SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN X THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT-CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG-C
Cv 2,1-11; 1Cr 12,3b-7.12-13; Ga 20,19-23
Suy niệm 1: DANH XƯNG-BIỂU TƯỢNG-VAI TRÒ CỦA CTT
Cùng với toàn thể GH, hôm nay chúng ta hân hoan mừng trọng thể lễ Chúa
Thánh Thần Hiện Xuống. Đánh dấu chính thức ngày khai sinh của GH, dưới sự hướng
dẫn của CTT. Chính CTT là Đấng ban tràn đầy ân sủng, sự sống và sức mạnh
cho GH. Ngài cũng là tác nhân tạo nên sự hiệp nhất, bình an và tình yêu trong lòng
GH.
Hiệp dâng Thánh lễ hôm nay, xin Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng ta, để
Ngài sửa lại mọi sự trong ngoài chúng ta. Xin CTT ban cho chúng ta biết
sốnghiệp nhất với nhau trong cùng một đức tin, đức cậy và đức mến, nhất là luôn
hăng say sống và làm chứng cho Tin Mừng tình thương cứu độ của
Chúa.
1. Biểu tượng:
Chúa Thánh Thần được nhắc đến trong Kinh Thánh dưới nhiều biểu tượng khác
nhau như: gió, hơi thở, nước, dầu, lửa, áng mây, ánh sáng và chim bồ câu…
- Gió, hơi thở: (Tiếng Hipri: Ruah; tiếng Hylạp: Pneuma)
nghĩa là sinh khí, sức sống mà Thiên Chúa ban, để con người tham dự vào sự sống
thần linh của Người (Ds 16,22; Cv 2,2; Ga 3,8)
- Nước: có ý nói về sự hoạt động của Chúa Thánh Thần để
thanh tẩy. Chúa Thánh Thần là nước nguồn vọt ra từ cạnh sườn Chúa Kitô bị đóng
đinh trên thập giá, nhằm rửa ta sạch mọi tội lỗi và sinh ta lại làm con Chúa;
trong bí tích Thánh Tẩy, Chúa Thánh Thần thanh tẩy tội lỗi và ban lại cho ta
làm con Thiên Chúa (Ga 3,5)
- Dầu: nói lên sức mạnh đặc biệt Thiên Chúa ban, cách
riêng cho những kẻ Người chọn. Việc xức dầu rất có ý nghĩa, người “được xức
dầu” đồng nghĩa người ấy được “Thánh Thần ngự đến” (Is 61,1tt; Lc 4,16tt)
- Áng mây và ánh sáng: Hai biểu tượng này nói lên sự tỏ hiện của
Chúa Thánh Thần mặc khải về sự hiện diện và quyền năng của Thiên Chúa hằng sống
và cứu độ (Ds 11,24–25; Lc 9,28–36)
- Bàn tay: nhờ việc đặt tay của Đức Giêsu (Mc 6,5; 8,23; 10,16; 16,18) và của các
Tông đồ mà Chúa Thánh Thần được thông ban cho thụ nhân (Cv 5,12; 8,17-19; 13,3;
14,5; 19,6). Trong khi cử hành các bí tích, nhất là bí tích Thêm sức, vị đại
diện Giáo Hội cũng đặt tay khẩn cầu Thánh Thần xuống trên các thụ nhân.
- Chim bồ câu: Hình ảnh chim bồ câu làm ta nhớ đến biểu tượng Thánh Thần ngự xuống
trên Đức Giêsu khi chịu phép Rửa sám hối ở sông Jođan để Người bắt đầu sứ mạng
loan báo Tin Mừng Cứu Độ. Chúa Thánh Thần cũng sẽ ngự xuống và ở lại trong
tâm hồn của mọi tín hữu khi lãnh nhận bí tích Thánh tẩy và Thêm sức.
2. Danh xưng:
- Chúa Thánh Thần là tên gọi của Ngôi
Thứ Ba trong Ba Ngôi Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Con,
cùng được phụng thờ và tôn vinh với Chúa Cha và Chúa Con. (khi đọc kinh
tin kính và khi làm dấu Thánh giá là chúng ta tuyên xưng uy danh ấy).
- Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ,
là Trạng Sư mà Chúa Giêsu phục sinh hứa ban cho các môn đệ.
- Chúa Thánh Thần cũng còn được gọi Đấng
An Ủi, Thần Chân Lý (Ga 16,13), Thần Khí của Thiên Chúa (Rm 8,9; 15,19; 1Cr
6,11; 7,40), Thần Khí của Chúa Kitô (Rm 8,11), Thần Khí Vinh Hiển (1Pr 4,14),
Thần Khí của Lời hứa (Gl 3,14: Ep 1,13), Thần Khí làm cho ta nên nghĩa tử (Rm
8,15; Gl 4,6)…
3. Vai trò của Chúa Thánh Thần:
- Chúa Thánh Thần đóng một vai trò rất quan trọng cho sự hình thành và phát triển vũ trụ vạn vật. Sách
Sáng thế viết: "khi đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng
tối bao trùm vực thẳm và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước."
- Trong biến cố truyền tin Thiên Chúa nhập thể nơi cung lòng của Đức Trinh
Nữ Maria thì Chúa Thánh Thần chính là tác nhân. Tin mừng Luca khẳng định: "Thánh
Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì
thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa."
- Khi Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Gio-đan thì Chúa Thánh Thần
dưới hình chim bồ câu hiện đến để thông
truyền cho nhân loại biết Đức Giêsu quả thật là Con yêu dấu của Thiên Chúa.
- Đặc biệt, trong ngày Lễ Ngũ Tuần, chính Chúa Thánh Thần lấy hình lưỡi lửa
đậu xuống trên các tông đồ và làm cho
các tông đồ nhớ lại mọi điều Đức Giêsu đã nói với các ngài, đồng thời khiến
các ngài đang từ những kẻ nhút nhát, sợ sệt lại trở nên những con người can
đảm, mạnh mẽ, sẵn sàng ra đi làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh.
* Ngày nay, Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động trong đời sống của Giáo hội.
Sự tác động của Chúa Thánh Thần sẽ làm Giáo hội không ngừng phát triển, nhất là
Người luôn luôn đồng hành với mỗi người chúng ta. Thế nên, trước khi chúng ta
bắt tay vào làm bất kỳ công việc nào, chúng ta đều khởi đầu bằng việc nhân danh
Thiên Chúa Ba Ngôi, đồng thời cầu xin sự soi sáng và hướng dẫn của Chúa Thánh
Thần, để tất cả mọi việc từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa.
Như vậy, vai trò của Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng trong công cuộc
sáng tạo và cứu chuộc. Hơn thế nữa, Chúa Thánh Thần còn không ngừng thánh hóa
toàn thể nhân loại. Người sẽ thúc đẩy tâm hồn con người hành động theo sự hướng
dẫn của Người để có thể đưa nhân loại tiến vào con đường hiệp hành: hiệp thông,
tham gia và sứ vụ trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Như lời Đức Giêsu đã nói với các môn đệ xưa về sự xuất hiện của Chúa Thánh
Thần sau khi Ngài về với Chúa Cha cũng là đang nói với mỗi người chúng ta hôm
nay. Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta quên mất vai trò của Chúa Thánh Thần. Hay
nói một cách khác là chúng ta bỏ rơi Chúa Thánh Thần, chẳng quan tâm đến sự
hiện hữu của Người trong cuộc đời chúng ta.
Xin cho mỗi người chúng ta biết đón nhận Lời Chúa và mở rộng con tim để
Chúa Thánh Thần đến và hoạt động trong tâm hồn chúng ta. Chắc chắn Chúa Thánh
Thần sẽ luôn đồng hành, gìn giữ và thánh hóa mỗi người; Ngài cũng sẽ thúc đẩy
chúng ta hăng say làm chứng nhân cho Đức Kitô Phục Sinh trong cuộc sống hằng
ngày của mỗi người kitô hữu chúng ta.
Suy niệm 2: THẦN KHÍ SỰ SỐNG VÀ HIỆP NHẤT
Ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống kết thúc mùa
Phục Sinh. Biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần đã làm
thay đổi hoàn toàn các tông đồ. Sau khi đón nhận Chúa Thánh Thần, các tông đồ
đã mạnh dạn đứng lên, ra đi khắp nơi để loan báo niềm vui tin mừng phục sinh mà
không hề sợ hãi.
Mừng lễ hôm nay, xin Chúa Thánh Thần ngự đến trong
tâm hồn mỗi người chúng ta, để Ngài ban ơn, thêm sức và thúc đẩy chúng ta nhiệt
tâm sống chứng nhân và thi hành sứ vụ loan báo tin mừng cứu độ của Chúa cho hết
mọi người theo gương các tông đồ xưa.
Nằm ngẫm nghĩ, đôi khi chúng ta lại nhớ đến đại
dịch bệnh Covid-19 đã bùng phát cách nay ít lâu, khiến cho cả thế giới đã lâm
vào cảnh điêu đứng. Theo thống kê của tổ chức y tế thế giới thì đại dịch
Covid-19 đã cướp đi hàng triệu mạng sống con người, và làm cho hàng tỷ người
phải cách ly xã hội. Có thể nói đại dịch Covid-19 gây nên cái chết và sự chia
cách con người, nhưng Thần Khí thì ngược lại, Thần Khí thì luôn tạo nên sự sống
và tình hiệp nhất. Thần Khí ấy chính là Chúa Thánh Thần mà phụng vụ lời
Chúa nói đến hôm nay.
1. CTT, CHÍNH LÀ THẦN KHÍ BAN SỰ SỐNG.
Có lẽ cuộc sống chúng ta thường nghĩ rằng điều
quan trọng nhất là cơm áo gạo tiền, nhưng trong đại dịch Covid-19 thì người ta
mới chợt nhận ra khí thở mới là điều cần thiết nhất. Có đủ khí thở con người có
được sự sống. Không có khí thở thì con người phải chết.
Mà khí thở không do nhân loại tạo ra. Con người dù
tài giỏi mấy cũng không thể nào tạo ra được khí thở. Chỉ duy mình TC mới là
Đấng tạo ra và ban phát khí thở cho muôn vật muôn loài. Thánh Kinh thường sánh
ví Chúa Thánh Thần là hơi thở. Đúng vậy, Ngài chính là Đấng ban sự sống cho
muôn vật muôn loài, như lời Thánh vịnh đáp ca diễn tả: “Ngài lấy sinh khí
lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới,
là chúng được dựng nên.”
