Chúa, và đừng bao giờ nhờ ma quỷ bảo vệ mình.
2. Làm thế nào để biết ma quỷ nhập?
Theo bác sĩ Hélot trong cuốn Névroses et Possessions, Le diagnostic (Bệnh
thác loạn thần kinh và chứng quỷ nhập, cách chẩn đoán), ta có thể nghi ngờ
về sự hiện diện của ma quỷ nếu có những dấu hiệu sau đây:
* Bệnh nhân bị co giật, khiến ta có thể nhận ra có một trí tuệ khác với trí
tuệ của bệnh nhân, và có lúc bệnh nhân bình thường, có lúc bất thường xen kẽ
nhau.
* Bệnh nhân có những cử động dị thường kéo dài như: nhảy, múa, mất thăng
bằng, bò lê dưới đất, đập phá, đau đớn, té ngã mà không có nguyên nhân rõ rệt,
vặn cổ, vặn gáy....
* Bệnh nhân có những biến chứng, đau đớn không chịu nổi, đột nhiên được
chữa lành bằng nước thánh, bằng dấu thánh giá, bằng Mình Thánh Chúa,...
* Bệnh nhân đột nhiên bị mất cảm giác, giác quan và cảm tính, và có thể lấy
lại được trong chốc lát nhờ cầu nguyện.
* Bệnh nhân kêu la giống như thú vật, bị buộc phải tru tréo lên một cách vô
ý thức, nghĩa là sau đó bệnh nhân không còn nhớ gì nữa.
* Khi nhìn một người bình thường, bệnh nhân lại thấy người đó dị thường,
hay thấy người đó là quỷ.
* Bệnh nhân tự nhiên nổi giận khi thấy những vật dụng đã được làm phép, hay
khi thấy một linh mục, hay khi đi ngang qua một nhà thờ mà thấy người ta muốn
vào.
* Bệnh nhân không thể ăn uống hay gìn giữ được những đồ ăn thức uống đã
được làm phép.
Tóm lại: nếu thấy có dấu hiệu sau đây xảy ra ta có thể xác nhận ma quỷ nhập:
* Bệnh nhân nói tiếng lạ, hay hiểu được người nói tiếng đó.
* Bệnh nhân nói cho biết những chuyện ở xa hay còn trong vòng bí mật.
* Bệnh nhân biểu lộ những khả năng vượt quá tuổi tác hay vượt quá điều kiện
của mình, như lơ lửng trên không mà không bám hay dựa vào đâu cả, đi lộn ngược
đầu trên vòm nhà hay trần nhà, vẫn khư khư bất động bất chấp những nỗ lực đẩy
hay kéo của những người mạnh hơn hợp lại...
3. Làm thế nào để thoát khỏi sự ám hại của ma quỷ?
Để ngăn chặn sự tấn công của ma quỷ, ngoài việc ta đặt trọn vẹn niềm tin
vào sức mạnh và quyền năng của Chúa, ta còn cần giữ mình trong sạch, năng lãnh
nhận các bí tích, ăn chay và cầu nguyện, nhất là tuyệt đối tránh mọi hình thức
tiếp xúc và thỏa hiệp với ma quỷ.
Thứ năm: Ep 2, 19-22; Ga
20, 24-29
KÍNH THÁNH TÔ-MA, TÔNG ĐỒ
Suy niệm 1:
Theo khuynh hướng tự nhiên, chúng ta thường hướng ánh mắt tiêu cực về người
khác hơn là nhìn thấy những điểm tích cực nơi họ. Ngay khi nhìn về các thánh,
chúng ta cũng không tránh khỏi cái nhìn soi mói. Bởi đơn giản vì “thánh nhân là
tội nhân biết hối cải”.
Cụ thể khi chiêm ngắm thánh Tô-ma tông đồ mà GH mừng kính hôm nay, tự nhiên
chúng ta lại thấy ngay về một tông đồ Tô-ma sống thiếu tình hiệp nhất và “cứng
lòng tin”. Nhưng với cái nhìn của GH ngày nay, thì không muốn chúng
ta quá chú trọng đến những mặt tiêu cực; trái lại luôn khuyến khích chúng ta
tìm ra những điểm tích cực trong mọi vấn đề, để khơi sáng và khích lệ. Vì thế,
nếu bỏ qua những sai lầm và tội lỗi của tông đồ Tô-ma để hướng đến cái nhìn
tích cực nơi vị tông đồ này. Chúng ta phải thừa nhận rằng nơi con người Tô-ma
có rất nhiều điều đáng khen ngợi:
- Trước hết ngài là con người can đảm.
