SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XII THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KITÔ
St 14,18-20;
1Cr 11,23-26; Lc 9,11b-17
Suy niệm 1:
Hiệp chung tâm tình
cùng GH toàn cầu, hôm nay chúng ta mừng kính trọng thể lễ Mình Máu Thánh Chúa
Kitô. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đến với bàn tiệc Thánh Thể
để kính múc Mình và Máu Chúa Kitô làm lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng hồn xác ta. Xin
Chúa giúp chúng ta xác tín mạnh mẽ vào tình yêu cứu độ của Chúa, biết siêng
năng đến với bàn tiệc Thánh Thể và dọn tâm hồn cách xứng hợp cho Chúa ngự vào.
Thiên Chúa dựng nên
con người có hồn và xác. Phần xác muốn sống phải ăn cơm bánh hằng ngày; phần
hồn muốn sống cần phải đón nhận Mình Máu Thánh Chúa. Mình Máu Thánh Chúa chính
là của ăn có sức thiêng nuôi sống linh hồn ta. Xin cho chúng ta biết yêu mến và
quý trọng của ăn thiêng liêng mà Chúa Giêsu tặng ban cho ta, bằng cách dọn mình
xứng hợp và siêng năng đón rước Chúa vào lòng mỗi khi tham dự thánh lễ.
Nhân gian thường nói
“Ăn gì thì bổ cái đó” là một thực tế của sự sống luân chuyển trong thân xác con
người và các tạo vật. Nếu ăn nhiều thịt, thì áp xuất máu sẽ tăng lên và tính
tình cũng thường hay nóng nảy. Ngược lại nếu ăn rau, củ, quả nhiều thì cơ thể
cảm thấy nhẹ nhàng, tính tình cũng điềm đạm hơn. Đó là kinh nghiệm bình thường
ở những cơ thể cũng bình thường, ngoại trừ những cơ thể bất thường thì có thể
khác.
Căn cứ vào kinh
nghiệm đó, chúng ta có thể hiểu được lời Chúa Giêsu phán dạy: "Ta
là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta
sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống... Ai ăn Thịt Ta và uống
máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy."
Đúng vậy, Chúa Giêsu
Kitô không phải chỉ có bản tính nhân loại, mà còn mang bản tính Thiên Chúa
trong Ngài, nên thịt và máu Ngài ở trong trạng thái của sự sống đời đời. Khi ăn
Thịt và uống Máu Ngài, một kiểu nói khiến những người Do Thái đương thời với
Chúa Giêsu phải rùng mình sợ hãi và bỏ đi; và những người thời nay không tin
Chúa Giêsu thì cho rằng đầu óc của những người Công Giáo là điên rồ. Ấy vậy mà
điều ấy lại rất quen thuộc thường tình đối với người Công giáo chúng ta. Việc
đón nhận Mình và Máu Chúa đã trở nên vô cùng quan trọng cho sự sống tinh thần
và thiêng liêng của mọi Kitô hữu.
Với người Công giáo
chúng ta, chẳng những tin vào Lời Chúa Giêsu phán về việc ăn Thịt và uống Máu
Ngài, nhưng còn có kinh nghiệm ăn Thịt và uống Máu ấy hằng ngày. Nhờ đó mà ta
mới cảm nghiệm được sự trưởng thành trong đời sống tinh thần và thiêng liêng
của mình ở mức độ đời đời là như thế nào. Vì thế mà trên cả thế giới, cứ vài
giây đồng hồ lại có một Thánh Lễ để cung cấp cho hàng tỷ người Công giáo sự
sống thần linh và trường sinh là thịt và máu Chúa Giêsu. Bất cứ ai đến ăn Thịt
và uống Máu Ngài, đều cảm nhận sự bình an khôn tả, nhiều khi nhận được cả sự
chữa lành thể xác nữa.
Bí tích Thánh Thể,
lương thực thần lương mang sự sống đời đời. Xin cho chúng ta biết tin tưởng và khao
khát tìm đến đón nhận chính nguồn lương thực này, hầu đem lại cho chúng ta
nguồn bình an và sự sống đích thực.
Suy niệm 2: Lễ
Thiếu Nhi.
Hôm nay, chúng ta
cùng với Giáo Hội long trọng mừng kính lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Hiệp dâng
thánh lễ hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta tích cực tìm hiểu và suy niệm sâu
xa hơn về bí tích Thánh Thể, nhờ thế chúng ta mới thêm lòng yêu mến Thánh Thể
Chúa.
Giờ đây, chúng ta hãy
khiêm tốn nhìn nhận những lầm lỗi, thiếu sót của mình mà xin ơn tha thứ của
Chúa hầu xứng đáng cử hành mầu nhiệm Thánh Thể.
Mừng kính trọng
thể lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô hôm nay, là dịp thuận tiện để Cha
cùng với các con ôn lại đôi chút giáo lý về Bí Tích Thánh Thể mà Giáo Hội chỉ
dạy chúng ta.
1. Các con cho cha
biết: Ai đã lập Bí Tích Thánh Thể?
-
Chúa Giêsu.
2. Chúa Giêsu lập Bí
Tích Thánh Thể khi nào?
-
Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể trong bữa tiệc ly trước khi Người chịu
chết.
3. Chúa Giêsu đã lập
bí tích Thánh Thể như thế nào?
-
Đang trong bữa ăn, Người cầm lấy bánh dâng lời chúc tụng tạ ơn rồi bẻ ra trao
cho các môn đệ mà phán: “Này là mình Ta, các con hãy cầm lấy mà ăn”.
Sau đó, Chúa Giêsu cầm lấy chén rượu nho, tạ ơn Chúa Cha rồi trao cho các môn
đệ và nói: “ Các con hãy nhận lấy mà uống, này là máu Ta, Máu tân ước vĩnh cửu
sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội.” (Mt 26, 26-28; Lc
22, 17-20). Khi ấy bánh và rượu trở nên Mình Máu Thánh Chúa.
4. Vì ý gì Chúa Giêsu
lập bí tích Thánh Thể?
-
Vì yêu thương chúng ta và muốn ở với chúng ta mãi nên Chúa Giêsu đã dùng chính
Mình Máu Người làm của ăn thức uống để nuôi dưỡng linh hồn bổ dưỡng thân xác
nhắm giúp chúng ta đủ sức tiến bước trên hành trình đi về nhà Cha.
5. Chúa Giêsu lập bí
tích Thánh Thể mấy lần?
-
Chúa Giêsu chỉ lập bí tích Thánh Thể một lần, nhưng Chúa Giêsu đã truyền lệnh
cho các tông đồ: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta” ( Lc
22, 19). Qua đây Chúa Giêsu truyền lệnh cho Hội Thánh cử hành bí tích Thánh Thể
mà tưởng nhớ đến Chúa.
6. Giáo Hội cử hành
bí tích Thánh Thể khi nào?
-
Chính khi cử hành thánh lễ là Giáo Hội cử hành bí tích Thánh Thể.
7. Khi nào bánh rượu
trở nên Mình Máu Chúa?
-
Trong thánh lễ, khi linh mục chủ tế đọc lời truyền phép trên bánh và rượu lúc
ấy bánh rượu liền trở nên Mình và Máu Thánh Chúa.
8. Chúa Giêsu yêu
thương muốn ở với chúng con. Vậy các con có muốn rước Chúa vào lòng để ở cùng
chúng con không?
-
Muốn.
9. Muốn rước Chúa vào
lòng thì phải có những điều kiện gì?
-
Sạch tội trọng, có ý ngay lành, giữ chay một giờ trước khi rước Chúa.
10. Rước Chúa thì
được những ơn ích gì các con?
-
Được kết hợp mật thiếu với Chúa Giêsu và với nhau.
- Xóa
bỏ các tôi nhẹ và gia tăng ơn thánh hóa.
- Có sức
chống trả chước cám dỗ.
- Bảo
đảm cho ta được sống đời đời.
Các con thân mến,
Chúa Giêsu yêu thương chúng ta đến hy sinh thân mình để trở nên Mình Máu Thánh
nuôi sống chúng ta. Chúng ta xin Chúa cho chúng ta biết đáp lại tình yêu Chúa
bằng việc chăm học giáo lý, siêng năng tham dự thánh lễ và luôn giữ tâm hồn
trong sạch để dọn mình rước Mình Máu Thánh Chúa cho xứng đáng.
Suy niệm
3: THÁNH THỂ TUYỆT ĐỈNH CỦA TÌNH YÊU
Cùng với GH hoàng vũ,
hôm nay chúng ta hiệp dâng thánh lễ mừng kính trọng thể Mình và Máu Thánh Chúa
Kitô. Đó là sáng kiến tuyệt vời của tình yêu.
Vì tình yêu mà Chúa
Giêsu đã thiết lập nên Bí Tích Thánh Thể để ở lại mãi với nhân loại chúng ta,
trở nên lương thực thần linh nuôi dưỡng linh hồn, bổ dưỡng thân xác chúng ta.
Tình yêu vẫy gọi tình
yêu, ân tình đền đáp ân tình. Xin cho chúng ta luôn biết yêu mến, tôn kính bí
tích Thánh Thể, qua việc siêng năng đến kính viếng Thánh Thể Chúa và tích cực
tham dự thánh lễ cũng như dọn mình cách xứng hợp mỗi khi đón rước Chúa vào
trong tâm hồn.
Định luật tình yêu
dạy cho ta hiểu rằng: “yêu ai thì muốn ở gần người đó, yêu ai thì muốn hy
sinh phục vụ cho người đó và yêu ai thì muốn trở nên một với người mình
yêu.” Hành động mà Chúa Giêsu trao ban chính Mình và Máu Thánh Người
làm lương thực thần linh nuôi sống chúng ta, chính là đỉnh cao của tình
yêu dâng hiến.
Khi yêu nhau người ta
không chỉ dừng ở việc phục vụ trong hy sinh, nhưng người ta còn muốn nên một
với người mình yêu: “mình với ta tuy hai mà một” là vậy. Vì lẽ đó, Chúa Giêsu
đã lập Bí Tích Thánh Thể, ngang qua đó, Ngài đã biến bánh thành Thịt và rượu
thành Máu Người để nuôi sống và ở lại mãi với người mình yêu.
Chuyện kể rằng: Có một đôi vợ chồng trẻ kia mới lấy nhau được hơn một
năm. Trong thời gian đó họ đã sống rất hạnh phúc. Mỗi buổi sáng
trước khi rời nhà đi làm, và buổi chiều khi vừa trở về ngôi nhà thân
thương, người chồng không bao giờ quên trao cho vợ một cử chỉ âu yếm và
một lời nói thân thương. Nhờ đó tình yêu giữa hai vợ chồng ngày thêm
nồng thắm. Nhưng rồi hạnh phúc của họ đã bị đe dọa khi một hôm người
chồng bị trúng mưa trên đường từ xưởng làm về nhà.
Anh bị cảm nặng
phải nằm liệt giường nhiều ngày và đã được chị vợ tận tình săn sóc.
Đẩu tiên, anh được vợ mang đến bệnh viện và được bác sĩ chẩn đoán bị
sưng màng phổi. Dù đã được các bác sĩ tận tình cứu chữa, nhưng bệnh
của anh ngày càng nặng thêm. Sau đó, bệnh viện kết luận anh đã bị ung thư
màng phổi ác tính thời kỳ thứ ba và vô phương cứu chữa.
Khi sắp chết, anh
chồng đã cầm tay vợ thều thào nói: “Em yêu quí ! Có lẽ sắp tới giờ
Chúa gọi anh về rồi. Anh đã chuẩn bị và sẵn sàng vâng theo thánh ý
Chúa muốn. Anh chỉ tiếc một điều là không còn được tiếp tục sống bên
em nữa. Trước khi đi xa, anh không có gì trối lại cho em ngoài chiếc
nhẫn mà cách đây hơn một năm, hai vợ chồng mình đã tặng cho nhau khi
kết ước trước bàn thờ Chúa. Bây giờ anh xin tặng lại chiếc nhẫn kỷ
vật này cho em, để mỗi lần nhìn thấy nó, em biết rằng anh vẫn luôn
ở bên em và hằng cầu Chúa ban cho em an lành hạnh phúc”.
Nói xong, anh tháo
chiếc nhẫn đang đeo ở ngón tay ra và âu yếm xỏ vào tay vợ, giống như
trước đây anh đã từng làm trong thánh lễ hôn phối của hai người.
Sau khi chết, anh
được an táng trong một nghĩa trang gần nhà. Từ ngày đó, mỗi ngày
người ta đều thấy một phụ nữ còn rất trẻ, đầu chít khăn tang, tay
cầm bó bông đi vào nghĩa trang. Chị đứng hằng giờ trước ngôi mộ cỏ
mọc chưa xanh của chồng, để cầu nguyện cho anh. Tay chị đeo hai chiếc
nhẫn: Một chiếc của ngày thành hôn và chiếc kia là kỷ vật của người
chồng quá cố đã để lại cho chị khi sắp từ giã cuộc đời này.
Câu chuyện trên minh
chứng cho chúng ta biết: đối với người đời trước khi đi xa, thường muốn để lại
cho người mình thương bằng những kỉ vật hay của hồi môn quý giá nhất. Còn với
Chúa Giêsu thì những kỉ vật những của hồi môn ở trần gian này dù quý giá mấy đi
nữa thì cũng trở nên tầm thường, không đủ nói lên hết tấm lòng yêu thương. Để
tỏ tấm lòng yêu thương đến cùng, Chúa Giêsu lại có một sáng kiến hết sức độc
đáo, qua việc trao ban một kỉ vật vô cùng cao trọng, đó chính bản thân Người.
Nhưng bản thân bằng xương thịt của Người cũng chỉ có thể trao ban cho nhận loại
chúng ta chỉ được một lần, không thể trao ban mãi mãi được. Cho nên Ngài mới
lưu lại bản thân Ngài bằng chính bí tích nhiệm mầu dưới hình bánh và hình rượu,
làm thức ăn của uống thiêng liêng dưỡng nuôi linh hồn chúng ta.
Hơn thể nữa, Chúa
Giêsu còn muốn các môn đệ trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, là hiện thân
của Ngài ở giữa trần gian nên Ngài đã trao ban chức Linh mục cho các ông với
lời phán truyền: “các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Cho
nên trong mỗi thánh lễ, nhờ việc đặt tay của Linh mục chủ tế trên hình bánh
hình rượu và đọc lời truyền phép như Chúa Giêsu đã thực hiện trong bữa tiệc ly,
thì lập tức bánh và rượu, liền trở nên Mình Máu Chúa. Để những ai tin và đón
nhận Mình Máu Chúa vào lòng sẽ được thần lương Chúa bổ dưỡng đủ sức để tiến
bước trên con đường đi về quên trời.
Mỗi lần tham dự thánh
lễ ước gì mỗi người chúng ta đều cảm nghiệm được tình yêu kì diệu mà Chúa
Giê-su đã dành cho nhân loại chúng ta qua bí tích Thánh Thể nhiệm mầu, đó chính
là bí tích tình yêu, hy sinh và nuôi dưỡng.
- Vì bí tích Thánh
Thể là bí tích tình yêu nên vẫy gọi chúng ta cũng hãy tập tành bắt chước tình
yêu dành cho tha nhân, như Chúa Giê-su đã yêu thương chúng ta.
- Vì bí tích Thánh
Thể là dấu chỉ của hy sinh nên vẫy gọi chúng ta cũng biết hy sinh phục vụ cho
tha nhân, như Chúa Giê-su đã hy sinh mạng sống vì chúng ta.
- Vì bí tích Thánh
Thể là bí tích nuôi dưỡng nên vẫy gọi chúng ta cũng tập tành chia sẻ vật chất
lẫn tinh thần với mọi người, như Chúa Giê-su đã lấy thịt và máu của mình để
nuôi dưỡng linh hồn chúng ta.
- Và vì bí tích Thánh
Thể được kết tinh từ tấm bánh tinh tuyền và rượu nho thanh khiết do công lao
con người dâng hiến tạo thành, nên mời gọi chúng ta cũng hãy cố gắng trở thành
tấm bánh thơm ngon bẻ ra cho anh chị em của mình hưởng dùng qua những việc làm
hy sinh phục vụ hàng ngày của chúng ta.
Xin cho chúng con
đừng thờ ơ, hờ hững với món quà tình yêu vô giá nầy nhưng biết sốt sắng lãnh
nhận với tâm tình cảm tạ sâu xa.
Suy niệm 4:
Thiên Chúa dựng nên
con người có hồn và xác. Phần xác muốn sống phải ăn cơm bánh hằng ngày, phần
hồn muốn sống còn phải rước Mình Máu Thánh Chúa. Mình Máu Thánh Chúa chính là
của ăn nuôi sống linh hồn ta. Xin cho chúng ta biết yêu mến, quý trọng của ăn
thiêng liêng do Chúa Giêsu ban tặng, bằng cách dọn mình xứng đáng mỗi khi lên
rước Chúa nơi bàn tiệc Thánh Thể.
Tuần trước chúng ta
mừng kính trọng thể mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm căn bản và cao trọng nhất
của niềm tin Kitô giáo (mầu nhiệm tín lý). Tuần này chúng ta tiếp tục mừng kính
mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm trung tâm và là đỉnh cao của đời sống người Kitô
hữu (mầu nhiệm bí tích). Cả hai mầu nhiệm đều nói lên tình yêu TC dành cho nhân
loại chúng ta. Nếu mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi nói lên tình yêu sáng tạo của
Ngôi Cha, cứu chuộc của Ngôi Con và thánh hóa của CTT; thì mầu nhiệm Thánh Thể
lại nhấn mạnh đến tình yêu tự hiến của Chúa Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa.
Chính vì yêu
mà Chúa Giêsu đã nhập thể làm người để ở cùng và chia sẻ kiếp người
với chúng ta. Ngài không những chịu nạn chịu chết và sống lại để cứu độ chúng
ta mà Ngài còn hiến tế mạng sống mình làm lương thực thần linh nuôi dưỡng linh
hồn và bổ dưỡng thân chúng ta trên hành trình dương thế. Chỉ mong sao Ngài được
ở lại trong ta và ta được ở lại trong Ngài mãi cho đến ngày tận thế.
Nhân gian thường nói:
“Ăn gì thì bổ cái đó”, đó là một thực tế của sự sống luân chuyển
trong thân xác con người và các tạo vật. Nếu ăn thịt nhiều thì áp suất máu
sẽ tăng lên và tính tình thường hay nóng nảy. Ngược lại ăn rau, củ, quả nhiều,
thì cơ thể cảm thấy nhẹ nhàng, tính tình trở nên điềm đạm hơn. Đó là kinh
nghiệm bình thường ở những cơ thể bình thường, ngoại trừ những cơ thể bất
thường thì có thể khác. Căn cứ vào kinh nghiệm đó, chúng ta có thể hiểu
được lời Chúa Giêsu phán dạy: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống;
ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho
thế gian được sống... Ai ăn Thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở
trong kẻ ấy."
Đúng vậy, Chúa Giêsu
không chỉ mang bản tính nhân loại hay chết, mà Ngài còn mang bản tính
Thiên Chúa trường tồn, nên thịt và máu Ngài luôn ở trong trạng thái
sự sống vĩnh cửu. Ăn thịt và uống máu Ngài, một kiểu nói khiến những người
Do Thái đương thời với Chúa Giêsu phải rùng mình sợ hãi và bỏ đi, còn những
người thời nay không tin Chúa thì cho rằng: đầu óc của những người
Công Giáo thật điên rồ! Nhưng đó lại là điều rất quen thuộc và vô cùng quan
trọng đối với người Công Giáo chúng ta. Người Công giáo chúng ta
không những tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu nơi bí tích Thánh Thể mà chúng
ta còn có kinh nghiệm ăn thịt và uống máu Người hằng ngày, và ai nấy đều
cảm nghiệm được sự trưởng thành trong đức tin ở mức độ đời đời như thế
nào. Vì thế mà trên thế giới, cứ 1 giây đồng hồ có khoảng 3 Thánh lễ được
cử hành, nhằm cung cấp cho khoảng 1,3 tỉ người Công giáo sự sống trường
sinh chính là Thịt và Máu Chúa Giêsu. Bất cứ ai đến ăn thịt và uống máu
Chúa Kitô thì đều cảm nhận được sự bình an khôn tả, nhiều khi còn nhận được sự
chữa lành cả thể xác nữa.
Bí tích Thánh Thể,
lương thực thần lương mang sự sống đời đời. Xin cho chúng ta luôn biết tin
tưởng, yêu mến và khao khát tìm đến, đón nhận nguồn lương thực thần linh do
Chúa tặng ban, nhờ đó ta mới cảm nhận được nguồn bình an tâm hồn và mang lấy
được nguồn sống đời đời do Chúa truyền ban.
Suy niệm 5:
Hôm nay, toàn thể Hội Thánh long
trọng cử hành lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, để suy tôn Bí tích Thánh Thể
– là đỉnh cao và trung tâm của đời sống Kitô hữu. Đây không chỉ là một nghi lễ
đẹp trong phụng vụ, mà là một thực tại sống động: Chúa Giêsu hiện diện
thật sự, một cách huyền nhiệm nhưng trọn vẹn – với Thân Mình, Máu, Linh hồn và
Thiên tính trong tấm bánh nhỏ bé chúng ta rước lấy mỗi ngày.
1. Bí tích Thánh Thể: Lương thực
ban sự sống đời đời
Bài Tin Mừng hôm nay (Lc
9,11b-17) kể lại phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều. Trước đám đông hơn năm
ngàn người, các môn đệ cảm thấy bất lực và muốn xin Thầy giải tán đám đông.
Nhưng Chúa Giêsu lại bảo: “Chính anh em hãy cho họ ăn.”
Đây không chỉ là lời mời gọi các
môn đệ thực hiện một hành động bác ái, mà còn là hình ảnh tiên báo về Bí tích
Thánh Thể. Chúa Giêsu không chỉ ban bánh vật chất, nhưng chính Người “bẻ
bánh” , biểu tượng cho việc Người trao ban chính thân mình vì nhân
loại.
Khi chúng ta rước lễ, không phải
chỉ là đón nhận một biểu tượng hay nghi thức đẹp, mà là thật sự đón
nhận chính Đức Kitô sống động, Đấng ban sự sống đời đời.
2. Mình Máu Thánh Chúa – Hồng ân
hiệp thông và phục vụ
Bài đọc thứ hai (1Cr 11,23-26),
thánh Phaolô thuật lại lời truyền phép của Chúa Giêsu trong bữa Tiệc Ly: “Anh
em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy.” Việc cử hành Thánh Thể
không chỉ là tưởng niệm quá khứ, mà còn là làm cho hy tế Thập Giá của Chúa
Kitô hiện diện cách mầu nhiệm trong hiện tại.
Mỗi lần chúng ta tham dự Thánh lễ
và rước lễ, chúng ta không chỉ được hiệp thông với Chúa, mà còn được mời gọi
hiệp thông với nhau trong tình huynh đệ, để trở nên một thân thể duy nhất trong
Đức Kitô. Vì thế, người rước Mình Thánh Chúa mà sống ích kỷ, chia rẽ, loại trừ
người khác là người chưa sống đúng với ý nghĩa của Bí tích này.
3. Sống Thánh Thể trong đời
thường
Phép lạ hóa bánh ra nhiều cũng
nhắc chúng ta: khi biết mở lòng, biết dâng những gì mình có, dù chỉ là “năm
chiếc bánh và hai con cá”, Chúa sẽ làm nên điều kỳ diệu. Chúa cần trái tim
quảng đại của chúng ta, để từ đó, Người tiếp tục nuôi dưỡng con người hôm nay
bằng chính tình yêu và lòng thương xót.
Là những người đã rước Chúa vào
lòng, chúng ta được mời gọi sống “tấm bánh bẻ ra” cho tha
nhân: qua hành động bác ái, chia sẻ cho người nghèo, thăm viếng người đau yếu,
và xây dựng sự hiệp nhất trong cộng đoàn.
Câu chuyện minh họa
Có một linh mục già ở Ý, mỗi sáng
đều đi bộ mang Mình Thánh Chúa đến cho người già, người bệnh. Một hôm, có người
hỏi: “Cha không mệt sao khi mỗi ngày đi xa như vậy?”
Ngài trả lời: “Tôi đang mang
Chúa đến cho những người cần Người nhất. Nếu Chúa đã hy sinh cả mạng sống để ở
lại trong tấm bánh nhỏ bé ấy, thì tôi không có lý do gì để tiếc mấy bước chân
của mình.”
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu vẫn đang ở giữa chúng
ta nơi Bí tích Thánh Thể. Người không ở lại để được tôn thờ mà thôi, nhưng còn
để làm lương thực nuôi dưỡng, và để sai chúng ta đi loan báo tình yêu Người cho
thế giới.
Ước gì mỗi lần rước lễ, chúng ta
đều ý thức rằng: mình đang đón nhận chính Đức Kitô, Đấng yêu thương và hiến
mình vì chúng ta, để rồi cũng biết yêu thương và hiến mình cho tha nhân như
Người. Amen.
Thứ hai: Mt
7,1-5
Chúa dạy chúng ta:
“Các con phải nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”. Tuy
nhiên Chúa không muốn chúng ta tự cao, tự đại cho mình tốt lành thánh thiện hơn
người khác rồi lên mặt dạy đời, xét đoán và lên án người khác.
Xin cho chúng ta biết
khiêm tốn nhận mình còn nhiều yếu đuối, thiếu sót và lầm lỗi để biết lo sửa đổi
mỗi ngày nên hoàn thiện hơn, hầu xứng đáng là con của Chúa.
Tin mừng hôm nay Chúa
Giêsu dạy chúng ta: “ anh em đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán”.
Tâm lý tự nhiên trong
chúng ta là thích xét đoán người khác. Lý do bởi vì:
- Ta luôn nghĩ mình
hay hơn, tốt hơn, giỏi hơn người khác.
- Do tính ác nằm sẵn
trong người ta. Tuân tử nói: Nhân tri sơ tính bản ác.
- Ta thích chà đạp và
hạ bệ người khác nhằm để tự nâng bốc mình lên.
Thật vậy khi xét đoán
ai, tức là chúng ta đặt mình lên trên người ấy, và muốn mọi người tôn vinh ca
ngợi ta.
Sở dĩ Chúa Giêsu dạy
chúng ta chứ nên xét đoán người khác là bởi vì:
- Quyền xét đoán là
quyền của Thiên Chúa: “Chỉ có một Đấng ra lề luật và xét xử, đó là Đấng
có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn ngươi là ai mà dám xét đoán người thân
cận?” (Gc 5,12 ).
- Nhân vô thập toàn,
là con người ai cũng có những thiếu sót và tội lỗi, lắm khi tính hư nết xấu và
tội lỗi chúng ta còn lớn hơn người khác. Do đó Chúa Giêsu khuyên chúng ta nên
để ý đến cái “xà” trong mắt của mình hơn là quan tâm đến cái “rác” trong mắt
anh em. Và hãy lưu tâm lấy cái “xà” trong mắt mình trước đã hơn là chỉ lo lấy
cái “rác” trong mắt anh em.
- “Anh em đừng xét
đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán”. “Cầm đuốt mà rê
chân người”; “ Bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu”, bươi móc lầm lỗi người khác
rồi kết án buộc tội thì đáng bị Thiên Chúa kết án.
Xin cho chúng ta đừng
bao giờ tước quyền của Thiên Chúa để xét đoán và lên án anh em mình, cũng đừng
bao giờ đồng lõa hùa theo người khác để rồi nói xấu và dạy đời người khác. Trái
lại cho chúng ta biết can đảm nói điều tốt lành cho anh em, nhất là những người
vắng mặt Làm thế ta sẽ được Thiên Chúa ghi công. Bởi vì “ anh em đong đấu nào,
thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em đấu ấy”.
* LỄ VỌNG
SINH NHẬT THÁNH GIOAN TẨY GIẢ
Gr 1,4-10; 2Cr
5,14-17; Mc 4,35-41
Chiều nay Giáo Hội
long trọng mừng kính lễ vọng Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy giả, Ngài là vị tiền hô
của Đấng Cứu Thế. Ngài được gọi là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước, là vị ngôn
sứ cao cả nhất; Ngài cũng là vị ngôn sứ duy nhất chỉ cho nhân loại biết Đấng
Cứu Thế là Đức Kitô, “là Chiên Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ trần gian.” Hơn ai hết,
Thánh Gioan chính là người làm phép rửa cho Chúa Cứu Thế tại dòng sông
Gio-đan.
Hiệp dâng Thánh Lễ
mừng sinh nhật Thánh Gioan Tầy giả chiều hôm nay, xin Chúa cho chúng ta sẵn
sàng chuẩn bị đón ngày Chúa đến, đó là biết chết đi đối với tội lỗi, sự ích kỷ,
tính kiêu căng, can đảm nói thật, sống thật và hân hoan đi rao giảng
và làm chứng cho tình yêu của Chúa.
Gia vê Chúa tể thiên nhiên.
Phao lô khẳng định: “Chiên Hiền” Giê su.
Bão tố, sấm chớp, mây mù,
Dẹp yên tất cả, Giê su khải hoàn.
CHÚA TỂ MỌI LOÀI
Đời là bể khổ ai ơi!
Mọi sự tay Chúa an bài thế gian.
Cảm tạ Thiên Chúa cao sang,
Cho con biết Chúa, và mang Danh Ngài.
Gióp người công chính gặp tai.
Thân nhân trách móc, ông rài vững tin.
Chúa Trời rất mực phân minh.
Mọi sự lành dữ…, chương trình Chúa trao.
Phao lô khẳng định hôm nao:
Giê su phải chết nên vào thế gian,
Phải sống vì Chúa mới an.
Giê su mặc lấy, vì mang “Danh Ngài”.
Bão đến, khiếp sợ “thiên tai”.
Giê su bình thản chẳng hoài, chẳng lo.
Đứng lên: khiến bão lặng cho.
Khuyên các môn đệ phải lo tin Ngài.
Vững tin vào Chúa hôm nay.
Dù đời bão tố, ta hoài cậy trông.
Vững tin vào Chúa hết lòng,
An bài Chúa giữ ta trong tay Ngài.
Suy niệm 1: Hôm nay chúng ta cùng với Giáo
Hội, mừng ngày Sinh Nhật của Thánh Gioan Tẩy giả.
I. TRƯỚC HẾT Ý NGHĨA CỦA THÁNH LỄ HÔM NAY
Tôi xin mượn lời của thánh Âugustinô nói về ngài nói rất hay: “Hội
Thánh coi sinh nhật của thánh Gioan như một ngày thánh thiêng. Không có vị nào
trong các bậc cha ông được chúng ta mừng sinh nhật trọng thể như thế. Chúng ta
mừng sinh nhật thánh Gioan và mừng sinh nhật Đức Kitô: đó là điều không thể bỏ
qua”.
Thánh Gioan sinh ra
bởi một cụ bà son sẻ, còn Đức Kitô sinh ra bởi một
thiếu nữ đồng trinh. Vì không tin Gioan sẽ chào đời, nên người cha đã bị hóa
câm; vì tin Đức Kitô sẽ chào đời, nên Đức Maria đã thụ thai bởi lòng tin. Chúng
tôi đã đề nghị những điều cần tìm hiểu và báo trước những điều cần thảo luận.
Nhưng như tôi đã nói trước đây nếu chúng tôi không đủ khả năng hay thời giờ để
đào sâu hết mọi ngõ ngách của một mầu nhiệm cao cả như thế, thì Đấng nói trong
anh em sẽ dạy anh em một cách tốt hơn, cả khi chúng tôi vắng mặt, đó là Đấng mà
anh em đã sốt sắng tưởng nhớ, đã đón nhận bằng cả tấm lòng, và đã trở nên đền
thờ của Người.
Ông Dacaria bị câm,
không nói được cho đến khi Gioan, vị Tiền Hô của Chúa chào đời, nhờ đó ông lại
nói được. Sự im lặng của ông Dacaria có nghĩa gì nếu không phải là lời ngôn sứ
tạm ngưng, tức là bị che giấu và đóng lại cho tới khi Đức Kitô đến rao giảng?
Khi ông Gioan đến thì lời ngôn sứ được mở ra và khi Đấng được tiên báo đến thì
lời ngôn sứ trở nên rõ ràng. Việc ông Dacaria lại nói được vào thời Gioan sinh
ra cũng giống như tấm màn trong đền thờ xé ra vào ngày Đức Kitô bị treo trên
thập giá. Nếu ông Gioan loan báo chính mình thì đã không mở được miệng cho thân
phụ. Lưỡi được mở vì tiếng ra đời. Khi ông Gioan tiên báo về Chúa thì người ta
hỏi ông rằng: Ông là ai? Và ông trả lời: Tôi là tiếng, còn Chúa, ngay từ nguyên
thủy đã là Lời. Ông Gioan là tiếng trong thời gian, còn Đức Kitô, ngay từ khởi
đầu, đã là Lời vĩnh cửu.”
II. ÁP DỤNG CHO MỖI
NGƯỜI
1. Mừng ngày sinh của
Thánh Gioan Tẩy giả, Giáo hội cũng muốn nhắc nhở mỗi người Kitô hữu chúng ta về
sứ mạng làm tiên tri và sứ giả như Thánh Gioan
thuở xưa. Ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy giả mời gọi chúng ta nhớ
lại chúng ta được tái sinh làm con Thiên Chúa.
Nhờ phép rửa, chúng
ta đã trở thành ngôn sứ loan báo hồng ân cứu độ của Chúa. Ngọn nến Giáo Hội
trao cho chúng ta trong ngày lãnh phép rửa là hình ảnh tượng trưng cho ánh sáng
mà chúng ta phải không ngừng chiếu tỏa ra xung quanh. Dù sống trong hoàn cảnh nào,
người tín hữu Kitô chúng ta cũng phải có sứ mệnh chiếu toả ánh sáng ấy (Mt
5,16).
Ngạn ngữ có
câu: “Nếu bạn không trở thành sao sáng ở trên trời, thì ít ra bạn hãy trở
thành ngọn đèn soi sáng trong nhà bạn”. Theo cha Basséville, ông
Jeannet là người công giáo rất đạo đức, nhận thấy mình có bổn phận phải rao
giảng Chúa cho người khác, nên đã tự nguyện trở nên tông đồ giáo dân cho Chúa
và các linh hồn. Nhưng rồi ông bị người ta này chê là giả hình. Người kia chê
là ông thiếu khả năng. Người nọ bảo là ông kém cỏi. Người khác lại bảo là ông
không xứng hợp. Đứng trước những lời chê bai đó, ông Jeannet mất tinh thần,
thối chí định bỏ việc tông đồ. Đêm hôm ấy, Chúa cho ông nằm mơ là mình đã chết.
Sau khi chết, thiên thần bản mệnh dẫn ông đến một gian phòng, để chờ Chúa đến
phát xét. Ngay trước cửa gian phòng, ông thấy một tấm bảng kẻ hàng chữ lớn:
“Phòng triển lãm đời
sống ông Jeannet”.
Bước vào trong, ông
thấy có nhiều bức vẽ rất đẹp. Bức thì vẽ lại những lần ông đang quì cầu nguyện
ở gia đình cho các tội nhân và người ngoại. Bức thì vẽ những lần ông đang dự
thánh lễ. Bức thì vẽ lại những lần ông đang lao động, để cầu nguyện cho tội
nhân này. Bức thì vẽ lại những lần ông đi thăm viếng người ngoại kia. Bức thì
vẽ lại người tội nhân và người ngoại được trở về với Chúa, do việc ông chịu
đựng những lời chê bai trong khi làm việc tông đồ. Vừa mơ đến đây, thì ông giật
mình thức dậy. Ông cho giấc mơ là lời Chúa an ủi và cảnh cáo mình. Ông liền quỳ
lên giường cám ơn Chúa cho mình còn sống. Rồi ông quyết chí lại tiếp tục làm
việc tông đồ để đưa các linh hồn về cho Chúa.
Thưa anh chị em, hôm
nay kính thánh Gioan là Tiền Hô của Chúa, chúng ta cũng hãy bắt chước ông
Jeannet làm việc tông đồ cho Chúa như ông Jeannet trên đây. Làm được như thế
chắc Chúa sẽ vui lòng.
2. Mừng ngày sinh
nhật của thánh Gioan Tẩy giả, chúng ta cũng còn phải nhớ lại con
đường Thánh Gioan Tẩy Giả đã đi qua để nên thánh, con đường ấy
được Ngài góm gọn trong khẩu hiệu: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải
nhỏ lại” (Ga 3,30).
Chúa Giêsu phải được
lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Tạp chí “Truyền bá
đức tin” có thuật lại câu chuyện về một cụ già ở Ấn Độ như sau. Lúc còn là
thanh niên, anh đã say sưa nghiện ngập đủ mọi thứ: cà phê, thuốc lá, những thứ
rượu mạnh có tiếng. Nhưng rồi một hôm, chàng đọc thấy trên mặt báo lời kêu gọi
giúp nuôi chủng sinh ở các giáo phận nghèo. Đọc xong chàng rất đổi phân vân,
một đàng chàng muốn mình phải làm một cái gì đó, đàng khác, chàng vẫn còn cảm
thấy những mời mọc của trần thế còn quá hấp dẫn, nên chưa cần phải vội vã gì!
Tuy nhiên, sau
đó chàng quyết định: bỏ tất cả... nhưng dần dần với thời gian. Chàng
đóng góp số tiền tiêu sài ấy vào quĩ truyền bá đức tin để giúp nuôi một ít
chủng sinh nghèo. Cứ thế liên tiếp trong mấy mươi năm, nhiều thế hệ chủng sinh,
linh mục đã được chàng giúp đỡ. Họ liên lạc thư tín với chàng mỗi lúc một
nhiều... Thời gian trôi qua, đến ngày chàng thanh niên nghiện ngập thành ông cụ
già 85 tuổi. Ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 85 của cụ, cụ
tuyên bố trước mặt họ hàng: “Với những hy sinh suốt mấy mươi năm qua, tôi đã
đài thọ cho việc huấn luyện các chủng sinh, và đến nay, con số các linh mục rải
rác khắp nơi được tôi giúp đỡ đã lên đến 30 mươi người. Tôi
rất hạnh phúc. Tôi đã đầu tư thành công, và tôi sẽ còn tiếp tục đầu tư như thế
cho đến giờ Chúa gọi”.
Vâng cụ già đã biết
làm cho mình nhỏ đi và cho Chúa được lớn lên, lớn lên qua những cánh tay nối
dài của Ngài.
Ước gì khẩu hiệu này
cũng trở thành lý tưởng và luật sống của mỗi người chúng ta.
Sống đối với người
tín hữu Kitô chúng ta là sống cho Chúa.
Sống đối với người
tín hữu Kitô chúng ta là không ngừng khước bỏ và cắt xén đi những gì là thừa
thãi trong cuộc sống, để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu.
Sống đối với người
tín hữu Kitô chúng ta là suy nghĩ và hành động trong Chúa Kitô, để dung mạo của
Ngài được chiếu sáng trong chúng ta, và nhờ ơn cứu độ của Ngài được loan báo
cho mọi người.
Lạy Chúa xin làm cho
chúng con nên giống Chúa như thánh Gioan Tẩy Giả thuở xưa. Amen.
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Suy niệm 2:
Sinh ra ở đời, mỗi
người có một ơn gọi khác nhau: người được mời gọi trở nên những trí thức như:
Kỹ sư, bác sĩ…; người khác lại được mời gọi trở nên văn nghệ sĩ: nhà văn, nhà
thơ, nhạc sĩ…, người khác nữa lại được mời gọi trở nên những người bình dân.
Tuy nhiên, có một điều đặc biệt là: mỗi chúng ta đều có một ơn gọi khác nhau và
mỗi chúng ta đều được mời gọi hiện diện trên cõi đời này. Trong tâm tình đó,
chúng ta cùng tìm hiểu về ơn gọi của Gioan Tẩy Giả.
* TỪ ƠN GỌI CỦA GIOAN
TẨY GIẢ
1. Cuộc sinh hạ lạ
lùng
Cuộc sinh hạ của
Gioan Tẩy Giả thật lạ lùng. Theo lời Tin Mừng thuật lại, ngài được sinh ra,
trong một gia đình đạo đức: “Cả hai ông bà đều là người công chính
trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không
ai chê trách được điều gì” (Lc 1,6). Tuy nhiên, có một điều là: “Họ
lại không có con, vì bà Ê-li-sa-bét là người hiếm hoi. Vả lại, cả hai đều đã
cao niên.” (Lc 1,7). Chúng ta biết, theo quan niệm của
người Do Thái, người không có con là người vô phúc. Có lẽ, điều này cũng giống
với quan niệm của người Á Đông chúng ta. Theo nhà Nho, trong ba điều bất hiếu,
thì việc không để lại con cái để nối dõi tông đường là điều bất hiếu lớn nhất.
Chưa hết, đối với
người Do-Thái, không có con, không chỉ là người vô phúc mà còn được coi là
người bị Thiên Chúa chúc dữ. Như vậy, sự “công chính” của hai ông bà như Tin
Mừng nói ở trên, cần phải được “xem lại”. Nếu là người công chính, tại sao lại
không có con? Sự đau khổ vì không con này, đã trở thành như một “vết cắt” vào
trái tim hai ông bà. Thế nhưng, Tin Mừng không nói đến một lời kêu ca hay trách
móc của hai ông bà, trái lại, họ vẫn một mực trung thành và chu toàn bổn phận
của mình. Thế nên, chúng ta có thể hiểu được, việc Thiên Chúa ban cho hai ông
bà một mụn con trong hoàn cảnh như thế, quả là điều lớn lao và hạnh phúc cho
hai ông bà là thể nào.
Trước Gioan Tẩy Giả,
Kinh Thánh cũng đã nói tới một vài trường hợp, những đứa trẻ được sinh ra cách
lạ lùng, hay đúng hơn, chúng được sinh ra do sự can thiệp của Thiên Chúa, như
trường hợp của Tổ phụ I-sa-ác, Thủ lãnh Sam-son, Ngôn sứ Sa-mu-en… Như vậy,
việc Gioan Tẩy Giả ra đời, không phải là một sự tình cờ ngẫu nhiên, nhưng bởi ý
định nhiệm màu của Thiên Chúa. Như lời Chúa nói với ngôn sứ Giêrêmia trong Bài
đọc thứ I hôm nay: "Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta
đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi
làm ngôn sứ cho chư dân." (Gr 1,5).
Trong Tin Mừng Gioan,
Chúa Giêsu đã từng khẳng định: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính
Thầy đã chọn các con.” (Ga 15,16).
2. Khi Thiên Chúa đã
chọn lựa ai, thì Ngài sẽ ở cùng người ấy
Quả vậy, chúng ta có
thể liệt kê được hàng loạt những trường hợp như thế trong Cựu Ước, như trường
hợp của Môsê, ngôn sứ Amos… hay như Lời Chúa hứa với ngôn sứ Giêrêmia trong bài
đọc thứ I: “Ngươi đừng sợ họ, vì Ta sẽ ở với người để bảo vệ ngươi.” (Gr
1,8). Chúng ta cũng có thể đọc lại lời Đáp
ca được lấy từ Thánh Vịnh 70 mà Phụng vụ trích đọc hôm nay: “Từ trong
thai mẫu, Chúa là Đấng bảo vệ tôi”. Thử hỏi, có niềm vui nào bằng niềm
vui có Chúa ở cùng.
Đối với Thánh Gioan
Tẩy Giả, ngài không chỉ được Thiên Chúa hứa sẽ ở cùng, mà ngay từ khi còn trong
lòng mẹ, ngài đã được Đấng Cứu Thế đến viếng thăm, qua việc thăm viếng của hai
người mẹ là Đức Maria và bà Êlisabét. Gioan đã thể hiện niềm vui của mình bằng
việc nhảy lên vui sướng.
3. Sứ mạng của Gioan
Tẩy Giả
Qua lời loan báo của
Sứ Thần Thiên Chúa, chúng ta biết được sứ mạng của Gioan Tẩy Giả: “Em sẽ đưa
nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. Được đầy thần khí
và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha
ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo
chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa." (Lc
1,16-17).
Qua tất cả những lời
rao giảng và việc làm của Gioan Tẩy Giả, chúng ta có thể nói rằng, cuộc đời của
ông đã nên ứng nghiệm tất cả những gì mà Thần Sứ Chúa đã loan báo. Ông đã “đi
trước mặt Chúa” bằng một đời sống thanh khiết và chính trực. Ông đã “làm
cho lòng cha ông quay về với con cháu, làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng
về nẻo chính đường ngay” qua những lời rao giảng đanh thép. Ông thà chết, chứ
không thỏa hiệp với thế lực sự dữ. Ông sẵn sàng lên án những gì là sai trái,
bất kể người đó là vua hay hoàng hậu. Và để sống cho trọn ơn gọi ấy, ông đã
phải đánh đổi bằng cả mạng sống của mình.
* ĐẾN ƠN GỌI CỦA MỖI
NGƯỜI CHÚNG TA
Kính thưa cộng đoàn,
Khi suy ngắm về cuộc đời và ơn gọi của Thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta cùng nhìn
lại ơn gọi của mỗi người chúng ta xem: Chúng ta đã sống ơn gọi của mình ra sao?
1. Ơn gọi nào cũng
đều phát xuất từ Thiên Chúa
Trước tiên, chúng ta
phải khẳng định một điều rằng: Ơn gọi nào cũng đều phát xuất từ Thiên Chúa. Thế
nên, Ơn gọi không chỉ dành riêng cho Môsê, cho Êlia, cho các ngôn sứ hay cho
Gioan Tẩy Giả, mà trong chương trình nhiệm màu của Thiên Chúa, mỗi chúng ta
cũng được Ngài kêu gọi một cách đặc biệt. Trong ý định của Thiên Chúa, mỗi
người đều có một chỗ đứng đặc biệt và không thể thay thế. Vì vậy, không thể
nói, anh A quan trọng hơn anh B; ơn gọi sống đời tu trì, quan trọng hơn ơn gọi
sống đời hôn nhân… như lời bài hát “Tâm điểm yêu thương” mà các bạn trẻ vẫn ca
lên: “Người thời trước, người thời sau; người trí thức, người bình dân;
người sống đời tu, người sống đời thường; dù là nữ hay là nam. Đều được gọi mời
sống chứng nhân tình yêu, lan tỏa vào đời những thiện ý, thiện tâm. Trở nên
muối men, trở nên ánh sáng. Giúp nhau nhận ra tình Chúa trong tình người”.
2. Sống ơn gọi làm
Kitô hữu hôm nay
Ơn gọi trở nên vị
Tiền Hô của Gioan không hứa hẹn cho ông một cuộc sống sung túc và dễ dãi. Vì
muốn sống cho đến cùng ơn gọi Ngôn sứ và Tiền Hô của mình, Gioan Tẩy Giả đã
phải đánh đổi bằng mạng sống. Người Công Giáo chúng ta hôm nay, nếu muốn sống
triệt để ơn gọi “Kitô hữu” của mình, chắc chắn, cũng sẽ không tránh khỏi những
khó khăn, thử thách, thậm chí cả những bách hại. Tuy nhiên, chúng ta xác tín
rằng, khi đã trao ban nhiệm vụ cho chúng ta, Thiên Chúa luôn hứa, Ngài sẽ ở
cùng chúng ta. Như tâm tình của tác giả Thánh vịnh 70 hôm nay: Có Chúa
là Đá Tảng, là chiến lũy bảo vệ đời tôi, tôi còn sợ gì ai nữa!
Mừng lễ Sinh nhật
Thánh Gioan Tẩy Giả hôm nay, chúng ta cùng cầu xin Chúa qua lời chuyển cầu của
thánh nhân, giúp chúng ta biết can đảm làm chứng cho Chúa qua đời sống công
minh, chính trực và sẵn sàng làm chứng cho sự thật, cho dẫu có phải đánh đổi
bằng mạng sống của mình.
Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên
Thứ ba: Is
49,1-6; Cv 13,22-26; Lc 1,57-66.80
KÍNH TRỌNG THỂ SINH
NHẬT THÁNH GIO-AN TẨY GỈA
Suy niệm 1:
Cùng với GH, hôm nay
chúng ta mừng kính trọng thể lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Gỉa. Đây là dịp GH
mời gọi chúng ta chiêm ngắm và suy niệm về cuộc đời, sứ mạng cao quý mà Thiên
Chúa đã trao phó cho Gioan Tẩy Giả.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức về ơn gọi và sứ mạng cao quý mà Chúa đã
trao ban cho ta nhân ngày chịu phép rửa, và xin Chúa giúp mỗi người chúng ta
biết nổ lực hoàn thành xuất sắc ơn gọi và sứ mạng của mình, theo gương thánh
Gioan Tẩy Gìa.
Chiêm ngắm và suy niệm về cuộc đời của thánh Gioan Tẩy Gỉa, chúng ta nhận
ra ngài là quả là một con người “độc” và “lạ” hiếm thấy trên trần gian này.
Gioan Tẩy Gỉa là con người độc đáo.
- Sinh ra trong một gia đình đạo đức mà ông là người con độc nhất, rất quý
hiếm.
- Ngay từ trong bụng mẹ ông đã được Đấng Cứu Thế đến viếng thăm chúc lành
và được Đức Maria chăm sóc.
- Chỉ mình ngài là được GH mừng hai lần trong năm. Kính nhớ ngày ông bị
trãm quyết (19/08) và mừng kính trọng thể ngày sinh nhật (24/06). Phụng vụ GH
chỉ mừng sinh Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria và ngài.
Gioan Tẩy Gỉa còn là con người rất lạ.
- Được cưu mang và hạ sinh trong lúc ông Dacaria và bà Elizabeth đã già
nua, hết khả năng sinh sản. Ấy vậy mà Thiên Chúa đã làm cho bà Elizabeth có
thai và sinh con trai. Điều mà Dacaria không ngờ đến thì Thiên Chúa đã làm điều
lạ lùng trên vợ chồng ông. Nên bà con láng giềng đến chúc mừng và chia sẻ niềm
vui lớn lao cùng ông bà và ai nấy đều tự hỏi “con trẻ này rồi sẽ như
thế nào?”.
- Cách sống của Gioan cũng lạ thường. Ngay từ nhỏ ông đã vào hoang địa để
sống ẩn tu. Ngài chỉ ăn châu chấu, uống mật ong rừng và mặc áo bằng da thú. Mãi
cho đến 30 tuổi, ngài mới rời bỏ hoang địa bắt đầu thi hành sứ mạng loan báo
Đấng Cứu Độ. Ngài không mệt mỏi kêu gọi người ta ăn năn sám hối, để chuẩn bị
lòng đón nhận Đấng Cứu Thế.
- Cái chết của Gioan cũng hết sức lạ lùng. Chỉ vì can đảm nói lên sự thật
về tội ác tài trời của vua Hê-rô-đê, bởi nhà vua đã cướp lấy người vợ của anh
mình là bà Hê-rô-đi-a làm vợ nên Gioan đã bị thù ghết và bị bắt bỏ tù, sau đó
nhận lấy cái chết trong ngày sinh nhật của vua Hê-rô-đê. Dưới sự chỉ đạo
của bà Hê-rô-đi-a, người đàn bà độc ác mà đầu Gioan đã rơi và được đặt trên cái
dĩa dâng làm quà cho cô con gái ngây ngô của bà là Sa-lô-mê nhân ngày sinh nhật
của vua Hê-rô-đê.
Nhìn lại con người và cuộc đời của Gioan Tẩy giả, chúng ta thấy ngài quả là
một con người dám lội ngược dòng, can đảm sống và minh chứng cho những giá trị
cao quý của công lý. Ngài đã trở nên con người “độc” là “lạ”, xứng đáng được
mọi người mến phục và GH mừng kính, như lời xác nhận của Chúa Giêsu: “Tôi
nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có
ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả.” (Mt 11,11)
Xin Chúa cho chúng ta cũng biết noi gương Thánh Gioan Tẩy Gỉa, luôn sống
trung thành với sứ mạng làm chứng và loan báo tin mừng cứu độ của Chúa bằng
cách can đảm đứng về chân lý và lẽ phải. Nhất là anh dũng sẵn sàng hy sinh sống
chết cho những giá trị của Tin Mừng.
Suy niệm 2:
Anh chị em thân mến,
Hôm nay, chúng ta
cùng nhau mừng kính trọng thể lễ sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả, vị thánh duy
nhất được Giáo hội mừng lễ sinh nhật trừ Mẹ Maria. Việc mừng kính ngày sinh
nhật Thánh Gioan cho thấy vai trò quan trọng của ngài trong chương trình cứu độ
của Thiên Chúa.
Thánh Gioan Tẩy Giả
được Thiên Chúa tuyển chọn ngay từ trong lòng mẹ để trở thành tiên tri loan báo
tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Ngài được sinh ra trong một gia đình hiếm
muộn, cha là ông Dac-ca-ri-a, một tư tế Do Thái, mẹ là bà Ê-li-sa-bét, thuộc
dòng dõi tư tế A-rôn. Khi Thiên thần hiện ra báo tin cho ông Dac-ca-ri-a biết
rằng vợ ông sẽ sinh hạ một con trai, ông Dac-ca-ri-a đã nghi ngờ vì cả hai vợ
chồng đều đã già. Thiên Chúa đã phạt ông Dac-ca-ri-a câm cho đến ngày sinh của
con trẻ. Khi Gioan ra đời, ông Dac-ca-ri-a đã viết tên con là Gioan, có nghĩa
là "Thiên Chúa đã thương xót". Ngay khi viết tên Gioan, ông
Dac-ca-ri-a đã được cất tiếng nói trở lại.
Từ nhỏ, Gioan đã sống
trong sa mạc, sống một cuộc sống đơn sơ, thanh bạch. Ngài ăn mật ong rừng và
châu chấu, mặc áo lông lạc đà. Ngài rao giảng cho dân chúng sám hối tội lỗi và
chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Đấng Cứu Thế. Ngài nổi tiếng với việc chịu phép
Rửa tội cho dân chúng tại sông Giô-đa-ni-ô.
Khi Đức Giêsu đến xin
chịu phép Rửa tội, Gioan Tẩy Giả đã nhận ra Ngài là Đấng Messia. Ngài đã long
trọng giới thiệu Đức Giêsu với dân chúng: "Đây là Chiên Thiên
Chúa, Đấng xóa tội trần gian" (Ga 1,29).
Sau khi Đức Giêsu
chịu phép Rửa tội, Gioan Tẩy Giả đã tiếp tục sứ mạng của mình. Ngài dũng cảm tố
cáo vua Hê-rô-đê An-ti-pa sống lăng nhăng, bất đạo. Bị vua Hê-rô-đê An-ti-pa
trả thù, Gioan Tẩy Giả đã bị giam cầm và bị chém đầu.
Thánh Gioan Tẩy Giả
là một vị thánh can đảm, liêm chính và nhiệt thành. Ngài đã hy sinh cả cuộc đời
mình để loan báo Tin Mừng cứu độ và chuẩn bị cho dân chúng đón nhận Đức Giêsu
Kitô. Ngài là gương mẫu cho chúng ta noi theo về đời sống cầu nguyện, sám hối
và loan báo Tin Mừng.
Lời suy niệm:
· Thánh
Gioan Tẩy Giả đã được Thiên Chúa tuyển chọn và ban cho một sứ mạng cao cả. Khi sinh
ra mỗi người chúng ta cũng được Thiên Chúa tuyển chọn và ban cho một sứ mạng
riêng trong cuộc đời. Hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta nhận ra và chu toàn sứ
mạng của mình một cách tốt đẹp.
· Thánh
Gioan Tẩy Giả đã sống một cuộc đời đơn sơ, thanh bạch và dâng hiến trọn vẹn cho
Thiên Chúa. Chúng ta hãy noi gương ngài sống một đời sống đạo đức, tránh xa
những cám dỗ của thế gian.
· Thánh
Gioan Tẩy Giả đã dũng cảm loan báo Tin Mừng và tố cáo những điều sai trái.
Chúng ta hãy noi gương ngài sống một đời sống Kitô hữu can đảm, dám sống cho
Tin Mừng và chống lại những bất công trong xã hội.
Lời nguyện cầu:
Lạy Thánh Gioan Tẩy
Giả, xin ngài cầu cho chúng ta biết nhận ra và chu toàn sứ mạng của mình một
cách tốt đẹp. Xin ngài ban cho chúng ta lòng can đảm để loan báo Tin Mừng và
sống một đời sống Kitô hữu liêm chính, thánh thiện. Amen.
(Nguồn: gemini.google.com)
* Mùa thường
niên: Mt 7, 6. 12-14.
Thứ ba: Mt 7,6.12-14.
Suy niệm 1: Con tim chỉ vui trở lại, hy vọng và tình yêu chỉ được thắp sáng và tâm hồn
được biến đổi thành một người mới khi tôi biết sống hy sinh và cho đi. Đó là sứ
điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta.
Truyện kể:
Hai hạt giống cùng
nằm trên một mảnh đất màu mỡ.
Hạt giống đầu tiên
nói: “Tôi muốn lớn lên! Tôi muốn rễ của tôi phải ăn sâu xuống lòng đất, mầm của
tôi sẽ vươn lên vỏ đất cứng bên trên…Tôi muốn giương nhành lộc non như tấm băng
rôn báo hiệu xuân về… Tôi muốn cảm nhận cái ấm áp của mặt trời chảy dài trên khuôn
mặt, và cái tinh khiết của sương mai trên những cánh hoa.
Và cô ta lớn lên …
Hạt giống thứ 2 nói “
Hmmm, nếu rễ của tôi ăn sâu xuống đất, tôi không biết tôi sẽ đụng phải thứ gì
trong bóng tối. Nếu tôi vươn mầm qua lớp đất cứng, cái mầm mịn màng của tôi có
lẽ sẽ bị hủy hoại … chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi để lộc non xuất hiện và sâu bọ
có ăn chúng? Và nếu tôi nở hoa, một đứa trẻ nào đó sẽ ngắt tôi khỏi đất. Không,
tốt hơn là tôi nên chờ cho tới khi an toàn.
Và rồi cô ta chờ …
Một con gà mái đang
đào bới xung quanh tìm thức ăn và phát hiện ra hạt giống đang nằm chờ, thế là
gà ta ăn ngay hạt giống ấy.
Đừng bao giờ tự khép
mình trong lớp vỏ chắc chắn để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của bản thân mà
hãy can đảm bước đi, âm thầm chịu nát tan để góp cho vườn hoa cuộc đời thêm
tươi đẹp, đó là sự chọn lựa của hạt giống thứ hai.
Tự nhiên ai trong
chúng ta cũng thích sống an nhàn và tìm tư lợi cho mình. Nhưng đó không phải là
điều Chúa muốn: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì
chính anh em cũng phải làm cho người ta”.
Trong cựu ước chỉ
dạy: “Đừng làm cho người khác điều chính mình không thích.” (Tb
4,16). Lời dạy này còn mang tính thụ động và tiêu cực không phù hợp với lời dạy
của Chúa Giêsu.
Vì sợ bóng tối, hạt
giống thứ hai đã không đâm rễ vào lòng đất nên chẳng bao giờ nhìn thấy được ánh
sáng.
Cũng vậy, không thích
bóng tối không có nghĩa là không gieo bóng tối. Vì chưa hẳn không gieo bóng tối
là có ánh sáng. Muốn có ánh sáng phải gieo ánh sáng.
Vì lo sợ đất cứng,
sâu bọ và lũ trẻ làm hại nên hạt giống thứ hai đã thụ động tìm sự an toàn, cuối
cùng rồi cũng bị hủy diệt.
Cũng vậy tránh điều
dữ cũng chưa hẳn tìm được điều lành. Muốn có điều lành cần phải làm những việc
lành.
Không ai là một hòn
đảo. Sống là sống với, sống cùng, sống vì và sống cho người khác. Khi sống cho
người khác đòi hỏi chúng ta phải hy sinh, chịu thiệt thòi và mất mác, phải đi
vào con đường hẹp. Nhưng đó lại là con đường dẫn đến sự sống.
Sự sống ở đây không
đơn thuần là tồn tại dưới hình thức vật chất, vì không có vật chất nào không
theo quy luật: sinh ra, lớn lên và bị tiêu diệt; sự sống ở đây chính là cõi
vĩnh hằng, là dẫu có chết đi, nhưng với mọi người xung quanh, bạn chưa từng
chết, bạn không bao giờ chết, bạn tồn tại trong trái tim mỗi người và trong
tình yêu của Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta
biết khôn ngoan chọn cho mình một con đường hẹp. Đó là con đường của thập giá
hy sinh. Con đường vị tha, sống vì anh em bằng tấm lòng yêu mến cho dẫu phải
gặp nhiều gian lao thử thách và đau khổ. Nhưng chúng ta hằng tin rằng đó là con
đường dẫn chúng ta đến ánh sáng của niềm vui, hạnh phúc và sự sống đời đời.
Suy niệm 2:
Không ai là một hòn
đảo. Chúng ta sống là sống với, sống cùng, sống nhờ, sống cho và vì người khác.
Chính nhờ cuộc sống
tương tác trong cộng đồng xã hội như thế đem lại cho ta niềm vui, hạnh phúc và
trưởng thành. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó, cũng không tránh khỏi
những điều tiêu cực xảy ra, khiến ta khó chịu, đau khổ, bất an vì những lời
nói, thái độ và cách hành xử không đẹp của tha nhân.
Để giúp các môn đệ
cũng như chúng ta có được tâm thế và cách ứng xử đúng đắn trong cuộc sống, tin
mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra 3 chỉ dẫn cần thiết để định hướng cho cuộc sống
của chúng ta:
1. Phải biết tôn
trọng và bảo vệ những giá trị cao quý. Những giá trị
cao quý ấy có thể là những nét văn hóa truyền thống tốt đẹp do cha ông định
hình và truyền lại cho con cháu. Cách riêng, với người Kitô hữu vượt trên những
giá trị cao quý ấy là Lời Chúa và Bí Tích Thánh Thể, tựa như những ngọc trai và
của thánh. Những nhà chú giải thần học thánh kinh cho biết Lời Chúa và Bí tích
Thánh Thể chính là của Thánh mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại chúng ta. Vì
thế ngoài việc chúng ta tôn kính, yêu mến, đón nhận, chúng ta còn phải biết gìn
giữ, bảo vệ cách cẩn trọng, đừng để cho bất kỳ ai xem thường và giẫm đạp lên
những giá trị cao quý ấy cách bất xứng.
2. Phải biết ứng xử
với nhau căn cứ trên quy luật vàng. Luật vàng mà Chúa
Giêsu chỉ dạy là: “Những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì chính
các con hãy làm cho người ta như thế!”. Ai trong chúng ta cũng muốn người
khác cư xử với mình cách lịch sự, chân thành, khiêm tốn, hòa nhã…; ai trong
chúng ta cũng mong muốn tha nhân làm những việc tốt việc lành cho mình; và ai
trong chúng ta cũng cần được người khác tôn trọng, yêu mến. Để có được như vậy
thì trước hết chúng ta hãy thực hiện những điều mong ước đó cho tha nhân với
tất cả lòng quý trọng và yêu mến như chính Chúa đã yêu và dạy chúng ta thể hiện
tình yêu ấy.
3. Phải can đảm đi
vào con đường hẹp. Con đường hẹp và nhiều sỏi
đá chắc hẳn không phải là lựa của nhiều người. Nhưng đó lại là con đường dẫn
đến hạnh phúc thật. Chính Chúa Giêsu đã chấp nhận đi vào con đường khiêm hạ,
con đường của hy sinh phục vụ, con đường của bao dung tha thứ và dâng hiến… Đó
chính là đường tình mà Chúa đã đi qua và mời gọi chúng ta bước theo. Đi trên
con đường đó dẫu có phải chịu nhiều thiệt thòi, mất mác và gian khó. Nhưng đó
lại là con đường dẫn đến sự sống. Bằng ngược lại, chúng ta đi vào con đường
thênh thang, dễ dãi sẽ đưa ta đến ngỏ cuc của hư mất và đau khổ đời đời.
Xin Chúa ban ơn giúp
sức để ta vững bước trên con đường tình theo Chúa, với niềm hy vọng vào ơn cứu
độ do Chúa tặng ban.
Thứ tư: Mt 7,15-20
Lòng dạ con người tỏ
hiện ra bên ngoài bằng việc họ làm chứ không phải điều họ nói. Người đời thì
thường nói một đàng làm một nẻo.
Tin mừng hôm nay,
Chúa Giêsu cảnh cáo và lên án những ai nói một đàng làm một nẻo; đồng thời cũng
mời gọi chúng ta biết nỗ lực thống nhất đời sống, nghĩa là thống nhất giữa “cái
là” và “cái làm”.
- Thông tin cho biết
thị trường Việt Nam luôn xuất hiện nhiều loại thực phẩm giả: Hột gà giả, gạo
giả, thịt bò giả, rượu giả, cà phê giả…
Báo chí và truyền
thông chính thức cũng cảnh báo về những loại tiền giả có mệnh giá cao thỉnh
thoảng lại được vận chuyển từ Trung Quốc vào Việt Nam.
Không chỉ thực phẩm
giả, tiền giả trôi nổi trên thị trường mà vàng giả vẫn bày bán khắp nơi. Nhiều
cô làm le đeo quằn cả tay, cứ tưởng là vàng thật ai ngờ là vàng giả trăm phần
trăm.
- Nhưng hàng giả
không nguy hiểm cho bằng người giả.
Với kỹ thuật giải
phẫu thẩm mỹ và trang điểm như hiện nay, người ta có thể biến một người xấu xí
già nua trở nên thiếu nữ xinh đẹp và trẻ trung lạ thường, bằng cách: đội tóc giả,
gắn mi và răng giả, độn ngực và mông giả…Người ta còn có thể làm cho anh chàng
đực rựa “trăm phần trăm” thành cô gái y như thật.
- Thế nhưng cái giả
bên ngoài không đáng sợ bằng sự giả dối bên trong của con người. Chẳng hạn để
khoe khoang với bè bạn, để dễ dàng trong công ăn việc làm, cũng như để luồn
lách vào chức vụ nọ chức vụ kia, người ta có thể bỏ tiền ra mua một cái
bằng…phó tiến sĩ giả, để hù dọa bà con lối xóm.
Người ta cũng có thể
mượn danh làm công an giả, cán bộ giả, thậm chí cả linh mục giả để dối gạt
thiên hạ, ẵm về cho mình những món tiền lớn và những lợi nhuận kếch xù.
Người ta sẵn sàng
mượn tạm danh nghĩa, lợi dụng những chức vụ giả tổ chức gây quỹ từ thiện nhằm
móc túi những nhà hảo tâm.
Họ là những kẻ nghĩ
thế này, nói thế kia, nói một đàng làm quàng một nẻo. Tư tưởng không đi đôi với
lời nói, còn lời nói thì không đi đôi với việc làm. Tư tưởng, lời nói và việc
làm của họ không còn trong suốt như pha lê. Không còn hợp nhất với nhau.
Đúng như Chúa Giêsu
nói trong bài tin mừng hômn nay: “Họ là những ngôn sứ giả đội lốt chiên
mà đến với chúng ta.” Và lưu ý chúng ta phải cẩn thận đề cảnh giác
những hạng người ấy.
Thánh I-rê-nê, giám
mục, tử đạo mà GH mừng nhớ hôm nay đã trung thành sống theo những giá trị chân
lý do chính Chúa Giêsu truyền dạy, ngài đã can đảm đứng lên chống lại những
giáo thuyết sai lạc, can đảm bênh vực và bảo vệ đức tin tinh tuyền và đã sẵn
sàng chịu tử vì đạo để đem lại sự hiệp nhất trong GH Chúa.
Xin cho chúng ta biết
can đảm sống thật với mình với người và với Chúa cho dẫu phải chịu nhiều thiệt
thòi trong đời sống, vì chúng ta tin vào lời Chúa đã nói: "sự thật sẽ giải
thoát anh em." (Ga 8,32)
Thứ năm: Mt 7,21-29
Tin mừng hôm nay Chúa
Giêsu cho chúng ta biết điều kiện cần phải có để vào nước trời. Đó là lắng nghe
và thực hành lời Chúa.
Xin cho chúng ta biết
quý trọng lời Chúa dạy và nổ lực đem lời Chúa ra thực hành trong đời mình. Nhờ
thế hy vọng chúng ta mới xứng đáng được Chúa ban thưởng hạnh phúc nước trời.
Có một câu chuyện kể rằng: Một người nông dân nghèo, được vào thiên đàng,
ông nhìn thấy người ta mang những vật rất kỳ lạ vào trong nhà bếp. Ông thắc mắc
và lên tiếng hỏi: Cái gì thế? Có phải để nấu súp không ?
Không phải. Đó là những cái tai của con người. Khi sống ở trần gian, tai
giúp họ nghe những điều tốt lành, nhưng họ không làm điều tốt lành đó. Khi
chết, chỉ có tai của họ được vào thiên đàng thôi, những phần khác của cơ thể
thì không được vào.
Một lát sau, người nông dân lại nhìn thấy người ta mang vào nhà bếp những
vật kỳ lạ khác. Ông cũng lên tiếng hỏi: Cái gì thế? Có phải để nấu súp không?
Không phải. Đó là những cái lưỡi của con người. Khi sống trên đời, lưỡi
khuyên bảo người khác làm điều tốt và sống tốt, nhưng chính họ lại không sống;
không làm những điều tốt lành đó. Khi chết, chỉ có lưỡi của họ được vào thiên
đàng thôi, những phần khác của cơ thể thì không được vào.
Như vậy để được hưởng trọn vẹn hạnh phúc nước trời không chỉ có nghe và nói
những lời hay ý đẹp mà thôi. Nhưng điều quan trọng là phải thực
hiện những lời hay ý đẹp ấy trong đời sống.
Nghe lời Chúa không chưa đủ, điều quan trọng là phải thực hành lời Chúa.
Bởi lẽ thực hành lời Chúa thì được xem là người khôn ngoan, vì đã xây dựng
đời mình trên nền tảng vững chắc là đá. Cho dù mưa sa, bảo táp cũng không tài
nào sụp đỗ. Ngược lại nếu chỉ nghe và nói lời Chúa mà thôi, thì được xem như
người khờ dại, vì đang xây dựng đời mình trên nền cát. Do đó khi mưa sa, gió
bảo thì ngôi nhà ấy sẽ sụp đổ hoàn toàn.
Xin Chúa cho chúng ta không chỉ giữ đạo trên môi miệng mà điều quan trọng
là biết lắng nghe và đem lời Chúa áp dụng vào thực tế đời sống. Nhờ thế chúng
ta mới xứng đáng được vào hưởng hạnh phúc nước trời.
Thứ sáu: KÍNH
THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU
Ed 34,11-16; Rm
5,5b-11; Lc 15,3-7
Suy niệm 1:
Ông bà anh chị em
thân mến, cùng với GH, hôm nay chúng ta họp nhau nơi đây để tôn kính Thánh
Tâm Chúa Giêsu. Nguyện xin thánh Tâm Chúa uốn lòng chúng ta nên giống trái tim
Chúa, để chúng ta biết thể hiện TY Chúa trong đời sống gia đình, cũng như ngoài
xã hội, nhằm góp phần xoa dịu phần nào vết thương trong trái tim Chúa.
Câu chuyện quen thuộc: Năm 1597, lệnh
bắt đạo trên đất Nhật thật gắt gao, Chỉ trong một tuần lễ, mọi
cơ sở công giáo đều bị triệt hạ, giáo sĩ bị bắt
gần hết, giáo dân bị phân tán và khủng bố tàn tạ. Tại vùng
Odawara, Kamakura, người ta bắt được 2 linh mục trẻ tuổi
là Simauchi và Uzawa cùng nhiều ảnh tượng, giải về Tokyo.
Quan đại thần Tsukamoto nhặt trong đống ảnh tượng một mẫu ảnh thật
kỳ cục: Người gì mà để trái tim ra ngoài !
Tsukamoto là một
nhà nho uyên bác, có óc thực tế, thích tìm hiểu. Ông cầm mẫu ảnh
trái tim coi qua rồi vứt vào sọt rác, nhưng đến tối, ông nhớ lại và
nghĩ bức ảnh kỳ lạ kia hẳn có một ý nghĩa
nào đó. Ông lượm lại bức ảnh để trên bàn và suy nghĩ.
Trời đã về khuya mà quan vẫn ngồi bất động một mình với
bức ảnh trước mặt. Mãi đến gần một giờ sáng, vị đại thần
mới thở ra nhẹ nhàng khoan khoái, tay cầm bút lông ghi dưới
bức ảnh mấy chữ : "Đối ngoại hữu kỳ tâm - Đối nội vô tâm
giả"
Từ
đó Tsukamoto đặt bức ảnh trái tim trên bàn làm việc một cách kính cẩn. Một
hôm có ông bạn tên Osaki đến chơi, thấy vậy hỏi:“Thế nào,bạn lại thích ảnh
tượng của bọn tà đạo rồi sao ?”
“Đứng về mặt chính
trị của triều đình thì tôi không dám phản kháng. Nhưng về mặt văn hóa và nhân
đạo thì tôi rầt thích bức ảnh này. Phải chăng bức ảnh này đã nói lên chương
trình và hành động cùng lối xử thế tổng quát của Kitô giáo.”
Để ông bạn coi: Đối
với thiên hạ, tha nhân bên ngoài thì "Hữu Tâm", còn với bản
thân mình thì "Vô Tâm". Cho nên họ mới vẽ trái tim để ra
ngoài... Nghĩa là phải đem hết trái tim của mình mà phục vụ xã hội, giúp ích cho
đời; còn về phần mình thì hy sinh xả kỷ, đừng bao giờ lo riêng cho mình, phải
diệt cái ngã vị kỷ. Đem hết trái tim ra giúp đời, giúp người.
Nội bức ảnh nầy tôi
thấy đầy đủ hơn cả cái học Từ Bi của Phật, khoan dung hơn cái Nhân Thứ của
Khổng, cao siêu hơn cái Vô Ngã của Lão, mạnh mẽ hơn cái học Dũng thuật của Thần
Đạo Nhật Bản vậy.
Một tôn giáo dạy
phụng sự nhân loại, yêu thương mọi người, còn bản thân mình thì không màng tới,
không quan tâm đến tư lợi, thì quả là ngay chính của Thiên hạ vậy.
Osaki cảm phục sự
diễn đạt của bạn. Không ngờ Đạo Công Giáo lại hàm chứa một triết lý nhân sinh
cao siêu như vậy. Từ đó hai ông trở nên những người bạn chí thân và đã âm thầm
nhận phép Rửa Tội, đồng thời vận động triều đình thả hai linh
mục... (Trích "Phúc").
Đúng như lời giải
thích của Tsukamoto. Thiên Chúa đã yêu thương con người cách vô vị
lợi.
- Bài đọc 1 cho biết:
Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn dân Do Thái làm dân riêng của Người, không
phải vì họ quan trọng hay vì công lao của họ, nhưng hoàn toàn là do lòng tốt
của Thiên Chúa.
- Còn bài đọc 2,
thánh Gioan định nghĩa "Thiên Chúa là Tình Yêu". Bằng
chứng là Ngài đã không tiếc gì đối với chúng ta. Ngay cả Người Con Một Yêu dấu,
Ngài cũng sẵn sàng trao ban cho chúng ta .
- Riêng bài Tin Mừng
hôm nay cho biết, chính Chúa Giêsu hằng yêu thương chúng ta. Đặc biệt là những
người bị xã hội bỏ rơi. Cụ thể là những ai đang mang gánh nặng, đang gặp đau
khổ và những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Chúa Giêsu tha thiết mời gọi họ đến
với Chúa để Chúa ủi an, nâng đỡ và bổ sức cho họ. Có lẽ Chúa sẽ không cất đi
hết những khó nhọc, gánh nặng của kiếp người. Nhưng chắc chắn Chúa sẽ ban ơn
trợ lực và ban sức mạnh để những ai đến với Ngài sẽ vượt qua.
Cũng chính vì yêu
thương chúng ta nên Ngài tha thiết mời gọi chúng ta hãy học lấy bài học yêu
thương như Ngài. Bài học yêu thương đó được cụ thể hóa qua đời sống hiền lành
và khiêm nhượng.
Xin cho chúng ta cảm
nhận tình yêu sâu xa mà Chúa đã dành cho chúng ta. Xin cho chúng ta cũng biết đáp trả tình của Chúa qua đời sống gắn
bó mật thiết với Chúa và yêu thương chân thành với tha nhân mà không cần toan
tính. Amen.
Suy niệm 2: "ĐỐI NGOẠI HỮU KỲ TÂM - ĐỐI
NỘI VÔ TÂM GIẢ"
Ông bà anh chị em
thân mến, cùng với GH, hôm nay chúng ta họp nhau nơi đây để tôn kính Thánh
Tâm Chúa Giêsu. Nguyện xin thánh Tâm Chúa uốn lòng chúng ta nên giống trái tim
Chúa, để chúng ta biết thể hiện TY Chúa trong đời sống gia đình, cũng như ngoài
xã hội, nhằm góp phần xoa dịu phần nào vết thương trong trái tim Chúa.
Lịch sử cho biết: năm
1597, lệnh bắt đạo gắt gao trên toàn nước. Chỉ trong một tuần
lễ, mọi cơ sở công giáo đều bị triệt hạ, giáo
sĩ bị bắt gần hết, giáo dân bị phân tán và khủng
bố tàn tạ. Tại vùng Odawara, Kamakura, người ta bắt được 2 linh mục
trẻ là Simauchi và Uzawa cùng nhiều ảnh tượng để giải
về Tokyo. Trong lúc ấy quan đại thần Tsukamoto đã nhặt được trong đống ảnh
tượng một mẫu ảnh thật kỳ cục: Người gì mà để trái tim ra
ngoài !
Tsukamoto là một
nhà nho uyên bác, có óc thực tế, thích tìm hiểu. Ông cầm mẫu ảnh
trái tim Chúa Giêsu coi qua, rồi liền vứt vào sọt rác, nhưng đến tối, ông
nhớ lại và nghĩ đến bức ảnh kỳ lạ ấy chắc hẳn có một
ý nghĩa nào đó. Nên ông lượm lại bức ảnh rồi đặt trên bàn
mà suy nghĩ. Trời đã về khuya mà vị quan ấy vẫn ngồi
bất động một mình trước bức ảnh. Mãi đến gần một giờ sáng,
vị quan đại thần ấy mới thở ra nhẹ nhàng khoan khoái, tay cầm
bút lông ghi dưới bức ảnh mấy dòng chữ : "Đối ngoại hữu kỳ
tâm - Đối nội vô tâm giả"
Từ
đó, Tsukamoto đặt bức ảnh trái tim Chúa trên bàn làm việc một cách kính
cẩn. Một hôm có ông bạn tên là Osaki đến chơi, thấy vậy hỏi:“Thế nào,bạn
lại thích ảnh tượng của bọn tà đạo rồi sao?”
- “Đứng về mặt chính
trị của triều đình thì tôi không dám phản kháng. Nhưng về mặt văn hóa và nhân
đạo thì tôi rầt thích bức ảnh này. Phải chăng bức ảnh này đã nói lên chương
trình và hành động cùng lối xử thế tổng quát của Kitô giáo”.
Ông bạn xem: Đối với
thiên hạ, tha nhân bên ngoài thì "Hữu Tâm", còn với bản
thân mình thì "Vô Tâm". Cho nên họ mới vẽ trái tim để ra
ngoài... Nghĩa là phải đem hết trái tim của mình mà phục vụ xã hội, giúp ích
cho đời; còn về phần mình thì hy sinh xả kỷ, không bao giờ lo cho riêng mình,
phải diệt cái ngã vị kỷ đi để đem hết trái tim ra giúp đời, giúp người.
Nhìn bức ảnh nầy tôi
thấy đầy đủ giáo lý Từ Bi của Phật giáo, khoan dung hơn cái Nhân Thứ của Khổng
giáo, cao siêu hơn cái Vô Ngã của Lão giáo, mạnh mẽ hơn cái học Dũng thuật của
Thần Đạo Nhật Bản chúng ta.
Một tôn giáo dạy
phụng sự nhân loại, yêu thương mọi người, còn bản thân mình thì không màng tới,
không quan tâm đến tư lợi, thì quả là cái đạo ngay chính.
Osaki cảm phục sự
diễn đạt của người bạn. Không ngờ Đạo Công Giáo lại hàm chứa một triết lý nhân
sinh cao siêu như vậy. Từ đó hai ông trở nên những người bạn chí thân và đã âm
thầm nhận phép Rửa Tội, đồng thời vận động triều đình thả hai vị linh mục trẻ đã
bị bắt trước đó. (St).
Đúng như lời giải
thích của Tsukamoto. Thiên Chúa đã yêu thương con người cách vô vị
lợi.
Hình ảnh người Mẹ mà
Ngôn sứ Hô-sê đã diễn tả trong bài đọc 1 đã nói đến một vị Thiên Chúa
giàu lòng xót thương. Tựa như người mẹ, Ngài không chỉ nuôi dưỡng, chăm
sóc, bồng bế, bảo vệ… mà Ngài còn sẵn sàng hy sinh mạng
sống mình cho nhân loại chúng ta, đúng như lời Thánh Phao-lô trong thư gửi tín
hữu Rô-ma đã nói: “Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng
ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Ki-tô đã
chết vì chúng ta.” (Rm 5,8) Tình yêu ấy được hiện thực hóa
nơi Đức Kitô vượt quá trí hiểu của loài người chúng ta. (x. Ep 3, 8-12.
14-19)
Đức Ki-tô đã hy sinh
cho chúng ta ngay khi chúng ta còn là thù địch với Ngài, đang khi chúng
ta còn chống đối Ngài. Nhưng vì yêu thương, Ngài vẫn sẵn sàng tha thứ và
hiến mạng sống mình để cho chúng ta được sống và được giao hoà lại với Thiên
Chúa, cội nguồn của Tình Yêu. Trái tim bị đâm thâu, máu cùng nước chảy ra đến giọt
cuối cùng của Chúa Giêsu trên thập giá đã tuôn tràn ân sủng dồi dào trên chúng
ta.
Mừng Lễ Thánh Tâm
Chúa Giê-su hôm nay, chúng ta có dịp suy niệm sâu xa hơn về tình yêu của Chúa
dành cho chúng ta, yêu đến tận cùng và sẵn sàng chết vì người mình yêu. Tình
yêu vẫy gọi tình yêu, nên một khi cảm nhận được tình yêu Chúa, chúng
ta cũng hãy mở rộng trái tim mình ra đón nhận dòng máu tình yêu của Người
để thanh lọc con tim bợn nhơ và ích kỉ của chúng ta nên trinh trong.
Nguyện xin Thánh Tâm
Chúa Giêsu uốn lòng chúng ta nên giống trái tim Chúa, và xin cho dòng máu TY
của Chúa cũng được lan chảy trong đời sống gia đình, khu xóm, họ đạo chúng ta
để ai nấy đều biết sống hy sinh quên mình phục vụ tha nhân, nhất là những ai
đang gặp khó khăn đau khổ. Được như thế mới hy vọng phần nào xoa dịu được
trái tim rỉ máu của Chúa Giêsu vì yêu thương chúng ta. Amen.
Suy niệm 3:
Đạo công giáo được
mệnh danh là đạo “Tình Yêu”. Bởi lẽ TC là TY. Ngài dựng nên con người và
tha thiết mời gọi chúng ta sống theo Tình Yêu của Ngài: “Thầy ban cho anh em
một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như
Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là
môn đệ của Thầy: là anh em có lòng thương nhau” (Ga 13, 34-35).
Cũng với GH hoàn vũ,
hôm nay chúng ta hiệp dâng thánh lễ mừng kính thánh Tâm Chúa Giêsu. Tâm là Tim.
Kính nhớ thánh tâm là tôn kính tình yêu của Chúa. TY của Chúa thì cao sâu không
bờ không bến nên GH dùng nhiều cách thế và hình ảnh để diễn đạt. Trong nhiều
cách thế diễn đạt ấy thì 3 hình ảnh gần gũi và quen thuộc nhất với chúng ta vẫn
là: Thánh giá, Thánh Thể, Thánh Tâm.
1. Hình ảnh
Thánh Giá. Khi nhìn lên thánh giá, ta nhận ra “tình yêu tự hủy” của
Chúa Kitô. Vì yêu thương nhân loại đến tận cùng, nên Ngôi Hai TC đã nhập thể và
nhập thể làm người và sống kiếp người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngài còn
sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để đền thay tội lỗi chúng ta, cho chúng ta được
sống và sống dồi dào. Trái tim Chúa Giêsu bị đâm thâu trên thập giá, máu
và nước chảy ra cho đến giọt cuối cùng, khơi nguồn ân sủng trao ban cho chúng
ta qua các bí tích.
2. Hình ảnh Nhà
Tạm. Khi ngắm nhìn Nhà Tạm, ta nhận ra “tình yêu tự hiến” của
Chúa.
Vì quá yêu thương
nhân loại, Đức Giêsu không chỉ hạ sinh làm người mà Ngài còn có sáng kiến tuyệt
vời với mong ở lại mãi với chúng ta nên đã lập nên bí tích thánh thể. Qua đó
Ngài hiến dâng chính mình làm lương thực thần linh nuôi dưỡng linh hồn,
bổ dưỡng thể xác chúng ta Đón nhận Mình Máu Chúa, ta được Chúa nuôi
dưỡng, ban thêm sức giúp ta chống trả lại những chước cám dỗ và đủ sức
tiến bước trên con đường tiến về nước trời.
3. Hình ảnh
Thánh Tâm. Với trái tim đặt ra bên ngoài, giúp ta nhận ra “tình yêu tự
mở và tự trao ban.”
Trái tim Chúa thật lạ
lùng, Ngài không giữ trái tim trong lồng ngực nhưng lại đặt ra bên ngoài. Hình
ảnh này diễn tả một triết lý nhân sinh cao siêu về một tình yêu mở ra và trao
ban tất cả cho hết mọi người. Còn với chính mình thì không màng tới, không quan
tâm, không gìn giữ bất cứ điều gì cho riêng mình. Chiêm ngắm hình ảnh Thánh Tâm
Chúa, quan đại thần Tsukamoto đã cảm nhận được sâu xa về tình yêu cao quý của
Đức Kitô, nên ông đã đặt bút viết lên dòng chữ tuyệt đẹp : “Đối ngoại hữu kì
tâm, đối nội vô tâm giả”.
Tình yêu ấy đã được
lời Chúa trong ngày lễ hôm nay khắc họa đậm nét qua hình ảnh người mục tử nhân
lành với nhiều đức tính cao đẹp: Không tính toán so đo, không loại trừ,
không tiêu diệt... Nhưng luôn yêu thương, bao dung, tha thứ cho dẫu đó là ai.
Người mục tử ấy luôn
tận tuỵ chăm sóc chiên mình. Dẫn đưa chiên đến đồng cỏ xanh, dòng suối mát để
chiên được ăn uống thỏa thê. Quan tâm chăm sóc và chữa lành chiến đau yếu; tìm
kiếm chiên bị thất lạc và vui mừng biết bao khi tìm thấy. Nhất là sẵn sàng hy
sinh mạng sống mình để bảo vệ đoàn chiên được sống và sống dồi dào. Hình ảnh đó
như đang vẫy gọi mọi người trong chúng ta bước theo, cách đặc biệt là các linh
mục của Chúa nhân ngày thế giới cầu xin ơn thánh hoá các linh mục.
Xin cho dòng máu nóng
tình yêu từ nơi Thánh Tâm Chúa tuôn chảy vào trong tâm hồn chúng ta,
để cuộc sống của ta luôn thấm đẫm dòng máu tình yêu tự huỷ, tự hiến, tự mở ra
mà trao ban cho hết mọi người, nhất là những ai nghèo khổ, qua những
hành động yêu thương bác ái hàng ngày, theo gương vị mục tử nhân
lành là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Amen (St)
Suy niệm 4: XIN GIỐNG TRÁI TIM CHÚA
Trong những tuần qua, Giáo Hội mời gọi chúng ta mừng kính trọng thể
những mầu nhiệm lớn nhất của đức tin: Mầu nhiệm Một Chúa Ba
Ngôi, mầu nhiệm Mình Máu Thánh Đức Kitô và hôm nay là mầu
nhiệm Thánh Tâm Chúa Giêsu. Và điều lạ lùng là cả ba mầu nhiệm đều nói cho
chúng ta về Tình Yêu: tình yêu của Ngôi Cha và Ngôi Con dành cho nhau trong
Chúa Thánh Thần; nhưng tình yêu của Ba Ngôi dành cho nhau không đóng kín mà mở
ra cho loài người chúng ta. Cả ba bài đọc hôm nay đều diễn tả tình yêu ấy:
- Sách Ôsê trong bài đọc 1 cho biết: Thiên Chúa tự ví mình như một người mẹ
âu yếm con cái. Chăm sóc con, bồng bế con trên tay, ấp ủ con trong lòng. Tập
cho con đi. Đút cơm cho con ăn. Đó là những cử chỉ quen thuộc của một
người mẹ.
Tuy Thiên Chúa được mạc khải là một người cha, nhưng Người lại có tấm lòng
của một người mẹ. Và tấm lòng của Ngài còn mênh mông hơn cả tấm lòng của một
người mẹ. Bởi thế: “Dẫu người mẹ có quên con mình thì Ta cũng sẽ chẳng
bao giờ quên các con”. Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế đó.
- Thánh Phaolô trong thư Êphêsô trong bài đọc 2 thì nói đến tình yêu khôn
lường của Thiên Chúa dành cho nhân loại chúng ta. Tình yêu đó vượt quá trí hiểu
của con người, bởi nó vừa rộng vừa dài, vừa cao vừa sâu. Chỉ những ai được
Thiên Chúa mở lòng trí thì mới hiểu được phần nào tình yêu vô tận của Người.
- Còn bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Thánh Gioan trình thuật lại cái chết
của Chúa Giêsu trên Thập giá. Sau khi chết, trái tim của Chúa đã bị lưỡi đòng
đâm thâu qua, nước và máu tuôn chảy ra cho tới giọt cuối cùng.
Trái tim là biểu hiện của tình yêu. Trái tim của Chúa Giêsu bị đâm thâm
nước và máu tuôn tràn đến giọt cuối cùng nói đến Tình yêu hiến thân vì chúng
ta.
Trái tim Chúa bị đâm nát giọt máu cuối cùng tuôn đỗ, nói lên yêu thương
trọn vẹn cho đi tất cả, hiến dâng tất cả của Chúa dành cho chúng ta.
Quả thật Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến tận cùng. Dầu chúng ta như
thế nào, chúng ta vẫn luôn có một chỗ an nghỉ trong trái tim của Chúa vì chúng
ta là con cái Người.
Lễ Thánh Tâm là cơ hội để chúng ta chiêm ngưỡng và nhận ra tình yêu cao vời
của Chúa dành cho ta và mời gọi ta đáp lại tình yêu Ngài bằng một tấm lòng tôn
kính và một tình mến sâu xa.
Trái tim của mỗi người chúng ta thường bị nhiễm bẩn nên rất cần được dòng
máu Chúa thanh luyện, để biết ta biết yêu thương quảng đại hơn.
Nếu Chúa đã yêu thương chúng ta cách trọn vẹn, kể cả không tiếc những giọt
máu cuối cùng, thì chúng ta cũng cần phải biểu lộ một tình yêu bằng cách sẵn
sàng dốc cạn tình cho người khác.
Tình yêu được dốc cạn là tình yêu tự nguyện đi bước trước, chủ động đi đến
bắt tay làm hòa với những ai ta đang giận hờn.
Tình yêu được dốc cạn là tình yêu quảng đại sẵn lòng giúp những ai túng
thiếu, mà không một chút luyến tiếc hoặc tính toán hơn thiệt.
Tình yêu dốc cạn là khi ta dám can đảm chấp nhận phần thiệt thòi về mình,
để người khác có được phần lợi hơn.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, xin Chúa thanh luyện trái tim con và giúp con can
đảm thực hiện điều đó. Amen. (St)
Thứ bảy: Is 61, 9-11; Lc 2, 41-51
Nhớ Trái Tim Vô Nhiễm
Đức Trinh Nữ Maria
Thông thường khi nói
tới “nhiễm” là người ta nghĩ ngay đến những thứ độc hại, làm ảnh hưởng xấu đến
cuộc sống con người. Cuộc sống ngày hôm nay có quá
nhiều thứ gây ô nhiễm:
Ô nhiễm không khí,
làm ảnh hưởng đến đường hô hấp con người.
Ô nhiễm nguồn nước và
thức ăn làm ảnh hưởng đến đường tiêu hóa.
Ô nhiễm tiếng ồn làm
ảnh hưởng không tốt đến thính giác con người.
Ô nhiễm phim ảnh xấu,
ảnh hưởng đến thị giác con người…
Tuy nhiên, những ô
nhiễm bên ngoài ấy không độc hại bằng những ô nhiễm đến từ bên trong.
Chính những ô nhiễm bên trong làm cho tâm trí con người trở nên bệnh tật và
chay cứng.
Ô nhiễm của chủ nghĩa
“mặc kê nô” làm cho trái tim con người trở nên dững dưng trước những nỗi đau
khổ của người khác.
Ô nhiễm của “chủ
nghĩa cá nhân” làm cho trái tim con người trở nên ích kỉ, chỉ tìm tư lợi cho
mình mà quên đi sự hy sinh phục vụ vì hạnh phúc cho tha nhân.
Ô nhiễm của “lối sống
thực dụng” làm mất đi những giá trị luân lý, đạo đức, thuần
phong mỹ tục của con người.
Ô nhiễm của “chủ
nghĩa vô thần” làm cho lòng con người trở nên kêu căng, tự mãn, bất cần đến ơn
thiêng của Thiên Chúa.
Ô nhiễm của “chủ
nghĩa duy tương đối” làm suy giảm những giá trị chân lý tuyệt đối của Chúa và
có nguy cơ đánh mất đức tin nơi người tín hữu…
Hôm nay chúng ta cùng
với GH kính nhớ lễ trái tim vô nhiễm của Đức Maria. GH muốn nhắc nhỡ
chúng ta hãy khiêm tốn mở lòng mình ra để luồng gió mới của Chúa Thánh
Linh thổi vào tâm hồn ta, hầu tâm hồn ta được thanh lọc khỏi những thứ độc
hại, làm ô uế đến tâm hồn tinh sạch của ta đã được thanh
tẩy trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội.
Xin cho chúng ta biết
noi theo mẫu gương của Mẹ Maria, biết khiêm tốn để cho Lời Chúa thanh lọc trái
tim nên trong sạch và sẵn sàng trao dâng con tim của mình vào bàn tay đầy uy
quyền của Thiên Chúa tình thương, để Người điều khiển nhịp đập con tim của
ta, giống như khi xưa Mẹ đã để cho con tim của Mẹ rung lên cùng nhịp đập
yêu thương của Chúa Giêsu dưới sự tác động và hướng dẫn của Chúa
Thánh Thần. Amen.
Suy niệm 2: LỄ
TRÁI TIM VÔ NHIỄM ĐỨC MẸ
Hôm nay cùng với Giáo
Hội chúng ta mừng lễ Trái tim vô nhiễm Đức Maria. Lễ này được Giáo Hội mừng
kính ngay sau lễ Thánh tâm Chúa Giêsu. Sở dĩ Giáo Hội sắp đặt như thế là muốn
nói với chúng ta điều này:
Nếu như Thánh tâm
Chúa Giêsu là dấu chỉ tình thương vô biên mà Thiên Chúa dành cho con người, thì
Trái tim vẹn sạch Đức Trinh nữ Maria cũng thế, cũng là dấu chỉ của tình yêu,
nhưng là tình yêu của Mẹ đối với Thiên Chúa và đối với Chúa Giêsu, Con yêu dấu
của Mẹ.
Và tất nhiên, khi tôn
kính Trái tim vẹn sạch Đức Trinh nữ Maria, Giáo Hội cũng tôn kính tình yêu hiền
mẫu của Mẹ đối với toàn thể nhân loại chúng ta.
Thế nhưng, tình thương
của Mẹ Maria dành cho con người không ngừng bị xúc phạm. Chính cụ già Simeon đã
tiên báo về một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Mẹ, và điều đó đã xảy ra đúng như
vậy. Dưới chân thập giá, nhân loại đã làm cho trái tim Mẹ rướm máu khi họ đã ra
tay giết chết Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Mẹ. Điều ấy đã làm cho Mẹ phải đau
khổ biết là dường nào.
Trong sứ điệp tại
Fatima, Mẹ Maria đã tỏ cho chúng ta thấy tình yêu của Mẹ đã bị tội lỗi của thế
gian gây nên biết bao thương tích, khi Mẹ phải tận mắt chứng kiến nhân loại
chính là con cái của Mẹ tàn giết nhau trong cuộc thế chiến thứ nhất.
Thế nhưng dù nhân
loại có thánh thiện hay tội lỗi, có giàu sang hay nghèo hèn, có khoẻ mạnh hay
bệnh tật, Mẹ Maria đều đón nhận mỗi chúng ta như người con trọn vẹn của Mẹ.
Mỗi người chúng ta
đều được Mẹ Maria dành cho tất cả tình thương như Mẹ đã dành cho Chúa Giêsu.
Mỗi người chúng ta
đều được Mẹ Maria dành cho một chỗ đặc biệt trong trái tim của Mẹ.
Trái tim của Mẹ Maria
êm ái và ngọt ngào như vậy đó thưa anh chị em.
Khi cho chúng ta
chiêm ngắm lại trái tim vẹn sạch và từ ái của Mẹ Maria hôm nay, Giáo Hội mời
gọi chúng ta hãy mang lấy 4 tâm tình này:
- Thứ nhất, chúng ta
hãy tạ ơn Chúa Giêsu vì dưới chân thập giá Ngài đã trao ban nhân loại chúng ta
cho Mẹ chăm sóc giữ gìn.
- Thứ hai, chúng ta
hãy cám ơn Đức Mẹ vì Mẹ đã yêu thương ta như chính con ruột của mình.
- Thứ ba, mỗi người
hãy đặt trọn niềm tin tưởng cậy trông phó thác vào Mẹ, và hãy siêng năng chạy
đến với Mẹ để được Mẹ nâng đỡ ủi an.
- Và sau cùng, mỗi người đừng quên cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt mân côi, sùng kính Trái tim Mẹ, theo như lời Mẹ dặn. Amen. (St)