Vì thế, khi Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến với các
môn đệ trong căn phòng đóng kín vì sợ người Do Thái, Ngài đã thổi hơi trên các
môn đệ để trao ban sự sống thần linh, nguồn bình an nơi tâm hồn. Nhờ đó mà các
môn đệ có được sự sống mới, sự sống thần linh. Sự sống của CTT thì khác xa với
sự sống thể chất nơi các con vật và nguồn bình an do CTT ban tặng cũng khác xa
với bình an do thế gian ban tặng.
2. CTT LÀ THẦN KHÍ KIẾN TẠO SỰ HIỆP NHẤT.
Các bài trong thánh lễ hôm nay đều nói đến sự hiệp
nhất.
Sách Công vụ Tông Đồ trong bài đọc 1 kể chuyện các
môn đệ nói các ngôn ngữ khác nhau, nhưng lạ lùng là mọi người từ các vùng miền
khác nhau tuôn đến đều nghe và hiểu được các môn đệ nói tiếng thổ âm của
mình.
Thánh Phao-lô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Corinto
cũng đã xác quyết: dù chúng ta có nhiều đặc sủng, nhiều hoạt động, nhiều phục
vụ khác nhau, thì tất cả vẫn hiệp thông gắn bó với nhau như các chi thể làm nên
một thân thể nhờ Thần Khí duy nhất; vì tất cả đều nhằm đến ích lợi chung chứ
không phải tìm tư lợi cho riêng mình. Nhờ thần khí hiệp nhất mà mọi người dù
khác biệt nhưng lại không xung khắc. Khác mà không khắc, khác mà lại khớp với
nhau. Như vậy chính Chúa Thánh Thần là nguyên lý tạo nên sự hiệp nhất, tựa như
các chi thể trong cùng một thân thể vậy.
Mặc dầu không ai trong chúng ta nhìn thấy Chúa
Thánh Thần như thế nào. Sách thánh cũng chỉ dùng những biểu tượng để diễn tả.
Nhưng những hoạt động của CTT thì phong phú và đa dạng, nếu để ý chúng ta có
thể nhận ra. Để nhận ra sự hiện diện của CTT, ta hãy dựa vào thư của thánh
Phaolo tông đồ gửi tín hữu Galata. Trong lá thư này, Thánh Phaolô đã liệt kê cụ
thể các “hoa trái” của Chúa Thánh Thần, đó là: “Tình yêu, hoan lạc, bình an,
nhẫn nhục, nhân từ, lương thiện, trung tín, hiền hoà, tự chủ. Không có luật nào
chống lại những điều như thế.” (Gal 5, 22-23). Trong tất cả những hoa
trái kể trên, ta còn nhận thấy hoa trái của sự sống và tình hiệp nhất. Tất cả
những hoa trái kể trên có được đều nhờ sự tác động của CTT.
Dâng thánh lễ mừng kính trọng thể CTT hiện xuống
hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết mở lòng đón nhận CTT vào trong tâm hồn
mình, để Ngài thông ban cho chúng ta sự sống mới, thúc đẩy chúng ta tích cực
tham gia vào sứ vụ loan báo tin mừng phục sinh; nhất là biết khiêm tốn nghe
theo sự hướng dẫn của CTT mà kiến tạo sự hiệp nhất trong Chúa Kitô, nhằm hướng
tới một hội thánh hiệp hành: hiệp thông, tham gia và sứ vụ trong ngàn năm thứ
ba này.
Suy niệm 3: VAI TRÒ HIỆP NHẤT CỦA CHÚA THÁNH THẦN
Một câu chuyện biến ngôn kể rằng: Vào một buổi sáng mùa hè, trời quang mây
tạnh, các sinh vật trong một khu rừng bắt đầu tranh luận với nhau về ý nghĩa
của cuộc sống:
- Họa mi lên tiếng nói: Đối với tôi, cuộc sống chỉ là ca hát, thế thôi. Nói
rồi nó ngẩng cao cổ, tung lên bầu trời xanh một giọng hát trong trẻo tuyệt
diệu.
- Nghe thế, chuột chũi liền lẩm bẩm: Cuộc sống không phải là ca hát, nhưng
cuộc sống phải là liên tục đấu tranh trong hầm tối.
- Một chị bướm ngắt lời: Như vậy thì thật vô lý. Với tôi cuộc sống phải là
thỏa thích bay lượn, vui chơi.
- Đến lượt ong rừng lên tiếng: Chị bướm ơi, chị lầm rồi. Đời sống không
phải là vui chơi bay lượn, nhưng là chăm chỉ làm việc.
- Nghe thế, một chú kiến vàng vênh râu, tỏ ý tán thành quan điểm của ong
rừng.
- Bỗng tiếng phượng hoàng từ trời nói vọng xuống: Tất cả các chú không ai
nói đúng cả. Theo ý tôi thì cuộc sống chỉ có ý nghĩa nhất khi chúng ta tự do
bay cao trên các tầng mây.
- Tới đây, thì tất cả cây cối trong rừng đều nhao nhao lên tiếng tham gia
vào cuộc tranh luận:
Một cây thông cao vút, cành lá reo vui trong gió, dưới ánh bình minh, lên
tiếng khen ý kiến của con phượng hoàng là đúng: Đúng vậy, đời sống là phải vươn
mình lên không trung, coi thường những cái nhỏ nhen sà sà trên mặt đất.
- Cây bìm leo liền phản đối và đồng tình với chị kiến, chú ong: Đời sống là
phải cần lao phấn đấu.
- Cây hoa hồng và huệ trắng thì lại đứng về phe cô bướm, đồng thanh nói:
Đời sống phải là vui chơi bay lượn.
- Lúc ấy, một đám mây bay qua, buông rơi mấy hạt mưa xuống đám sinh thực
vật, rồi phát biểu: Đời sống chỉ là những giọt lệ cay đắng và nước mắt.
- Một dòng suối chảy ngang qua đó cũng xen vào một câu: Đời sống chỉ là mau
qua biến chuyển không ngừng.
Trong lúc cuộc tranh luận lên tới đỉnh điểm, thì chuông nhà thờ ngân vang,
báo hiệu mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống đã đến, làm cho cuộc tranh luận
đang sôi nổi bỗng nhiên im bặt. Tất cả đều nhất trí rằng: ý nghĩa của cuộc sống
phải là: sự bình an, vui mừng, sức mạnh và hiệp nhất trong Chúa Thánh Thần.
Đây chỉ là một câu chuyện biến ngôn, nhưng lại nói lên một sự thực là Chúa
Thánh Thần có một vai trò rất quan trọng trong việc điều hòa các hoạt động
trong vũ trụ vạt vật nói chung và đời sống của loài người nói riêng. Không có
Chúa Thánh Thần thì mọi sự sẽ hỗn độn, mọi loài sẽ bất đồng, loài người sẽ chia
rẽ nhau.
- Bài đọc 1 sách Công vụ Tông Đồ đã diễn tả tuyệt vời về ý tưởng này: “Trong
ngày lễ Ngũ Tuần, tất cả các môn đệ đều tề tựu một nơi, bỗng từ trời phát ra
tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp.
Lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người.
Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác
nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói. Khi ấy tại Giêrusalem, có những người
Do-thái đạo đức từ khắp các nước dưới gầm trời tụ về. Nghe tiếng ấy phát ra thì
đoàn lũ tuôn đến, tâm trí bỡ ngỡ, vì mỗi người đều nghe các môn đệ nói tiếng
thổ âm của mình”.
Thật lạ lùng, mặc dù các môn đệ nói tiếng của mình, nhưng loại ngôn ngữ ấy
mọi người khắp nơi đều nghe và hiểu được tiếng thổ âm của mình. Đó là nhờ tác
động của CTT.
- Bài đọc 2, trích thư thứ nhất gửi cho tín hữu Cô-rin-tô, Thánh Phao-lô
cũng đã xác quyết: mặc dầu có nhiều đặc sủng khác nhau, có nhiều hoạt động khác
nhau, nhiều phương cách phục vụ khác nhau, nhưng tất cả lại hiệp nhất với
nhau. Sự hiệp nhất ấy có được cũng là nhờ tác động của Thần Khí. Nhờ Thần Khí
hiệp nhất mà mọi người dù khác biệt nhưng lại không xung khắc, nhưng ăn khớp
với nhau. Khác mà không khắc, khác mà khớp với nhau. Như vậy, Chúa Thánh Thần
chính là nguyên lý tạo nên sự hiệp nhất, tựa như các chi thể trong cùng một
thân thể vậy, tất cả chỉ vì lợi ích chung.
Mặc dầu không ai nhìn thấy Chúa Thánh Thần như thế nào, sách thánh cũng chỉ
dùng những biểu tượng để diễn tả. Nhưng những hoạt động của CTT thì đa dạng,
phong phú, chúng ta chỉ có thể nhận ra sự hiện diện của CTT qua những hoa trái
do Ngài ban tặng trong đời sống mà thôi. Tựa như tình yêu, ta không thấy hình
dạng, mùi vị của tình yêu, chúng ta chỉ thấy những việc làm chứng tỏ tình yêu
mà thôi. Trong lá thư gửi tín hữu Galata, Thánh Phaolô đã liệt kê ra các “hoa
trái” do Chúa Thánh Thần mang đến như là: “Tình yêu, hoan lạc, bình an,
nhẫn nhục, nhân từ, lương thiện, trung tín, hiền hoà, tự chủ...” (Gal
5,22-23). Ngoài những hoa trái ấy, chúng ta còn nhận thấy thêm hai loại hoa
trái quan trọng mà phụng vụ lời Chúa hôm nay nói đến, đó là: sự sống thần linh
và tình hiệp nhất do chính CTT ban tặng trong ngày khai sinh GH.
CTT, Đấng kiến tạo sự hiệp nhất nên trong đời sống gia đình cũng như sinh
hoạt ngoài xã hội, chúng ta đừng nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của hận thù,
hiềm khích, đừng nói với nhau bằng ngôn ngữ của chia rẽ, nghi kị. Nhưng hãy nói
với nhau bằng thứ ngôn ngữ của tình yêu và hiệp nhất, đó là ngôn ngữ do Chúa
Thánh Thần ban tặng. Vì ngôn ngữ của ấy sẽ đem lại niềm vui và bình an và hạnh
phúc tâm hồn. Khi nói loại ngôn ngữ tình yêu thì bất cứ ai cũng có thể hiểu và
cảm nhận được.
Mừng Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm nay, Giáo Hội còn nhắc nhở chúng ta
vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần trong đời sống của mỗi người kitô hữu
chúng ta. Xin Chúa Thánh Thần ngự xuống đầy lòng chúng ta, đổi mới trái tim khô
cằn chúng ta trở nên trái tim mềm mại chan chứa tình yêu thương, thúc đẩy chúng
ta tích cực tham gia vào sứ mạng loan báo niềm vui tin mừng phục sinh của Chúa
Kitô, kiến tạo nên tình hiệp nhất trong và ngoài GH, nhằm hướng tới một lối
sống hiệp hành: thiệp thông, tham gia và sứ vụ mà GH đang mời gọi chúng ta thực
hiện trong ngàn năm thứ ba này. Amen.
* Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
GH thường nhắc nhở chúng ta, mỗi khi bắt đầu bất cứ công
việc gì, chúng ta hãy nhớ xin ơn Chúa Thánh Thần, để Ngài soi sang, hướng dẫn,
thêm sức cho ta. Thế nhưng trong thực tế, chúng ta ít khi nhớ đến Người và cũng
ít khi cầu xin với Người. Hôm nay, Giáo Hội dành riêng Chúa Nhật cuối cùng mùa
phục sinh để mừng kính trọng thể lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Đây dịp nhắc
nhở chúng ta về vai trò hết sức quan trọng của Chúa Thánh Thần trong đời sống
của Giáo Hội và của mỗi người chúng ta.
Xin cho chúng ta ý thức được tầm quan trọng của Chúa
Thánh Thần trong đời sống của mình mà siêng năng cầu nguyện cũng như năng tưởng
nhớ đến Người.
Hôm nay, cùng với GH chúng ta mừng kính trọng thể lễ CTT hiện xuống.
Nhưng nếu hỏi: Chúa Thánh Thần là ai? Ngài có vai trò nào? và những nguồn
ơn Ngài ban là gì? thì có lẽ trong chúng ta sẽ ngượng ngừng vì học giáo lý quá
lâu nên không nhớ được. Tuy nhiên nếu hỏi giới trẻ, gần đây hai cụm từ nào
là hót nhất trên cộng đồng mạng? thì tin chắc sẽ có câu trả lời ngay. Vậy hai
cụm từ gây bảo trên mạng xã hội những ngày qua là gì? Thưa đó là hai cụm
từ “Thầy Thích Minh Tuệ” và cụm từ “chữa lành”.
- Với Thầy Thích Minh Tuệ có tên thật là Lê Minh Tú, sinh năm 1981 tại xã
Kỳ Văn, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tỉnh, không phải là tu sĩ Phật giáo thuộc Giáo
hội Phật giáo Việt Nam. Thầy xác nhận mình chỉ là công dân Việt Nam, với
mong muốn tu tập theo lối sống khắc khổ, buông bỏ tất cả. Lối sống ấy hiện nay
có người ủng hộ và hết lòng ca ngợi; tuy nhiên bên cạnh đó cũng có người cảm
thấy khó chịu, bài bát, muốn loại trừ. Nên đã gây ra sự chia rẽ trong cộng đồng
xã hội.
- Với cụm từ "chữa lành" nếu gõ vào Google lập tức trong vòng
0,22 giây sẽ cho kết quả gần 84 triệu (x. có nên "chữa lành" theo
trào lưu, tuoitre.vn). Xu hướng này cho thấy cuộc sống hiện nay có quá nhiều áp
lực và căng thẳng về chuyện học hành, thi cử, tài chính, công việc, hôn nhân
gia đình…gây nên những thương tổn và rạn nứt về thể chất và tâm lý, làm cho
cuộc sống nhiều người mất đi sự quân bình, gây rạn nứt tâm hồn. Nên người ta
mong muốn được “chữa lành”. Để được chữa lành, người ta tìm đến những phương
cách khác nhau như: tập thể dục, tìm đến những nơi vui chơi giải trí, nghỉ phép
về quê ngoại, đi tham quan du lịch để hòa mình vào đời sống thiên nhiên. Cũng
có người tìm đến thiền định, yoga, xem tử vi tướng số, hay lao mình vào những cuộc
vui chơi đỏ đen, bia rượu thỏa thích.., với mong muốn giảm bớt căng thẳng và
hàn gắn lại những tổn thương rạn nứt nơi tâm hồn cũng như trong các mối tương
quan xã hội.
Nói chung ẩn sau hai cụm từ ấy cho thấy cuộc sống nhiều người ngày hôm nay
có sự bất an, do những rạn nứt nơi tâm hồn cũng như sự chia rẽ ngoài xã hội.
Nên rất cần đến sự hiệp nhất. Nhưng điều quan trọng là phải dựa vào đâu để kiến
tạo nên sự hiệp nhất vững bền? bời tất cả những giải pháp nêu trên chỉ là chóng
qua, tạm thời.
Thưa Phụng vụ lời Chúa hôm nay nhắc đến một Đấng, đấng ấy có một vai trò
quan trọng trong việc điều hòa các hoạt động trong vũ trụ vạt vật nói chung và
đời sống con người nói riêng, đó chính là CTT. Không để cho Chúa Thánh Thần
hoạt động thì mọi sự sẽ hỗn độn, loài người sẽ chia rẽ nhau.
- Bài đọc 1 sách Công vụ Tông Đồ đã diễn tả tuyệt vời về ý tưởng này: “Trong
ngày lễ Ngũ Tuần, tất cả các môn đệ đều tề tựu một nơi, bỗng từ trời phát ra
tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp.
Lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người.
Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác
nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói. Khi ấy tại Giêrusalem, có những người
Do-thái đạo đức từ khắp các nước dưới gầm trời tụ về. Nghe tiếng ấy phát ra thì
đoàn lũ tuôn đến, tâm trí bỡ ngỡ, vì mỗi người đều nghe các môn đệ nói tiếng
thổ âm của mình”.
Thật lạ lùng, mặc dù các môn đệ nói tiếng của mình, nhưng loại ngôn ngữ ấy
mọi người khắp nơi đều nghe và hiểu được tiếng thổ âm của mình. Đó là nhờ tác
động của CTT.
- Bài đọc 2, trích thư thứ nhất gửi cho tín hữu Cô-rin-tô, Thánh Phao-lô
cũng đã xác quyết: Tuy có nhiều đặc sủng khác nhau, có nhiều hoạt động khác
nhau, nhiều phương cách phục vụ khác nhau, nhưng tất cả lại hiệp nhất với
nhau. Sự hiệp nhất ấy có được cũng là nhờ tác động của Thần Khí. Nhờ Thần Khí
hiệp nhất mà mọi người dù khác biệt nhưng lại không xung khắc, nhưng ăn khớp
với nhau. Khác mà không khắc, khác mà khớp với nhau. Như vậy, Chúa Thánh Thần
chính là nguyên lý tạo nên sự hiệp nhất, tựa như các chi thể trong cùng một
thân thể vậy, tất cả chỉ nhằm hướng đến lợi ích chung.
Mặc dầu không ai nhìn thấy Chúa Thánh Thần như thế nào, sách thánh cũng chỉ
dùng những biểu tượng để diễn tả về CTT như: lưỡi, như lửa, như cột mây, chim
câu... Nhưng Chúa Thánh Thần hình dáng đích thực ra sao không ai thấy. Chúng ta
biết được là nhờ Chúa Giêsu mạc khải. Tuy nhiên những hoạt động của CTT thì
chúng ta có thể nhận ra, qua những hoa trái do Ngài ban tặng trong đời sống
chúng ta. Tựa như tình yêu, ta không thấy hình dạng, mùi vị của tình yêu, chúng
ta biết có tình yêu ngang qua những dấu chỉ và việc làm tốt lành mà ai đó dành
cho mình.
Trong lá thư gửi tín hữu Galata, Thánh Phaolô đã liệt kê ra 12 “hoa trái”
do Chúa Thánh Thần mang đến, đó là: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn
nại, nhân từ, lương thiện, hiền hòa, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ
và thanh khiết” (Gal 5,22-23). Ngoài những hoa trái ấy, chúng ta
còn nhận thấy một loại hoa trái rất quan trọng do chính CTT ban tặng trong ngày
lễ hiện xuống. Đó là hoa trái của sự hiệp nhất.
Vì CTT là Đấng kiến tạo nên sự hiệp nhất trong đời sống con người, nên
chúng ta đừng bao giờ nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của hận thù, hiềm khích,
đừng đối thoại với nhau bằng thứ ngôn ngữ đố kị, thô bỉ. Nhưng hãy nói với nhau
bằng thứ ngôn ngữ của tình yêu, đó là ngôn ngữ do Chúa Thánh Thần ban tặng.
Ngôn ngữ của ấy sẽ đem lại niềm vui, bình an và hạnh phúc đích thực cho tâm hồn
chúng ta, ngôn ngữ ấy có khả năng chữa lành mọi rạn nứt trong đời sống. Khi nói
loại ngôn ngữ tình yêu ấy thì bất cứ ai cũng đếu hiểu và dễ dàng đón nhận với
niềm phấn khởi.
Mừng Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm nay, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta vai
trò quan trọng của Chúa Thánh Thần trong đời sống của mỗi người kitô hữu chúng
ta. Xin Chúa Thánh Thần ngự xuống đầy lòng chúng ta, để Ngài hàn gắn và sửa lại
những vết nứt nơi tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta biết tích cực kiến tạo nên
tình hiệp nhất trong và ngoài GH, nhằm hướng tới một Hội Thánh hiệp hành: thiệp
thông, tham gia và sứ vụ, dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần. Đó chính là lối
sống mà GH đang mời gọi chúng ta nỗ lực thực hiện trong ngàn năm thứ ba này.
Amen.
Suy niệm 4: CHÚA THÁNH THẦN LÀ AI?
Anh
chị em thân mến,
Trong
Ba Ngôi Thiên Chúa, có lẽ Chúa Thánh Thần là Đấng ít được chúng ta nói đến và
dễ bị quên lãng. Người không hiện diện dưới hình hài cụ thể như Chúa Cha – Đấng
Tạo Dựng, hay như Chúa Giêsu – Ngôi Lời nhập thể. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần
lại giữ một vai trò thiết yếu trong đời sống đức tin của chúng ta.
1. Chúa Thánh Thần là ai?
Trong
Cựu Ước, Thánh Thần được nhắc đến nhiều lần với hình ảnh như hơi thở,
gió, nước, lửa, biểu lộ sức mạnh và sự sống đến từ Thiên Chúa. Tuy nhiên,
Người chưa được nhìn nhận là một Ngôi Vị riêng biệt.
Phải
đợi đến Chúa Giêsu, chúng ta mới được mạc khải rõ ràng: Thiên Chúa là
một cộng đoàn yêu thương – Ba Ngôi hiệp nhất, và Chúa Thánh Thần là Ngôi
Ba Thiên Chúa. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu gọi Người là Đấng Bảo
Trợ, là Thần Khí sự thật, phát xuất từ Chúa Cha và được Chúa Con sai
đến.
Chúa
Thánh Thần không phải là một năng lực hay biểu tượng, mà là một Ngôi
Vị sống động, ngang hàng với Chúa Cha và Chúa Con, đáng được phụng thờ và
tôn vinh. Giáo Hội đã tuyên xưng: “Chúng tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là
Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống.”
2. Vai trò của Chúa Thánh Thần
a. Với các môn đệ
Sau
khi Chúa Giêsu về trời, các môn đệ sống trong sợ hãi và bối rối. Nhưng khi Chúa
Thánh Thần hiện xuống vào ngày Lễ Ngũ Tuần, họ trở nên can đảm, ra đi loan
báo Tin Mừng, làm phép lạ, giảng dạy các dân tộc, và xây
dựng Hội Thánh.
Chúa
Giêsu đã nói: “Khi Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật
toàn vẹn” (Ga 16,13). Chính Chúa Thánh Thần tiếp nối và hoàn tất chương
trình cứu độ của Chúa Giêsu bằng cách soi sáng, nhắc lại lời Chúa,
và giúp các môn đệ hiểu thấu ý nghĩa lời giảng dạy.
b. Với mỗi người chúng ta
Chúa
Thánh Thần không chỉ hoạt động nơi các Tông đồ, mà hiện diện trong từng
người tín hữu:
-
Làm cho chúng ta nên một trong Đức Kitô.
-
Thánh hóa Hội Thánh, dù Hội Thánh vẫn gồm những con người yếu đuối.
-
Gửi các sứ giả đi khắp thế giới để rao giảng Tin Mừng.
-
Ban bảy ơn Thánh Thần trong ngày chúng ta chịu Bí tích Thêm sức, giúp
chúng ta:
.
Sống chứng nhân giữa đời.
.
Đấu tranh chống lại tội lỗi.
.
Dẫn người khác đến với Chúa Kitô.
3. Sống với Chúa Thánh Thần mỗi ngày
Chúa
Thánh Thần là quà tặng từ Đấng Phục Sinh, là Đấng Bảo Trợ luôn hiện
diện trong tâm hồn ta, vì chính thánh Phaolô nói: “Anh em là đền thờ của
Thánh Thần.”
Vậy,
để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn, xin mời anh chị em thực hiện ba việc cụ thể:
-
Mỗi ngày, hãy ý thức rằng Người đang hiện diện và hoạt động trong mình.
-
Trước mỗi công việc, hãy cầu xin Người soi sáng và hướng dẫn.
-
Mỗi sáng thức dậy, hãy thầm thĩ:
“Lạy
Chúa Thánh Thần, xin đồng hành và bảo trợ con suốt ngày sống hôm nay.”
Kết
thúc,
xin chúng ta đừng quên rằng: Chúa Thánh Thần chính là sức sống, là hơi thở
của đời sống đức tin. Nếu không có Người, đức tin sẽ nguội lạnh, Giáo Hội
sẽ khô cằn, và trái tim chúng ta sẽ khép kín.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy thánh hóa chúng con, canh tân Giáo Hội, và dẫn đưa chúng con đến chân lý toàn vẹn là chính Đức Kitô. Amen.
Thứ hai: St 3,9-15.20; Ga 19,25-34
Lễ kính Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh
Suy niệm 1:
Theo lịch phụng vụ, hàng năm ngay sau khi mừng kính trọng thể lễ CTT hiện
xuống, GH liền mừng lễ (lễ nhớ buộc) Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh. Qua đó,
GH cho thấy, nếu CTT là Đấng khai sinh và hướng dẫn GH, thì Đức Maria là Đấng
đồng hành, đỡ nâng GH.
Trong năm phụng vụ, GH mừng kính nhiều tước vị Đức Maria: Mẹ TC, Hồn Xác
Lên, Vô Nhiễm Nguyên Tội...và hôm nay là mừng lễ Đức Trinh Nữ Maria,
Mẹ Hội Thánh.
Lễ này được Đức Chân Phước Giáo Hoàng Phao-lô VI công bố trước các nghị phụ
vào ngày 21/11/1964, sau khi bế mạc kỳ họp thứ III của công đồng
Vatican II, với lời xác quyết: “Mẹ của HT, nghĩa là Mẹ của toàn thể các
Kitô hữu, giáo dân cũng như mục tử, những người vẫn gọi Mẹ là Mẹ vô cùng nhân
ái.”
Lời xác quyết trên của Đức Chân Phước Giáo Hoàng Phao-lô
VI đặt trên nền tảng vững chắc của Thánh Kinh và truyền thống GH.
- Trong truyền thống GH, ngay từ buổi ban đầu, người tín
hữu luôn có lòng sùng kính Đức Maria. Nên việc cử hành này sẽ làm phong
phú và tăng trưởng thêm đời sống đức tin của người Kitô hữu: “ Toàn
dân Kitô giáo xưa nay đã tôn kính Thánh Mẫu TC bằng danh hiệu rất ngọt ngào
này, thì nay còn phải tôn kính hơn nữa.” (ĐTC Phao-lô VI)
- Nền tảng Thánh Kinh cho biết: Đức Maria đã được
TC tuyển chọn để cưu mang, hạ sinh và nuôi dưỡng Đức
Giêsu, Ngôi Hai TC làm người. Do Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu là đầu HT,
nên Đức Maria phải xứng danh là Mẹ HT.
- Tin mừng hôm nay, thánh Gioan cho biết: Dưới chân thập giá,
trước khi trút hơi thở cuối cùng (lúc sinh thì), Chúa Giêsu đã trối thánh
Gioan làm con Đức Maria và Đức Maria làm mẹ của thánh Gioan;
mà thánh Gioan được hiểu là đại biểu của HT. Qua đó, Chúa
Giêsu muốn GH đón nhận Đức Maria là Mẹ và muốn Đức Maria nhận HT làm
con Mẹ.
- Sách Cvtđ tường thuật lại những hoạt động của HT những ngày
đầu, luôn có Mẹ Maria hiện diện bên cạnh các môn đệ
để hiệp thông, an ủi, khích lệ và cầu nguyện cùng các ngài. Nhờ đó mà
HT non trẻ của Chúa vượt thắng được mọi gian lao thử thách
và không ngừng tiến triển.
- Kinh nghiệm cho thấy, không có người mẹ nào lại quên con mình.
Vì thế, ta tin chắc Mẹ Maria sẽ không bao giờ bỏ rơi con cái Mẹ trong HT,
nhất là trong những lúc gian nan thử thách. Vì lẽ đó, một mặt chúng
ta phải tỏ lòng hiếu kính Đức Mẹ, bằng cách noi theo những nhân
đức của mẹ và vâng nghe lời Mẹ hướng dẫn mà thực hiện những lời chỉ dạy Chúa
Giêsu, như lời mẹ đã căn dặn các gia nhân nơi tiệc cưới Cana: “Người bảo sao
cứ làm vậy” (Ga 2,5). Nhất là luôn tuân giữ 3 mệnh lệnh Mẹ đã
truyền dạy khi hiện ra ở Fatima: “ăn năn đền tội cải thiện đời sống,
tôn sùng mẫu tâm, siêng năng lần chuỗi Mân côi".
- Nguyện xin Ba Ngôi Thiên Chúa nhờ lời chuyển cầu thế
giá của Mẹ Maria bên tòa Chúa, ban cho HT và chúng con luôn
được bình an, yêu thương hiệp nhất và kiên vững niềm tin.
Xin Chúa chúc lành cho GH và cho mỗi người chúng ta. Amen.
Suy niệm
2: ĐỨC MARIA-MẸ CỦA NIỀM HY VỌNG
"Thưa Bà, đây là con Bà...
Đây là Mẹ con." (Ga
19,26-27)
1. Tình mẫu tử giữa thập giá
Trên đồi
Can-vê, trong giờ phút đen tối nhất của nhân loại, Chúa Giêsu không chỉ trao
ban mạng sống để cứu độ thế gian, nhưng còn để lại một món quà quý giá: Ngài trao ban Mẹ của Ngài cho Hội Thánh.
Không phải trong vinh quang phục sinh hay giữa ánh sáng Biến Hình, mà chính trên thập giá, trong đau thương và cô
đơn, Mẹ Maria trở thành Mẹ của Hội
Thánh.
Mẹ Maria
không đứng xa nhưng đứng sát bên thập
giá, như một người Mẹ không bao giờ rời bỏ con mình trong đau khổ. Chính
khi đó, Chúa Giêsu trao Mẹ cho người môn đệ yêu dấu; và qua người môn đệ ấy,
trao Mẹ cho mỗi chúng ta. “Này là Mẹ con”
đó không chỉ là lời ủy thác, nhưng là một giao ước yêu thương giữa Mẹ Maria và Hội Thánh.
2. Mẹ của Hội Thánh-Mẹ của niềm hy vọng
Là Mẹ của
Hội Thánh, Mẹ Maria không ngừng hiện
diện và đồng hành với Hội Thánh suốt hành trình lịch sử. Từ buổi sơ
khai, Mẹ đã hiện diện giữa các Tông Đồ trong phòng Tiệc Ly, âm thầm cầu nguyện
chờ đón Chúa Thánh Thần. Và từ đó, trải qua bao thế kỷ, Mẹ vẫn tiếp tục nâng đỡ
Hội Thánh bằng tình yêu âm thầm, bằng
gương sống đức tin, cậy trông và vâng phục.
Trong thời
đại đầy biến động hôm nay, khi Hội Thánh đối diện với những thách đố, khủng
hoảng và mất mát niềm tin, Mẹ Maria lại càng là người Mẹ của niềm hy vọng. Nơi Mẹ, chúng ta học được cách tin
tưởng dù không hiểu hết, yêu thương trong im lặng, trung thành trong gian nan,
và nhất là biết trao phó tất cả cho
Thiên Chúa.
3. Mẹ dạy chúng ta sống với Hội Thánh và cho Hội Thánh
Mừng lễ Mẹ
Maria là Mẹ Hội Thánh, mỗi người tín hữu được mời gọi không chỉ tôn kính Mẹ,
nhưng còn noi gương Mẹ để sống
yêu mến và phục vụ Hội Thánh:
- Như Mẹ,
chúng ta học yêu mến Hội Thánh dù Hội Thánh còn nhiều yếu đuối.
- Như Mẹ,
chúng ta biết cầu nguyện, hiến dâng và
hy sinh cho sự hiệp nhất và thánh thiện của Hội Thánh.
- Như Mẹ,
chúng ta ở lại bên Chúa và bên Hội
Thánh, nhất là trong những lúc khó khăn, đau khổ.
Lạy Mẹ
Maria, Mẹ của Hội Thánh, xin Mẹ dẫn dắt Hội Thánh qua những thử thách hôm nay, xin
Mẹ dạy chúng con biết yêu mến, phụng sự và xây dựng Hội Thánh bằng đời sống
thánh thiện, bằng đức tin vững vàng, và bằng tình yêu không ngơi nghỉ. Xin Mẹ ở
với chúng con, đặc biệt trong giờ thử thách, để chúng con luôn trung thành với
Chúa và với Hội Thánh của Người. Amen. (St).
Thứ ba: Mt 5,13-16
Suy niệm 1:
Bằng hai hình ảnh muối và ánh sáng, Chúa Giêsu muốn nói đến bản chất và sứ
mạng của người kitô hữu.
1. Bản chất và sứ mạng của muối:
Nếu bản chất của muối là phải mặn. Muối không mặn thì không còn là muối
nữa, chỉ còn cách quăng xuống đường cho người ta giẫm đạp lên. Cũng vậy, bản
chất của người Kitô hữu phải mang đậm chất mặn của tình yêu. Nếu ta không có
tình yêu thì không còn là Kitô hữu nữa. Bởi lẽ "Thiên Chúa là Tình
Yêu" (1Ga 4,7). Ngài đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh Ngài, nên tự
bản chất nơi ta phải mang chất tình yêu. Dĩ nhiên tình yêu ấy phải đặt trên nền
tảng Tình Yêu như Chúa. "Yêu như Thầy đã yêu" (Ga
15,12).
Còn nếu sứ mạng của muối là giữ cho thức ăn khỏi hư thối và đem lại mùi vị
thơm ngon cho thức ăn. Thì sứ mạng của người kitô hữu phải có nhiệm vụ ướp đời,
ướp người khỏi những băng hoại của dối trá, hận thù, ganh tị, lường gạt, bất
trung... Ngoài sứ mạng ngăn chặn cuộc sống khỏi những băng hoại,
chúng ta còn phải là tác nhân đem lại hương vị ngọt ngào cho cuộc sống bằng
những cử chỉ, lời nói, việc làm thắm đợm tình thương, nhằm mang đến niềm vui,
an bình và hạnh phúc cho tha nhân.
2.
Bản chất và sứ mạng của đèn:
Nếu
bản chất của chiếc đèn là để thắp sáng, thì đức tin chính là bản chất của người
kitô hữu. Vì chúng ta được gọi là "tín hữu".
Còn
nếu sứ mạng của chiếc đèn là chiếu giải ánh sáng cho mọi người nhìn thấy, thì
sứ mạng của người kitô hữu là chiếu tỏa ánh sáng đức tin ấy cho mọi người nhìn
thấy bằng những việc làm cụ thể. Vì "Đức tin không có việc làm là
đức tin chết " (Gc. 2,17). Mà những việc làm cụ thể ấy chính là những việc lành. “Ánh
sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc
tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”.Qua bí
tích rửa tội, chúng ta được Chúa trao ban cho ánh sáng Đức tin và kêu mời chúng
ta chiếu tỏ ánh sáng đó cho trần gian.
Xin
Chúa giúp chúng ta luôn giữ được chất tình yêu của Chúa, để chúng ta có thể ướp
mặn cho đời và cho người; cụ thể là những thành viên trong gia đình chúng ta
khỏi những băng hoại do tội lỗi gây nên. Đồng thời xin Chúa cũng ban thêm chất
Đức Tin nơi mỗi chúng ta, hầu ta có thể can đảm thắp lên ngọn lữa đức tin ấy
bằng những hành động bác ái cụ thể cho tha nhân, qua đó mà mọi người nhận ra
Chúa mà ngợi ca Danh Người.
Suy niệm 2:
Sau khi Chúa Giêsu đưa ra Bản Hiến chương Nước Trời (Mt
5,1-12), công bố ở trên núi, đó là Tám mối phúc. Ngài khuyên và khích lệ mọi
người hãy đi vào con đường đó vì chúng sẽ dẫn ta đến Nước trời.
Sang Bài Tin mừng hôm nay (Mt 5,13-16). Chúa Giêsu
muốn nhấn mạnh hơn nữa: Khi chúng ta sống trọn Tám mối phúc, ta sẽ trở nên nhân
tố biến đổi thế giới. Chúa đã dùng 2 hình ảnh để diễn tả bản chất của người môn
đệ đích thực, đó là:
+ Muối cho đời.
+ Ánh sáng cho thế gian.
1. “CÁC CON LÀ MUỐI ĐẤT”.
Độc giả có thể thắc mắc: Tại sao Chúa Giêsu không nói: “CÁC CON
LÀ MUỐI”, mà Ngài dùng thêm từ “ĐẤT”, có nghĩa “CÁC CON LÀ MUỐI ĐẤT”. Dụng ý của Matthêu rõ ràng. Matthêu muốn nhắc chúng ta
ý thức rằng: KHÔNG CÓ KITÔ HỮU NÀO
SỐNG LƠ LỬNG GIỮA TRỜI VÀ ĐẤT. Chúng ta được dựng nên để thuộc về Thiên Chúa,
có nghĩa thuộc về trời cao, nhưng chúng ta được Chúa đặt trên mặt đất, cũng như
ta luôn hướng về cuộc sống mai sau, nhưng ta vẫn phải sống tốt đời này. Như vậy, Chúa đã sai chúng ta vào thế gian này như
muối cho đời vậy, đó là “MUỐI ĐẤT”
- BẢN CHẤT CỦA MUỐI: PHẢI MẶN
Muối phải mặn. NẾU MUỐI ĐÃ LẠT, NGƯỜI TA BIẾT LẤY GÌ
MÀ ƯỚP CHO MẶN LẠI?”.
Khi nói về bản chất, thì ta phải hiểu: MẶN là cái gì
thật sâu xa, nằm trong muối, nó là bản chất của muối. Nếu mất cái bản chất đó
thì muối sẽ không còn gọi là muối nữa. Cũng vậy, BẢN CHẤT CỦA KITÔ HỮU PHẢI
MANG ĐẬM CHẤT YÊU THƯƠNG. Nếu Kitô hữu không biết sống yêu thương thì sẽ không
còn là Kitô hữu.
- CÔNG DỤNG CỦA MUỐI: Không có gì rẻ và căn bản hơn muối;
nhưng muối làm nhiều điều hữu ích cho con người:
1/. Muối tượng trưng cho sự trong sạch tinh tuyền
2/. Muối để ngăn ngừa đồ ăn cho khỏi hư rữa.
3/. Muối để thêm gia vị cho thực phẩm.
Nếu sứ mạng của muối là giữ cho thức ăn khỏi hư thối
và đem lại mùi vị thơm ngon cho thức ăn, thì sứ mạng của Kitô hữu (MUỐI ĐẤT)
phải có nhiệm vụ ướp đời, ướp người khỏi những băng hoại của dối trá, hận thù,
ganh tị, lường gạt, bất lương…
Kitô hữu chúng ta, ngoài sứ mạng ngăn chặn cuộc sống
khỏi những băng hoại, chúng ta còn là tác nhân đem lại hương vị ngọt ngào cho
cuộc sống bằng những cử chỉ, lời nói, việc làm thắm đượm tình thương nhằm mang
đến niềm vui, an bình và hạnh phúc cho tha nhân. Nếu không có vị mặn của muối,
làm sao các Kitô hữu có thể “ướp mặn” lòng người.
Ta đừng bao giờ nghĩ rằng: mình chỉ cần sống tốt là
đủ, chỉ cần lo phần rỗi linh hồn của mình là được. Như vậy chưa đủ, vì còn rất
nhiều thiếu sót và phần rỗi linh hồn ta cũng không được đảm bảo, sống là sống
với người khác.
Do đó phần rỗi của người khác cũng có phần ảnh hưởng
đến phần rỗi của ta. Vì thế Chúa mời gọi ta: “CÁC CON LÀ MUỐI ĐẤT”. Chúa Giêsu
khi nói “CÁC CON LÀ MUỐI ĐẤT”, có nghĩa Ngài đặt ta vào mối tương quan với
người khác, chứ không thể chỉ sống cho mình. “Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn
lại? muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người
ta chà đạp lên nó”
Vì bản chất của muối là mặn, cái vị mặn đó phải từ
muối đi ra để làm tăng vị mặn cho thức ăn, không thể có chiều đi ngược lại. Như
vậy, khi muối đã mất vị mặn thì không có gì có thể ướp nó cho mặn lại. Chúa Giêsu đã
nói đến một kinh nghiệm dân gian: Người ta không thể làm ra muối bằng bất cứ
thứ gì, mà phải từ nước biển, vì vị mặn, bản chất của muối đã nằm sẵn trong
nước biển.
Một khi muối đã mất vị mặn thì ta không lấy gì thể ướp
cho nó mặn lại. Ta không thể lấy một vị mặn nào đó để đưa vào muối để làm cho
nó mặn lại. Vì vị mặn chỉ có thể đi từ muối đi ra chứ không thể đi theo chiều
ngược lại. Các môn đệ của Chúa Giêsu cũng thế, một khi đánh mất
bản chất của mình thì người đó cũng giống như muối đã mất vị mặn, người môn đệ
đó sẽ không còn hữu ích cho ai nữa, mà Matthêu nói: “Chỉ còn ném ra
ngoài cho người ta chà đạp lên nó”. Đó là kết cục thảm hại dành cho kẻ đánh
mất bản chất, đánh mất lý tưởng của mình.
2. CÁC CON LÀ SỰ SÁNG THẾ GIAN
“Các con là sự sáng thế gian. một thành phố xây dựng
trên núi, không thể che giấu được. và người ta cũng không thắp đèn rồi để
dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong
nhà. sự sáng của các con cũng phải
chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà
ngợi khen cha các con trên trời”
- “CÁC CON LÀ SỰ SÁNG THẾ GIAN”
Thánh sử Gioan từng xác tín Chúa Giêsu là ánh sáng thế
gian, Gioan viết: “ở nơi Người là sự sống,và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.
Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga
1, 4-5). Trong phúc âm Marcô: Đã nhiều lần Chúa Giêsu ví các
môn đệ là ĐÈN CHÁY SÁNG, Marcô viết: “Chẳng lẽ mang đèn tới để đặt dưới cái
thùng hay dưới gầm giường? Nào chẳng phải là để đặt trên đế sao?” (Mc 4, 21)
Sang đến Matthêu, Chúa Giêsu không còn nói “Đèn
cháy sáng” nữa, mà nói: “Các con là sự sáng thế gian”. Có nghĩa các
môn đệ chính là sự sáng thế gian, chứ không còn là đèn, vì là đèn, nó phải lệ
thuộc vào dầu và vào ôxy mới có thể cháy được. Còn khi là ánh sáng, thì nó
thuộc về bản chất không còn lệ thuộc vào bất cứ thứ gì khác.
Bản chất của các môn đệ là sự sáng, sự sáng đó chính
là tiếp nối sự sáng của Chúa Giêsu, Ngài mà Gioan đã mô tả: “ở nơi
Người là sự sống,và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong
bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1, 4-5)
Mặc dù thế giới hôm nay đã rực sáng bởi ánh sáng của
điện khí hoá, cứ nhìn vào khung cảnh Giáng sinh, của những ngày Tết ta sẽ thấy
rõ điều đó. Nhưng ở nơi này nơi kia trên thế giới vẫn còn những
góc tối, những góc khuất, mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài phải là ánh
sáng để dọi vào những góc tối đó.
Ta luôn ý thức rằng: Thế giới hôm nay vẫn còn 2/3 nhân
loại chưa nhận biết Chúa, có nghĩa chỉ 1/3 người nhận biết Chúa thôi. Nói chung
thế giới này vẫn đang chìm trong bóng tối mặc dù nó đã được điện khí hoá. Nhưng chúng
ta chỉ là ánh sáng khi chúng ta phản chiếu ánh sáng của Chúa, có nghĩa chúng ta
hãy để cho ánh sáng của Chúa xuyên qua và toả sáng trong cuộc đời chúng ta, để
thiên hạ thấy những công việc tốt đẹp chúng ta làm, mà tôn vinh Cha chúng ta,
Đấng ngự trên trời.
Giáo Hội là muối và ánh sáng thế gian. Mỗi Kitô hữu tự
bản chất cũng là muối và ánh sáng của thế gian. Họ sẽ đánh mất vị mặn của muối
và tia sáng của ánh sáng, nếu chỉ vì một chút lợi lộc vật chất, một chút dễ
dãi, mà họ thỏa hiệp với những gì đi ngược chân lý của Chúa Giêsu. Một cách cụ
thể, Kitô hữu sẽ không còn là muối và ánh sáng nữa, nếu cứ theo dòng chảy của
xã hội, họ cũng lọc lừa, móc ngoặc, dối trá.
Lạy Chúa, xin cho con trở thành muối cho đời qua công
việc yêu thương và phục vụ hàng ngày. xin cho chúng con biết gìn giữ ngọn lửa
mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của
Chúa suốt cả cuộc đời chúng con. Amen.
Giuse. Vĩnh Tâm
Thứ tư: Cv 11,21b-26.13,1-3; Mt 10,6-13
Nhớ Thánh Ba-na-ba,
tông đồ.
Suy niệm 1:
Để thực hiện sứ mạng giải thoát con người khỏi những đau khổ về thể xác và
tinh thần, một mình Đức Giêsu là đủ, vì Ngài là Thiên Chúa quyền năng. Tuy
nhiên, Chúa Giêsu lại không dùng cách thế đó. Trái lại Chúa mời gọi chúng ta
cộng tác. Cụ thể bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chọn gọi các tông
đồ, ban quyền chữa bệnh, trừ quỷ cho các ông và sai các ông ra đi gieo rắc Bình
an của Chúa cho mọi nhà, mọi người. Sứ mạng thì to lớn, nhưng phận người
lại bé nhỏ. Thế nên, Chúa Giêsu ý thức các Tông đồ hãy cậy trông vào Chúa.
- Cậy trông vào Chúa, nên tông đồ Barnaba đã sống tinh thần khó nghèo. Ngài
sẵn sàng bán đi thửa ruộng của mình có và đem bạc đặt dưới chân các Tông
đồ (Cv 4,36-37).
- Cậy trông vào Chúa, tông đồ Barnaba dễ dàng sống siêu thoát, sẵn sàng ra
đi bất cứ nơi nào khi Giáo hội muốn với tinh thần phó thác.
Sách Công vụ cho biết khi được mọi người cử đi An-ti-ô-khi-a xem tình hình
ở đó thực hư thế nào, Barnaba đã sẵn sàng lên đường và khi Barnaba tới nơi thì
thấy rõ đó là kết quả của “Ơn Thiên Chúa” cho nên ông không nghi ngờ gì, trái
lại còn “mừng rỡ và khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa” (
Cv 11, 23-24).
Rồi khi nhận được bài sai từ Thánh Thần: “Hãy dành riêng Barnaba và
Saolô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm” (Cv 13,
2). Ông cùng với Phaolô đã lên đường, nhiệt thành với công việc
loan báo Tin Mừng cho lương dân, âm vang Lời Chúa lan rộng ở các cộng đoàn nhất
là ở Giêrusalem, Antiokhia ….
- Cậy trông vào Chúa, Banaba đã khiêm tốn đón nhận mọi cảnh huống của cuộc
sống, nhằm thi hành tốt sứ mạng đem Bình an của Chúa cho mọi người. Bằng chứng
là Ngài đã giúp Phaolô hoà nhập với tông đồ đoàn tại Giêrusalem trong lần
gặp mặt đầu tiên, khi mọi người chưa dám tin Phaolô là tông đồ (x. Cv 9,
26-27); và sau đó hai bên hoà thuận với nhau, cộng tác nhau vui vẻ (x. Cv
9, 28.30).
Cùng với Phaolô, ngài rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, khiến họ vui mừng
tôn vinh Lời Chúa… Lời Chúa lan tràn khắp vùng. (Cv 14, 48-49). Rồi bênh vực họ
trong hội nghị Giêrusalem (Cv 15, 12). Việc này góp phần làm cho kitô hữu gốc
Do thái và kitô hữu gốc lương dân hiểu nhau và sống hòa thuận với nhau trong
cùng một niềm tin. Ngay cả khi đụng độ với Phaolô về việc đem theo Mác-cô đi
truyền giáo mà Thánh Phaolô không muốn, nên họ to tiếng với nhau và chia tay nhau, thì
Barnaba cũng được thúc đẩy bởi tấm lòng khiêm tốn hòa giải vì ngài muốn cứu vớt
một kẻ đã lỡ một lần lỗi phạm (x. Cv 15, 37.39). Quả là ý định tốt lành của
Barnaba đạt kết quả tốt lành vì Mác-cô trở thành một tông đồ nhiệt thành và tác
giả quyển Tin Mừng thứ hai.
Bổn phận truyền giáo không là việc của riêng ai mà là nhiệm vụ của mọi Kitô
hữu. Mừng lễ Thánh Barnaba Tông đồ, là dịp
chúng ta kiểm xét lại chính mình, xem chúng ta đã góp được gì cho công cuộc
truyền giáo, hay chúng ta cũng chỉ là những kẻ cổ suý hô hào cho việc truyền
giảng Tin Mừng bằng môi miệng, mà cuộc sống thì lại là một phản chứng ghê gớm
đối với Tin Mừng?!
Nhờ lời chuyển cầu của Thánh Barnaba tông đồ, xin Chúa
ban cho chúng ta ý thức được tầm quan trọng của việc truyền giáo, để chúng ta
tích cực góp phần vào công cuộc truyền giáo bằng lời cầu nguyện, bằng sức lực,
tài lực và cả của cải. Nhất là xin Chúa ban cho chúng con có tinh thần khó
nghèo, siêu thoát và khiêm tốn hầu trở nên khí cụ Bình an của Chúa trong khi
thi hành sứ mạng loan báo Tin mừng, theo mẫu gương của thánh Barnaba tông đồ.
Suy niệm 2: Tông đồ hăng say loan báo Tin Mừng
Bài Tin Mừng hôm nay cùng với các bài đọc trong ngày lễ kính Thánh Barnaba
Tông Đồ cho chúng ta thấy hình ảnh một vị tông đồ hăng say loan báo Tin Mừng.
Thánh Barnaba, được mệnh danh là "con của sự an ủi", đã cùng với
Thánh Phaolô thực hiện nhiều hành trình truyền giáo, mang Lời Chúa đến với
nhiều dân tộc khác nhau. Ngài đã bán hết gia sản để giúp đỡ cộng đoàn Kitô hữu
tại Giêrusalem, thể hiện tinh thần quảng đại và bác ái.
Lời mời gọi cho mỗi người:
Lễ kính Thánh Barnaba là lời mời gọi mỗi người Kitô hữu noi gương ngài
trong việc hăng say loan báo Tin Mừng. Mỗi người, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào,
cũng có thể trở thành một "Barnaba" trong thời đại hôm nay, bằng cách
sống Tin Mừng và chia sẻ Lời Chúa với những người xung quanh.
3. Gợi ý chia sẻ:
Bạn có thể chia sẻ về một lần bạn đã can đảm chia sẻ Tin Mừng với người
khác.
Bạn có thể đề xuất những cách thức để mỗi người có thể tham gia vào sứ mạng
loan báo Tin Mừng trong cộng đoàn.
Bạn có thể cùng nhau cầu nguyện cho các thừa sai và những người hăng say
loan báo Tin Mừng trên khắp thế giới.
4. Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, con cảm ơn Chúa đã ban cho Hội thánh Thánh Barnaba, một
tông đồ hăng say loan báo Tin Mừng. Xin Chúa ban cho con lòng nhiệt huyết như
Thánh Barnaba, để con can đảm sống Tin Mừng và chia sẻ Lời Chúa với mọi người.
Xin Chúa cũng ban cho các thừa sai và những người hăng say loan báo Tin Mừng
trên khắp thế giới sức mạnh và ơn thánh để họ có thể hoàn thành tốt sứ mạng của
mình. Amen.
Kết thúc:
Lễ kính Thánh Barnaba Tông Đồ là dịp để mỗi người Kitô hữu noi gương ngài
trong việc hăng say loan báo Tin Mừng. Hãy cùng nhau cầu nguyện cho nhau và cho
sứ mạng loan báo Tin Mừng trên khắp thế giới. (Gemini-IT soạn).
Thứ năm: Mt 5, 20-26
Giết người thì ở đâu và thời nào cũng là tội nặng, vì Chúa mới là chủ sự
sống, đó là công lý. Lời Chúa dạy bảo trong bài Tin Mừng hôm nay còn vượt trên
công lý nữa. Công lý hay luật pháp chỉ buộc tội khi một người phạm tội bằng
hành vi cụ thể. Còn Chúa thì đi xa hơn, Ngài ngăn chặng ngay từ nguyên nhân,
nguồn gốc đưa đến hành động giết người.
Vì thế, “ai giận anh em mình thì đáng bị tòa xét xử, ai mắng chửi
anh em là đồ ngốc thì sẽ bị lên án trước công nghị và ai mắng chửi anh em mình
là khùng thì đáng lửa trầm luân”.
Đúng như Lời Chúa nói:
- Giận dỗi chính là nguyên nhân đưa đến tội giết người. Vì khi ta giận ai
là ta muốn cho người đó khuất mắt ta; ta không muốn người đó hiện diện trên cõi
đời này nữa. Cho nên giận như vậy thì chẳng khác nào giết người không dao.
- Cũng thế, khi ta mắng chửi anh em là đồ ngốc là khùng thì chẳng khác nào
ta xem thường anh em mình, để rồi hạ thấp họ xuống hàng con vật, không đáng là
người nữa. Hành vi như thế là chiếm đoạt quyền phán xét của Thiên Chúa, nên
đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt.
Như vậy, để khỏi bị Thiên Chúa luận phạt và kết án, Chúng ta phải có lòng
quảng đại tha thứ. Tha thứ là biểu hiện tấm lòng tôn vinh Thiên Chúa một cách
xứng đáng: "Nếu ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ anh
em đang có điều bất bình với ngươi, hãy đặt của lễ trước bàn thờ, đi làm hoà
với người anh em trước, rồi hãy đến mà dâng của lễ." Tha thứ là
chất liệu tốt nhất để hàn gắn lại những vết thương lòng đang bị rạn nứt. Tha
thứ cũng là cách thế hữu hiệu nhất để ta bắt đầu lại mối tương quan tốt đẹp với
anh em mình.
Xin Chúa cho chúng ta biết giữ tâm hồn và môi miệng cẩn trọng để khỏi sa
vào tội giết người không gươm và giúp chúng ta luôn biết quảng đại tha thứ cho
nhau, như Chúa đã từng bao dung tha thứ cho chúng ta. Amen.
Thứ sáu: 2Cr 4,7-15; Mt 5,27-32
Nhớ Thánh An-tôn Pa-đô-va, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh.
Suy niệm 1:
Lễ Kính Thánh Antôn Padua là dịp để chúng ta suy niệm về cuộc đời và sứ
mạng của ngài, đồng thời noi gương ngài sống mến Chúa và yêu người.
a. Mến Chúa:
Thánh Antôn Padua có lòng mến Chúa nồng nàn. Ngài say mê Lời Chúa và dành
nhiều thời gian để cầu nguyện. Ngài cũng nhiệt tình truyền bá Tin Mừng cho mọi
người.
b. Yêu người:
Thánh Antôn Padua có lòng yêu người cao cả. Ngài quan tâm đến những người
nghèo khổ, bệnh tật và gặp khó khăn. Ngài luôn sẵn sàng giúp đỡ họ cả về vật
chất lẫn tinh thần.
c. Noi gương Thánh Antôn Padua:
Để noi gương Thánh Antôn Padua, chúng ta cần:
· Mỗi ngày dành thời gian cầu nguyện và đọc Lời Chúa.
· Tham gia vào các hoạt động bác ái xã hội để giúp đỡ người
nghèo khổ, bệnh tật và gặp khó khăn.
· Sống bác ái, yêu thương mọi người bằng lời nói và việc làm.
3. Lời cầu nguyện:
Lạy Thánh Antôn Padua, xin ngài cầu cho chúng con biết noi gương ngài mến
Chúa và yêu người. Xin ngài giúp chúng con luôn nhiệt tình truyền bá Tin Mừng
và sống bác ái với mọi người. Amen.
4. Gợi ý thêm:
· Có thể tham khảo thêm tiểu sử và các câu chuyện về cuộc đời
của Thánh Antôn Padua.
· Có thể chia sẻ về những kinh nghiệm bản thân trong việc noi gương
Thánh Antôn Padua.
· Có thể cầu nguyện cho những người đang gặp khó khăn trong cuộc
sống.
Lời kết:
Lễ Kính Thánh Antôn Padua là lời mời gọi mỗi người chúng ta sống mến Chúa
và yêu người. Hãy noi gương Thánh Antôn Padua để góp phần xây dựng một xã hội
bác ái và yêu thương. (Gemini-IT soạn)
Suy niệm 2:
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Kính Thánh Antôn Padua, một
vị thánh rất gần gũi và quen thuộc với cuộc sống của chúng ta. Ngài được biết
đến như là "vị thánh của những điều không thể", "vị thánh giảng
thuyết", "vị thánh của người nghèo", và "vị thánh tìm lại
những gì bị mất".
Đôi nét về cuộc đời Thánh Antôn Padua:
* Sinh năm 1195 tại Lisbon, Bồ Đào Nha.
* Gia nhập dòng Phanxicô khi còn rất trẻ.
* Là một nhà giảng thuyết tài ba, thu hút nhiều người
đến nghe ngài giảng đạo.
* Chuyến du hành truyền giáo của ngài trải dài khắp
châu Âu, mang lại nhiều hoa trái thiêng liêng cho Giáo hội.
* Mất năm 1231 tại Padua, Ý.
* Được Giáo hội phong thánh vào năm 1232.
Bài học từ cuộc đời Thánh Antôn Padua:
1. Niềm tin vào Thiên Chúa: Thánh Antôn Padua có
một niềm tin mãnh liệt vào Thiên Chúa. Ngài luôn đặt niềm tin của mình vào sự
quan phòng của Thiên Chúa và tin rằng Thiên Chúa có thể thực hiện mọi điều
không thể.
2. Lòng yêu mến: Thánh Antôn Padua có một
lòng yêu mến lớn đối với Chúa Giêsu Kitô và đối với mọi người. Ngài đã dành cả
cuộc đời mình để rao giảng Tin Mừng và giúp đỡ những người nghèo khổ.
3. Sự khiêm nhường: Thánh Antôn Padua là một
người rất khiêm nhường. Ngài không bao giờ khoe khoang về những thành tựu của
mình và luôn luôn sẵn sàng phục vụ người khác.
4. Sự cầu nguyện: Thánh Antôn Padua là một
người cầu nguyện rất nhiều. Ngài tin rằng cầu nguyện là một cách mạnh mẽ để kết
nối với Thiên Chúa và xin được ơn soi sáng và sức mạnh.
* Lời kết:
Thánh Antôn Padua là một tấm gương sáng cho chúng ta
noi theo. Chúng ta hãy noi theo ngài trong việc sống một đời sống tin kính, yêu
mến, khiêm nhường và cầu nguyện.
* Lời cầu nguyện:
Lạy thánh Antôn Padua, xin ngài cầu bầu cho chúng con biết noi theo gương
mẫu bác ái và lòng yêu mến của ngài. Xin ngài giúp chúng con luôn tin tưởng vào
Thiên Chúa và biết yêu thương mọi người xung quanh. Xin ngài cầu cho những ai
đang gặp khó khăn được Chúa an ủi và nâng đỡ. Amen. (Gemini-IT)
Suy niệm 3:
Hôm nay, cùng với Giáo Hội chúng
ta mừng lễ Thánh Antôn Pađua. Tên thật của Ngài là Fernando. Ngài sinh ngày 15
tháng 8 năm 1195 tại Lisbone thủ đô nước Bồ Đào Nha. Cha mẹ của Ngài là ông
Martinô và bà Maria rất đạo đức. Tròn 15 tuổi, Ngài gia nhập dòng Thánh
Augustinô và chịu chức linh mục ở đây. Tròn 25 tuổi, Ngài đổi sang dòng Thánh
Phanxicô năm 1220. Ngài được sai đi truyền giáo ở Marrốc và ước ao được phúc tử
đạo. Sau này, Ngài đi rao giảng khắp miền Tây nước Ý và miền Nam nước Pháp.
Ngài qua đời ngày 13 tháng 6 năm 1231, lúc mới tròn 36 tuổi. Ngài được Đức Giáo
Hoàng Grêgôriô X phong thánh vào ngày 30 tháng 5 năm 1232. Vào năm 1946, Đức
Giáo Hoàng Piô XII đã tôn phong Ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh.
Mặc dầu Ngài là người Bồ Đào Nha
nhưng lại rất được người Việt Nam yêu mến. Vấn đề đặt ra là tại sao Thánh Antôn
lại thu hút mọi người như vậy? Có người cho rằng vì Ngài hay làm phép lạ (Nói
đúng hơn, nhờ lời chuyển cầu của Ngài nên Chúa làm nhiều phép lạ). Đúng, nhưng
vì sao Ngài lại làm phép lạ? Kinh Ông Thánh Antôn cho chúng ta biết rằng: “Để thông ơn phúc cho cả và thiên hạ, xưa ở đời này đầy lửa kính
mến Chúa, hằng ước ao cho danh cha cả sáng, cùng ái mộ phần rỗi nhân loại, nên
đã làm phép lạ cứu giúp muôn vàn người khỏi tai nạn phần hồn phần xác”
Như vậy, lý do Thánh Antôn hay
làm phép lạ đã rõ ràng: thứ nhất, để làm vinh danh Chúa; thứ hai, để cứu giúp
con người phần hồn phần xác. Ngài không những cứu giúp những việc lớn lao, mà
Ngài còn cứu giúp cả những việc nhỏ nhặt hằng ngày: “Hễ ai túng rỗi chạy đến cầu xin Người, bất luận việc lớn bé thế
nào, liền được ơn Người cứu giúp” (Lời kinh khẳng định)
Thông thường các thánh hay làm
phép lạ khi đã qua đời, còn Thánh Antôn không những làm phép lạ khi đã qua đời
mà Ngài còn làm phép lạ ngay cả khi còn sống.
Chuyện kể, khi còn niên thiếu:
“Một ngày mùa hè, cha Ngài sai Ngài canh giữ ruộng lúa mì khỏi chim phá. Bỗng
Antôn nhớ lại đã đến giờ đọc kinh tại nhà thờ mà Ngài không bao giờ bỏ. Ngài
liền gọi bầy chim sẻ lại và nhốt vào một cái lều lộ thiên, cấm không được bay
ra phá lúa. Rồi Ngài an tâm đi nhà thờ. Lúc trở về Ngài thấy bầy chim sẻ vẫn ở
trong lều và đồng lúa vẫn an toàn.”
Lần khác, “Antôn đang thinh lặng
cầu nguyện ở nhà thờ chìm trong bóng tối, Ngài cảm thấy bị cám dỗ mãnh liệt.
Không hề chần chừ, Ngài lấy ngón tay cái vẽ dấu Thánh giá trên bậc bàn thờ,
Thánh giá in sâu vào đá hoa. Thấy dấu này, quỷ trốn biệt và cơn cám dỗ tiêu
tan.”
Trong thời gian giảng thuyết,
Ngài cũng làm rất nhiều phép lạ, chẳng hạn như: Phép lạ cá nghe giảng; ngựa đói
chê cỏ để thờ lạy Thánh Thể; uống thuốc độc mà không hề hấn gì, ly vỡ lại lành…
Khi Ngài qua đời, tự nhiên các
đoàn trẻ la hét “cha chúng tôi đã qua đời,” mặc dầu họ không biết cái chết của
Thánh Antôn. Trong cuốn Assidua, đã thuật lại nhiều phép lạ của thánh Antôn,
nhất là ngay khi Ngài mới qua đời, cuốn sách viết: “Chỉ chạm tới mộ Ngài, bệnh
nhân liền vui sướng cảm thấy mọi bệnh tật tan biến. Những ai không tới gần mộ
được, thì lúc trở về ngang nhà nguyện cũng được chữa lành bệnh. Nơi đó, nhiều
người điếc được nghe, mù được thấy, què được nhảy nhót như dê con; cũng nơi đó
lưỡi nhiều người câm được mở ra, cất tiếng ca ngợi Chúa. Chi thể tê liệt được
hồi phục, đi lại bình thường. Những chứng bệnh như còng lưng, thống phong, sốt
rét cũng như tất cả các bệnh khác đều được chữa lành cách lạ lùng. Tóm lại, từ
nhiều nơi trên trần gian đến đây, người ta đều xin được như ý mong ước.”
Đặc biệt trong ngày lễ phong
thánh, không ai biết chuyện gì đã xảy ra, thế mà dân chúng tuôn ra đường phố
vừa ca hát, vừa nhảy múa, chuông trong thị trấn bắt đầu rung vang, dầu không ai
động tới, và tất cả mọi người đều hoan hỷ vui sướng như ngày lễ hội. Ít hôm
sau, một vài anh em từ Ý tới loan tin chính là hôm đó Antôn được phong thánh.
Tính từ khi thánh nhân qua đời
cho tới khi phong thánh có 47 phép lạ được Giáo Hội công nhận. Từ đó tới nay,
thánh Antôn vẫn làm phép lạ đây đó trên thế giới. Có người được khỏi bệnh, có
người tìm được của cải đã mất, có người thi cử đỗ đạt, nhiều người được ơn ăn
năn trở lại qua Bí tích Giao hòa…Chứng tỏ Chúa vẫn nhận lời Thánh Antôn. Nhưng
cũng có người phàn nàn là xin mãi mà chẳng được?
Thánh Giacôbê trả lời rằng: “Anh em xin mà không được là vì anh em xin với tà ý” (Gc
4, 2-3). Còn Thánh Augustinô thì nói: xin không được là do tâm hồn không tốt;
hoặc do cách cầu nguyện xấu; cũng có thể là do xin điều xấu nên không được Chúa
nhận lời. Vì thế, nhiều khi chúng ta cũng phải xem xét nội dung và cách cầu
nguyện của chúng ta.
Mừng lễ Thánh Antôn hôm nay,
chúng ta không chỉ nhờ ngài xin ơn, mà còn phải học nhân đức của Ngài như:
khiêm nhường; thăng tiến trên đường nhân đức; siêng năng đọc, suy gẫm và truyền
đạt Lời Chúa; mến Chúa và yêu người.
Trong lời nguyện nhập lễ hôm nay
cho chúng ta biết: Ngài không những là nhà giảng thuyết lừng danh mà còn là
người cứu giúp những ai nghèo khổ.
Sống trong một xã hội đầy dẫy
những bất công như hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa nhờ lời chuyển cầu của Thánh
Antôn làm cho chúng ta trở thành những Antôn của thời đại, để đem yêu thương
xóa tan bất công, nghèo khó, yêu người không chỉ bằng lời nói mà còn bằng những
việc làm cụ thể, yêu người không chỉ yêu phần xác mà còn yêu cả phần hồn nữa,
hầu nhờ đó xã hội này ngày một tốt đẹp hơn. Amen.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
* Mùa thường niên: Mt 5, 27-32
Chúa Giêsu tiếp tục kiện toàn giới luật một vợ một chồng.
Để tránh đi tình trạng đỗ vỡ trong đời sống hôn nhân, chẳng những Chúa
Giêsu cấm không được li dị mà Chúa còn ngăn chặn ngay cả nguyên nhân sâu xa đưa
đến tình trạng bất trung trong đời sống hôn nhân nữa. “Anh em đã
nghe Luật dạy rằng: chớ ngoại tình, còn Thầy, Thầy bảo cho anh em
biết : ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn thì trong lòng đã ngoại tình với
người ấy rồi…”(Mt 5: 27-28).
Như thế là dù chỉ thèm muốn trong lòng vợ hay chồng của người khác thì
đã phạm tội ngoại tình trong tư tưởng rồi; vì trong lòng đã nuôi dưỡng ước muốn
sai trái. Từ đó sẽ dễ dẫn đến hành động phản bội tình nghĩa vợ chồng.
Có thể nói mọi tội lỗi con người phạm, đều xuất phát từ trong lòng. Do đó,
muốn tránh tội thì phải dứt khoát từ bỏ ước muốn bất chính ngay trong lòng.
Nhưng để tránh được ước muốn bất chính trong lòng, chúng ta cần phải giữ gìn
đôi mắt. Đôi mắt là của sổ tâm hồn nên mọi điều tốt xấu muốn vào được căn nhà
tâm hồn đều phải qua cửa sổ của đôi mắt.
E-va chính vì đã không gìn giữ được đôi mắt nên đã hướng cái nhìn về trái
cấm và đã nuôi dưỡng trong lòng sự thèm muốn. Từ ước muốn ấy bà đã cả lòng
đưa tay hái trái cấm ăn, dầu biết rằng hành động ấy là phạm tội bất trung với
Chúa.
Ða-vít cũng vì không giữ được đôi mắt nên đắm đuối nhìn người phụ nữ khỏa
thân và có ước muốn khoái lạc. Từ đó đưa đến những hành vi tội ác:
ngoại tình và giết người giấu tay.
Lạy chúa xin giúp chúng con biết gìn giữ đôi mắt luôn có cái nhìn trong
sáng và can đảm dứt bỏ những nguyên nhân làm cớ chúng con lỗi đức trong sạch,
cho dù đó là một phần của cơ thể như: là mắt, là tay... bởi vì Chúa đã phán:
"thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hỏa
ngục".
Thứ bảy: Mt 5,33-37
Trong cuộc sống, ta thường nghe được những luồng thông tin khác nhau về một
sự kiện nào đó xảy ra trong xã hội, cũng như trong Giáo Hội. Có những thông tin
chính thống cần tin theo. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi, phe nhóm và thế lực
của mình cũng không ít những thông tin sai lạc, ta cần phải dè chừng.
Hằng ngày trên báo chí, truyền thanh, truyền hình ta bắt gặp rất nhiều
thông tin quảng cáo nhằm thu hút khách hàng và lợi nhuận. Bên cạnh
những thông tin thật cũng có nhiều thông tin không thật. Sống trong một xã
hội mà phải liên tục đề phòng hàng giả, người giả, thông tin giả thật là bất
an.
Chắc chắc ai trong chúng ta cũng không muốn điều ấy xảy ra. Nhưng rồi chính
cuộc sống chúng ta cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Nhiều lần vì sợ, vì tham, vì bị
mua chuộc… ta lại chấp nhận im lặng hay từ chối làm chứng cho chân lý. Lắm khi
vì ham mê tiền bạc, chức quyền… ta cũng sẵn sàng chối bỏ niềm tin cách dễ dàng.
Chúa Giêsu xác định:“Tôi sinh ra và đến trong thế
gian này là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về
phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37). Do đó để thuộc
về Chúa chúng ta cần phải sống và làm chứng cho sự thật, vì sự thật mới giải
phóng chúng ta khỏi những ràn buột của gian dối và bóng tối của sự dữ. "Sự
thật sẽ giải phóng các ông." (Ga 8, 32) Vì thế, "hể có thì
nói có, không thì phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ".
Xin cho chúng ta biết vâng nghe lời Chúa, luôn can đảm nói và làm theo sự
thật, để chúng ta khỏi sa vào cạm bẫy của ma quỷ. Nhờ đó cuộc sống mới được an
vui, hạnh phúc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét