SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXVIII THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt
Giang
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN-NĂM C
2V5,14-17; 2Tm
2,8-13; Lc 17,11-19
Suy niệm 1: LÒNG BIẾT ƠN MỞ RA ƠN CỨU ĐỘ
Có một câu
nói quen thuộc: “Người vô ơn là người đánh mất chính mình.” Thật vậy,
lòng biết ơn là một trong những nét đẹp cao quý nhất của con người. Càng ý thức
mình nhận lãnh nhiều, ta càng biết khiêm tốn và tạ ơn Đấng ban cho. Phụng vụ
hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tất
cả những ơn lành Chúa ban, để từ đó sống tâm tình tạ ơn như người phong hủi ngoại giáo được Chúa Giêsu
chữa lành.
Bài đọc I: Sách Các Vua quyển thứ hai trình thuật lại thái độ của Naaman biết ơn
Thiên Chúa
Naaman, một
tướng lãnh ngoại giáo người Syria, được tiên tri Êlisê chữa khỏi bệnh phong.
Ông không chỉ được khỏi bệnh phần xác, mà còn được ơn nhận biết Thiên Chúa của Israel là Thiên Chúa duy nhất.
Ông bày tỏ
lòng biết ơn bằng cách dâng lễ vật và
xin được mang đất Israel về quê để tiếp tục thờ phượng Thiên Chúa. Lòng
biết ơn chân thành luôn đưa con người đến niềm tin và sự thờ phượng đúng đắn.
Bài đọc II: Trích thư thứ hai của Thánh Phaolo tôn đồ gửi ông Timôthê, ngài nhắc nhở người
môn đệ Timôthê là hãy trung thành và biết ơn về ơn cứu độ
Thánh Phaolô
mời gọi Timôthê hãy nhớ đến Đức Giêsu
Kitô đã sống lại từ cõi chết. Đó là ân ban cao cả nhất, nguồn gốc mọi ơn lành. Phaolô dù đang bị xiềng
xích, vẫn cảm thấy hạnh phúc vì được chia sẻ Tin Mừng. Ngài xác tín: “Nếu ta
cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người.” Biết ơn về ơn cứu độ chính
là sống trung thành và can đảm làm
chứng cho Chúa, dù trong gian khổ.
Bài Tin
Mừng: Thánh Luca trình thuật lại phép lạ Chúa Giêsu
chữa lành cho 10 người phong, nhưng chỉ có ngưới cùi Samaria trở lại tạ ơn
Người.
Mười người
phong cùi được Chúa Giêsu chữa lành, nhưng chỉ một người ngoại bang Samaria trở lại tôn vinh Thiên Chúa và tạ ơn.
Chúa Giêsu hỏi: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Còn chín người
kia đâu?” Người Samaria được Chúa ban thêm ơn: “Lòng tin của con đã cứu
chữa con.” Lòng biết ơn đã mở ra cho anh không chỉ ơn lành thể xác, mà cả ơn
cứu độ linh hồn.
Cả ba bài
đọc đều quy về một chủ đề duy nhất: Tạ
ơn phát sinh từ lòng tin, và lòng tin được nuôi dưỡng bằng tạ ơn.
- Naaman
tạ ơn vì được khỏi bệnh, và đức tin của ông bừng sáng.
- Thánh
Phaolô tạ ơn giữa tù ngục, nhờ đó Tin Mừng vẫn lan toả.
- Người
Samaria tạ ơn, nên được đức tin cứu độ.
Ngược lại, chín người Do Thái, tuy được lành bệnh
lại mất ơn lớn hơn, vì họ thiếu lòng
biết ơn.
Tuy Chúa
không cần lời cảm tạ cho riêng mình, nhưng vì chính chúng ta cần tạ ơn để trưởng thành trong đức tin. Như lời Kinh Nguyện Thánh Thể IV nói: “Chúa chẳng cần chúng con ca tụng, nhưng
việc chúng con cảm tạ Chúa lại là một hồng ân Chúa ban, vì những lời chúng con ca
tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ.”
- Tạ ơn
Chúa trong Thánh lễ: Thánh lễ chính là Lễ Tạ Ơn-lời tạ ơn cao cả nhất mà Giáo Hội dâng lên Chúa Cha nhờ
Đức Kitô. Siêng năng tham dự Thánh lễ là cách sống tâm tình biết ơn đẹp nhất.
- Tạ ơn
trong đời sống thường ngày: Nhận ra mọi sự-từ sức khỏe, gia đình, công
việc, cho đến những thử thách – đều là ơn Chúa ban, và biết dùng chúng để sinh
ích cho mình và tha nhân.
- Tạ ơn
qua hành động bác ái và phục vụ: Tình yêu đáp trả tình yêu. Biết ơn Chúa
không chỉ bằng lời nói, nhưng bằng đời sống yêu thương, chia sẻ, giúp đỡ người
khác.
Anh chị em
thân mến,
Naaman,
thánh Phaolô và người phong cùi Samaria đều nhận ra một chân lý: Ai biết tạ ơn, người ấy được cứu.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết nhận ra ân ban
Chúa trong từng ngày sống, để dâng lên Người lời cảm tạ chân thành, và sống
xứng đáng với ân huệ cứu độ mà ta đã lãnh nhận.
Để kết thúc,
chúng ta hãy hiệp với Mẹ Maria mà dâng lên
Chúa tâm tình tạ ơn của mỗi người chúng ta bằng lời kinh “Magnificat”: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, vì Ngài đã làm
cho tôi biết bao điều cao cả...” (Lc
1,46-49).
Suy niệm 2:
Người mắc bệnh
cùi vào thời Chúa Giêsu phải chịu rất nhiều đau khổ.
- Đau về thể xác:
Vi trùng Hansen dần
dà ăn vào da thịt gây nên những vết lỡ loét khắp cơ thể rất khó chịu vì hôi
thối.
Gân cốt của tay chân
thường bị co vấp lại, không còn khả năng làm việc như người bình thường.
Do không có thuốc đặc
trị nên họ phải thường xuyên đối mặt với những cơn đau nhức khiến cơ thể họ bị
suy nhược vì ăn không ngon, ngủ không yên…
- Khổ về tâm hồn:
Quan niệm của người
Do Thái thời bấy giờ cho rằng bệnh là do tội lỗi lỗi gây nên. Cùi là chứng bệnh
nan y, dấu hiệu này chứng tỏ tội của người cùi phải rất nặng.
Người cùi luôn bị mọi
người xem thường, khinh bỉ và xa lánh vì sợ lây uế. Người cùi phải sống tách
biệt với cộng đồng và bị xã hội đẩy ra bên lề cuộc sống.
Người bị bệnh cùi
luôn phải sống nhờ người khác nên bị xem là thành phần ăn bám xã hội. Thật chua
xót!
Sự kiện Thầy Giêsu
chữa lành cho 10 người cùi mà tin mừng hôm nay trình thuật nói lên nhiều điều:
- Thầy Giêsu
chính là Thiên Chúa quyền năng và giàu lòng thương xót.
- Việc Chúa
Giêsu chữa lành bệnh cùi, đồng nghĩa với việc Chúa phục hồi phẩm giá làm người
cho họ; trả lại cho họ tình trạng tốt đẹp thuở ban đầu mà Chúa đã tác tạo.
- Việc Chúa
Giêsu chữa lành bệnh cùi cũng chính là lời mời gọi mọi người hãy mở rộng vòng
tay đón nhận nhau trong tình nghĩa anh em, cho dù họ là ai.
- Việc Chúa
Giêsu chữa lành bệnh cùi còn là mời gọi tha thiết đối với những ai đang phải
mang nặng những nỗi đau về thể xác hay những vết thương nơi tâm hồn hãy mạnh
dạn đến với Chúa Giêsu để kêu xin ơn cứu chữa của Ngài: “Lạy Thầy
Giêsu, xin thương xót chúng tôi”.
* Có lẽ chúng ta
không mắc phải bệnh cùi về thể lý vì ngày nay đã có thuốc đặc trị. Nhưng rất có
thể chúng ta lại mắc phải bệnh cùi về tâm linh.
- Cùi tâm
linh là khi chúng ta vô ơn đối với Thiên Chúa. Sống xa cách Chúa,
không quan tâm đến thánh lễ Chúa nhật, không còn biết cám ơn Chúa qua giờ kinh
sáng-tối nơi gia đình, không để tâm học hỏi Thánh kinh và giáo lý….
- Cùi tâm linh
là khi chúng ta tự tách rời khỏi anh em trong các sinh hoạt của họ đạo. Có thể
vì mặc cảm hay vì tự cao mà ta sống cu-ki một mình, không còn khả năng hòa nhập
với cộng đoàn họ đạo.
- Cùi tâm linh
là khi chúng ta vô tâm, thờ ơ, dửng dưng, ích kỷ, tư
lợi mà không biết chạnh lòng thương trước nỗi đau của người khác…
Những thứ đó chính là triệu chứng bệnh cùi tâm linh rất nguy
hiểm. Vậy mỗi người chúng ta hãy ý
thức về bệnh cùi tâm linh của mình và xin Chúa cứu chữa.
Xin Chúa cho chúng
con biết khiêm tốn nhận ra bệnh tình nguy hiểm mà ta đang mang trong người. Và
xin Chúa thương cứu chữa cho lành sạch: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương
chúng tôi!”.
Suy
niệm 3:
Tất cả những
gì chúng ta “có” chúng ta “là” đều do ân ban của Chúa. Nên thái độ xứng hợp của
chúng ta là phải biết tạ ơn Chúa, tri ân nhau và cám ơn đời. Cám ơn là
cách chúng ta nhận thêm ơn. Xin cho chúng ta luôn ý thức về những ơn ban cao
quý của Chúa mà sử dụng cho thật tốt hầu mang lại nhiều lợi ích cho mình cho
người... Đó chính là sứ điệp quan trọng mà phụng vụ lời Chúa muốn nói với
chúng ta.
Có thể nói
lòng biết ơn là một trong những tình cảm cao quý nhất của
đời sống con người. Vì thế mà lòng biết ơn luôn được cha ông chúng ta
trân trọng và đề cao ngay trong.lãnh vực đạo hiếu. Không thiếu những câu ca dao
tục ngữ nói về lòng biết ơn: “ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn;
công cha nặng lắm ai ơi, nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang…”.
Khi Đức
Giêsu đến trần gian, một trong những tấm gương quan trọng mà Ngài để lại cho
nhân loại đó chính là tâm tình tạ ơn. Ngài tạ ơn Thiên Chúa Cha trước
khi phục sinh Ladarô. Tạ ơn Thiên Chúa Cha trước khi hoá bánh ra nhiều. Tạ ơn
Thiên Chúa Cha khi lập Bí tích Thánh Thể. Cả cuộc đời của Đức
Giêsu luôn là lời kinh tạ ơn. Vì thế Ngài muốn chúng ta cũng
phải biết sống tâm tình tạ ơn.
Bằng
chứng là tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cảm thấy đau buồn trước sự vô ơn
của 9 người Do Thái có đạo, khi đặt ra những câu hỏi liên tiếp: "Không phải tất cả mọi người đều được lành sạch cả
sao ? Còn chín người kia đâu ?" Không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên
Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?
Sở dĩ Đức
Giêsu rất coi trọng lòng biết ơn chỉ vì ích lợi cho chúng
ta. Người Samaria đã trở lại tạ ơn Chúa sau khi được ơn chữa
lành phần xác, thì liền ngay đó Chúa lại ban thêm ơn đức tin cho
anh ta khi Chúa nói: “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của con đã cứu
chữa con”(Lc 17,19). Như thế, cám ơn chính là cơ hội để nhận thêm ơn cho
những ai biết cám ơn.
Trong lời
tiền tụng chung thứ IV sách lễ Roma GH ý thức chúng ta điều đó:
“Việc tạ ơn chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng mang lại ơn cứu độ cho chúng
ta”.
Vậy
mà trong thực tế lại có rất ít người biết ơn Chúa. Những trang tin mừng
minh chứng điều đó: khi Đức Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho bao
ngàn người ăn no nê dư đầy, vậy mà khi Chúa vác Thánh giá lên đồi Canvê té ngã
nhiều lần, chỉ có một người đứng ra vác đỡ Thánh giá Chúa, đó lại là
ông Ximong thành Kyrênê, ngoại giáo.
Suốt 3
năm Đức Giêsu rao giảng tin mừng ban bao nhiêu là lời chân lý có sức
cứu độ, cũng như kèm theo rất nhiều phép lạ nhằm thi ân giáng phúc cho
nhiều người. Vậy mà khi Chúa vừa tắt thở trên cây Thánh Giá, thì chỉ có một
người lớn tiếng tuyên xưng đức tin: “Đúng ông này là Con Thiên Chúa” (Mt
27,54). Mà người đó lại là viên sĩ quan ngoại giáo. Thử hỏi những người
thụ ơn Chúa ở đâu cả rồi, sao không thấy ai đến dâng lời tạ ơn
Chúa; cũng chẳng thấy ai đứng ra bênh vực Chúa trong lúc Ngài chịu đau khổ?
Thật đáng buồn!
Nói người
lại nghĩ đến ta, rất có thể chính bản thân ta cũng chọn sống vô ơn
như thế trước biết bao hồng ân của Chúa thương ban. Chúng ta được
sinh ra và lớn lên, đều cần có sự trợ giúp từ người khác: Miếng cơm chúng ta
ăn, manh áo chúng ta mặc đều có sự đóng góp công sức của nhiều người. Chúng ta
có làm được ông này hay bà nọ cũng nhờ công ơn sinh thành của cha mẹ, công lao
dạy dỗ của thầy cô. Tất cả những gì chúng ta đang hưởng dùng như tiền
bạc, nhà cửa, tài năng, sức khỏe, thời giờ…đều là hồng ân Thiên Chúa ban tặng
một cách gián tiếp qua nhiều người trong cuộc đời này. Hai tiếng cám ơn phát
xuất từ tấm lòng chân thành sẽ nâng cao giá trị, nhân cách của con người chúng
ta.
Lòng
biết ơn không chỉ qua loa trên môi miệng, mà trên hết phải được thể
hiện ra bằng cả cuộc sống. Đức Giêsu không chỉ là mẫu mực về lòng
biết ơn mà Ngài còn dạy chúng ta thể hiện lòng biết ơn ấy khi lập Bí tích Thánh
Thể: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Kể từ đó Thánh lễ
là lời tạ ơn cao cả và quý giá nhất. Bởi vì, Giáo hội cậy nhờ công nghiệp của
Đức Giêsu mà tạ ơn Thiên Chúa Cha. Vậy chúng ta hãy siêng năng tham dự thánh lễ
để tạ ơn Chúa theo ý muốn của Người.
Mẹ
Maria đã cảm nghiệm được lòng Chúa thương xót khi Mẹ cất lên lời kinh tạ
ơn: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, vì Ngài đã làm cho tôi biết bao
điều cao cả” (Lc 1,46-49). Và rồi Mẹ đã dành cả cuộc đời để tạ ơn
Chúa.
Thánh
Inhaxiô nói : “Tội lớn nhất là tội vô ơn”.
Chín
người phong cùi Do thái không biết cám ơn, sau khi được khỏi bệnh thể
xác. Còn Người phong cùi Samaria lại biết cám
ơn, nên anh không những khỏi bệnh về phần xác mà anh ta còn được
Chúa ban thêm ơn về phần hồn, khi tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa,
là vị lương y cao cả đầy quyền năng giàu lòng thương xót và là Đấng
cứu độ duy nhất.
Vậy để thể
hiện lòng biết ơn Thiên Chúa, điều quan trọng nhất là biết siêng năng tham
dự thánh lễ sốt sắng, vì thánh lễ còn được gọi một cái tên khác chính xác hơn
đó là "Lễ Tạ Ơn". Lòng tạ ơn Chúa còn được thể hiện qua việc đặt trọn
vẹn niềm tin tưởng vào quyền năng của Chúa và hằng biết cao rao tình thương của
Người.
Vậy giờ đây
xin mời cộng đoàn đứng để chúng ta cùng cất cao lời tạ ơn qua việc cao rao và
tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa tình thương.
Suy niệm 4: SỐNG TÂM TÌNH TẠ ƠN
Có một câu chuyện nhỏ thế này: Một hôm, một cậu bé được bà ngoại cho kẹo.
Cậu vui mừng chạy đi. Người mẹ liền nói: “Con quên nói gì rồi kìa!” Cậu bé quay
lại nói to: “Ngoại ơi, cho con thêm cái nữa, con mới nói cảm ơn!”
Câu chuyện thật đơn giản nhưng
phản ánh khá đúng tâm lý con người chúng ta: rất dễ xin ơn, nhưng lại chậm tạ ơn.
Hôm nay, Lời Chúa mời gọi chúng
ta sống tâm tình biết ơn Thiên Chúa và
tha nhân, bởi lẽ, suy cho cùng, tất cả những gì chúng ta “có” và “là”
đều do hồng ân nhưng không của Thiên
Chúa.
1. Bài đọc I: Biết ơn, con đường
mở ra đức tin
Bài đọc I trích sách Các Vua
quyển thứ hai kể chuyện Naaman,
một vị tướng ngoại giáo mắc bệnh phong cùi. Theo lời ngôn sứ Êlisa, ông đã
xuống tắm bảy lần trong sông Giođan và được khỏi bệnh. Khi được lành, ông trở lại gặp ngôn sứ, bày tỏ lòng biết
ơn và tuyên xưng đức tin: “Không có Thiên
Chúa nào khác trên khắp cõi đất ngoài Thiên Chúa của Israel.”
Điều đáng quý nơi Naaman là ông
không chỉ nhận ơn mà còn nhận ra Đấng ban ơn.Chính lòng biết ơn
ấy đã mở ra cho ông con đường dẫn đến đức
tin: từ chỗ không biết Chúa, ông trở thành người tin thờ Thiên Chúa chân thật. Đó cũng là bước đầu tiên của đức tin
khi biết nhìn nhận mọi sự là hồng ân.
2. Bài đọc II: Biết ơn trong
trung thành và thử thách
Trong thư gửi môn đệ Timôthê, thánh Phaolô đang bị tù đày, nhưng vẫn
nhắn nhủ: “Nếu ta cùng chết với Đức Kitô,
ta sẽ cùng sống với Người; nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với
Người.”
Giữa cảnh khổ đau, Phaolô vẫn tạ ơn Chúa bằng đời sống trung tín. Ngài
cho thấy rằng tạ ơn không chỉ là khi
được nhiều ơn lành, mà còn là khi
biết tín thác và vững tin giữa gian nan thử thách. Tạ ơn như thế chính
là tạ ơn trong mọi hoàn cảnh, vì
tin rằng Thiên Chúa luôn yêu thương và
đồng hành với chúng ta.
3. Tin Mừng: Biết ơn, con đường
dẫn tới ơn cứu độ
Tin Mừng theo Thánh Luca kể
chuyện Chúa Giêsu chữa lành mười người
phong cùi. Tất cả đều được sạch, nhưng chỉ một người Samari ngoại giáo quay lại sấp mình tạ ơn. Chúa
Giêsu hỏi: “Không phải cả mười người được
sạch sao? Còn chín người kia đâu?”
Chúa không cần những lời cảm ơn,
nhưng Ngài mong thấy tâm hồn biết nhận
ra tình thương Thiên Chúa. Chín người kia được lành phần xác, nhưng chỉ
người biết tạ ơn mới được chữa lành cả
phần hồn, vì anh đã gặp được
chính Chúa – nguồn ơn cứu độ.
Trong cuộc sống hôm nay, có lẽ
chúng ta cũng giống như chín người phong kia: nhận ơn nhiều, nhưng ít khi dừng lại để tạ ơn Chúa và cảm ơn nhau.
- Mỗi sáng thức dậy, ta còn được sống, được thở, được yêu thương –
đó là món quà vô giá. Hãy tạ ơn Chúa.
- Trong công việc, dù nhiều vất vả, nhưng Chúa vẫn ban cho ta sức
mạnh để vượt qua. Hãy tạ ơn Chúa.
- Trong đau khổ, dù nước mắt có rơi, nhưng Chúa vẫn ở bên an ủi và
đỡ nâng. Hãy tạ ơn Chúa.
- Và đừng quên cám ơn nhau: cám ơn cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè,
cộng đoàn... vì không ai sống được mà không cần đến người khác.
Anh chị
em thân mến,
Người biết tạ ơn là người nhận ra Chúa trong mọi sự. Chính tâm
hồn ấy đem lại niềm vui và bình an đích
thực cho người Kitô hữu.
Xin Chúa ban cho chúng ta một con tim biết dừng lại, biết nhận
ra hồng ân và biết quay về để thưa với Chúa mỗi ngày: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa, vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.”
Nguyện xin cho đời sống của mỗi người chúng ta trở nên bài ca cảm tạ không ngừng, để trong mọi biến cố vui hay buồn, thành công hay thất bại, ta luôn biết nói như Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu: “Tạ ơn Chúa vì tất cả là hồng ân.”
Suy niệm 5: SỐNG TÂM TÌNH TẠ ƠN
Có
một cậu bé nghèo đi bán hàng rong để kiếm tiền học. Một hôm, cậu chỉ còn vài xu
lẻ trong túi và cảm thấy đói cồn cào. Cậu quyết định gõ cửa một ngôi nhà xin
chút gì ăn. Người phụ nữ mở cửa, nhìn thấy cậu, liền mang ra một ly sữa to. Cậu
bé uống một hơi hết sạch và hỏi:
-
“Cháu nợ bác bao nhiêu ạ?”
Người phụ nữ mỉm cười:
-
“Cháu không nợ gì cả, mẹ cháu đã dạy bác rằng không nên nhận tiền khi làm điều
tốt.”
Cậu
bé cúi đầu cảm ơn và ra đi. Nhiều năm sau, người phụ nữ ấy bị bệnh nặng, phải
chuyển lên bệnh viện lớn. Khi bác sĩ trưởng khoa đến thăm, bà nhận ra đó chính
là cậu bé năm xưa. Ông tận tình chữa trị cho bà. Khi bà xuất viện, hóa đơn viện
phí được gửi đến phòng, trên góc tờ giấy có dòng chữ: “Đã thanh toán bằng một ly sữa và lòng biết ơn.”
Ký tên: Bác sĩ Howard Kelly.
Câu chuyện giản dị ấy cho chúng ta thấy: lòng biết ơn có sức chữa lành và lan tỏa yêu
thương, không chỉ cho người nhận mà cả người cho đi.
Thưa anh chị em,
Thời nào cũng có những người biết ơn và cũng có
những người không biết ơn. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhẹ nhàng hỏi
người Sa-ma-ri được chữa lành: “Còn chín người kia đâu? Họ không được chữa lành
sao?”
Câu hỏi ấy vừa như một lời nhắc nhở, vừa như một
lời cảnh tỉnh chúng ta: đừng sống vong
ân bội nghĩa, không chỉ với Thiên Chúa mà còn với tha nhân nữa.
Con người mang trong mình nhiều nỗi khổ: khổ vì
bệnh tật, khổ vì nghèo túng, khổ vì tinh thần bất an, khổ vì cuộc đời nhiều thử
thách. Thế nhưng, ân huệ của Thiên Chúa
vẫn luôn tuôn đổ dạt dào trên chúng ta, chỉ là đôi khi ta không nhận ra. Có
người trách Chúa sao để mình khổ, sao không ban ơn như ta mong. Nhưng chính
trong những thử thách và đau khổ,
Thiên Chúa đang âm thầm chữa lành tâm
hồn ta, dạy ta biết tín thác và nhận ra tình yêu Ngài.
Những thánh nhân, những người công chính đều cảm
nghiệm được điều đó. Họ hiểu rằng thử
thách cũng là một ân huệ, là phương thuốc chữa lành căn bệnh “phong hủi
tâm hồn” căn bệnh của ích kỷ, oán trách và vô ơn.
Mỗi giây phút trong đời sống, chúng ta đón nhận
biết bao ân huệ Chúa ban: sự sống, gia đình, công việc, đức tin, và cả những
người chung quanh. Vì thế, biết tạ ơn
là bổn phận đầu tiên của người Kitô hữu.
Trong Tin Mừng, mười người phong cùi đều được chữa
lành, nhưng chỉ một người Sa-ma-ri
ngoại giáo quay trở lại sấp mình tạ ơn Chúa Giêsu. Chính người bị khinh
thường ấy lại có tâm hồn biết ơn sâu sắc, còn chín người Do Thái kia – những
người tưởng mình “thuộc về dân được chọn” lại vô tình vô ơn.
Người Sa-ma-ri ấy không chỉ được chữa lành thân
xác, mà còn được chữa lành cả tâm hồn,
vì biết nhìn nhận ơn Chúa và trở lại tôn vinh Ngài. Chúa Giêsu nói: “Lòng tin của anh đã cứu anh.”
Vì thế, tạ
ơn không chỉ là lời nói, mà là một
lối sống, là hành vi diễn tả đức
tin và lòng khiêm tốn của người nhận ra rằng mọi sự mình có đều do Chúa
ban.
Chúng ta cũng là những “người phong cùi trong tâm
hồn”, những tội nhân được Thiên Chúa thương xót và chữa lành qua Bí tích Hòa Giải và Bí tích Thánh Thể. Mỗi lần chúng ta
lãnh nhận ơn tha thứ, chính Chúa Giêsu đang chạm đến và phục hồi chúng ta bằng
tình yêu của Ngài.
Vì thế, mỗi ngày chúng ta hãy sống tâm tình biết
ơn:
- Biết tạ
ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh – khi vui cũng như lúc buồn.
- Biết cảm
ơn tha nhân – những người âm thầm giúp đỡ, nâng đỡ ta trong cuộc sống.
- Biết sống
quảng đại – để chính ta trở thành khí cụ đem niềm vui và ơn lành đến cho
người khác
Tâm tình biết ơn của người Sa-ma-ri hôm nay là tấm
gương soi chiếu cho mỗi người chúng ta. Hãy đừng tìm kiếm Thiên Chúa nơi những
phép lạ lớn lao, nhưng hãy nhận ra Ngài trong những điều nhỏ bé mỗi ngày: một hơi thở bình an, một bữa cơm sum
họp, một người bạn, một nụ cười, một lời tha thứ.
Xin cho chúng ta luôn biết tạ ơn Chúa, và để cuộc đời mình trở nên một bài ca tạ ơn sống động, dâng lên Thiên Chúa mỗi ngày, như lời Thánh Vịnh 118: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa, vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (Tv 118,1). (St).
Suy niệm 6: DÒNG NƯỚC ÂN SỦNG
- Ngày nọ, một con cá nhỏ bơi đến hỏi con cá lớn: Bác ơi, cháu nghe người ta nói nhiều về “nước”.
“Nước” là gì thế ạ?
-
Cá lớn mỉm cười hiền hậu: Con đang sống giữa nước đó thôi!
-
Cá nhỏ ngạc nhiên: Vậy sao cháu không thấy?
Câu
chuyện đơn sơ nhưng khiến ta suy nghĩ: Có những điều thật quý giá ta đang sống
trong đó mỗi ngày, nhưng lại không nhận ra cho đến khi mất đi.
Ơn Chúa cũng thế: ta đang “bơi” trong dòng nước ân sủng của Ngài từng giây
phút, hồng ân sự sống, đức tin, gia đình, công việc, bạn bè, hơi thở… Nhưng
nhiều khi ta lại quên tạ ơn, vì tưởng rằng “mọi sự tự nhiên mà có và do mình
làm nên.”
1. Bài đọc thứ nhất kể lại câu chuyện tướng Naaman, một người ngoại bang, người Syria, mắc bệnh phong hủi, căn
bệnh quái ác không có thuốc chữa thời bấy giờ. Ông đã nghe lời tiên tri Êlisa,
xuống tắm bảy lần trong sông Giođan, và được
sạch.
Naaman không chỉ được lành bệnh, mà còn được sáng
lòng. Ông nhận ra rằng chính Thiên
Chúa Israel mới là nguồn mạch
của mọi ơn lành. Vì thế, ông quay lại cảm tạ và tuyên xưng đức tin bằng
cách xác quyết rằng: “Từ nay tôi sẽ không
còn dâng hy lễ cho thần nào khác, ngoài Đức Chúa của Israel.”
- Như vậy, tạ ơn thật sự không chỉ là nói lời “cảm
ơn”, mà là còn biết quay lại, nhận ra và
dâng hiến. Người biết ơn là người dám thay đổi hướng sống: từ chỗ dựa vào bản thân đến chỗ đặt niềm
tin vào Thiên Chúa, nguồn gốc mọi ân phúc.
2. Trong thư gửi môn đệ Timôthê, Thánh
Phaolô đang bị tù đày, nhưng ngài không oán trách mà tạ ơn bằng lòng
trung thành. Ngài nhắc Timôthê: “Hãy nhớ Đức Giêsu Kitô đã sống lại
từ cõi chết.” Và khẳng định: “Nếu
ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người; nếu ta kiên tâm chịu đựng,
ta sẽ cùng hiển trị với Người.”
- Điều đó giúp ta hiểu
rằng: Tạ ơn không chỉ khi gặp may mắn, mà còn cả trong lúc
gian nan thử thách. Biết tạ ơn trong đau khổ là dấu chỉ của một đức tin trưởng thành, vì ta nhận ra rằng ơn cứu độ không bao giờ mất, ngay cả
khi ta có mất tất cả những thứ khác.
3. Thánh Luca thuật lại phép lạ Chúa Giêsu chữa lành mười người phong hủi. Cả mười đều được sạch, nhưng chỉ một người mà người đó lại là người Samaria, ngoại bang đã quay lại
sấp mình dưới chân Chúa mà tạ ơn.
Người Samaria ấy trở lại, không chỉ bằng đôi chân, mà bằng cả tấm lòng. Và Chúa Giêsu nói
với ông: “Lòng tin của anh đã cứu anh.”
Mặc dù chín người kia được chữa lành thân xác, nhưng chỉ người biết tạ ơn mới
được chữa lành tâm hồn.
- Như thế, tạ ơn không chỉ là phép lịch sự, mà trên
hết là một hành vi đức tin: tin
rằng những gì ta “có”, ta “là”, ta “làm” đều do ân ban của Thiên Chúa tình yêu.
Anh chị em thân mến,
Qua ba bài đọc hôm nay, ta nhận ra hành trình của người Kitô hữu chính là hành
trình của lòng biết ơn:
- Nhận ra
ơn Chúa như Naaman, vì ta đang “bơi giữa hồng ân”.
- Tạ ơn
bằng lòng trung thành như Thánh Phaolô, dù gặp khổ đau vẫn tin vào ơn
cứu độ của Chúa.
- Quay lại
tạ ơn như người Samaria, để đón nhận được cứu độ cách trọn vẹn.
Biết ơn không làm ta nhỏ đi, nhưng khiến ta lớn lên trong nhân cách và đức tin.
Người biết tạ ơn là người biết chia sẻ,
sống công bằng, yêu thương và dấn thân, vì họ hiểu rằng đời mình là quà tặng của Chúa, chứ không phải do công trạng mình
lập nên.
Nếu con cá nhỏ trong câu chuyện trên biết mở mắt
để nhận ra dòng nước bao quanh, thì
chắc chắn nó sẽ hạnh phúc biết bao! Còn ta, những người được Chúa cho sống,
thở, yêu thương, làm việc mỗi ngày...ta
có nhận ra dòng nước ân sủng Chúa đang bao bọc đời mình không?
Xin
Chúa giúp chúng ta:
-
Biết nhận ra ơn Chúa trong từng biến cố lớn nhỏ trong đời sống hằng ngày.
-
Biết tạ ơn Chúa và cám ơn nhau không chỉ bằng lời nói, mà bằng đời sống yêu
thương và quảng đại.
- Nhất là, như người Samaria năm xưa, biết quay lại, sấp mình tôn vinh Thiên Chúa, để ta nghe được lời Chúa nói với mỗi người chúng ta rằng: “Lòng tin của con đã cứu con.”
* GIẢNG LỄ THIẾU NHI
Các
em thân mến,
Có
một lần, sau khi cô giáo chia kẹo cho cả lớp, chỉ có vài bạn biết nói “Con cám
ơn cô”, còn nhiều bạn khác thì vội chạy đi ăn kẹo mà quên lời cảm ơn. Cô giáo
không giận, nhưng cô thấy hơi buồn, vì cô hiểu: những bạn ấy chưa biết biết ơn.
Cũng giống như trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa
Giêsu chữa lành cho mười người phong
cùi. Nhưng chỉ có một người quay
lại để tạ ơn Chúa. Và
điều đặc biệt là người ấy không phải
người Do Thái, mà là người
Samari, người ngoại bang!
Chúa Giêsu đã buồn khi thấy chín người kia không
trở lại. Người hỏi: “Không phải cả mười
người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu?”
Các con thấy đó, Chúa Giêsu không cần ai phải tặng
quà hay dâng lễ vật lớn, Chúa chỉ mong chúng ta có một tấm lòng biết ơn. Người vui khi ta nhớ đến ơn Người và nói
lời cảm tạ bằng cả trái tim.
Các con ơi, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta
nhận được rất nhiều ơn:
- Ơn của Chúa: ban cho ta làm người, làm
con Chúa, ơn sự sống, có cha mẹ, có cơm ăn áo mặc, có trường lớp, có bạn bè, có
sức khỏe...
- Ơn của cha mẹ: chăm sóc, lo lắng cho ta
từng bữa ăn, giấc ngủ.
- Ơn của thầy cô: dạy dỗ ta nên người.
- Ơn của bạn bè: cùng chơi, cùng học, chia
sẻ niềm vui nỗi buồn.
Vì thế, người biết sống theo ý Chúa là người biết ơn và biết tạ ơn trong mọi
việc.
Chúng ta tạ ơn Chúa khi cầu nguyện mỗi sáng, mỗi tối, khi tham dự Thánh lễ, khi ăn cơm, hay khi được ai đó
giúp đỡ.
Các con thân mến, tạ ơn Chúa không chỉ bằng lời
nói, mà còn bằng việc làm:
- Khi ta vâng
lời cha mẹ, là ta tạ ơn Chúa.
- Khi ta chăm
chỉ học hành, là ta tạ ơn Chúa.
- Khi ta giúp
đỡ bạn bè, là ta tạ ơn Chúa.
- Khi ta đến
nhà thờ tham dự Thánh lễ, là ta dâng lên Chúa lòng biết ơn.
Hãy nhớ: Người
Samari được Chúa khen là người có lòng tin, vì anh không quên quay lại
cảm ơn. Còn chúng ta, nếu biết tạ ơn mỗi ngày, Chúa cũng sẽ mỉm cười và chúc
lành cho ta.
Các con thân mến,
Mỗi lần tham dự Thánh lễ, chúng ta đang sống lời tạ ơn Chúa, vì “Thánh Thể” nghĩa là “Tạ ơn”.
Hôm nay, chúng ta cùng cầu xin Chúa Giêsu cho mỗi
người biết nói lời “Cám ơn” thật nhiều:
- Cám ơn Chúa,
- Cám ơn cha mẹ,
- Cám ơn thầy cô,
- Cám ơn mọi người quanh ta.
Ai biết tạ ơn là người sống vui, sống đẹp và sống gần Chúa nhất!
Thứ hai: Lc
11, 29-32
Suy niệm 1:
Mặc dù được
nghe rất nhiều lời giảng dạy và chứng kiến không ít những phép lạ Chúa Giêsu
làm. Nhưng người Do Thái thời Chúa Giêsu vẫn cứng lòng, không ăn năn hoán cải.
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu quở trách họ rất nặng lời. Xin đừng để chúng ta đi
vào vết xe cũ như người Do Thái xưa. Nhưng cho chúng ta biết khiêm tốn đón nhận
Lời Chúa và Giáo Huấn của Giáo Hội chỉ dạy, mà hoán cải đời sống mỗi ngày nên
tốt hơn.
"Người
buồn cảnh có vui bao giờ". Việc thay đổi con người không hệ tại ở hình
thức bên ngoài, nhưng trước hết là phải thay đổi tận cõi lòng, thay đổi não
trạng và cái nhìn. Dù có chứng kiến bao là phép lạ, dù có vỗ tay ca ngợi không
ít những lời hay ý đẹp của Chúa Giêsu, rốt cùng họ vẫn không tin.
Như hết
cách, Chúa Giêsu đành phải thốt lên: “Thế hệ này là một thế hệ gian ác, chúng
xin điềm lạ. nhưng chúng sẽ không thấy được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông
Gio-na.”
Như một cố
gắng cuối cùng, Chúa Giêsu đã dùng lại hai câu chuyện ngày xưa, hy vọng họ suy
nghĩ lại mà thay đổi não trạng.
- Nhắc lại
chuyện Gio-na ngày xưa, nhằm lưu ý họ rằng: Ngày xưa chỉ lời rao giảng miễn
cưỡng của Ngôn sứ Giona. Vậy mà cả thành Ninivê, từ vua đến dân, từ già đến
trẻ, từ người đến súc vật đều ăn chay, sám hối và khẩn xin sự tha thứ của Chúa.
Vậy mà hôm nay có Người còn hơn Giona. Đấng mà Giona loan báo đã đến và rao
giảng, vậy mà họ lại không để tâm ăn năn hối cải. Thật đáng buồn!
- Nhắc lại câu
chuyện nữ hoàng phương nam vượt đường xa vạn dặm, bất chấp khó khăn, tốn kém
đến để diện kiến vị vua khôn ngoan là Salomon. Bà ta đã toại nguyện, hết lòng
cảm phục về sự khôn ngoan của nhà vua. Nhưng ở đây còn trọng hơn vua Salomon nữa,
vì Người chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và là vua trên hết các vị vua.
Thế mà họ chẳng thèm nghe. Thật đau lòng!
Chính lòng
tự mãn và mù quáng đã làm hỏng hết mọi ơn phúc, vì thế không còn cách nào để tự
chữa mình được nữa.
Xin cho
chúng ta đừng như thế hệ Do Thái xưa mù quáng và tự mãn, nhưng trở nên giống
dân thành Ninivê và nữ hoàng phương nam mau mắn lắng nghe lời Chúa và quyết tâm
ăn năn sám hối; cũng như biết khiêm tốn nhận mình còn nhiều khiếm khuyết, thiếu
sót, tật xấu và tội lỗi, để theo sự khôn ngoan của Chúa hướng dẫn mà sửa đổi
đời sống mỗi ngày nên tốt hơn.
Suy niệm 2:
Dân chúng thời Chúa Giêsu thường đòi Người cho xem
“một dấu lạ” để tin. Họ mong một phép lạ ngoạn mục nào đó để củng cố niềm tin
của mình. Nhưng Chúa Giêsu khước từ. Ngài nói rằng dấu lạ lớn nhất chính là bản thân Ngài, Con Thiên Chúa nhập thể,
Đấng đang hiện diện giữa họ, giảng dạy, chữa lành, tha thứ và mang ơn cứu độ
đến.
Thế nhưng họ lại không nhận ra dấu lạ ấy, vì con tim đã bị che phủ bởi sự kiêu
ngạo, vô cảm và lòng tin nửa vời. Họ muốn thấy những điều lạ lùng, nhưng lại
không chịu mở lòng đón nhận lời mời gọi
hoán cải.
Chúa Giêsu nhắc đến dân thành Ninivê: khi nghe ông Giôna rao giảng, họ đã ăn năn sám
hối. Còn “ở đây có Đấng cao trọng hơn
Giôna”, nhưng dân Chúa lại không chịu trở về. Ngài cũng nhắc đến nữ hoàng phương Nam, người đã vượt
đường xa đến nghe lời khôn ngoan của vua Salômôn, trong khi “ở đây còn hơn Salômôn nữa” mà họ vẫn dửng dưng.
Điều ấy cũng là lời cảnh tỉnh cho mỗi người chúng
ta hôm nay. Biết bao dấu chỉ của tình yêu Chúa đang diễn ra giữa đời thường:
trong Lời Chúa, trong các bí tích, trong anh chị em xung quanh..., nhưng nhiều
khi ta không nhận ra, vì tim ta
quá khép kín, hoặc vì ta mải mê chạy theo những “phép lạ” trần thế: thành công,
tiền bạc, danh vọng…
Xin
Chúa mở mắt tâm hồn ta để ta biết nhận ra những dấu chỉ của tình yêu Chúa trong
cuộc sống hằng ngày. Xin cho ta không đòi hỏi những phép lạ lớn lao, nhưng biết
nhận ra phép lạ âm thầm trong
từng khoảnh khắc, khi ta được tha thứ, được yêu thương, được sống và được mời
gọi hoán cải. Và xin giúp ta trở nên một “dấu lạ” của Tin Mừng giữa đời, để
người khác khi gặp con, cũng nhận ra Chúa đang hiện diện. Amen.
Thứ ba: Lc
11,37-41
Suy niệm 1:
Lời Chúa hôm
nay mời gọi chúng ta xác định lại tính sạch dơ phát xuất từ đâu? và đâu là sự
dơ bẩn đáng sợ nhất trong đời sống?
Chúng ta
đang sống trong một thế giới báo động đỏ về nạn ô nhiễm môi trường. Các nhà
lãnh đạo tâm huyết của thế giới đã kêu gọi liên kết với nhau để nhằm tìm ra
những giải pháp làm giảm đi nạn ngây ô nhiễm môi sinh.
Năm 2015,
Đức cố giáo hoàng Phanxicô trong thông điệp Laudato-si đã cho thấy tác hại ghê gớm của nạn
ô nhiễm môi trường và tha thiết kêu gọi mọi người chung tay bảo vệ ngôi nhà
chung, nhằm để lại cho thế hệ mai sau một bầu không khí trong lành.
Tình trạng ô
nhiễm bên ngoài tác động không nhỏ đến đời sống thể lý của con người cần phải
thanh tẩy cho trong sạch nhằm bảo vệ sức khỏe và tính mạng con người.
Tuy nhiên vấn nạn ô nhiễm bên trong mới là điều đáng lo ngại. Chính ô nhiễm tâm hồn, ô nhiễm lối sống ích kỷ và tham lam đồng tiền đã đánh mất những giá trị sống lành mạnh. Từ đó đẩy con người đến chỗ không còn biết hành xử văn hóa nữa. Dẫn đến tình trạng vức rác bừa bãi, xả thải nước công nghiệp độc hại ra môi trường, sản xuất nông nghiệp độc hại vô tư; tình trạng thức ăn bẩn được rao bán tràn lan…dẫn đến biến đổi khí hậu, nước biển dâng và xâm ngập mặn và bệnh tật bùng phát làm cho đời sống người dân điêu đứng khốn cùng!
Chính vì thế
trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác nhận cho những người Biệt phái và
Luật sĩ hiểu rằng: Những gì xuất phát từ bên trong mới gây nên những điều xấu
xa và nguy hại. Nếu tâm trí lành mạnh sẽ dẫn đến hành động tốt đẹp, ngược lại
tâm trí đầy u tối và toan tính xấu xa sẽ đưa đến những việc làm đen tối gây
nguy hại cho con người và cuộc sống. Do đó Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy ý
thức trong việc thanh tẩy tâm hồn hơn là chú tâm vào việc tẩy rửa bên ngoài
chén đĩa.
Khi nuôi dưỡng trong lòng những ý nghĩ tốt sẽ làm những điều lành và có ích cho mọi người. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết thanh tẩy tâm hồn khỏi những dơ bẩn của tính xấu và những vấn vương tội lỗi để chúng ta có những lời nói và hành vi tốt đẹp trong sáng chân thành dành cho Chúa và cho nhau trong đời sống.
Suy niệm 2:
Bữa ăn là nơi diễn ra cuộc gặp gỡ thân tình. Nhưng
trong bữa ăn hôm nay, bầu khí ấy bị phá vỡ bởi cái nhìn xét đoán của người
Pharisêu dành cho Chúa Giêsu. Ông ta ngạc nhiên, thậm chí khó chịu vì Chúa
không rửa tay theo nghi thức truyền thống.
Chúa Giêsu nhân cơ hội này vạch trần lối sống giả
hình: họ quá chú trọng hình thức bên
ngoài mà quên đi tâm hồn bên trong. Họ chỉ quan tâm đến việc “rửa
sạch chén đĩa bên ngoài ”, nhưng bên trong tâm hồn thì đầy những tham lam,
gian ác, kiêu ngạo.
Ngài nhắc nhở rằng: sự thanh sạch thật đến từ tấm lòng, chứ không phải qua những nghi
thức rửa tay, hay hình thức đạo đức bề ngoài. Thiên Chúa nhìn thấy nơi tâm hồn
con người, nơi ấy cho dù người khác không thấy được.
Câu nói “hãy
bố thí những gì ở bên trong” có thể hiểu là: hãy chia sẻ lòng thương xót, lòng
nhân ái và tình yêu chân thành. Khi con người biết cho đi bằng cả tấm lòng, thì khi ấy lòng họ mới được thanh sạch.
Vậy tôi cũng cần thử hỏi xem:
- Tôi có đang sống đạo chỉ vì hình thức, vì sợ
người khác chê cười, hay vì lòng yêu mến Chúa thật sự?
- Tôi có xét đoán người khác dựa trên vẻ bề ngoài
mà không nhìn thấy tâm hồn họ không?
- Tôi có biết “rửa sạch bên trong” bằng việc hoán
cải, tha thứ, và sống tình bác ái chân thành không?
Xin
Chúa thanh tẩy tâm hồn ta, để ta biết sống chân thành, đơn sơ, không giả hình, không phô trương. Và cho ta biết “rửa sạch bên trong” tâm hồn bằng lòng yêu thương và nhân ái, để mọi việc ta làm đều xuất phát từ
trái tim trong sạch để xứng đáng được Chúa thương nhìn nhận. Amen.
Thứ tư: Lc
11, 42-46
Nhớ Thánh
Tê-rê-sa Giêsu, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh
Với những
lời khiển trách của Chúa Giêsu dành cho những người Biệt phái và Tiến sĩ luật
trong đoạn tin mừng hôm nay, giúp chúng ta nhận dạng ra những biểu hiện của lối
sống giả hình:
- Tư lợi:
Theo luật quy định thì: “Mỗi năm anh (em) phải trích một phần mười tất cả hoa
lợi lấy từ những gì anh (em) gieo, những gì mọc lên ngoài đồng. Anh (em) sẽ
dùng trước nhan Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ở nơi Người chọn cho Danh
Người ngự…để mọi ngày anh (em) học cho biết kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của
anh (em).” (Đnl 14, 22). Nhưng do quá tham lam tiền bạc nên giới Biệt phái và
Luật sĩ đã đánh vào những loại thuế hơn những gì sách luật quy định như:“bạc
hà, vân hương và các thứ rau”, từ đó làm mất đi ý nghĩa tôn giáo của bổn phận
nộp thuế. Trong khi đó họ lại sao lãng “những điều quan trọng trong lề luật, là
đức công bình, lòng yêu mến Thiên Chúa thì lại bỏ qua; lẽ ra phải làm những
điều này và không được bỏ những điều kia.”.
- Hám danh: Những
người Biệt phái và Luật sĩ rất hám danh nên lúc nào cũng muốn đặt mình vào vị
trí cao trọng nhất “ưa thích ngồi ghế nhất trong hội đường và ưa thích được
chào hỏi ngoài phố chợ.” Nhưng họ có biết đâu rằng: danh dự không do tự mình
đặt lên mà là do người khác nhìn nhận và đặt để cho mình lên mới xứng hợp.
- Chuộng
hình thức: Vì muốn che đậy tâm địa xấu xa và thối nát bên trong nên những người
Biệt phái và Luật sĩ cố tình tạo ra bên ngoài một lớp vỏ đạo đức bằng cách: “họ
đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài.” (Mt 23, 5). Nhưng
những hành vi che đậy tinh vi ấy không thể nào qua được con mắt tinh tường của
Chúa Giêsu. Vì thế, Ngài không ngần ngại dùng hình ảnh mồ mả để sánh ví lối
sống chuộng hình thức của họ: “khốn cho các ngươi, vì các ngươi giống những mồ
mả không rõ rệt, người ta bước đi ở trên mà không hay biết.”.
- Nói mà
không làm: Lối sống này biểu hiện rất rõ nét nơi các Tiến sĩ luật. Theo truyền
thống hội đường Do-thái thời Chúa Giêsu, các tiến sĩ luật đã đề ra đến 613 điều
luật. 365 điều cấm làm và 248 điều phải làm. Giữa một rừng điều luật như thế
thì ngay cả chính người thông luật còn bối rối huống chi là người dân. Nên có
lần một người thông luật đã hỏi Đức Giêsu: “Điều răn nào trọng nhất
trong Luật Môsê ?” (Mt 22, 36). Chính vì quá nhiều luật lệ do các tiến
sĩ luật đặt ra, vô hình chung đã trở nên gánh nặng chất chồng lên vai người
dân. Trong khi đó, những tiến sĩ luật lại không hề thực hiện. Do đó, Chúa Giêsu
đã không ngần ngại lên án họ rất nặng lời: “Hỡi những tiến sĩ luật, khốn cho
các ngươi nữa, vì các ngươi chất lên người ta những gánh nặng không thể vác
được, mà chính các ngươi dù một ngón tay cũng không động tới.”
Những lời
quở trách của Chúa Giêsu dành cho những người Biệt phái và giới Luật sĩ khi
xưa, âu cũng là lời nhắc nhở chúng ta hôm nay. Chúng ta hãy nghiêm túc xét
mình, xem coi có những biểu hiện của lối sống giả hình như những người Biệt
phái và Luật sĩ không? Nếu có, ta hãy khiêm tốn xin Chúa tha thứ mà can đảm
chấn chỉnh lại đời sống sao cho phù hợp với ý muốn của Chúa.
Thứ năm: Lc
11,47-54
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm
nay tiếp tục ghi lại những lời khiển trách nặng nề của Chúa Giêsu dành cho
những người Biệt phái và các Tiến sĩ luật về 2 vấn đề:
1. Gían tiếp
giết hại sứ giả của Chúa.
Họ đã cộng
tác cách gián tiếp với cha ông họ mà giết hại các tiên tri. Nếu họ đã nhận ra
được sự sai lầm của các tổ phụ vì đã giết hại các Tiên Tri từ xưa đến nay mà ra
công xây lại mồ mả cho các tiên tri như là một sự bù đắp, thì đáng lý giờ đây
họ phải cương quyết không đi theo vết xe đổ ấy mới phải. Đàng này họ tiếp tục
chống đối và khướt từ lời dạy của Đức Giêsu, một vị ngôn sứ tối cao đến từ
Thiên Chúa.
2. Bẻ cong
luật Chúa.
Những Tiến
sĩ luật là những người thông thạo về thánh kinh và luật lệ. Họ có nhiệm vụ giải
thích cho dân chúng hiểu biết và tuân giữ luật Chúa. Ấy thế mà họ cố tình bẻ
cong luật Chúa để giải thích theo ý mình. Vì lợi ích nhóm nên họ đã tùy tiện
đưa ra nhiều khoản luật theo hướng có lợi cho mình nhưng lại nên trở gánh nặng
chồng chất trên vai dân chúng, khiến người dân rất hoang mang vì không thể phân
biệt được đâu là điều chính, đâu là điều phụ nữa. Vì thế mà Chúa Giêsu đã không
ngần ngại khiển trách họ rất nặng lời: "Các ngươi cất giữ chìa khóa sự hiểu
biết. Chính các ngươi không được vào, mà những người muốn vào, các ngươi đã
ngăn cản họ lại."
Xấu hổ và
khó chịu vì bị Chúa Giêsu vạch mặt nên họ đã tìm mọi cách để loại trừ cái gai
Giêsu ra khỏi con mắt họ. Và để hãm hại Chúa Giêsu, họ đã bày ra nhiều phương
cách như: tăng bốc, đe dọa, hạ uy tín...ngay cả giăng bẫy để đưa Chúa Giêsu sa
vào lưới của khung hình phạt nặng nhất mà tiêu diệt.
Chính lòng
ghen tỵ và óc tự mãn đã làm cho cặp mắt của những người Biệt phái và Luật sĩ bị
mờ đi. Họ không còn khả năng nhận ra ánh sáng chân lý nữa.
Ngày nay
ngoài xã hội cũng như trong gia đình vẫn còn đó những bóng tối của kiêu căng,
gian dối, tham lam, ích kỷ và hận thù...làm cho cuộc sống trở nên ngột ngạt khó
thở. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết can đảm dẹp hãm bản thân để mưu cầu
lợi ích và hạnh phúc cho tha nhân. Nhất là biết khiêm tốn đón nhận và sống theo
ánh sáng chân lý của lời Chúa, nhờ đó mà ánh sáng của niềm vui Tin mừng được
lan tỏa đến mọi nơi.
Thứ
sáu: Lc 12, 1-7 (Ga 15,1-8)
Suy niệm 1:
Tin Mừng hôm
nay gồm 2 phần:
1. Phần thứ
nhất: Chúa Giêsu lên án lối sống giả hình của nhóm Biệt Phái và lưu ý các môn
đệ cũng như đám đông dân chúng hãy ý tứ giữ mình khỏi lây nhiễm thứ men giả
hình ấy của Biệt Phái.
2. Phần thứ
hai: Chúa mời gọi các môn đệ can đảm sống và làm chứng cho sự thật, đừng sợ!
Chúa Giêsu đưa ra nhiều lý do để khuyến khích các môn đệ can đảm sống và làm
chứng cho sự thật:
- Thứ
nhất: “không có gì che đậy mà không bị tiết lộ ra, và không có gì dấu kín mà
chẳng biết được”.
- Thứ
hai: Tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa: “năm con chim sẻ không bán
được hai đồng tiền sao? Thế mà không con nào bỏ bị quên trước mặt Thiên Chúa.
Tóc trên đầu các con cũng được đếm cả rồi. Vậy các con đường sợ: các con còn
trọng hơn nhiều con chim sẻ”.
- Thứ
ba: Thiên Chúa là Đấng quyền năng, Ngài làm chủ sự sống chết của chúng ta. Do
đó Người nhắc nhở chúng ta “đừng sợ chi những kẻ giết được thân xác,
rồi sau đó không thể làm gì hơn được nữa”. Nhưng “hãy sợ Đấng, sau khi đã giết
chết, còn có quyền ném vào địa ngục”.
Trong một xã
hội có quá nhiều gian dối như ngày nay. Xin cho chúng ta biết can đảm dám sống
sự thật về mình trước Chúa, người khác và lương tâm.
Suy niệm 2:
Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giêsu cũng cảnh cáo các môn đệ tránh xa men Biệt Phái. Bởi lẽ loại
men này rất nguy hiểm và có sức mạnh lan tỏa rất ghê gớm nên cần đề phòng.
Vậy loại men
ấy là men gì mà nguy hiểm thế, đến nỗi Chúa Giêsu phải cảnh tỉnh các môn đệ Ngài
tránh xa?
Thưa men ấy
là chính đời sống xấu xa, tội lỗi của họ.
Men của Biệt
Phái chính là lòng kiêu căng, tự mãn và thói sống giả hình.
Loại men này
có độc tố mạnh và lan tỏa rất nhanh. Trái lại có một thứ men rất bổ dưỡng và
đem lại sức khỏe cho tâm hồn rất tốt. Loại men ấy Chúa Giêsu đã nói đến qua dụ
ngôn nấm men trộn trong ba đấu bột cho đến khi toàn bộ bột dậy men. Men ấy là
men Tin mừng, men của tình yêu, men của hy sinh, bao dung và tha thứ…nhưng đáng
tiếc loại men này lại ít ai thích sử dụng nên lan tỏa rất chậm chạp.
Ngày nay
những loại men độc hại luôn âm thầm thấp nhập và lan tỏa vào trong xã hội và dễ
đi vào lòng người. Nên lời cảnh báo của Chúa Giêsu vẫn còn nguyên giá trị.
Men của ích
kỷ, dối trá, dửng dưng, tham vọng, tự do phóng túng…rất nguy hiểm gây xáo trộn
xã hội và giết chết tâm hồn con người nên cần phải tránh xa.
Xin Chúa cho
chúng ta biết loại trừ khỏi tâm hồn chúng ta những độc tố của những loại men
nguy hại bằng cách tiếp nhận những loại men tốt mang lại sức khỏe và sự sống
tinh thần. Nhất là luôn can đảm khước từ những cám dỗ do hương vị ngọt ngào của
men độc tố mời gọi bằng việc gắn bó với Chúa bằng đời sống cầu nguyện, bác ái
và chay tịnh tâm hồn.
Suy niệm 3:
Ga 15, 1-8
Chúa Giêsu
dùng hình ảnh quen thuộc là cây nho, để nói lên sự gắn kết sâu xa giữa Ngài với
Chúng ta. Vì tình yêu Chúa Giêsu ở lại với chúng ta và mong muốn chúng ta ở lại
trong Ngài để tiếp nhận sự sống dồi dào Ngài thông truyền cho chúng ta. Nhờ thế
chúng ta mới có thể trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành dâng hiến cho Chúa và dành
tặng cho nhau.
Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giêsu sánh ví Ngài như là cây nho được Chúa Cha trồng xuống thế gian.
Chúng ta được ví như là những cành kết hiệp trong cùng một cây nho là Chúa
Giêsu.
Mục đích của
người trồng nho là để thu hoạch hoa trái. Nên các cành của cây nho phải sinh
nhiều hoa trái thì mới làm vui lòng ông chủ.
Khi sánh ví
chúng ta là cành nho thì đồng thời Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta sinh nhiều
hoa trái là các việc lành phúc đức, để Thiên Chúa được vinh hiển nơi chúng ta.
Nhưng để cành nho sinh nhiều hoa trái, cần phải có hai điều kiện:
Thứ
nhất gắn liền với thân nho. Cành nào càng gắn kết với với thân nho thì càng tươi
tốt và sinh nhiều hoa trái. Cũng vậy để có đời sống sung mãn và sinh nhiều hoa
trái thiêng liêng tốt lành, chúng ta phải liên kết chặt chẻ với Chúa Giêsu bằng
đời sống cầu nguyện và năng lãnh nhận các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể.
Thứ
hai phải được chăm sóc và chịu cắt tỉa. Niềm vui của người trồng nho là làm sao
cho vườn nho sinh thật nhiều hoa trái tốt lành. Vì thế chủ vườn nho đã không
ngừng chăm sóc và cắt tỉa những cành nho chu đáo. Cũng vậy, để sinh thật nhiều
hoa trái tốt lành, Thiên Chúa không ngừng chăm sóc chúng ta bằng Giáo huấn và
các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể, đồng thời Chúa cũng hằng cắt tỉa
chúng ta bằng cách cho phép sự dữ, thử thách, thất bại và đau khổ… xảy ra trong
cuộc sống. Việc làm đó là cần thiết để ta được dạn dày nhờ những trãi nghiệm
không ngừng, hầu mỗi ngày ta nên thanh sạch và mạnh mẻ hơn.
Xin cho chúng ta biết sống gắn bó mật thiết với Chúa và với nhau, luôn tin tưởng phó thác vào ơn ban của Chúa; nhất là can đảm để Chúa cắt tỉa đời mình mỗi ngày. Nhờ thế, cuộc sống ta mới có thể sinh được nhiều hoa trái tốt lành mà phụng sự Chúa và phục vụ ích lợi cho nhiều người. Amen.
Suy niệm 4: Pl 3, 17-
4,1; Ga 12, 24-26
Nhớ Thánh
I-nha-xi-ô An-ti-ô-ki-a, giám mục, tử đạo
Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu nhắc đến quy luật tự nhiên của nhân sinh, chết đi để được sống, khi phán quyết: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt.” (Ga 12,24).
Dựa trên nền tảng của nguyên tắc này, Chúa Giêsu khẳng
định cho ta hiểu rằng: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi
thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Ga 12,25).
Thánh
Ignatio đã nhận ra nguyên tắc ấy và hiểu được quy luật này, nên ngài đã vui lòng
dâng hiến đời mình, sẵn sàng chịu chết đau thương vì lòng tin yêu Chúa và GH.
Thánh Ignatio sinh
trưởng vào năm 50 tại Syria, và trở lại Kitô giáo. Sau đó ngài làm giám mục ở Antiokia.
Vào năm 107,
hoàng đế Trajan ghé thăm Antiokia và buộc các Kitô hữu phải chối đạo hoặc chịu
chết. Inhaxiô vì lòng yêu mến Chúa và quyết trung thành với GH nên ngài đã cương quyết không chối bỏ đức tin mà
chấp nhận án tử hình tại Rôma.
Trên đường từ Antiokia đến Rôma chịu tử đạo, GM Inhaxiô đã viết bảy lá thư nổi tiếng. Năm lá thư cho các Giáo hội ở Tiểu Á để khuyến khích các Kitô hữu trung thành với Thiên Chúa và vâng lời bề trên. Ngài cũng cảnh giác họ đề phòng những giáo thuyết lầm lạc, và dạy bảo họ những chân lý vững chắc của đức tin Kitô Giáo.
Lá thư thứ sáu ngài gửi cho Polycarp, Giám Mục ở Smyrna, là người sau này cũng tử đạo vì đức tin.
Và trong lá thư sau cùng, ngài xin các Kitô hữu ở Rôma đừng ngăn
cản ngài chịu tử đạo. “Điều duy nhất tôi xin các bạn là hãy để tôi được tự do
dâng hiến máu tôi cho Thiên Chúa. Tôi là hạt lúa của Thiên Chúa, ước chi tôi
được nghiền nát dưới nanh thú dữ để trở nên bánh tinh tuyền của Đức Kitô.”
Ước nguyện
của ngài trở thành hiện thực khi chịu tử đạo dưới nanh vuốt của sư tử ở
Colosseum năm 107. Thánh tích của ngài hiện còn lưu giữ tại Vương Cung Thánh
Đường thánh Phêrô ở Rôma.
Có thể nói
điều quan tâm lớn lao của thánh Inhaxiô là sự hiệp nhất và trật tự trong Giáo
Hội. Nhưng cao quý hơn cả là ngài ao ước được tử đạo hơn là chối bỏ Đức Giêsu
Kitô. Tuy nhiên không phải vì sự đau khổ mà người ta chú ý đến GM Inhaxiô,
nhưng vì niềm tin và tình yêu tuyệt đối ngài dành cho Thiên Chúa. Chính vì niềm
tin và tình yêu ấy nên cho dù ngài có chết thì Thiên Chúa cũng cho ngài sống lại
trong vinh phúc.
Xin Chúa cho
chúng ta biết noi gương thánh Ignatio, luôn đặt niềm tin kiên vững vào tình
thương và quyền năng Chúa, để dù chúng ta có gặp những gian nan thử thách, ngay
cả phải hy sinh mạng sống mình, chúng ta vẫn an vui đón nhận, bởi lẽ ta tin vào lời
dạy của Chúa: "Ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời
đời.”
Thứ bảy: 2Tm 4,10-17b; Lc 10,1-9
KÍNH THÁNH
LUCA, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG
Cùng với GH
hôm nay chúng ta dâng thánh lễ mừng kính thánh Luca, tác giả sách Tin mừng.
Chúng ta không biết rõ về quê quán và gia thế của ngài, chỉ biết ngài gia nhập
kitô giáo ở Antiokia và qua đời bên Hy lạp. Ngài được thánh Phaolô nhắc đến như
người bạn đồng hành trong bước đường loan báo Tin mừng. Ngài chính là tác giả
của sách Tin mừng thứ ba và sách công vụ tông đồ.
Đọc những
tác phẩm của thánh Luca ta nhận ra được thao thức lớn nhất của thánh nhân là
làm chứng niềm vui Tin mừng của Chúa đến tận cùng trái đất theo lệnh truyền của
Chúa Giêsu phục sinh.
Tạ ơn Chúa
vì GH có được một vị thánh tài hoa và nhiệt tâm tông đồ. Tạ ơn Chúa đã chọn
thánh Luca, sai đi rao giảng và viết sách Tin Mừng để làm cho mọi người nhận
biết Chúa là người Cha giàu lòng thương xót.
Xin cho
chúng ta biết siêng năng học hỏi TM của thánh Luca để chúng ta thêm hiểu biết và
yêu mến Chúa, nhờ đó ta mới có thể loan báo niềm vui Tin mừng của Chúa cách
tích cực và hiệu quả.
Công đồng
Vatican II khẳng định rõ rằng: “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành là truyền giáo”
(Ecclesia peregrinans natura sua missionaria est, Ad gentes 2). Sẽ không còn là
Giáo Hội nữa nếu như Giáo Hội không truyền giáo. Chính Chúa Giê-su, trước khi
về cùng Thiên Chúa Cha, đã trao lại sứ mạng truyền giáo cho Giáo Hội qua các
tông đồ:“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin Mừng”(Mc 16,15).
Nhưng không phải đợi đến khi về trời, Chúa mới trao sứ mạng này cho các Tông
Đồ, mà ngay khi còn ở tại thế, Chúa đã sai phái không chỉ 12 tông đồ ra đi rao
giảng Tin Mừng mà Người còn chỉ định thêm 72 môn đệ nữa.
Bài Tin Mừng
hôm nay, tường thuật lại sự kiện Chúa Giê-su sai 72 môn đệ ra đi loan báo Tin
Mừng. Khi thi hành sứ vụ loan báo tin mừng, Chúa muốn các ngài phải đặt mối ưu
tư truyền giáo lên hàng đầu, đừng quá bận tâm những chuyện vật chất khi truyền
dạy: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép; cứ ăn những gì người
ta dọn lên”
Trải qua mọi
thời, ở mọi nơi, Hội Thánh không ngừng thực hiện sứ mạng cao cả này. Từ 12 Tông
Đồ và 72 môn đệ, nay Hội Thánh Chúa đã phát triển và lan rộng đến mọi nơi trên
thế giới. Hội Thánh cũng muốn con cái của mình cùng thao thức và hành động cho
sứ mạng truyền giáo.
Phải chăng
truyền giáo là công việc của hàng giáo sỹ và những nhà chuyên môn? Không phải
như thế! Mỗi người tín hữu, khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội đều được tham dự vào
3 chức vụ của Hội Thánh đó là: ngôn sứ, tư tế và vương giả. Với chức vụ ngôn
sứ, mỗi người tín hữu có nhiệm vụ và bổn phận phải truyền giáo tùy theo bậc
sống và khả năng của mình.
Mục đích
truyền giáo là giới thiệu Chúa cho mọi người, giúp mọi người tin vào Chúa và
đón nhận ơn cứu độ. Là một tín hữu bình thường, chúng ta phải có sự hiểu biết
sâu xa về Chúa qua việc không ngừng trau dồi kiến thức giáo lý và học hỏi Phúc
âm. Vì làm sao ta có thể giới thiệu một người cho người khác nếu ta không hiểu
không biết người đó là ai?
Bên cạnh
việc giới thiệu Chúa cho người khác, chúng ta còn phải làm chứng cho Chúa trong
cuộc sống hằng ngày, đừng để đời sống của chúng ta phản chứng lại những gì
chúng ta loan báo trên môi trên miệng. Vì ngày hôm nay người ta cần chứng nhân
hơn thầy dạy, mặc dù thầy dạy cũng rất cần.
Vậy trước
tiên chúng ta can đảm tuyên xưng mình là người tin theo Chúa, đừng vì những lợi
ích vật chất mà ta chối bỏ niềm tin của mình.
Tiếp theo,
chúng ta can đảm sống cho những giá trị Tin Mừng như: sự thật, công bằng, bác
ái…mặc dù đôi lúc vì những giá trị này mà chúng ta phải chịu thiệt thòi, hiểu
lầm.
Cuối cùng
chúng ta phải thực hành niềm tin của chúng ta. Làm sao người ta có thể tin có
Chúa khi thấy một người Công Giáo không thực hành niềm tin và lòng bác ái. Có
ai đó đã thốt lên “Tôi tin có đạo Công Giáo nhưng tôi không tin người Công
Giáo” thật là đau lòng!
Lạy Chúa, Chúa đã từng băn khoăn khắc khoải “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”, Chúa muốn mỗi người chúng con hãy là những tay thợ gặt lành nghề. Xin Chúa cho chúng con biết noi gương thánh Luca thao thức sứ mạng loan báo Tin mừng cho mọi người và mọi nơi. Xin cho chúng con biết cộng tác với Hội Thánh trong sứ mạng truyền giáo với hết khả năng và sức lực của mình theo gương thánh Luca mà hôm nay GH mừng kính.
* Mùa Thường
niên: Lc 12, 8-12
Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giêsu tiếp tục khuyến khích các môn đệ hãy can đảm xưng nhận Chúa
trước mặt người đời, cũng như trước mặt vua quan thế quyền với những lý do sau:
- Chúa Giêsu
sẽ bênh vực họ trước mặt Thiên Chúa, nên người môn đệ mạnh dạn tuyên xưng niềm
tin vào Đức Giêsu. Còn ngược lại nếu chối bỏ Chúa Giêsu thì Người cũng sẽ chối
bỏ họ trước mặt Chúa Cha. Nếu chối bỏ Chúa Giêsu cũng là chối bỏ sự thật và
chân lý, bởi lẽ “Chúa Giêsu là đường là sự thật và là chân lý”. Mà chối bỏ chân
lý là xúc phạm đến Thần Chân Lý là Chúa Thánh Thần. Đó là tội mà Chúa Giêsu
khẳng định là sẽ không được tha.
Cuộc đời của
Giuđa Ítcariốt và Phêrô đều giống nhau là đã chối bỏ Chúa Giêsu. Nhưng lại có
kết quả khác nhau: ông Giuđa không biết ăn năn, không tin vào lòng thương xót
của Thiên Chúa nên đã đi tự tử. Còn thánh Phêrô đã được tha thứ, vì ông tin vào
tình thương tha thứ của Chúa nên đã ăn năn hối cải. Như thế tội xúc phạm đến
Chúa Thánh Thần là cố tình chối bỏ chân lý, sự thật mà không chân thành sám
hối.
- Có Chúa
Thánh Thần bảo vệ và hướng dẫn. Chúa Giêsu cho biết khi làm chứng cho Chúa chắc
chắn sẽ gặp nhiều nguy hiểm bởi thế gian và sẽ bị bắt hại bởi vua quan, chính
quyền. Nhưng Chúa Giêsu cũng bảo đảm với các môn đệ là có Chúa Thánh Thần luôn
hiện diện ngay bên để nâng đỡ họ: “Các con chớ lo lắng phải thưa làm sao, hay
phải nói thế nào: vì trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy các con phải nói thế
nào.”.
Lạy Chúa
Giêsu, xin ban Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con để chúng con can đảm
sống và làm chứng cho chân lý. Xin Chúa Thánh Thần giúp chúng con kiên vững
niềm tin để không bao giờ chối bỏ Chúa trước những lời mời gọi thấp hèn của thế
gian nhưng luôn mạnh dạn xưng nhận Chúa trước mặt người đời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét