Thứ Sáu, 10 tháng 10, 2025

 SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXVIII THƯỜNG NIÊN

Lm. Nguyệt Giang

CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN-NĂM C

2V5,14-17; 2Tm 2,8-13; Lc 17,11-19

Suy niệm 1: LÒNG BIẾT ƠN MỞ RA ƠN CỨU ĐỘ

Có một câu nói quen thuộc: “Người vô ơn là người đánh mất chính mình.” Thật vậy, lòng biết ơn là một trong những nét đẹp cao quý nhất của con người. Càng ý thức mình nhận lãnh nhiều, ta càng biết khiêm tốn và tạ ơn Đấng ban cho. Phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tất cả những ơn lành Chúa ban, để từ đó sống tâm tình tạ ơn như người phong hủi ngoại giáo được Chúa Giêsu chữa lành.

Bài đọc I: Sách Các Vua quyển thứ hai trình thuật lại thái độ của Naaman biết ơn Thiên Chúa

Naaman, một tướng lãnh ngoại giáo người Syria, được tiên tri Êlisê chữa khỏi bệnh phong. Ông không chỉ được khỏi bệnh phần xác, mà còn được ơn nhận biết Thiên Chúa của Israel là Thiên Chúa duy nhất.

Ông bày tỏ lòng biết ơn bằng cách dâng lễ vật và xin được mang đất Israel về quê để tiếp tục thờ phượng Thiên Chúa. Lòng biết ơn chân thành luôn đưa con người đến niềm tin và sự thờ phượng đúng đắn.

Bài đọc II: Trích thư thứ hai của Thánh Phaolo tôn đồ gửi ông Timôthê, ngài nhắc nhở người môn đệ Timôthê là hãy trung thành và biết ơn về ơn cứu độ

Thánh Phaolô mời gọi Timôthê hãy nhớ đến Đức Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết. Đó là ân ban cao cả nhất, nguồn gốc mọi ơn lành. Phaolô dù đang bị xiềng xích, vẫn cảm thấy hạnh phúc vì được chia sẻ Tin Mừng. Ngài xác tín: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người.” Biết ơn về ơn cứu độ chính là sống trung thành và can đảm làm chứng cho Chúa, dù trong gian khổ.

Bài Tin Mừng: Thánh Luca trình thuật lại phép lạ Chúa Giêsu chữa lành cho 10 người phong, nhưng chỉ có ngưới cùi Samaria trở lại tạ ơn Người.

Mười người phong cùi được Chúa Giêsu chữa lành, nhưng chỉ một người ngoại bang Samaria trở lại tôn vinh Thiên Chúa và tạ ơn. Chúa Giêsu hỏi: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Còn chín người kia đâu?” Người Samaria được Chúa ban thêm ơn: “Lòng tin của con đã cứu chữa con.” Lòng biết ơn đã mở ra cho anh không chỉ ơn lành thể xác, mà cả ơn cứu độ linh hồn.

Cả ba bài đọc đều quy về một chủ đề duy nhất: Tạ ơn phát sinh từ lòng tin, và lòng tin được nuôi dưỡng bằng tạ ơn.

- Naaman tạ ơn vì được khỏi bệnh, và đức tin của ông bừng sáng.

- Thánh Phaolô tạ ơn giữa tù ngục, nhờ đó Tin Mừng vẫn lan toả.

- Người Samaria tạ ơn, nên được đức tin cứu độ.

Ngược lại, chín người Do Thái, tuy được lành bệnh lại mất ơn lớn hơn, vì họ thiếu lòng biết ơn.

Tuy Chúa không cần lời cảm tạ cho riêng mình, nhưng vì chính chúng ta cần tạ ơn để trưởng thành trong đức tin. Như lời Kinh Nguyện Thánh Thể IV nói: “Chúa chẳng cần chúng con ca tụng, nhưng việc chúng con cảm tạ Chúa lại là một hồng ân Chúa ban, vì những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ.”

- Tạ ơn Chúa trong Thánh lễ: Thánh lễ chính là Lễ Tạ Ơn-lời tạ ơn cao cả nhất mà Giáo Hội dâng lên Chúa Cha nhờ Đức Kitô. Siêng năng tham dự Thánh lễ là cách sống tâm tình biết ơn đẹp nhất.

- Tạ ơn trong đời sống thường ngày: Nhận ra mọi sự-từ sức khỏe, gia đình, công việc, cho đến những thử thách – đều là ơn Chúa ban, và biết dùng chúng để sinh ích cho mình và tha nhân.

- Tạ ơn qua hành động bác ái và phục vụ: Tình yêu đáp trả tình yêu. Biết ơn Chúa không chỉ bằng lời nói, nhưng bằng đời sống yêu thương, chia sẻ, giúp đỡ người khác.

Anh chị em thân mến,

Naaman, thánh Phaolô và người phong cùi Samaria đều nhận ra một chân lý: Ai biết tạ ơn, người ấy được cứu.

Xin Chúa cho chúng ta luôn biết nhận ra ân ban Chúa trong từng ngày sống, để dâng lên Người lời cảm tạ chân thành, và sống xứng đáng với ân huệ cứu độ mà ta đã lãnh nhận.

Để kết thúc, chúng ta hãy hiệp với Mẹ Maria dâng lên Chúa tâm tình tạ ơn của mỗi người chúng ta bằng lời kinh “Magnificat”: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, vì Ngài đã làm cho tôi biết bao điều cao cả...” (Lc 1,46-49).

 

Suy niệm 2:

Người mắc bệnh cùi vào thời Chúa Giêsu phải chịu rất nhiều đau khổ.

Đau về thể xác:

Vi trùng Hansen dần dà ăn vào da thịt gây nên những vết lỡ loét khắp cơ thể rất khó chịu vì hôi thối.

Gân cốt của tay chân thường bị co vấp lại, không còn khả năng làm việc như người bình thường.

Do không có thuốc đặc trị nên họ phải thường xuyên đối mặt với những cơn đau nhức khiến cơ thể họ bị suy nhược vì ăn không ngon, ngủ không yên…

Khổ về tâm hồn:

Quan niệm của người Do Thái thời bấy giờ cho rằng bệnh là do tội lỗi lỗi gây nên. Cùi là chứng bệnh nan y, dấu hiệu này chứng tỏ tội của người cùi phải rất nặng.

Người cùi luôn bị mọi người xem thường, khinh bỉ và xa lánh vì sợ lây uế. Người cùi phải sống tách biệt với cộng đồng và bị xã hội đẩy ra bên lề cuộc sống.

Người bị bệnh cùi luôn phải sống nhờ người khác nên bị xem là thành phần ăn bám xã hội. Thật chua xót!

Sự kiện Thầy Giêsu chữa lành cho 10 người cùi mà tin mừng hôm nay trình thuật nói lên nhiều điều:

- Thầy Giêsu chính là Thiên Chúa quyền năng và giàu lòng thương xót.

- Việc Chúa Giêsu chữa lành bệnh cùi, đồng nghĩa với việc Chúa phục hồi phẩm giá làm người cho họ; trả lại cho họ tình trạng tốt đẹp thuở ban đầu mà Chúa đã tác tạo.

- Việc Chúa Giêsu chữa lành bệnh cùi cũng chính là lời mời gọi mọi người hãy mở rộng vòng tay đón nhận nhau trong tình nghĩa anh em, cho dù họ là ai.

- Việc Chúa Giêsu chữa lành bệnh cùi còn là mời gọi tha thiết đối với những ai đang phải mang nặng những nỗi đau về thể xác hay những vết thương nơi tâm hồn hãy mạnh dạn đến với Chúa Giêsu để kêu xin ơn cứu chữa của Ngài: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi”.

* Có lẽ chúng ta không mắc phải bệnh cùi về thể lý vì ngày nay đã có thuốc đặc trị. Nhưng rất có thể chúng ta lại mắc phải bệnh cùi về tâm linh.

- Cùi tâm linh là khi chúng ta vô ơn đối với Thiên Chúa. Sống xa cách Chúa, không quan tâm đến thánh lễ Chúa nhật, không còn biết cám ơn Chúa qua giờ kinh sáng-tối nơi gia đình, không để tâm học hỏi Thánh kinh và giáo lý….

- Cùi tâm linh là khi chúng ta tự tách rời khỏi anh em trong các sinh hoạt của họ đạo. Có thể vì mặc cảm hay vì tự cao mà ta sống cu-ki một mình, không còn khả năng hòa nhập với cộng đoàn họ đạo.

- Cùi tâm linh là khi chúng ta vô tâm, thờ ơ, dửng dưng, ích kỷ, tư lợi mà không biết chạnh lòng thương trước nỗi đau của người khác… Những thứ đó chính là triệu chứng bệnh cùi tâm linh rất nguy hiểm. Vậy mỗi người chúng ta hãy ý thức về bệnh cùi tâm linh của mình và xin Chúa cứu chữa.

Xin Chúa cho chúng con biết khiêm tốn nhận ra bệnh tình nguy hiểm mà ta đang mang trong người. Và xin Chúa thương cứu chữa cho lành sạch: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!”.


 Suy niệm 3:

Tất cả những gì chúng ta “có” chúng ta “là” đều do ân ban của Chúa. Nên thái độ xứng hợp của chúng ta là phải biết tạ ơn Chúa, tri ân nhau và cám ơn đời. Cám ơn là cách chúng ta nhận thêm ơn. Xin cho chúng ta luôn ý thức về những ơn ban cao quý của Chúa mà sử dụng cho thật tốt hầu mang lại nhiều lợi ích cho mình cho người... Đó chính là sứ điệp quan trọng mà phụng vụ lời Chúa muốn nói với chúng ta.

Có thể nói lòng biết ơn là một trong những tình cảm cao quý nhất của đời sống con người. Vì thế mà lòng biết ơn luôn được cha ông chúng ta trân trọng và đề cao ngay trong.lãnh vực đạo hiếu. Không thiếu những câu ca dao tục ngữ nói về lòng biết ơn: “ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn; công cha nặng lắm ai ơi, nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang…”. 

Khi Đức Giêsu đến trần gian, một trong những tấm gương quan trọng mà Ngài để lại cho nhân loại đó chính là tâm tình tạ ơn. Ngài tạ ơn Thiên Chúa Cha trước khi phục sinh Ladarô. Tạ ơn Thiên Chúa Cha trước khi hoá bánh ra nhiều. Tạ ơn Thiên Chúa Cha khi lập Bí tích Thánh Thể. Cả cuộc đời của Đức Giêsu luôn là lời kinh tạ ơn. Vì thế Ngài muốn chúng ta cũng phải biết sống tâm tình tạ ơn. 

Bằng chứng là tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cảm thấy đau buồn trước sự vô ơn của 9 người Do Thái có đạo, khi đặt ra những câu hỏi liên tiếp: "Không phải tất cả mọi người đều được lành sạch cả sao ? Còn chín người kia đâu ?" Không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?

Sở dĩ Đức Giêsu rất coi trọng lòng biết ơn chỉ vì ích lợi cho chúng ta. Người Samaria đã trở lại tạ ơn Chúa sau khi được ơn chữa lành phần xác, thì liền ngay đó Chúa lại ban thêm ơn đức tin cho anh ta khi Chúa nói: “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của con đã cứu chữa con”(Lc 17,19). Như thế, cám ơn chính là cơ hội để nhận thêm ơn cho những ai biết cám ơn.

Trong lời tiền tụng chung thứ IV sách lễ Roma GH ý thức chúng ta điều đó: “Việc tạ ơn chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng mang lại ơn cứu độ cho chúng ta”. 

Vậy mà trong thực tế lại có rất ít người biết ơn Chúa. Những trang tin mừng minh chứng điều đó: khi Đức Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho bao ngàn người ăn no nê dư đầy, vậy mà khi Chúa vác Thánh giá lên đồi Canvê té ngã nhiều lần, chỉ có một người đứng ra vác đỡ Thánh giá Chúa, đó lại là ông Ximong thành Kyrênê, ngoại giáo.

Suốt 3 năm Đức Giêsu rao giảng tin mừng ban bao nhiêu là lời chân lý có sức cứu độ, cũng như kèm theo rất nhiều phép lạ nhằm thi ân giáng phúc cho nhiều người. Vậy mà khi Chúa vừa tắt thở trên cây Thánh Giá, thì chỉ có một người lớn tiếng tuyên xưng đức tin: “Đúng ông này là Con Thiên Chúa” (Mt 27,54). Mà người đó lại là viên sĩ quan ngoại giáo. Thử hỏi những người thụ ơn Chúa ở đâu cả rồi, sao không thấy ai đến dâng lời tạ ơn Chúa; cũng chẳng thấy ai đứng ra bênh vực Chúa trong lúc Ngài chịu đau khổ? Thật đáng buồn!

Nói người lại nghĩ đến ta, rất có thể chính bản thân ta cũng chọn sống vô ơn như thế trước biết bao hồng ân của Chúa thương ban. Chúng ta được sinh ra và lớn lên, đều cần có sự trợ giúp từ người khác: Miếng cơm chúng ta ăn, manh áo chúng ta mặc đều có sự đóng góp công sức của nhiều người. Chúng ta có làm được ông này hay bà nọ cũng nhờ công ơn sinh thành của cha mẹ, công lao dạy dỗ của thầy cô. Tất cả những gì chúng ta đang hưởng dùng như tiền bạc, nhà cửa, tài năng, sức khỏe, thời giờ…đều là hồng ân Thiên Chúa ban tặng một cách gián tiếp qua nhiều người trong cuộc đời này. Hai tiếng cám ơn phát xuất từ tấm lòng chân thành sẽ nâng cao giá trị, nhân cách của con người chúng ta.

 Lòng biết ơn không chỉ qua loa trên môi miệng, mà trên hết phải được thể hiện ra bằng cả cuộc sống. Đức Giêsu không chỉ là mẫu mực về lòng biết ơn mà Ngài còn dạy chúng ta thể hiện lòng biết ơn ấy khi lập Bí tích Thánh Thể: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Kể từ đó Thánh lễ là lời tạ ơn cao cả và quý giá nhất. Bởi vì, Giáo hội cậy nhờ công nghiệp của Đức Giêsu mà tạ ơn Thiên Chúa Cha. Vậy chúng ta hãy siêng năng tham dự thánh lễ để tạ ơn Chúa theo ý muốn của Người.

 Mẹ Maria đã cảm nghiệm được lòng Chúa thương xót khi Mẹ cất lên lời kinh tạ ơn: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, vì Ngài đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,46-49). Và rồi Mẹ đã dành cả cuộc đời để tạ ơn Chúa.

Thánh Inhaxiô nói : “Tội lớn nhất là tội vô ơn”.

Chín người phong cùi Do thái không biết cám ơn, sau khi được khỏi bệnh thể xác. Còn Người phong cùi Samaria lại biết cám ơn, nên anh không những khỏi bệnh về phần xác mà anh ta còn được Chúa ban thêm ơn về phần hồn, khi tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa, là vị lương y cao cả đầy quyền năng giàu lòng thương xót và là Đấng cứu độ duy nhất.

Vậy để thể hiện lòng biết ơn Thiên Chúa, điều quan trọng nhất là biết siêng năng tham dự thánh lễ sốt sắng, vì thánh lễ còn được gọi một cái tên khác chính xác hơn đó là "Lễ Tạ Ơn". Lòng tạ ơn Chúa còn được thể hiện qua việc đặt trọn vẹn niềm tin tưởng vào quyền năng của Chúa và hằng biết cao rao tình thương của Người.

Vậy giờ đây xin mời cộng đoàn đứng để chúng ta cùng cất cao lời tạ ơn qua việc cao rao và tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa tình thương.


Suy niệm 4: SỐNG TÂM TÌNH TẠ ƠN

Có một câu chuyện nhỏ thế này: Một hôm, một cậu bé được bà ngoại cho kẹo. Cậu vui mừng chạy đi. Người mẹ liền nói: “Con quên nói gì rồi kìa!” Cậu bé quay lại nói to: “Ngoại ơi, cho con thêm cái nữa, con mới nói cảm ơn!”

Câu chuyện thật đơn giản nhưng phản ánh khá đúng tâm lý con người chúng ta: rất dễ xin ơn, nhưng lại chậm tạ ơn.

Hôm nay, Lời Chúa mời gọi chúng ta sống tâm tình biết ơn Thiên Chúa và tha nhân, bởi lẽ, suy cho cùng, tất cả những gì chúng ta “có” và “là” đều do hồng ân nhưng không của Thiên Chúa.

1. Bài đọc I: Biết ơn, con đường mở ra đức tin

Bài đọc I trích sách Các Vua quyển thứ hai kể chuyện Naaman, một vị tướng ngoại giáo mắc bệnh phong cùi. Theo lời ngôn sứ Êlisa, ông đã xuống tắm bảy lần trong sông Giođan và được khỏi bệnh. Khi được lành, ông trở lại gặp ngôn sứ, bày tỏ lòng biết ơn và tuyên xưng đức tin: “Không có Thiên Chúa nào khác trên khắp cõi đất ngoài Thiên Chúa của Israel.”

Điều đáng quý nơi Naaman là ông không chỉ nhận ơn mà còn nhận ra Đấng ban ơn.Chính lòng biết ơn ấy đã mở ra cho ông con đường dẫn đến đức tin: từ chỗ không biết Chúa, ông trở thành người tin thờ Thiên Chúa chân thật. Đó cũng là bước đầu tiên của đức tin khi biết nhìn nhận mọi sự là hồng ân.

2. Bài đọc II: Biết ơn trong trung thành và thử thách

Trong thư gửi môn đệ Timôthê, thánh Phaolô đang bị tù đày, nhưng vẫn nhắn nhủ: “Nếu ta cùng chết với Đức Kitô, ta sẽ cùng sống với Người; nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người.”

Giữa cảnh khổ đau, Phaolô vẫn tạ ơn Chúa bằng đời sống trung tín. Ngài cho thấy rằng tạ ơn không chỉ là khi được nhiều ơn lành, mà còn là khi biết tín thác và vững tin giữa gian nan thử thách. Tạ ơn như thế chính là tạ ơn trong mọi hoàn cảnh, vì tin rằng Thiên Chúa luôn yêu thương và đồng hành với chúng ta.

3. Tin Mừng: Biết ơn, con đường dẫn tới ơn cứu độ

Tin Mừng theo Thánh Luca kể chuyện Chúa Giêsu chữa lành mười người phong cùi. Tất cả đều được sạch, nhưng chỉ một người Samari ngoại giáo quay lại sấp mình tạ ơn. Chúa Giêsu hỏi: “Không phải cả mười người được sạch sao? Còn chín người kia đâu?”

Chúa không cần những lời cảm ơn, nhưng Ngài mong thấy tâm hồn biết nhận ra tình thương Thiên Chúa. Chín người kia được lành phần xác, nhưng chỉ người biết tạ ơn mới được chữa lành cả phần hồn, vì anh đã gặp được chính Chúa – nguồn ơn cứu độ.

Trong cuộc sống hôm nay, có lẽ chúng ta cũng giống như chín người phong kia: nhận ơn nhiều, nhưng ít khi dừng lại để tạ ơn Chúa và cảm ơn nhau.

- Mỗi sáng thức dậy, ta còn được sống, được thở, được yêu thương – đó là món quà vô giá. Hãy tạ ơn Chúa.

- Trong công việc, dù nhiều vất vả, nhưng Chúa vẫn ban cho ta sức mạnh để vượt qua. Hãy tạ ơn Chúa.

- Trong đau khổ, dù nước mắt có rơi, nhưng Chúa vẫn ở bên an ủi và đỡ nâng. Hãy tạ ơn Chúa.

- Và đừng quên cám ơn nhau: cám ơn cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè, cộng đoàn... vì không ai sống được mà không cần đến người khác.

Anh chị em thân mến,

Người biết tạ ơn là người nhận ra Chúa trong mọi sự. Chính tâm hồn ấy đem lại niềm vui và bình an đích thực cho người Kitô hữu.

Xin Chúa ban cho chúng ta một con tim biết dừng lại, biết nhận ra hồng ân và biết quay về để thưa với Chúa mỗi ngày: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa, vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.”

Nguyện xin cho đời sống của mỗi người chúng ta trở nên bài ca cảm tạ không ngừng, để trong mọi biến cố vui hay buồn, thành công hay thất bại, ta luôn biết nói như Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu: “Tạ ơn Chúa vì tất cả là hồng ân.”


Suy niệm 5: SỐNG TÂM TÌNH TẠ ƠN

Có một cậu bé nghèo đi bán hàng rong để kiếm tiền học. Một hôm, cậu chỉ còn vài xu lẻ trong túi và cảm thấy đói cồn cào. Cậu quyết định gõ cửa một ngôi nhà xin chút gì ăn. Người phụ nữ mở cửa, nhìn thấy cậu, liền mang ra một ly sữa to. Cậu bé uống một hơi hết sạch và hỏi:

- “Cháu nợ bác bao nhiêu ạ?”
Người phụ nữ mỉm cười:

- “Cháu không nợ gì cả, mẹ cháu đã dạy bác rằng không nên nhận tiền khi làm điều tốt.”

Cậu bé cúi đầu cảm ơn và ra đi. Nhiều năm sau, người phụ nữ ấy bị bệnh nặng, phải chuyển lên bệnh viện lớn. Khi bác sĩ trưởng khoa đến thăm, bà nhận ra đó chính là cậu bé năm xưa. Ông tận tình chữa trị cho bà. Khi bà xuất viện, hóa đơn viện phí được gửi đến phòng, trên góc tờ giấy có dòng chữ: “Đã thanh toán bằng một ly sữa và lòng biết ơn.”
Ký tên: Bác sĩ Howard Kelly.

Câu chuyện giản dị ấy cho chúng ta thấy: lòng biết ơn có sức chữa lành và lan tỏa yêu thương, không chỉ cho người nhận mà cả người cho đi.

Thưa anh chị em,

Thời nào cũng có những người biết ơn và cũng có những người không biết ơn. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhẹ nhàng hỏi người Sa-ma-ri được chữa lành: “Còn chín người kia đâu? Họ không được chữa lành sao?”

Câu hỏi ấy vừa như một lời nhắc nhở, vừa như một lời cảnh tỉnh chúng ta: đừng sống vong ân bội nghĩa, không chỉ với Thiên Chúa mà còn với tha nhân nữa.

Con người mang trong mình nhiều nỗi khổ: khổ vì bệnh tật, khổ vì nghèo túng, khổ vì tinh thần bất an, khổ vì cuộc đời nhiều thử thách. Thế nhưng, ân huệ của Thiên Chúa vẫn luôn tuôn đổ dạt dào trên chúng ta, chỉ là đôi khi ta không nhận ra. Có người trách Chúa sao để mình khổ, sao không ban ơn như ta mong. Nhưng chính trong những thử thách và đau khổ, Thiên Chúa đang âm thầm chữa lành tâm hồn ta, dạy ta biết tín thác và nhận ra tình yêu Ngài.

Những thánh nhân, những người công chính đều cảm nghiệm được điều đó. Họ hiểu rằng thử thách cũng là một ân huệ, là phương thuốc chữa lành căn bệnh “phong hủi tâm hồn” căn bệnh của ích kỷ, oán trách và vô ơn.

Mỗi giây phút trong đời sống, chúng ta đón nhận biết bao ân huệ Chúa ban: sự sống, gia đình, công việc, đức tin, và cả những người chung quanh. Vì thế, biết tạ ơn là bổn phận đầu tiên của người Kitô hữu.

Trong Tin Mừng, mười người phong cùi đều được chữa lành, nhưng chỉ một người Sa-ma-ri ngoại giáo quay trở lại sấp mình tạ ơn Chúa Giêsu. Chính người bị khinh thường ấy lại có tâm hồn biết ơn sâu sắc, còn chín người Do Thái kia – những người tưởng mình “thuộc về dân được chọn” lại vô tình vô ơn.

Người Sa-ma-ri ấy không chỉ được chữa lành thân xác, mà còn được chữa lành cả tâm hồn, vì biết nhìn nhận ơn Chúa và trở lại tôn vinh Ngài. Chúa Giêsu nói: “Lòng tin của anh đã cứu anh.”

Vì thế, tạ ơn không chỉ là lời nói, mà là một lối sống, là hành vi diễn tả đức tin và lòng khiêm tốn của người nhận ra rằng mọi sự mình có đều do Chúa ban.

Chúng ta cũng là những “người phong cùi trong tâm hồn”, những tội nhân được Thiên Chúa thương xót và chữa lành qua Bí tích Hòa Giải và Bí tích Thánh Thể. Mỗi lần chúng ta lãnh nhận ơn tha thứ, chính Chúa Giêsu đang chạm đến và phục hồi chúng ta bằng tình yêu của Ngài.

Vì thế, mỗi ngày chúng ta hãy sống tâm tình biết ơn:

- Biết tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh – khi vui cũng như lúc buồn.

- Biết cảm ơn tha nhân – những người âm thầm giúp đỡ, nâng đỡ ta trong cuộc sống.

- Biết sống quảng đại – để chính ta trở thành khí cụ đem niềm vui và ơn lành đến cho người khác

Tâm tình biết ơn của người Sa-ma-ri hôm nay là tấm gương soi chiếu cho mỗi người chúng ta. Hãy đừng tìm kiếm Thiên Chúa nơi những phép lạ lớn lao, nhưng hãy nhận ra Ngài trong những điều nhỏ bé mỗi ngày: một hơi thở bình an, một bữa cơm sum họp, một người bạn, một nụ cười, một lời tha thứ.

Xin cho chúng ta luôn biết tạ ơn Chúa, và để cuộc đời mình trở nên một bài ca tạ ơn sống động, dâng lên Thiên Chúa mỗi ngày, như lời Thánh Vịnh 118: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa, vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (Tv 118,1). (St).


Suy niệm 6: DÒNG NƯỚC ÂN SỦNG

- Ngày nọ, một con cá nhỏ bơi đến hỏi con cá lớn: Bác ơi, cháu nghe người ta nói nhiều về “nước”. “Nước” là gì thế ạ?

- Cá lớn mỉm cười hiền hậu: Con đang sống giữa nước đó thôi!

- Cá nhỏ ngạc nhiên: Vậy sao cháu không thấy?

Câu chuyện đơn sơ nhưng khiến ta suy nghĩ: Có những điều thật quý giá ta đang sống trong đó mỗi ngày, nhưng lại không nhận ra cho đến khi mất đi.

Ơn Chúa cũng thế: ta đang “bơi” trong dòng nước ân sủng của Ngài từng giây phút, hồng ân sự sống, đức tin, gia đình, công việc, bạn bè, hơi thở… Nhưng nhiều khi ta lại quên tạ ơn, vì tưởng rằng “mọi sự tự nhiên mà có và do mình làm nên.”

1. Bài đọc thứ nhất kể lại câu chuyện tướng Naaman, một người ngoại bang, người Syria, mắc bệnh phong hủi, căn bệnh quái ác không có thuốc chữa thời bấy giờ. Ông đã nghe lời tiên tri Êlisa, xuống tắm bảy lần trong sông Giođan, và được sạch.

Naaman không chỉ được lành bệnh, mà còn được sáng lòng. Ông nhận ra rằng chính Thiên Chúa Israel mới là nguồn mạch của mọi ơn lành. Vì thế, ông quay lại cảm tạ và tuyên xưng đức tin bằng cách xác quyết rằng: “Từ nay tôi sẽ không còn dâng hy lễ cho thần nào khác, ngoài Đức Chúa của Israel.”

- Như vậy, tạ ơn thật sự không chỉ là nói lời “cảm ơn”, mà là còn biết quay lại, nhận ra và dâng hiến. Người biết ơn là người dám thay đổi hướng sống: từ chỗ dựa vào bản thân đến chỗ đặt niềm tin vào Thiên Chúa, nguồn gốc mọi ân phúc.

2. Trong thư gửi môn đệ Timôthê, Thánh Phaolô đang bị tù đày, nhưng ngài không oán trách mà tạ ơn bằng lòng trung thành. Ngài nhắc Timôthê: “Hãy nhớ Đức Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết.” khẳng định: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người; nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người.”

- Điều đó giúp ta hiểu rằng: Tạ ơn không chỉ khi gặp may mắn, mà còn cả trong lúc gian nan thử thách. Biết tạ ơn trong đau khổ là dấu chỉ của một đức tin trưởng thành, vì ta nhận ra rằng ơn cứu độ không bao giờ mất, ngay cả khi ta có mất tất cả những thứ khác.

3. Thánh Luca thuật lại phép lạ Chúa Giêsu chữa lành mười người phong hủi. Cả mười đều được sạch, nhưng chỉ một người mà người đó lại là người Samaria, ngoại bang đã quay lại sấp mình dưới chân Chúa mà tạ ơn.

Người Samaria ấy trở lại, không chỉ bằng đôi chân, mà bằng cả tấm lòng. Và Chúa Giêsu nói với ông: “Lòng tin của anh đã cứu anh.” Mặc dù chín người kia được chữa lành thân xác, nhưng chỉ người biết tạ ơn mới được chữa lành tâm hồn.

- Như thế, tạ ơn không chỉ là phép lịch sự, mà trên hết là một hành vi đức tin: tin rằng những gì ta “có”, ta “là”, ta “làm” đều do ân ban của Thiên Chúa tình yêu.

Anh chị em thân mến,

Qua ba bài đọc hôm nay, ta nhận ra hành trình của người Kitô hữu chính là hành trình của lòng biết ơn:

- Nhận ra ơn Chúa như Naaman, vì ta đang “bơi giữa hồng ân”.

- Tạ ơn bằng lòng trung thành như Thánh Phaolô, dù gặp khổ đau vẫn tin vào ơn cứu độ của Chúa.

- Quay lại tạ ơn như người Samaria, để đón nhận được cứu độ cách trọn vẹn.

Biết ơn không làm ta nhỏ đi, nhưng khiến ta lớn lên trong nhân cách và đức tin. Người biết tạ ơn là người  biết chia sẻ, sống công bằng, yêu thương và dấn thân, vì họ hiểu rằng đời mình là quà tặng của Chúa, chứ không phải do công trạng mình lập nên.

Nếu con cá nhỏ trong câu chuyện trên biết mở mắt để nhận ra dòng nước bao quanh, thì chắc chắn nó sẽ hạnh phúc biết bao! Còn ta, những người được Chúa cho sống, thở, yêu thương, làm việc mỗi ngày...ta có nhận ra dòng nước ân sủng Chúa đang bao bọc đời mình không?

Xin Chúa giúp chúng ta:

- Biết nhận ra ơn Chúa trong từng biến cố lớn nhỏ trong đời sống hằng ngày.

- Biết tạ ơn Chúa và cám ơn nhau không chỉ bằng lời nói, mà bằng đời sống yêu thương và quảng đại.

- Nhất là, như người Samaria năm xưa, biết quay lại, sấp mình tôn vinh Thiên Chúa, để ta nghe được lời Chúa nói với mỗi người chúng ta rằng: “Lòng tin của con đã cứu con.”


* GIẢNG LỄ THIẾU NHI

Các em thân mến,

Có một lần, sau khi cô giáo chia kẹo cho cả lớp, chỉ có vài bạn biết nói “Con cám ơn cô”, còn nhiều bạn khác thì vội chạy đi ăn kẹo mà quên lời cảm ơn. Cô giáo không giận, nhưng cô thấy hơi buồn, vì cô hiểu: những bạn ấy chưa biết biết ơn.

Cũng giống như trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chữa lành cho mười người phong cùi. Nhưng chỉ có một người quay lại để tạ ơn Chúa. Và điều đặc biệt là người ấy không phải người Do Thái, mà là người Samari, người ngoại bang!

Chúa Giêsu đã buồn khi thấy chín người kia không trở lại. Người hỏi: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu?”

Các con thấy đó, Chúa Giêsu không cần ai phải tặng quà hay dâng lễ vật lớn, Chúa chỉ mong chúng ta có một tấm lòng biết ơn. Người vui khi ta nhớ đến ơn Người và nói lời cảm tạ bằng cả trái tim.

Các con ơi, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta nhận được rất nhiều ơn:

- Ơn của Chúa: ban cho ta làm người, làm con Chúa, ơn sự sống, có cha mẹ, có cơm ăn áo mặc, có trường lớp, có bạn bè, có sức khỏe...

- Ơn của cha mẹ: chăm sóc, lo lắng cho ta từng bữa ăn, giấc ngủ.

- Ơn của thầy cô: dạy dỗ ta nên người.

- Ơn của bạn bè: cùng chơi, cùng học, chia sẻ niềm vui nỗi buồn.

Vì thế, người biết sống theo ý Chúa là người biết ơn và biết tạ ơn trong mọi việc.

Chúng ta tạ ơn Chúa khi cầu nguyện mỗi sáng, mỗi tối, khi tham dự Thánh lễ, khi ăn cơm, hay khi được ai đó giúp đỡ.

Các con thân mến, tạ ơn Chúa không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng việc làm:

- Khi ta vâng lời cha mẹ, là ta tạ ơn Chúa.

- Khi ta chăm chỉ học hành, là ta tạ ơn Chúa.

- Khi ta giúp đỡ bạn bè, là ta tạ ơn Chúa.

- Khi ta đến nhà thờ tham dự Thánh lễ, là ta dâng lên Chúa lòng biết ơn.

Hãy nhớ: Người Samari được Chúa khen là người có lòng tin, vì anh không quên quay lại cảm ơn. Còn chúng ta, nếu biết tạ ơn mỗi ngày, Chúa cũng sẽ mỉm cười và chúc lành cho ta.

Các con thân mến,

Mỗi lần tham dự Thánh lễ, chúng ta đang sống lời tạ ơn Chúa,  vì “Thánh Thể” nghĩa là “Tạ ơn”.

Hôm nay, chúng ta cùng cầu xin Chúa Giêsu cho mỗi người biết nói lời “Cám ơn” thật nhiều:

- Cám ơn Chúa,

- Cám ơn cha mẹ,

- Cám ơn thầy cô,

- Cám ơn mọi người quanh ta.

Ai biết tạ ơn là người sống vui, sống đẹp và sống gần Chúa nhất!


Thứ hai: Lc 11, 29-32

Suy niệm 1:

Mặc dù được nghe rất nhiều lời giảng dạy và chứng kiến không ít những phép lạ Chúa Giêsu làm. Nhưng người Do Thái thời Chúa Giêsu vẫn cứng lòng, không ăn năn hoán cải. Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu quở trách họ rất nặng lời. Xin đừng để chúng ta đi vào vết xe cũ như người Do Thái xưa. Nhưng cho chúng ta biết khiêm tốn đón nhận Lời Chúa và Giáo Huấn của Giáo Hội chỉ dạy, mà hoán cải đời sống mỗi ngày nên tốt hơn.

"Người buồn cảnh có vui bao giờ". Việc thay đổi con người không hệ tại ở hình thức bên ngoài, nhưng trước hết là phải thay đổi tận cõi lòng, thay đổi não trạng và cái nhìn. Dù có chứng kiến bao là phép lạ, dù có vỗ tay ca ngợi không ít những lời hay ý đẹp của Chúa Giêsu, rốt cùng họ vẫn không tin.

Như hết cách, Chúa Giêsu đành phải thốt lên: “Thế hệ này là một thế hệ gian ác, chúng xin điềm lạ. nhưng chúng sẽ không thấy được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Gio-na.”

Như một cố gắng cuối cùng, Chúa Giêsu đã dùng lại hai câu chuyện ngày xưa, hy vọng họ suy nghĩ lại mà thay đổi não trạng.

- Nhắc lại chuyện Gio-na ngày xưa, nhằm lưu ý họ rằng: Ngày xưa chỉ lời rao giảng miễn cưỡng của Ngôn sứ Giona. Vậy mà cả thành Ninivê, từ vua đến dân, từ già đến trẻ, từ người đến súc vật đều ăn chay, sám hối và khẩn xin sự tha thứ của Chúa. Vậy mà hôm nay có Người còn hơn Giona. Đấng mà Giona loan báo đã đến và rao giảng, vậy mà họ lại không để tâm ăn năn hối cải. Thật đáng buồn!

- Nhắc lại câu chuyện nữ hoàng phương nam vượt đường xa vạn dặm, bất chấp khó khăn, tốn kém đến để diện kiến vị vua khôn ngoan là Salomon. Bà ta đã toại nguyện, hết lòng cảm phục về sự khôn ngoan của nhà vua. Nhưng ở đây còn trọng hơn vua Salomon nữa, vì Người chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và là vua trên hết các vị vua. Thế mà họ chẳng thèm nghe. Thật đau lòng!

Chính lòng tự mãn và mù quáng đã làm hỏng hết mọi ơn phúc, vì thế không còn cách nào để tự chữa mình được nữa.

Xin cho chúng ta đừng như thế hệ Do Thái xưa mù quáng và tự mãn, nhưng trở nên giống dân thành Ninivê và nữ hoàng phương nam mau mắn lắng nghe lời Chúa và quyết tâm ăn năn sám hối; cũng như biết khiêm tốn nhận mình còn nhiều khiếm khuyết, thiếu sót, tật xấu và tội lỗi, để theo sự khôn ngoan của Chúa hướng dẫn mà sửa đổi đời sống mỗi ngày nên tốt hơn.


Suy niệm 2:

Dân chúng thời Chúa Giêsu thường đòi Người cho xem “một dấu lạ” để tin. Họ mong một phép lạ ngoạn mục nào đó để củng cố niềm tin của mình. Nhưng Chúa Giêsu khước từ. Ngài nói rằng dấu lạ lớn nhất chính là bản thân Ngài, Con Thiên Chúa nhập thể, Đấng đang hiện diện giữa họ, giảng dạy, chữa lành, tha thứ và mang ơn cứu độ đến.

Thế nhưng họ lại không nhận ra dấu lạ ấy, vì con tim đã bị che phủ bởi sự kiêu ngạo, vô cảm và lòng tin nửa vời. Họ muốn thấy những điều lạ lùng, nhưng lại không chịu mở lòng đón nhận lời mời gọi hoán cải.

Chúa Giêsu nhắc đến dân thành Ninivê: khi nghe ông Giôna rao giảng, họ đã ăn năn sám hối. Còn “ở đây có Đấng cao trọng hơn Giôna”, nhưng dân Chúa lại không chịu trở về. Ngài cũng nhắc đến nữ hoàng phương Nam, người đã vượt đường xa đến nghe lời khôn ngoan của vua Salômôn, trong khi “ở đây còn hơn Salômôn nữa” mà họ vẫn dửng dưng.

Điều ấy cũng là lời cảnh tỉnh cho mỗi người chúng ta hôm nay. Biết bao dấu chỉ của tình yêu Chúa đang diễn ra giữa đời thường: trong Lời Chúa, trong các bí tích, trong anh chị em xung quanh..., nhưng nhiều khi ta không nhận ra, vì tim ta quá khép kín, hoặc vì ta mải mê chạy theo những “phép lạ” trần thế: thành công, tiền bạc, danh vọng…

Xin Chúa mở mắt tâm hồn ta để ta biết nhận ra những dấu chỉ của tình yêu Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Xin cho ta không đòi hỏi những phép lạ lớn lao, nhưng biết nhận ra phép lạ âm thầm trong từng khoảnh khắc, khi ta được tha thứ, được yêu thương, được sống và được mời gọi hoán cải. Và xin giúp ta trở nên một “dấu lạ” của Tin Mừng giữa đời, để người khác khi gặp con, cũng nhận ra Chúa đang hiện diện. Amen.

 

Thứ ba: Lc 11,37-41

Suy niệm 1:

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xác định lại tính sạch dơ phát xuất từ đâu? và đâu là sự dơ bẩn đáng sợ nhất trong đời sống?

Chúng ta đang sống trong một thế giới báo động đỏ về nạn ô nhiễm môi trường. Các nhà lãnh đạo tâm huyết của thế giới đã kêu gọi liên kết với nhau để nhằm tìm ra những giải pháp làm giảm đi nạn ngây ô nhiễm môi sinh.

Năm 2015, Đức cố giáo hoàng Phanxicô trong thông điệp Laudato-si đã cho thấy tác hại ghê gớm của nạn ô nhiễm môi trường và tha thiết kêu gọi mọi người chung tay bảo vệ ngôi nhà chung, nhằm để lại cho thế hệ mai sau một bầu không khí trong lành.

Tình trạng ô nhiễm bên ngoài tác động không nhỏ đến đời sống thể lý của con người cần phải thanh tẩy cho trong sạch nhằm bảo vệ sức khỏe và tính mạng con người.

Tuy nhiên vấn nạn ô nhiễm bên trong mới là điều đáng lo ngại. Chính ô nhiễm tâm hồn, ô nhiễm lối sống ích kỷ và tham lam đồng tiền đã đánh mất những giá trị sống lành mạnh. Từ đó đẩy con người đến chỗ không còn biết hành xử văn hóa nữa. Dẫn đến tình trạng vức rác bừa bãi, xả thải nước công nghiệp độc hại ra môi trường, sản xuất nông nghiệp độc hại vô tư; tình trạng thức ăn bẩn được rao bán tràn lan…dẫn đến biến đổi khí hậu, nước biển dâng và xâm ngập mặn và bệnh tật bùng phát làm cho đời sống người dân điêu đứng khốn cùng!

Chính vì thế trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác nhận cho những người Biệt phái và Luật sĩ hiểu rằng: Những gì xuất phát từ bên trong mới gây nên những điều xấu xa và nguy hại. Nếu tâm trí lành mạnh sẽ dẫn đến hành động tốt đẹp, ngược lại tâm trí đầy u tối và toan tính xấu xa sẽ đưa đến những việc làm đen tối gây nguy hại cho con người và cuộc sống. Do đó Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy ý thức trong việc thanh tẩy tâm hồn hơn là chú tâm vào việc tẩy rửa bên ngoài chén đĩa.

Khi nuôi dưỡng trong lòng những ý nghĩ tốt sẽ làm những điều lành và có ích cho mọi người. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết thanh tẩy tâm hồn khỏi những dơ bẩn của tính xấu và những vấn vương tội lỗi để chúng ta có những lời nói và hành vi tốt đẹp trong sáng chân thành dành cho Chúa và cho nhau trong đời sống.


Suy niệm 2:

Bữa ăn là nơi diễn ra cuộc gặp gỡ thân tình. Nhưng trong bữa ăn hôm nay, bầu khí ấy bị phá vỡ bởi cái nhìn xét đoán của người Pharisêu dành cho Chúa Giêsu. Ông ta ngạc nhiên, thậm chí khó chịu vì Chúa không rửa tay theo nghi thức truyền thống.

Chúa Giêsu nhân cơ hội này vạch trần lối sống giả hình: họ quá chú trọng hình thức bên ngoài mà quên đi tâm hồn bên trong. Họ chỉ quan tâm đến việc “rửa sạch chén đĩa bên ngoài ”, nhưng bên trong tâm hồn thì đầy những tham lam, gian ác, kiêu ngạo.

Ngài nhắc nhở rằng: sự thanh sạch thật đến từ tấm lòng, chứ không phải qua những nghi thức rửa tay, hay hình thức đạo đức bề ngoài. Thiên Chúa nhìn thấy nơi tâm hồn con người, nơi ấy cho dù người khác không thấy được.

Câu nói “hãy bố thí những gì ở bên trong” có thể hiểu là: hãy chia sẻ lòng thương xót, lòng nhân ái và tình yêu chân thành. Khi con người biết cho đi bằng cả tấm lòng, thì khi ấy lòng họ mới được thanh sạch.

Vậy tôi cũng cần thử hỏi xem:

- Tôi có đang sống đạo chỉ vì hình thức, vì sợ người khác chê cười, hay vì lòng yêu mến Chúa thật sự?

- Tôi có xét đoán người khác dựa trên vẻ bề ngoài mà không nhìn thấy tâm hồn họ không?

- Tôi có biết “rửa sạch bên trong” bằng việc hoán cải, tha thứ, và sống tình bác ái chân thành không?

Xin Chúa thanh tẩy tâm hồn ta, để ta biết sống chân thành, đơn sơ, không giả hình, không phô trương. Và cho ta biết “rửa sạch bên trong” tâm hồn bằng lòng yêu thương và nhân ái, để mọi việc ta làm đều xuất phát từ trái tim trong sạch để xứng đáng được Chúa thương nhìn nhận. Amen.

 

Thứ tư: Lc 11, 42-46

Nhớ Thánh Tê-rê-sa Giêsu, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh

Với những lời khiển trách của Chúa Giêsu dành cho những người Biệt phái và Tiến sĩ luật trong đoạn tin mừng hôm nay, giúp chúng ta nhận dạng ra những biểu hiện của lối sống giả hình:

- Tư lợi: Theo luật quy định thì: “Mỗi năm anh (em) phải trích một phần mười tất cả hoa lợi lấy từ những gì anh (em) gieo, những gì mọc lên ngoài đồng. Anh (em) sẽ dùng trước nhan Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ở nơi Người chọn cho Danh Người ngự…để mọi ngày anh (em) học cho biết kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em).” (Đnl 14, 22). Nhưng do quá tham lam tiền bạc nên giới Biệt phái và Luật sĩ đã đánh vào những loại thuế hơn những gì sách luật quy định như:“bạc hà, vân hương và các thứ rau”, từ đó làm mất đi ý nghĩa tôn giáo của bổn phận nộp thuế. Trong khi đó họ lại sao lãng “những điều quan trọng trong lề luật, là đức công bình, lòng yêu mến Thiên Chúa thì lại bỏ qua; lẽ ra phải làm những điều này và không được bỏ những điều kia.”.

- Hám danh: Những người Biệt phái và Luật sĩ rất hám danh nên lúc nào cũng muốn đặt mình vào vị trí cao trọng nhất “ưa thích ngồi ghế nhất trong hội đường và ưa thích được chào hỏi ngoài phố chợ.” Nhưng họ có biết đâu rằng: danh dự không do tự mình đặt lên mà là do người khác nhìn nhận và đặt để cho mình lên mới xứng hợp.

- Chuộng hình thức: Vì muốn che đậy tâm địa xấu xa và thối nát bên trong nên những người Biệt phái và Luật sĩ cố tình tạo ra bên ngoài một lớp vỏ đạo đức bằng cách: “họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài.” (Mt 23, 5). Nhưng những hành vi che đậy tinh vi ấy không thể nào qua được con mắt tinh tường của Chúa Giêsu. Vì thế, Ngài không ngần ngại dùng hình ảnh mồ mả để sánh ví lối sống chuộng hình thức của họ: “khốn cho các ngươi, vì các ngươi giống những mồ mả không rõ rệt, người ta bước đi ở trên mà không hay biết.”.

- Nói mà không làm: Lối sống này biểu hiện rất rõ nét nơi các Tiến sĩ luật. Theo truyền thống hội đường Do-thái thời Chúa Giêsu, các tiến sĩ luật đã đề ra đến 613 điều luật. 365 điều cấm làm và 248 điều phải làm. Giữa một rừng điều luật như thế thì ngay cả chính người thông luật còn bối rối huống chi là người dân. Nên có lần một người thông luật đã hỏi Đức Giêsu: “Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê ?” (Mt 22, 36). Chính vì quá nhiều luật lệ do các tiến sĩ luật đặt ra, vô hình chung đã trở nên gánh nặng chất chồng lên vai người dân. Trong khi đó, những tiến sĩ luật lại không hề thực hiện. Do đó, Chúa Giêsu đã không ngần ngại lên án họ rất nặng lời: “Hỡi những tiến sĩ luật, khốn cho các ngươi nữa, vì các ngươi chất lên người ta những gánh nặng không thể vác được, mà chính các ngươi dù một ngón tay cũng không động tới.”

Những lời quở trách của Chúa Giêsu dành cho những người Biệt phái và giới Luật sĩ khi xưa, âu cũng là lời nhắc nhở chúng ta hôm nay. Chúng ta hãy nghiêm túc xét mình, xem coi có những biểu hiện của lối sống giả hình như những người Biệt phái và Luật sĩ không? Nếu có, ta hãy khiêm tốn xin Chúa tha thứ mà can đảm chấn chỉnh lại đời sống sao cho phù hợp với ý muốn của Chúa.

 

Thứ năm: Lc 11,47-54

Suy niệm 1:

Tin mừng hôm nay tiếp tục ghi lại những lời khiển trách nặng nề của Chúa Giêsu dành cho những người Biệt phái và các Tiến sĩ luật về 2 vấn đề:

1. Gían tiếp giết hại sứ giả của Chúa.

Họ đã cộng tác cách gián tiếp với cha ông họ mà giết hại các tiên tri. Nếu họ đã nhận ra được sự sai lầm của các tổ phụ vì đã giết hại các Tiên Tri từ xưa đến nay mà ra công xây lại mồ mả cho các tiên tri như là một sự bù đắp, thì đáng lý giờ đây họ phải cương quyết không đi theo vết xe đổ ấy mới phải. Đàng này họ tiếp tục chống đối và khướt từ lời dạy của Đức Giêsu, một vị ngôn sứ tối cao đến từ Thiên Chúa.

2. Bẻ cong luật Chúa.

Những Tiến sĩ luật là những người thông thạo về thánh kinh và luật lệ. Họ có nhiệm vụ giải thích cho dân chúng hiểu biết và tuân giữ luật Chúa. Ấy thế mà họ cố tình bẻ cong luật Chúa để giải thích theo ý mình. Vì lợi ích nhóm nên họ đã tùy tiện đưa ra nhiều khoản luật theo hướng có lợi cho mình nhưng lại nên trở gánh nặng chồng chất trên vai dân chúng, khiến người dân rất hoang mang vì không thể phân biệt được đâu là điều chính, đâu là điều phụ nữa. Vì thế mà Chúa Giêsu đã không ngần ngại khiển trách họ rất nặng lời: "Các ngươi cất giữ chìa khóa sự hiểu biết. Chính các ngươi không được vào, mà những người muốn vào, các ngươi đã ngăn cản họ lại."

Xấu hổ và khó chịu vì bị Chúa Giêsu vạch mặt nên họ đã tìm mọi cách để loại trừ cái gai Giêsu ra khỏi con mắt họ. Và để hãm hại Chúa Giêsu, họ đã bày ra nhiều phương cách như: tăng bốc, đe dọa, hạ uy tín...ngay cả giăng bẫy để đưa Chúa Giêsu sa vào lưới của khung hình phạt nặng nhất mà tiêu diệt.

Chính lòng ghen tỵ và óc tự mãn đã làm cho cặp mắt của những người Biệt phái và Luật sĩ bị mờ đi. Họ không còn khả năng nhận ra ánh sáng chân lý nữa.

Ngày nay ngoài xã hội cũng như trong gia đình vẫn còn đó những bóng tối của kiêu căng, gian dối, tham lam, ích kỷ và hận thù...làm cho cuộc sống trở nên ngột ngạt khó thở. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết can đảm dẹp hãm bản thân để mưu cầu lợi ích và hạnh phúc cho tha nhân. Nhất là biết khiêm tốn đón nhận và sống theo ánh sáng chân lý của lời Chúa, nhờ đó mà ánh sáng của niềm vui Tin mừng được lan tỏa đến mọi nơi.

 

Thứ sáu:  Lc 12, 1-7 (Ga 15,1-8)

Suy niệm 1:

Tin Mừng hôm nay gồm 2 phần:

1. Phần thứ nhất: Chúa Giêsu lên án lối sống giả hình của nhóm Biệt Phái và lưu ý các môn đệ cũng như đám đông dân chúng hãy ý tứ giữ mình khỏi lây nhiễm thứ men giả hình ấy của Biệt Phái.

2. Phần thứ hai: Chúa mời gọi các môn đệ can đảm sống và làm chứng cho sự thật, đừng sợ! Chúa Giêsu đưa ra nhiều lý do để khuyến khích các môn đệ can đảm sống và làm chứng cho sự thật:

- Thứ nhất: “không có gì che đậy mà không bị tiết lộ ra, và không có gì dấu kín mà chẳng biết được”.

- Thứ hai: Tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa: “năm con chim sẻ không bán được hai đồng tiền sao? Thế mà không con nào bỏ bị quên trước mặt Thiên Chúa. Tóc trên đầu các con cũng được đếm cả rồi. Vậy các con đường sợ: các con còn trọng hơn nhiều con chim sẻ”.

- Thứ ba: Thiên Chúa là Đấng quyền năng, Ngài làm chủ sự sống chết của chúng ta. Do đó Người nhắc nhở chúng ta “đừng sợ chi những kẻ giết được thân xác, rồi sau đó không thể làm gì hơn được nữa”. Nhưng “hãy sợ Đấng, sau khi đã giết chết, còn có quyền ném vào địa ngục”.

Trong một xã hội có quá nhiều gian dối như ngày nay. Xin cho chúng ta biết can đảm dám sống sự thật về mình trước Chúa, người khác và lương tâm.

 

Suy niệm 2:

Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng cảnh cáo các môn đệ tránh xa men Biệt Phái. Bởi lẽ loại men này rất nguy hiểm và có sức mạnh lan tỏa rất ghê gớm nên cần đề phòng.

Vậy loại men ấy là men gì mà nguy hiểm thế, đến nỗi Chúa Giêsu phải cảnh tỉnh các môn đệ Ngài tránh xa?

Thưa men ấy là chính đời sống xấu xa, tội lỗi của họ.

Men của Biệt Phái chính là lòng kiêu căng, tự mãn và thói sống giả hình.

Loại men này có độc tố mạnh và lan tỏa rất nhanh. Trái lại có một thứ men rất bổ dưỡng và đem lại sức khỏe cho tâm hồn rất tốt. Loại men ấy Chúa Giêsu đã nói đến qua dụ ngôn nấm men trộn trong ba đấu bột cho đến khi toàn bộ bột dậy men. Men ấy là men Tin mừng, men của tình yêu, men của hy sinh, bao dung và tha thứ…nhưng đáng tiếc loại men này lại ít ai thích sử dụng nên lan tỏa rất chậm chạp.

Ngày nay những loại men độc hại luôn âm thầm thấp nhập và lan tỏa vào trong xã hội và dễ đi vào lòng người. Nên lời cảnh báo của Chúa Giêsu vẫn còn nguyên giá trị.

Men của ích kỷ, dối trá, dửng dưng, tham vọng, tự do phóng túng…rất nguy hiểm gây xáo trộn xã hội và giết chết tâm hồn con người nên cần phải tránh xa.

Xin Chúa cho chúng ta biết loại trừ khỏi tâm hồn chúng ta những độc tố của những loại men nguy hại bằng cách tiếp nhận những loại men tốt mang lại sức khỏe và sự sống tinh thần. Nhất là luôn can đảm khước từ những cám dỗ do hương vị ngọt ngào của men độc tố mời gọi bằng việc gắn bó với Chúa bằng đời sống cầu nguyện, bác ái và chay tịnh tâm hồn.

 

Suy niệm 3: Ga 15, 1-8

Chúa Giêsu dùng hình ảnh quen thuộc là cây nho, để nói lên sự gắn kết sâu xa giữa Ngài với Chúng ta. Vì tình yêu Chúa Giêsu ở lại với chúng ta và mong muốn chúng ta ở lại trong Ngài để tiếp nhận sự sống dồi dào Ngài thông truyền cho chúng ta. Nhờ thế chúng ta mới có thể trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành dâng hiến cho Chúa và dành tặng cho nhau.

Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu sánh ví Ngài như là cây nho được Chúa Cha trồng xuống thế gian. Chúng ta được ví như là những cành kết hiệp trong cùng một cây nho là Chúa Giêsu.

Mục đích của người trồng nho là để thu hoạch hoa trái. Nên các cành của cây nho phải sinh nhiều hoa trái thì mới làm vui lòng ông chủ.

Khi sánh ví chúng ta là cành nho thì đồng thời Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta sinh nhiều hoa trái là các việc lành phúc đức, để Thiên Chúa được vinh hiển nơi chúng ta. Nhưng để cành nho sinh nhiều hoa trái, cần phải có hai điều kiện:

Thứ nhất gắn liền với thân nho. Cành nào càng gắn kết với với thân nho thì càng tươi tốt và sinh nhiều hoa trái. Cũng vậy để có đời sống sung mãn và sinh nhiều hoa trái thiêng liêng tốt lành, chúng ta phải liên kết chặt chẻ với Chúa Giêsu bằng đời sống cầu nguyện và năng lãnh nhận các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể.

Thứ hai phải được chăm sóc và chịu cắt tỉa. Niềm vui của người trồng nho là làm sao cho vườn nho sinh thật nhiều hoa trái tốt lành. Vì thế chủ vườn nho đã không ngừng chăm sóc và cắt tỉa những cành nho chu đáo. Cũng vậy, để sinh thật nhiều hoa trái tốt lành, Thiên Chúa không ngừng chăm sóc chúng ta bằng Giáo huấn và các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể, đồng thời Chúa cũng hằng cắt tỉa chúng ta bằng cách cho phép sự dữ, thử thách, thất bại và đau khổ… xảy ra trong cuộc sống. Việc làm đó là cần thiết để ta được dạn dày nhờ những trãi nghiệm không ngừng, hầu mỗi ngày ta nên thanh sạch và mạnh mẻ hơn.

Xin cho chúng ta biết sống gắn bó mật thiết với Chúa và với nhau, luôn tin tưởng phó thác vào ơn ban của Chúa; nhất là can đảm để Chúa cắt tỉa đời mình mỗi ngày. Nhờ thế, cuộc sống ta mới có thể sinh được nhiều hoa trái tốt lành mà phụng sự Chúa và phục vụ ích lợi cho nhiều người. Amen.


Suy niệm 4: Pl 3, 17- 4,1; Ga 12, 24-26

Nhớ Thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-ki-a, giám mục, tử đạo

Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu nhắc đến quy luật tự nhiên của nhân sinh, chết đi để được sống, khi phán quyết: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt.” (Ga 12,24). 

Dựa trên nền tảng của nguyên tắc này, Chúa Giêsu khẳng định cho ta hiểu rằng: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Ga 12,25).

Thánh Ignatio đã nhận ra nguyên tắc ấy và hiểu được quy luật này, nên ngài đã vui lòng dâng hiến đời mình, sẵn sàng chịu chết đau thương vì lòng tin yêu Chúa và GH.

Thánh Ignatio sinh trưởng vào năm 50 tại Syria, và trở lại Kitô giáo. Sau đó ngài làm giám mục ở Antiokia.

Vào năm 107, hoàng đế Trajan ghé thăm Antiokia và buộc các Kitô hữu phải chối đạo hoặc chịu chết. Inhaxiô vì lòng yêu mến Chúa và quyết trung thành với GH nên ngài đã cương quyết không chối bỏ đức tin mà chấp nhận án tử hình tại Rôma.

Trên đường từ Antiokia đến Rôma chịu tử đạo, GM Inhaxiô đã viết bảy lá thư nổi tiếng. Năm lá thư cho các Giáo hội ở Tiểu Á để khuyến khích các Kitô hữu trung thành với Thiên Chúa và vâng lời bề trên. Ngài cũng cảnh giác họ đề phòng những giáo thuyết lầm lạc, và dạy bảo họ những chân lý vững chắc của đức tin Kitô Giáo. 

Lá thư thứ sáu ngài gửi cho Polycarp, Giám Mục ở Smyrna, là người sau này cũng tử đạo vì đức tin. 

Và trong lá thư sau cùng, ngài xin các Kitô hữu ở Rôma đừng ngăn cản ngài chịu tử đạo. “Điều duy nhất tôi xin các bạn là hãy để tôi được tự do dâng hiến máu tôi cho Thiên Chúa. Tôi là hạt lúa của Thiên Chúa, ước chi tôi được nghiền nát dưới nanh thú dữ để trở nên bánh tinh tuyền của Đức Kitô.”

Ước nguyện của ngài trở thành hiện thực khi chịu tử đạo dưới nanh vuốt của sư tử ở Colosseum năm 107. Thánh tích của ngài hiện còn lưu giữ tại Vương Cung Thánh Đường thánh Phêrô ở Rôma.

Có thể nói điều quan tâm lớn lao của thánh Inhaxiô là sự hiệp nhất và trật tự trong Giáo Hội. Nhưng cao quý hơn cả là ngài ao ước được tử đạo hơn là chối bỏ Đức Giêsu Kitô. Tuy nhiên không phải vì sự đau khổ mà người ta chú ý đến GM Inhaxiô, nhưng vì niềm tin và tình yêu tuyệt đối ngài dành cho Thiên Chúa. Chính vì niềm tin và tình yêu ấy nên cho dù ngài có chết thì Thiên Chúa cũng cho ngài sống lại trong vinh phúc.

Xin Chúa cho chúng ta biết noi gương thánh Ignatio, luôn đặt niềm tin kiên vững vào tình thương và quyền năng Chúa, để dù chúng ta có gặp những gian nan thử thách, ngay cả phải hy sinh mạng sống mình, chúng ta vẫn an vui đón nhận, bởi lẽ ta tin vào lời dạy của Chúa: "Ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” 

 

Thứ bảy: 2Tm 4,10-17b; Lc 10,1-9

KÍNH THÁNH LUCA, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG

Cùng với GH hôm nay chúng ta dâng thánh lễ mừng kính thánh Luca, tác giả sách Tin mừng. Chúng ta không biết rõ về quê quán và gia thế của ngài, chỉ biết ngài gia nhập kitô giáo ở Antiokia và qua đời bên Hy lạp. Ngài được thánh Phaolô nhắc đến như người bạn đồng hành trong bước đường loan báo Tin mừng. Ngài chính là tác giả của sách Tin mừng thứ ba và sách công vụ tông đồ.

Đọc những tác phẩm của thánh Luca ta nhận ra được thao thức lớn nhất của thánh nhân là làm chứng niềm vui Tin mừng của Chúa đến tận cùng trái đất theo lệnh truyền của Chúa Giêsu phục sinh.

Tạ ơn Chúa vì GH có được một vị thánh tài hoa và nhiệt tâm tông đồ. Tạ ơn Chúa đã chọn thánh Luca, sai đi rao giảng và viết sách Tin Mừng để làm cho mọi người nhận biết Chúa là người Cha giàu lòng thương xót.

Xin cho chúng ta biết siêng năng học hỏi TM của thánh Luca để chúng ta thêm hiểu biết và yêu mến Chúa, nhờ đó ta mới có thể loan báo niềm vui Tin mừng của Chúa cách tích cực và hiệu quả.

Công đồng Vatican II khẳng định rõ rằng: “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành là truyền giáo” (Ecclesia peregrinans natura sua missionaria est, Ad gentes 2). Sẽ không còn là Giáo Hội nữa nếu như Giáo Hội không truyền giáo. Chính Chúa Giê-su, trước khi về cùng Thiên Chúa Cha, đã trao lại sứ mạng truyền giáo cho Giáo Hội qua các tông đồ:“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin Mừng”(Mc 16,15). Nhưng không phải đợi đến khi về trời, Chúa mới trao sứ mạng này cho các Tông Đồ, mà ngay khi còn ở tại thế, Chúa đã sai phái không chỉ 12 tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng mà Người còn chỉ định thêm 72 môn đệ nữa.

Bài Tin Mừng hôm nay, tường thuật lại sự kiện Chúa Giê-su sai 72 môn đệ ra đi loan báo Tin Mừng. Khi thi hành sứ vụ loan báo tin mừng, Chúa muốn các ngài phải đặt mối ưu tư truyền giáo lên hàng đầu, đừng quá bận tâm những chuyện vật chất khi truyền dạy: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép; cứ ăn những gì người ta dọn lên”

Trải qua mọi thời, ở mọi nơi, Hội Thánh không ngừng thực hiện sứ mạng cao cả này. Từ 12 Tông Đồ và 72 môn đệ, nay Hội Thánh Chúa đã phát triển và lan rộng đến mọi nơi trên thế giới. Hội Thánh cũng muốn con cái của mình cùng thao thức và hành động cho sứ mạng truyền giáo.

Phải chăng truyền giáo là công việc của hàng giáo sỹ và những nhà chuyên môn? Không phải như thế! Mỗi người tín hữu, khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội đều được tham dự vào 3 chức vụ của Hội Thánh đó là: ngôn sứ, tư tế và vương giả. Với chức vụ ngôn sứ, mỗi người tín hữu có nhiệm vụ và bổn phận phải truyền giáo tùy theo bậc sống và khả năng của mình.

Mục đích truyền giáo là giới thiệu Chúa cho mọi người, giúp mọi người tin vào Chúa và đón nhận ơn cứu độ. Là một tín hữu bình thường, chúng ta phải có sự hiểu biết sâu xa về Chúa qua việc không ngừng trau dồi kiến thức giáo lý và học hỏi Phúc âm. Vì làm sao ta có thể giới thiệu một người cho người khác nếu ta không hiểu không biết người đó là ai?

Bên cạnh việc giới thiệu Chúa cho người khác, chúng ta còn phải làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày, đừng để đời sống của chúng ta phản chứng lại những gì chúng ta loan báo trên môi trên miệng. Vì ngày hôm nay người ta cần chứng nhân hơn thầy dạy, mặc dù thầy dạy cũng rất cần.

Vậy trước tiên chúng ta can đảm tuyên xưng mình là người tin theo Chúa, đừng vì những lợi ích vật chất mà ta chối bỏ niềm tin của mình.

Tiếp theo, chúng ta can đảm sống cho những giá trị Tin Mừng như: sự thật, công bằng, bác ái…mặc dù đôi lúc vì những giá trị này mà chúng ta phải chịu thiệt thòi, hiểu lầm.

Cuối cùng chúng ta phải thực hành niềm tin của chúng ta. Làm sao người ta có thể tin có Chúa khi thấy một người Công Giáo không thực hành niềm tin và lòng bác ái. Có ai đó đã thốt lên “Tôi tin có đạo Công Giáo nhưng tôi không tin người Công Giáo” thật là đau lòng!

Lạy Chúa, Chúa đã từng băn khoăn khắc khoải “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”, Chúa muốn mỗi người chúng con hãy là những tay thợ gặt lành nghề. Xin Chúa cho chúng con biết noi gương thánh Luca thao thức sứ mạng loan báo Tin mừng cho mọi người và mọi nơi. Xin cho chúng con biết cộng tác với Hội Thánh trong sứ mạng truyền giáo với hết khả năng và sức lực của mình theo gương thánh Luca mà hôm nay GH mừng kính.


* Mùa Thường niên:  Lc 12, 8-12

Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục khuyến khích các môn đệ hãy can đảm xưng nhận Chúa trước mặt người đời, cũng như trước mặt vua quan thế quyền với những lý do sau:

- Chúa Giêsu sẽ bênh vực họ trước mặt Thiên Chúa, nên người môn đệ mạnh dạn tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu. Còn ngược lại nếu chối bỏ Chúa Giêsu thì Người cũng sẽ chối bỏ họ trước mặt Chúa Cha. Nếu chối bỏ Chúa Giêsu cũng là chối bỏ sự thật và chân lý, bởi lẽ “Chúa Giêsu là đường là sự thật và là chân lý”. Mà chối bỏ chân lý là xúc phạm đến Thần Chân Lý là Chúa Thánh Thần. Đó là tội mà Chúa Giêsu khẳng định là sẽ không được tha.

Cuộc đời của Giuđa Ítcariốt và Phêrô đều giống nhau là đã chối bỏ Chúa Giêsu. Nhưng lại có kết quả khác nhau: ông Giuđa không biết ăn năn, không tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa nên đã đi tự tử. Còn thánh Phêrô đã được tha thứ, vì ông tin vào tình thương tha thứ của Chúa nên đã ăn năn hối cải. Như thế tội xúc phạm đến Chúa Thánh Thần là cố tình chối bỏ chân lý, sự thật mà không chân thành sám hối.

- Có Chúa Thánh Thần bảo vệ và hướng dẫn. Chúa Giêsu cho biết khi làm chứng cho Chúa chắc chắn sẽ gặp nhiều nguy hiểm bởi thế gian và sẽ bị bắt hại bởi vua quan, chính quyền. Nhưng Chúa Giêsu cũng bảo đảm với các môn đệ là có Chúa Thánh Thần luôn hiện diện ngay bên để nâng đỡ họ: “Các con chớ lo lắng phải thưa làm sao, hay phải nói thế nào: vì trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy các con phải nói thế nào.”.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con để chúng con can đảm sống và làm chứng cho chân lý. Xin Chúa Thánh Thần giúp chúng con kiên vững niềm tin để không bao giờ chối bỏ Chúa trước những lời mời gọi thấp hèn của thế gian nhưng luôn mạnh dạn xưng nhận Chúa trước mặt người đời.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXXII THƯỜNG NIÊN CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN-NĂM C Lm. Nguyệt Giang CUNG HIẾN ĐỀN THỜ LA - TÊ - RA - NÔ Ed...