Tin mừng cho biết khi Chúa Giê-su quyết định đến Giu-đê-a
để cứu sống La-da-rô; thì các tông đồ ngăn cản “Thưa Thầy, mới đây
người Do-thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?” (Ga
11,8), nhưng tông đồ Tô-ma lại tỏ ra can đảm cương quyết sống chết với Thầy
Giêsu, ngài nói với các tông đồ khác: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng
đi để cùng chết với Thầy.” (Ga 11,16).
- Tiếp đến ngài là con người trung thành.
Khi sắp bước vào cuộc khổ nạn và chịu chết, nhìn thấy
các tông đồ buồn sầu nên Chúa Giêsu an ủi: “Lòng anh em đừng xao xuyến.
Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy… Thầy đi dọn chỗ cho anh em… Và Thầy đi
đâu thì anh em đã biết đường rồi”. Ngay lúc ấy, Tô-ma liền
thân thưa với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu,
làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14,1-5). Điều đó minh
chứng tấm lòng trung thành theo Chúa đến cùng của Tô-ma.
- Ngài còn là con người có lập trường kiên vững.
Tin mừng hôm nay thuật lại cho biết: sau khi Chúa
Giêsu sống lại và đã hiện ra với các tông đồ, nhưng Tô-ma lại vắng mặt. Sau đó,
các tông đồ khác thuật lại cho Tô-ma biết Chúa đã phục sinh và hiện ra với các
ông, nhưng Tô-ma nhất quyết không tin mà còn ra điều kiện là chính ông phải
thấy tận mắt, sờ tận tay thì mới tin.
Tám ngày sau, Chúa Giêsu lại hiện ra lần hai với các
tông đồ, có mặt Tô-ma. Chúa bảo ông: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn
xem tay Thầy. Đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng
hãy tin”. Lúc đó, Tô-ma nhanh chóng thân thưa với Người: “Lạy
Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Như thế là Tô-ma đã công khai tuyên xưng Đức Giê-su là Thiên Chúa, với
một niềm tin vững vàng mạnh mẽ một khi lập trường của ngài được thỏa mãn.
Được biết, sau khi đón nhận Chúa Thánh Thần, thánh nhân đã minh chứng lòng
tin của mình bằng cách ra đi làm chứng cho Đức Kitô đầy can đảm và nhiệt
quyết, ngài trở thành một trong những nhà truyền giáo vĩ đại nhất của Giáo hội
tiên khởi. Theo truyền thống, ngài đã đem Tin mừng đến tận Ba tư, Syria và Ấn
độ. Tại Ấn Độ, ngài đã chịu chết đổ máu mình ra để minh chứng cho đức tin trung
kiên vào Chúa Phục sinh, nên có thể nói Tô-ma là tông đồ đầu tiên chịu chết vì
đức tin.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì đã ban cho GH một vị tông đồ Tô-ma can đảm, trung
thành và kiên vững theo Chúa đến cùng. Luôn sẵn sàng sống chết cho niềm tin của
mình.
Chúng ta cũng tri ân thánh nhân vì nhờ sự cứng lòng tin của ngài, mà niềm
tin nơi chúng ta được đặt trên nền móng chắc chắn và trên cơ sở vững vàng .
Cũng nhờ thánh nhân mà chúng đón nhận thêm lời chúc phúc của Chúa “Phúc
cho những ai không thấy mà tin”.
Xin Chúa củng cố lòng tin nơi mỗi người trong chúng ta để chúng ta
xứng đáng đón nhận ơn phúc mà Chúa đã hứa ban, nhờ lời nguyện giúp cầu thay của
Thánh Tôma tông đồ. Amen.
Suy niệm 2:
Tin Mừng hôm nay ghi lại câu chuyện nổi tiếng về Thánh Tôma Tông Đồ, người
được mệnh danh là "Tôma Nghi Vấn".
Sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các Tông Đồ khác, Thánh Tôma đã
không tin vì không được tận mắt chứng kiến. Tám ngày sau, Chúa Giêsu lại hiện
ra một lần nữa và mời Thánh Tôma đặt tay vào vết thương đinh và cạnh sườn
Người. Lúc này, Thánh Tôma đã thốt lên: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên
Chúa của tôi!".
Lời Chúa trong lễ kính Thánh Tôma hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về ý
nghĩa của niềm tin. Niềm tin đích thực không chỉ dựa trên bằng chứng cụ thể, mà
còn là sự tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, dù cho có những nghi ngờ và thách
thức. Thánh Tôma là một minh chứng cho điều này. Nhờ sự nghi ngờ ban đầu, niềm
tin của Thánh Tôma sau đó càng trở nên mạnh mẽ và vững vàng hơn.
Câu chuyện về Thánh Tôma Tông Đồ cũng nhắc nhở cho chúng ta về tầm quan
trọng của sự hoài nghi lành mạnh. Hoài nghi không phải là điều xấu, mà là một
phần cần thiết trong quá trình tìm kiếm chân lý. Tuy nhiên, chúng ta cần phân
biệt giữa hoài nghi lành mạnh và sự nghi ngờ vô cớ. Hoài nghi lành mạnh giúp
chúng ta đặt câu hỏi, tìm kiếm bằng chứng và củng cố niềm tin của mình. Ngược
lại, sự nghi ngờ vô cớ chỉ dẫn đến sự tiêu cực và mất niềm tin.
Lễ Kính Thánh Tôma Tông Đồ là dịp để chúng ta nhìn lại niềm tin của mình và
cam kết sống một đời sống Kitô hữu đích thực. Hãy noi gương Thánh Tôma, luôn
tin tưởng vào Thiên Chúa, dù cho có những nghi ngờ và thách thức.
Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa vì đã ban cho con niềm tin. Xin Chúa giúp
con luôn tin tưởng vào Chúa, dù cho có những nghi ngờ và thách thức. Xin Chúa
ban cho con lòng can đảm để chia sẻ niềm tin của con với người khác. Xin Chúa
ban cho con sức mạnh để sống một đời sống phù hợp với niềm tin của con. Amen. (St).
Suy niệm 3:
Hôm nay, Giáo Hội hân hoan mừng kính Thánh Tôma Tông Đồ. Thánh
Tôma được biết đến với câu chuyện nổi tiếng về việc ngài hoài nghi sự Phục Sinh
của Chúa Giêsu, và chỉ tin khi được tận mắt nhìn thấy và sờ vào vết thương của
Chúa. Tuy nhiên, chính sự hoài nghi này lại trở thành bài học quý giá về đức
tin, giúp chúng ta củng cố và trưởng thành hơn trong niềm tin của mình.
Câu chuyện về Thánh Tôma là một lời nhắc nhở cho chúng ta rằng đức tin
không chỉ đơn thuần là sự tin tưởng mù quáng, mà còn là sự tin tưởng dựa trên
bằng chứng và lý trí. Tuy nhiên, đức tin cũng không chỉ dựa vào những bằng
chứng hữu hình, mà còn là sự tin tưởng vào những điều vô hình, vượt qua sự hiểu
biết của con người.
Thánh Tôma đã dạy cho chúng ta rằng, đức tin là một hành trình, một hành
trình không ngừng khám phá và trưởng thành. Niềm tin của chúng ta có thể bị thử
thách, nhưng nếu chúng ta kiên trì và tìm kiếm sự thật, thì niềm tin ấy sẽ ngày
càng được củng cố và trở nên mạnh mẽ hơn.
Nhìn vào gương mẫu của Thánh Tôma Tông Đồ, mỗi người chúng ta hãy cầu xin
Chúa ban cho mình một niềm tin mạnh mẽ, một niềm tin không chỉ dựa trên những
bằng chứng hữu hình, mà còn là sự tin tưởng vào tình yêu thương và sự quan
phòng của Thiên Chúa.
Hãy cùng nhau cầu nguyện cho Giáo Hội, để Giáo Hội luôn trung thành với sứ
mạng loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô cho mọi người. Xin cho tất cả chúng
ta biết sống một đời sống Kitô hữu đích thực, làm chứng cho Tin Mừng bằng chính
đời sống của mình.
Lễ Kính Thánh Tôma Tông Đồ còn là một dịp đặc biệt để chúng ta suy ngẫm về
tầm quan trọng của đức tin trong đời sống Kitô hữu. Hãy noi gương Thánh Tôma,
để chúng ta luôn giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa, và sống một đời sống xứng
đáng với ơn gọi Kitô hữu của mình. (St).
Suy niệm 4:
Trong mười hai Tông đồ, Tôma là một con người
thẳng thắn, cứng cỏi, và mang chiều sâu của một tâm hồn tìm kiếm sự thật. Nhưng
ông cũng thường bị gán cho biệt danh "Tôma cứng lòng tin", chỉ vì một
lần ông dám nói: “Nếu tôi không thấy dấu đinh nơi tay Người, nếu tôi không đặt ngón tay
vào lỗ đinh… tôi sẽ không tin” (Ga 20,25).
Thoạt nghe, lời ấy dường như là sự bướng bỉnh,
thiếu đức tin. Nhưng xét cho cùng, đó là khát vọng được gặp gỡ thật sự, không
phải chỉ qua lời kể. Thánh Tôma không từ chối niềm tin, nhưng ông muốn một đức
tin dựa trên sự thật, chạm vào sự thật. Và chính Chúa Giêsu đã đáp lại khát
vọng đó bằng cách hiện ra để cho ông chạm đến dấu đinh, chạm vào cạnh sườn bị
đâm thâu.
Kết quả là một lời tuyên
xưng đức tin tuyệt vời nhất trong Tin Mừng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên
Chúa của con!” (Ga 20,28) Một lời nói phát xuất từ trái tim hoán
cải, từ đôi mắt đức tin đã mở ra sau biến cố Phục Sinh.
Có thể nói: Tôma đã trở nên gương mẫu cho những ai
đang vật lộn với đức tin. Ngài giúp chúng ta hiểu rằng:
- Hoài
nghi không phải là điều xấu, nếu đó là hành trình tìm kiếm chân lý.
- Đức tin
không phải là cảm xúc nhất thời, nhưng là một tiến trình: từ ngờ vực đến
gặp gỡ, từ trải nghiệm đến xác tín.
Ngày nay, nhiều người không còn dễ tin vào Chúa vì
không "thấy". Nhưng Chúa Giêsu đã nói: “Phúc thay những ai không
thấy mà tin”, đó là lời dành cho chúng ta, những người bước đi trong đức
tin giữa một thế giới đầy bóng tối và nghi ngờ.
Cũng như Tôma, nhiều lần chúng ta cũng khép cửa lòng mình, sống trong hoài nghi, lo âu và sợ hãi. Xin Chúa hiện diện giữa những hoang mang ấy của chúng ta, cho chúng ta chạm được vào tình yêu chịu đóng đinh của Ngài, để mỗi chúng ta cũng thốt lên từ đáy lòng mình như Tôma: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”
* Mùa thường niên: Mt 9, 1-8.
"Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình, gặp gỡ Đức Kitô nảy sinh tình
đệ huynh...". Đó là niềm xác tín của cha Tiến Lộc qua bài hát "Gặp gỡ
Đức Kitô". Niềm xác tín ấy được minh định rõ ràng qua bài Tin mừng hôm nay
khi người bất toại gặp gỡ được Chúa Giêsu.
Cuộc đời của người bất toại được biến đổi và tâm hồn anh ta nhận được
ơn tái sinh, tất cả là nhờ anh ta gặp gỡ được Chúa Giê-su. Nhưng hành trình để
gặp gỡ Chúa Giê-su của anh ta lại gặp rất nhiều cản trở:
- Cản trở do bệnh tật: Bởi
mang căn bệnh bại liệt khiến anh không thể tự thân đến gặp gỡ Chúa Giêsu được,
cho dẫu anh ta rất muốn.
- Cản trở vì khoảng cách địa lý: chắc chắn khoảng đường từ nhà người bất toại đến với Chúa Giêsu sẽ
không ngắn nên đòi hỏi anh và những người khiên anh phải hy sinh vất vả để vượt
qua.
- Cản trở do đám đông: cuối đoạn tin mừng có nói đến dân chúng bao quanh Chúa Giêsu. Để đưa được
người bất toại đến được trước mặt Chúa Giêsu, đòi hỏi những người khiên anh ta
phải vất vả lắm mới chen lấn qua khỏi đám đông được.
Nhưng mọi cản trở ấy được dẹp bỏ nhờ và tình thương lớn lao và sự hy sinh
cao cả của những người thân anh. Họ đã đưa anh lên chõng và cùng nhau khiêng
anh đến với Chúa. Chính vì tin tưởng vào uy quyền của Chúa Giêsu, nhất là tình
thương mà họ dành cho người bại liệt, đã tạo nên sức mạnh phi thường, giúp họ
vượt qua mọi rào cản. Nhờ đó mới có thể đưa được người bất toại đến được với Chúa
Giêsu và được Người thương cứu chữa.
Tuy nhiên để cứu chữa cho người bất toại khỏi căn bệnh thể xác và tâm hồn,
chính Chúa Giêsu cũng phải vượt qua những rào cản khắc nghiệt bởi sự chống đối
của những người Biệt phái và Luật sĩ. Mặc dù họ không nói ra, nhưng Chúa Giêsu
biết rõ trong thâm tâm họ đã có sẵn một bản án tử dành cho Người khi Người nói
lời tha tội cho người bị bại liệt “Hỡi con, con hãy vững tin, tội con
được tha rồi”.
Tha tội là đặt quyền của TC, nên khi Đức Giêsu nói lời tha tội là Người đã
đặt mình ngang hàng với Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Điều này đã vi phạm vào
khung luật tử hình. Tuy nhiên với sức mạnh của lòng thương xót, Chúa Giêsu đã
vượt lên tất cả những rào cản của nghi kỵ, và luật lệ vô hồn để thực hiện giới
luật tình yêu bằng cách thể hiện quyền năng TC mà cứu chữa tâm hồn và thể xác
cho người bất toại.
Xin Chúa cho chúng ta biết can đảm vượt qua mọi cản trở mà đến với Chúa với
lòng tin tưởng để được Người tha thứ tội lỗi và chữa lành mọi vết thương do tội
lỗi gây nên. Nhất là xin cho chúng ta cũng biết yêu thương giúp đỡ những ai
đang xa lìa Chúa và xa cách cộng đoàn có cơ hội vượt qua mọi rào cản mà đến gặp
gỡ Chúa với hy vọng được Chúa chữa lành, nhờ đó cũng họ cảm nhận được Niềm Vui
Tin Mừng cứu độ của Chúa.
Thứ sáu: Mt 9, 9-13.
Suy niệm 1:
Tin Mừng hôm nay thuật lại sự kiện Chúa Giêsu kêu gọi Lêvi, người thu thuế
tội lỗi làm môn đệ Chúa và Người sẵn lòng đồng bàn ăn uống với tội nhân. Sự kiện này
minh chứng mạnh mẽ cho lời xác quyết của Chúa: “Tôi không đến để kêu gọi người
công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.”
Xin cho chúng ta cũng có cái nhìn tích cực và bao dung với mọi người, nhất
là những người bị coi là tội lỗi. Đồng thời cũng cho chúng ta biết can đảm từ
bỏ tội lỗi mình để xứng đáng bước theo Chúa trong đời sống mới.
Ông Lê-vi được xem là người tội lỗi công khai, đáng khinh đối với những người
Do Thái bấy giờ. Bởi vì, những người thu thuế thường lạm dụng quyền hành để
đánh thuế cao hơn theo luật định nhằm làm giàu cho bản thân mình. Người thu
thuế bị coi là trực tiếp cộng tác với ngoại bang bóc lột trên xương
máu đồng bào mình.
Đọc Tin mừng chúng ta thấy nhóm người thu thuế thường được gắn liền với
hạng gái điếm. Chính vì thế mà mọi người đều có cái nhìn ác cảm, khinh bỉ đối với
những người làm nghề thu thuế. Nhưng Chúa Giêsu lại có cái nhìn khác.
Chúa không nhìn họ làm nghề gì? xem họ thuộc băng nhóm nào? chơi với
ai? Nhưng trên hết Chúa có cái bao dung và yêu thương.
Chính cái nhìn đầy yêu thương, cộng với lời mời gọi tin tưởng của Chúa Giêsu mà Lê-vi đáp lời bằng cách dứt khoát từ bỏ cái nghề gặt hái ra tiền, là nguồn thu lợi béo bỡ để đi theo Chúa.
“Tình yêu vẫy gọi tình yêu”, Lê-vi đã
không chỉ dứt khoát bỏ nghề nghiệp mà ông còn chấp nhận bỏ chỗ ở an toàn, êm ấm
quen thuộc để dấn thân vào con đường tình yêu. Yêu Chúa bằng từ bỏ tất cả để
theo, yêu bạn bè đồng nghiệp bằng việc tạo điều kiện để anh em mình cũng được
gặp gỡ Chúa với hy vọng họ cũng được biến đổi nhờ cảm nhận được sức hút tình
yêu và lòng bao dung của Thầy Giêsu.
Chính trong khung cảnh vui mừng của bàn tiệc cùng với những người thu thuế
và tội lỗi, đã làm cho những người Pha-ri-sêu tỏ ra khó chịu. Chúa Giêsu lại
bất ngờ tuyên bố sứ mạng làm kinh ngạc mọi người: “người lành mạnh
không cần thầy thuốc, nhưng người đau ốm mới cần. Ta không đến để kêu gọi người
công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi”.
Xin Chúa thương chữa lành hết mọi bệnh tật tâm hồn chúng ta, là những tính
hư nết xấu và tội lỗi và giúp chúng con biết tích cực đáp lại tình thương của
Chúa mà biến đổi đời sống sao cho phù hợp với Tin Mừng tình thương hầu xứng
danh làm môn đệ Chúa.
Suy niệm 2:
“Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt
đi.” (Mt
12,21) Thiên Chúa giàu lòng xót thương, Người không nỡ bẻ gãy cây lau bị giập,
không nỡ dập tắt tim đèn còn leo lét. Chúa yêu thương chúng ta ngay khi chúng
ta còn là tội nhân, vì Người luôn muốn chúng ta trở nên hoàn thiện và sống hạnh
phúc đời đời.
Sứ mệnh của Chúa Giê-su đến trần gian là để “Tìm kiếm và cứu chữa
những gì đã hư mất“. Vì thế, cho dù Lê-vi là người tội
lỗi, nhưng Ngài đã không chê bỏ, trái lại tìm đến và kêu
gọi ông đứng lên theo Ngài. Đáp lại ánh mắt cảm thông và lời kêu
gọi yêu thương của Đức Giêsu, con tim của Lê-vi xao động và ngay lập tức
ông đáp lời, bằng cách đứng lên, bỏ lại tất cả sự nghiệp và tiền bạc cũng
như tình thân... mà không hề luyến tiếc để dấn bước đi theo Chúa.
Trong mọi hoàn cảnh hãy nhớ rằng Chúa không bao giờ đặt dấu chấm
hết tròn trịa trên cuộc đời ta. Trái lại Chúa luôn mở lối thoát cho ta với
nhiều phương cách khác nhau: ánh sáng Lời Chúa soi dẫn, các bí tích; tình
thân gia đình, anh em, bạn bè và các đấng bề trên trợ lực, gợi mở, nhắc
bảo...; Ngay cả những biến cố đau thương Chúa cho phép xảy ra trong cuộc sống
lại là những phương cách giúp ta ý thức được tình trạng tăm tối, tội lỗi của
mình mà vươn đến cuộc sống cao đẹp hơn.
Cảm nhận trước tình thương bao la của Chúa, chúng ta hãy mở lòng
đón nhận với tất cả lòng cảm mến tri ân. Xin Chúa cho chúng ta có
được con tim của Chúa, để ta biết cảm thông và bao dung trước những lầm lỗi và
vấp ngả của anh chị em mình. Và luôn nhớ cầu nguyện cũng như tận tâm hiệp
hành với những ai trên đường đời, với mong muốn họ đủ sức đứng dậy và
tiếp tục tiến bước mạnh mẽ về phía Chúa. Amen.
Suy niệm 3:
Tin Mừng hôm nay, trình thuật lại một sự kiện quan trọng trong sứ mạng của
Chúa Giêsu, đó là việc Ngài kêu gọi Mát-thêu, một người thu thuế, làm môn đệ.
Mát-thêu, là người Do Thái vốn được coi là kẻ tội lỗi vì đã cộng tác cho đế
quốc Rô-ma đang đô hộ quê hương ông. Khi ông đang thu thuế bên bờ hồ thì bất
ngờ Chúa Giêsu đi ngang qua và kêu gọi ông làm môn đệ của Người: “Hãy
đi theo Ta".
Lời kêu gọi của Chúa Giêsu gây ngạc nhiên cho Mát-thêu và cả những người
xung quanh ông. Mát-thêu là một người tội lỗi, vậy tại sao Chúa Giêsu lại chọn
ông?
Có thể có nhiều lý do giải thích cho việc Chúa Giêsu kêu gọi Mát-thêu.
- Lý do thứ nhất: nhằm để khẳng định lời rao giảng của Chúa Giêsu: “Tôi không đến để kêu
gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,
13). Sứ mạng chính yếu của Chúa Giêsu đến trần gian là để cứu vớt
tất cả mọi người, cách đặc biệt là những ai phạm tội. Chúa Giêsu không chỉ quan
tâm đến những người công chính, mà còn quan tâm đến những người tội lỗi và mong
muốn họ được hoán cải.
- Lý do thứ hai: có thể là
Chúa Giêsu nhận ra tiềm năng của Mát-thêu. Mát-thêu là một người có khả năng tổ
chức và quản lý tốt, điều này sẽ giúp ích cho Chúa Giêsu trong việc loan báo
Tin Mừng.
Lời kêu gọi của Chúa Giêsu đối với Mát-thêu là một lời kêu gọi dành cho tất
cả mọi người. Chúa Giêsu kêu gọi mỗi người chúng ta hãy từ bỏ lối sống tội lỗi
và bước theo Ngài. Ngài kêu gọi chúng ta hãy sống một cuộc sống mới, một cuộc
sống được biến đổi bởi tình yêu thương và sự tha thứ của Ngài. Vậy:
- Chúng ta hãy cầu nguyện cho bản thân và cho những người tội lỗi, để họ
được Chúa Giêsu kêu gọi và hoán cải.
- Chúng ta hãy noi gương Mát-thêu, sẵn sàng từ bỏ lối sống cũ và bước theo
Chúa Giêsu.
- Chúng ta hãy sống một cuộc sống mới, một cuộc sống được biến đổi bởi tình
yêu thương và sự tha thứ của Chúa Giêsu.
Lời kêu gọi của Chúa Giêsu là một lời kêu gọi đầy yêu thương và hy vọng.
Chúa Giêsu muốn mỗi người chúng ta được hạnh phúc và được cứu rỗi. Xin hco mỗi
người chúng ta sống sao cho xứng đáng với lời kêu gọi của Ngài. (St)
Thứ bảy: Mt 9, 14-17.
Suy niệm 1:
Nhân cơ hội giải thích cho những người Pha-ri-sêu biết lý do tại sao các môn đệ Ngài không ăn chay, Chúa Giêsu mạc khải cho họ biết về bản thân và sứ mạng của
Ngài.
Trong Cựu Ước Thiên Chúa tự ví Người là chàng rể và Israel là nàng dâu. Như thế khi đem trường hợp tiệc cưới ra để giải thích về việc ăn chay, Chúa Giêsu muốn cho họ biết:
- Người chính là chàng rể và Israel là nàng dâu. Qua đó mặc nhiên tuyên bố Người chính là Thiên Chúa đã đến giữa lòng nhân loại.
- Hơn nữa, mục đích chính của việc ăn chay bấy giờ là mong đợi Đấng Mes-si-a đến. Mà Chúa Giêsu chính là Đấng Mes-si-a (chàng rể) đã đến với loài người (nàng dâu) rồi, thì cớ gì phải ăn chay.
Mục đích tối hậu của việc ăn chay là để gắn kết với Chúa Giê-su. Vì thế, khi nào Người vui
thì con người phải chia vui với Người. Khi nào Người khổ thì con người cùng chung
đau khổ. Lúc nào Người chết thì con người phải cùng chấp nhận chịu chết với Người.
Khi nào Người sống lại thì con người cũng cùng sống lại với Người.
Tóm lại, Chúa Giê-su không hề phủ nhận việc ăn chay, nhưng qua lời giải đáp thắc mắc trên, Chúa Giê-su muốn cho họ biết rằng: Người chính là chàng rể được Chúa Cha sai đến để kết hôn với loài người, yêu thương loài người và cứu độ loài người. Qua đó, Ngài cũng xác định rõ cho mọi người biết rằng, việc ăn chay không phải là nghĩa vụ để chứng tỏ lòng đạo đức, nhưng việc ăn chay phải phát xuất từ một tình yêu sống động, từ tương quan mật thiết với Thiên Chúa. Cho nên một khi ta đã tiếp nhận Chúa rồi thì không cần ăn chay nữa, trái lại ta phải vui mừng phấn khởi trong niềm tin yêu Chúa.
Xin cho chúng ta biết lo ăn chay hãm mình, để dọn lòng xứng đáng đón nhận
Chúa vào lòng nơi bàn tiệc Thánh Thể mỗi ngày. Nhờ đó ta được thông hiệp với Chúa nguồn
hạnh phúc đời ta.
Suy niệm 2:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu giải thích lý do tại sao Người không
ăn chay như các môn đệ của Gioan Tẩy Giả. Người ví dụ việc Người đến như một
tân lang, và các môn đệ của Người như những người dự tiệc cưới. Người cho biết,
khi tân lang còn ở đó, người ta không cần ăn chay. Tuy nhiên, khi tân lang bị
cất đi, lúc đó người ta mới ăn chay. Qua đó Chúa Giêsu ngầm ám chỉ rằng: Ngài
chính là Tân Lang đã đến trần gian để mang đến niềm vui và sự cứu rỗi cho nhân
loại, nên chúng ta không cần sống trong tâm trạng buồn rầu chay tịnh. Trái lại
phải hân hoan vui mừng vì có Chúa đang hiện diện giữa chúng ta. Chỉ khi nào
Người không còn ở với chúng ta nữa, khi ấy chúng ta mới cần ăn chay và cầu
nguyện để được kết nối với Người.
Vậy chúng ta hãy luôn sống trong niềm vui và hy vọng vì có Chúa Giêsu Kitô
luôn hiện diện giữa chúng ta. Và cũng xin cho chúng ta luôn biết gắn bó mật
thiết với Chúa trong cầu nguyện và chay tịnh hầu chuẩn bị sẵn sàng cho
ngày Chúa đến lần thứ hai.
Suy niệm 3:
Đoạn Tin Mừng hôm nay tiếp nối câu chuyện Chúa Giêsu kêu gọi Mát-thêu trở
thành môn đệ Ngài. Sau đó, Chúa Giêsu và các môn đệ lại đồng bàn với những
người tội lỗi. Có lẽ vì thế mà các môn đệ của Gioan Tẩy Giả thắc mắc về việc
môn đệ Chúa Giêsu không ăn chay như họ. Chúa Giêsu đã giải thích bằng hai hình
ảnh ví von: miếng vải mới và bầu da cũ:
- Miếng vải mới và áo cũ: Miếng vải mới tượng trưng cho
Tin Mừng của Chúa Giêsu, là một điều mới mẻ và đầy sức sống. Áo cũ tượng trưng
cho những tập quán và lề luật cũ của Do Thái giáo, vốn đã cũ kỹ và không còn
phù hợp với thời đại mới. Việc lấy vải mới vá áo cũ sẽ khiến áo bị rách toạc
thêm.
- Rượu mới và bầu da cũ: Rượu mới tượng trưng cho Tin Mừng
của Chúa Giêsu, đầy sức mạnh và tác động mạnh mẽ. Bầu da cũ tượng trưng cho
những con người chai lì, không sẵn sàng đón nhận Tin Mừng. Việc đổ rượu mới vào
bầu da cũ sẽ khiến bầu da bị nứt vỡ và rượu bị đổ ra ngoài.
Lời giải thích của Chúa Giêsu mang nhiều ý nghĩa quan trọng:
- Tin Mừng là điều mới mẻ: Tin Mừng của Chúa Giêsu không
chỉ là sự lặp lại những lề luật cũ, mà là một điều mới mẻ, mang đến ơn cứu độ
và sự hoán cải cho con người.
- Cần có sự thay đổi: Để đón nhận Tin Mừng, con người cần
có sự thay đổi nội tâm, từ bỏ những tập quán cũ kỹ và mở lòng đón nhận điều mới
mẻ.
- Tin Mừng có sức mạnh biến đổi: Tin Mừng của Chúa Giêsu
có sức mạnh biến đổi con người, giúp con người trở nên mới mẻ và tốt đẹp hơn.
Nên mỗi người Kitô hữu hãy:
- Sống Tin Mừng cách nhiệt thành: Tin Mừng không chỉ là
những lời giáo lý suông, mà cần được thể hiện qua hành động cụ thể trong đời
sống.
- Sẵn sàng thay đổi: Hãy luôn sẵn sàng thay đổi bản thân
để phù hợp với Tin Mừng, từ bỏ những thói quen xấu và sống theo Lời Chúa.
- Tin tưởng vào sức mạnh của Tin Mừng: Tin tưởng rằng Tin
Mừng của Chúa Giêsu có sức mạnh biến đổi con người và giúp con người sống một
đời sống tốt đẹp hơn.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì đã ban cho nhân loại Tin Mừng cứu độ. Xin cho chúng
ta sẵn sàng thay đổi bản thân để sống Tin Mừng của Chúa cách nhiệt thành với
mong muốn được biến đổi đời sống mỗi ngày nên xứng hợp hơn. Amen. (St)
Suy niệm 3:
1. Ăn chay: hình thức hay tâm tình?
Câu hỏi của các môn đệ ông Gioan phản ánh một nếp
sống đạo thiên về hình thức và luật lệ: “Tại
sao chúng tôi và người Pharisêu ăn chay, còn môn đệ ông thì không?”
Đối với họ, ăn chay là nghĩa vụ để chứng tỏ lòng
đạo đức. Nhưng với Chúa Giêsu, ăn chay phải phát xuất từ một tình yêu sống
động, từ tương quan với Thiên Chúa, chứ không phải chỉ là nghi thức
lạnh lùng, trống rỗng.
2. Khi Chàng Rể còn ở với họ...
Chúa Giêsu ví mình như “Chàng Rể”, một hình ảnh
rất quen thuộc trong Kinh Thánh, diễn tả tình yêu nồng nàn giữa Thiên Chúa và
dân Người. Nếu Người là Chàng Rể, thì sự hiện diện của Người là niềm vui, là sự
sống. Vậy thì, ăn chay biểu hiện của sám hối và buồn sầu không phù hợp với thời
khắc hồng ân ấy. Niềm vui gặp gỡ Đức Kitô phải trở nên nền tảng cho mọi thực
hành đạo đức.
3. Rượu mới, bầu da mới
Chúa Giêsu đến không phải để “vá víu” những gì cũ
kỹ, mà để canh tân tận căn. Rượu mới của Tin Mừng, của tình yêu, tha thứ
và niềm vui...cần được đón nhận bằng một con tim rộng mở, một tâm hồn được canh
tân, chứ không thể gói ghém trong não trạng cũ kỹ của lề luật khắt khe.
Chúng ta không thể sống đời Kitô hữu hôm nay với tâm thức của người chỉ biết giữ luật cách máy móc. Đức tin không chỉ là “làm đúng”, nhưng còn là “sống đúng” trong tình yêu với Thiên Chúa.
Xin cho chúng ta biết sống đạo không phải chỉ bằng nghi thức bề ngoài, mà bằng một trái tim luôn gắn bó với Chúa, yêu mến và bước theo Người mỗi ngày.
Xin Chúa biến đổi chúng ta, để ta có thể trở nên bầu da mới, sẵn sàng đón nhận rượu mới của Tin Mừng: rượu của niềm vui, hy vọng và lòng thương xót. Amen.