SUY NIỆM LỜI CHÚA
TUẦN XXXI THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt Giang
THỨ BẢY-LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
Kh 7,2-4.9-14; 1Ga 3,1-3; Mt 5,1-12a
Suy niệm 1: CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN HẠNH
PHÚC THẬT
Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta
hướng vọng lên cao để chiêm ngắm vinh quang rạng ngời nơi các thánh Nam Nữ. Các
ngài đã trung thành bước theo Chúa đến cùng trên con đường “Tám mối phúc thật”,
dẫu phải chịu nhiều đau thương thử thách. Nên các ngài xứng đáng được Chúa ân
thưởng hạnh phúc nước trời.
Dâng thánh lễ hôm nay, một mặt
chúng ta chúc tụng ngợi mừng các thánh; mặt khác chúng ta cũng không quên xin
ơn Chúa ban cho chúng ta niềm tin yêu và lòng trung tín để dấn bước trên con
đường 8 mối phúc thật theo gương các thánh, với niềm hy vọng sẽ được chung niềm
vinh phúc cùng với các ngài trong nhà Cha trên trời.
Ở đời luôn có hai mặt thật và
giả. Hạnh phúc cũng vậy. Có những thứ đem đến cho con người hạnh phúc thật. Tuy
nhiên cũng có những thứ chỉ đem đến cho con người hạnh phúc giả tạo, không bền
lâu. Điều nghịch lý là ai cũng mong muốn có được hạnh phúc thật, nhưng rồi lại
thích đi tìm những thứ chỉ mang đến hạnh phúc giả tạo, chóng qua.
Xã hội ngày nay, nhiều người cho
rằng hạnh phúc là có 1,2,3,4,5 (một là vợ đẹp, hai là con ngoan (chứ
không phải như bảng hiệu đề: Mỗi gia đình 2 con vợ, chồng hạnh phúc), ba là
nhà 3 tấm, bốn là xe 4 bánh và năm là du lịch 5 châu). Thế nhưng thực tế cho
thấy, khi đạt được những điều mong ước ấy, con người vẫn không tìm thấy hạnh
phúc thật.
Như thế thì tiền bạc của cải, vật
chất tiện nghi, đam mê lạc thú nơi trần gian không lấp đầy được khát vọng sâu
xa nơi cỏi lòng con người và không là phương thế đưa đến hạnh phúc thật. Vậy ta
phải làm gì để có hạnh phúc thật?
Bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu
chỉ cho chúng ta biết những phương cách để đạt đến hạnh phúc đích thật. Đó
chính là thực thi 8 mối phúc thật.
Điều đáng nói là con đường 8 mối
phúc thật mà Chúa Giêsu đề ra hình như đi ngược lại với suy nghĩ thực tế của
con người thời nay và lắm khi trở thành xa lạ ngay cả đối với người Kitô hữu
chúng ta. Vì con người thời nay vẫn còn bám víu quá nhiều vào tiền bạc, của
cải, danh vọng... nên không dám chấp nhận những phương cách mà Chúa Giêsu đề ra
là sống tinh thần khó nghèo, từ bỏ, đau khổ hay hy sinh mạng sống mình vì chính
đạo, để phục vụ tha nhân và làm chứng cho những giá trị của tin mừng của Chúa.
Con đường 8 mối phúc không phải
là viễn vong, mơ hồ hay bất khả thi nhưng là con đường chính đạo. Bởi vì chính
Đức Giêsu đã kinh qua và đã đạt đến hạnh phúc vinh quang. Do đó muốn có hạnh
phúc thật chúng ta không thể đi theo con đường nào khác ngoài con đường Đức
Giêsu đã đi và đã chỉ dạy. Con đường khiêm hạ, khó nghèo, hi sinh từ bỏ và hiến
thân cho tha nhân bằng tình yêu.
Các thánh nam nữ mà chúng ta mừng
kính hôm nay, tất cả đã hân hoan bước vào con đường 8 mối phúc mà Chúa Giêsu đã
vạch ra và đã hâm hở tiến bước với lòng đầy tin tưởng, nên tất cả đã đi đến
đích điểm và đã lãnh nhận triều thiêng vinh quang nước trời do Chúa tặng ban.
Mừng lễ các Thánh Nam Nữ, ngoài
việc chúng ta tôn vinh chúc tụng các ngài là cha ông, bạn bè, người thân… của chúng
ta đã đi trọn con đường 8 mối phúc và nay đã khải hoàn vinh hiển trong vinh
quang; chúng ta còn phải nỗ lực nên thánh giữa đời theo gương các ngài, với
niềm xác tín như Thánh Augustinô: “Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi tại
sao lại không được?”.
Xin các thánh nam nữ ngự bên tòa
Chúa hằng nguyện giúp cầu thay cho chúng ta được luôn can đảm bước theo con
đường các ngài đã đi, bằng cách trung thành thực thi 8 mối phúc mà Chúa Giêsu
vạch ra, nhờ đó chúng ta mới có thể đạt được điều mà chúng ta hằng khao khát là
hạnh phúc đích thật. Amen.
Suy niệm 2: NÊN THÁNH LÀ ƠN
GỌI VÀ ĐÍCH ĐẾN
Trong 1 lần viếng thăm nước Anh,
Đức Thánh Cha Benedicto 16 đã thách thức giới trẻ: “Hãy là một vị thánh hơn là
một người nổi tiếng”.
“Hãy là một vị
Thánh” cũng là lời mời gọi
tha thiết của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta, khi phán bảo: “Các ngươi
hãy là Thánh vì Ta là Thánh” (Lv 11,44). Lời
mời gọi và thách thức ấy hôm nay được vang lên mạnh mẽ nhân ngày tôn vinh và
mừng kính trọng thể lễ các Thánh Nam Nữ.
Thiên Chúa luôn
yêu thương chúng ta hơn những gì chúng ta tưởng tượng, Ngài muốn ban tặng cho
chúng ta những điều tốt nhất hơn những gì chúng ta khát mong.
Vậy chúng ta
đừng để mình chìm sâu vào tinh thần thế tục thời đại nhưng biết vươn đến những
giá trị cao đẹp, bằng cách noi gương các Thánh trung thành bước theo Chúa trên
con đường 8 mối phúc thật, với mong muốn trở nên thánh hơn là người nổi tiếng.
Xin Chúa qua lời
chuyển cầu của các Thánh Nam Nữ ban cho chúng ta ơn khôn ngoan để nhận ra được
giá trị tốt nhất ở đời này không phải là giàu sang, danh vọng, chức quyền… mà
là nên Thánh. Vì đó chính là ơn gọi và cùng đích của đời ta.
Có thể nói tháng 11 là tháng mà
GH nhắc nhở chúng ta hãy liên hệ với tổng đài để kết nối mạng:
- Nối mạng với trời qua việc
chiêm ngưỡng vinh quang của các thánh nam nữ để noi gương, bắt chước và xin trợ
giúp.
- Nối mạng với đất qua việc nhìn
xuống các đẳng linh hồn trong nơi luyện tội mà tương trợ, giúp đỡ các ngài,
bằng cách cầu nguyện và làm thật nhiều việc lành phúc đức nhằm giúp đỡ các ngài
sớm được thanh luyện nên trinh trong, xứng đáng được bước vào nước trời tận
hưởng niềm hạnh phúc vĩnh cửu cùng các thánh.
Hôm nay, GH mời gọi chúng ta
ngước vọng lên trời cao để chiêm ngắm vinh quang rạng ngời của các thánh mà
chúc mừng, ngợi khen…, bởi vì sau cuộc hành trình bước theo Chúa các
ngài đã trung thành thực thi tích cực 8 mối phúc thật do Chúa chỉ dạy với lòng
tin tưởng và phó thác nên giờ đây các ngài đã được Chúa ân thưởng hạnh phúc
viên mãn trong nhà Cha trên trời.
- Bài I: Trích sách Khải
huyền mà chúng ta vừa nghe, có ý an ủi những tín hữu trong thời kỳ bị bách
hại. Những con số được nêu ra trên đây chỉ là tượng trưng cho một đoàn lũ đông
đảo những người đã được cứu rỗi nhờ máu của Con Chiên, tức là giá máu cứu chuộc
của Chúa Giêsu.
- Bài II: Thánh Gioan nhắc nhở
chúng ta phải tin tưởng vào Thiên Chúa; cũng như ý thức rằng chúng ta
được nhận biết Thiên Chúa đó là nhờ và qua Giáo Hội.
- Bài Tin mừng hôm nay chỉ dẫn
cho chúng ta biết cách làm thế nào để nên thánh. Bí quyết nên thánh được Chúa
Giêsu vạch ra qua con đường 8 mối Phúc Thật, đây được xem là
bảng hiến chương nước trời do chính Chúa Giêsu long trọng công bố trên núi khi
khởi đầu sứ mạng loan báo tin mừng cứu độ của Người. Con đường đó đòi hỏi chúng
ta phải chấp nhận hy sinh từ bỏ, can đảm đón nhận những gian lao thứ thách với
tình yêu, niềm tin và hy vọng vào ơn cứu chuộc của Chúa,
Hân hoan mừng kính trọng thể lễ
các thánh nam nữ trên thiên đàng, chúng ta càng thấu hiểu hơn về mầu nhiệm các
thánh cùng thông công trong Giáo Hội. Mỗi khi suy niệm về mầu nhiệm các
thánh cùng thông công, chúng ta lại càng vững tin hơn vào ơn cứu độ của
Thiên Chúa, nhờ tình liên đới giữa các kitô hữu hiệp thông trong cùng Hội
Thánh Người.
- Các thánh là những con người
như chúng ta. Trước khi là thánh, các ngài cũng đã trải qua nhiều
gian lao đau khổ để bước theo Chúa Giêsu.
- Các thánh nam nữ là những con
người như chúng ta, khi còn sống ở thế gian, các ngài cũng có những tham sân
si, cũng kiêu căng tự mãn, cũng giận hờn ghen ghét, cũng tham lam và có
những ham muốn bất chính không khác gì chúng ta. Nhưng các ngài đã biết
tin tưởng, cậy trông vào tình thương và ân sủng của Chúa nên các
ngài đã quyết tâm đứng lên, đã sám hối và làm lại cuộc đời. Các ngài đã
can đảm chiến đấu và vượt thắng được những cám dỗ, để rồi hôm nay các
ngài được Chúa ân thưởng niềm hạnh phúc thiêng đàng, cùng với Mẹ Maria và
các thiên thần trên thiên quốc.
- Các thánh nam nữ thuộc đủ
mọi thành phần như chúng ta, có những vị làm vua, có vị làm
quan, làm bác sĩ, kỹ sư, thấy giáo, nô lệ; có vị làm giáo hoàng, giám mục, linh
mục, phó tế, và sĩ nam nữ v.v... nghĩa là các ngài có đủ mọi thành
phần giai cấp trong xã hội, với những hoàn cảnh sống khác nhau, nhưng các
ngài đã có một mục đích chung là nỗ lực nên thánh, phải trở thành bạn hữu với
Thiên Chúa trong chính bổn phận sống hằng ngày của mình.
- Các thánh nam nữ là những người
như chúng ta, nhưng các ngài đã biết kiên nhẫn bước đi theo con đường
“Tám Mối Phúc Thật”, sống triệt để hiến chương nước trời do Chúa Giêsu ban hành
ngay tại trần thế này.
1. Các ngài giàu có nhưng đã sống
tinh thần siêu thoát khó nghèo vì Nước Trời.
2. Các ngài bị người khác vu oan
giá họa nhưng vẫn hiền lành bao dung với họ.
3. Các ngài đã chia vui với người
vui và buồn với người buồn, nên được Thiên Chúa an ủi ngay khi còn ở đời này.
4. Các ngài mong muốn được trở
nên người công chính giữa một xã hội đầy mưu mô xảo trá, nên được Thiên Chúa
cho thỏa lòng.
5. Các ngài biết thương xót
người, tức là biết chạnh lòng trước cảnh thương tâm của người khác, nên được
Thiên Chúa xót thương.
6. Trong các ngài cũng có người
sống trong danh vọng, lây nhiễm bụi trần với những đam mê của kiếp người, nhưng
các ngài đã giữ được tâm hồn trong sạch, vì thế các ngài được nhìn thấy Thiên
Chúa.
7. Các ngài đi đến đâu là đem
bình an của Thiên Chúa đến nơi đó; các ngài được gọi là những người biết kiến
tạo hoà bình, nên các ngài xứng đáng được gọi là con Thiên Chúa.
8. Các ngài bị bắt bớ, bị đánh
đập, bị tra tấn, bị tù đày... vì các ngài sống và tin vào Đức Chúa Giê-su, Đấng
đã và sẽ ban phần phúc Nước Trời cho những ai tin cậy vào Người, nên các ngài
đã được Chúa ban thưởng Nước Trời làm gia nghiệp sau khi từ giã cõi đời này...
Cộng đoàn thân mến,
Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta
nên thánh. Trong Cựu Ước, Người đã phán: "Các ngươi phải thánh
thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh" (Lv
19,2). Đức Giê-su khi rao giảng về Tin Mừng Nước Thiên Chúa, cũng
kêu gọi: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng
hoàn thiện.” (Mt 5, 48). Như vậy, việc nên thánh của chúng ta theo ý
Thiên Chúa là một đòi hỏi cấp bách, khẩn thiết. Đó cũng trở thành bổn phận và
nhiệm vụ quan trọng mà mỗi tín hữu phải triệt để quan tâm thi hành.
Các thánh nam nữ đều là những con
người như chúng ta, nhưn các ngài đã đáp lại lời mời gọi của Chúa và trở thành
những vị thánh, thì chúng ta cũng có thể trở nên thánh như các ngài, bởi vì nên
thánh là đòi hỏi của Phúc âm và là mục đích tối hậu của người Kitô hữu chúng
ta. Nói như thánh Augustinô thì: "Ông nọ bà kia nên thánh được, còn
tôi, tại sao không?".
Xin Đức Mẹ Maria, các thánh nam nữ trên thiên quốc cầu bàu cùng Chúa cho chúng ta, là những người đang tiến bước trên con đường đi về quê trời, được noi gương của các ngài, biết quyết tâm đổi mới đời sống, biết đứng dậy khi ngã quỵ trong tội, biết hy sinh phục vụ và tha thứ cho nhau vì lòng yêu mến Chúa và yêu thương nhau, với niềm tin và hy vọng vào sự sống đời đời theo gương các thánh nam nữ mà chúng ta mừng kính hôm nay. Amen. (St)
Suy niệm 3: PHÚC THẬT
Hàng năm cứ vào ngày đầu tiên của
tháng 11, GH dành riêng một ngày để mừng kính trọng thể toàn thể các thánh Nam
Nữ được Chúa trọng thưởng trên trời.
Điều này gợi lên trong chúng ta
những thắc mắc:
1. Trong năm phụng vụ GH đã dành
nhiều lễ trọng, lễ kính và lễ nhớ các Thánh rồi, sao hôm nay lại mừng kính
chung các Thánh nữa?
2. Các Thánh là ai?
3. Tại sao ta phải nên Thánh?
Đó là 3 suy tư tôi muốn chia sẻ
cùng với ông bà và anh chị em:
* Thứ nhất, tại sao GH dành ngày
hôm nay để mừng kính trọng thể toàn thể các Thánh? Thưa có 4 lý do:
1. Vì các thánh quá nhiều, không
thể mừng mỗi vị vào một ngày riêng biệt được. Chỉ tính 25 năm đầu triều đại của
đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, ngài đã tuyên thánh đến 476 vị, 1.315 chân
phước. Mà lịch phụng vụ chỉ có 365 ngày trong năm. Nếu mừng mỗi ngày một vị
thánh thì không đủ ngày. Huống hồ trải qua biết bao triều đại giáo hoàng, trong
suốt hơn hai ngàn năm qua, con số những vị thánh trong GH là nhiều vô kể, đúng
như hình ảnh trong bài đọc 1, trích sách khải huyền hôm nay diễn tả: “tôi
đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi
chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con
Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô
rằng: “Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Ðấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên”. Đoàn
người đông đảo mặc áo trắng ấy là những người đã được cứu rỗi nhờ máu của con
Chiên, tức là nhờ giá máu cứu chuộc của Chúa Kitô
2. Vì không phải vị thánh nào
cũng đều được GH tuyên phong. Còn rất nhiều vị có đời sống tốt lành, thánh
thiện. Trước mặt Chúa họ đã là thánh, nhưng GH chỉ biểu dương những vị thánh có
đời sống nhân đức nổi bậc nhằm nêu gương sáng cho chúng ta mà thôi.
3. Vì còn rất nhiều vị thánh vô
danh, không ai biết đến. Các vị ấy có thể là người thân, là ông bà tổ tiên, là
những người cùng lối xóm và bạn bè của chúng ta. Các ngài đã từng hiệp hành với
chúng ta trong cuộc đời trần thế này, nhưng nay họ đã được hưởng hạnh phúc
thiên đàng.
4. Lễ các thánh Nam Nữ nhắc nhớ
chúng ta về quê hương đích thật mà chúng ta cần hướng đến, đó là quê trời. Ý
thức như vậy, sẽ giúp chúng ta thêm niềm hy vọng và cố gắng bước đi cùng các
thánh trên con đường 8 mối Phúc mà Chúa Giêsu mời gọi.
* Thứ hai, các Thánh Nam Nữ là
ai?
Thánh theo nghĩa Hán Việt: là sự thiêng liêng, cao cả,
tôn kính, thường dùng để miêu tả phẩm chất của các vị thần thánh, thiên sứ, tiên nhân hoặc các thánh nhân.
Theo nghĩa Thánh kinh: Thánh có nghĩa chung là
“kitô hữu”, hợp thành cộng đoàn qui tụ chung quanh Đức Giêsu làm thành Dân
thánh. Sự thánh tách khỏi sự phàm tục. Các Thánh là những người đã được Thiên
Chúa làm gia nghiệp.
Như thế các Thánh là những người
giống chúng ta: khi còn sống, các ngài cũng đầy những bất toàn, yếu đuối, cả
tội lỗi nữa… Nói cách khác, các thánh Nam Nữ là những con người bình thường như
mọi người. Nhưng các ngài nên thánh là nhờ vào những cố gắng hy sinh từ bỏ để
nên giống Chúa Kitô mỗi ngày trong đời sống nghèo khó, hiền hòa, bác ái, khiêm
tốn, hy sinh, phục vụ….
Có những vị nên thánh bằng lối
đường khó nghèo, không màn đến của cải, danh lợi, chức quyền. Các ngài sống
tinh thần siêu thoát, an nhiên nên được Chúa chúc phúc: “Phúc cho ai có
tinh thần nghèo khó”.
Có những vị đã dành trọn cuộc đời
để đấu tranh cho công lý, hoà bình và kiến tạo tình yêu thương hiệp nhất cho
đồng loại. Các ngài đã nêu cao tinh thần bất khuất như lời dạy của Chúa: “Phúc
cho ai xây dựng hòa bình”.
Có những vị đã anh dũng hy sinh
cả mạng sống mình để trung thành với đức tin và bảo vệ Đạo Thánh Chúa.
Có vị luôn nở nụ cười khả ái với
mọi người, không hận thù, tranh chấp, đố kị, hiềm khích nên xứng đáng đón nhận
được phúc lành của Chúa: “Phúc cho ai hiền lành”.
Có những vị sẵn lòng đón nhận
những đau khổ thể xác và tinh thần vì lòng yêu mến và phó thác vào đường lối
của Chúa nên được Chúa chúc phúc: “Phúc cho ai đau buồn”.
Có những vị trọn đời sống công
chính, không để mình lây nhiễm bởi những cám dỗ của ba thù, trở nên mẫu gương
trong sạch cho chúng ta noi theo, nên xứng đáng được Chúa chúc phúc: “Phúc
cho ai đói khát công chính, phúc cho ai thanh sạch”.
Như vậy, các thánh đã đi theo
những nẻo đường Phúc Thật mà Chúa Kitô đã giới thiệu. Mặc dù khi bước đi theo
Chúa trên con đường đó đầy những gian lao thử thách nhưng với sức mạnh của niềm
tin và tình yêu Chúa nên tất cả các ngài đã thành công và đã đến đích.
* Thứ ba, tại sao ta phải nên
thánh? Nếu các thánh
đã thành công khi chọn lựa bước theo con đường Tám Mối Phúc Thật, thì chúng ta
cũng sẽ thành công một khi chúng ta biết bước đi trên con đường ấy, cho nên:
- Hãy sống tinh thần nghèo khó
bằng sự xa tránh mọi thứ tham lam bất chính để chỉ trung tín và phó
thác vào một mình Thiên Chúa quyền năng mà thôi.
- Hãy sống hiền lành và khiêm
nhượng trong lòng bằng cách rộng lượng bao dung tha thứ cho những ai xúc phạm
mình, luôn kiến tạo sự hòa nhã, vui tươi với mọi người.
- Hãy chấp nhận mọi gian lao thử
thách như là thập giá cần phải vác lấy để biến nó thành thánh giá nở hoa phần
rỗi cho mình và cho tha nhân.
- Hãy luôn hướng đến giá trị nước
trời, tìm kiếm sự thánh thiện, để mỗi ngày nên hoàn thiện chính mình hơn qua
các nhân đức.
- Hãy tỏ lòng thương xót, mến
yêu, đón nhận mọi người trong tình anh em. Sẵn sàng tha thứ, làm ơn và cầu
nguyện cho những ai làm hại chúng ta.
- Hãy quyết tâm giữ tâm hồn mình
luôn thanh sạch, xa tránh những cám dỗ làm cản trở con đường nên thánh của ta.
- Hãy theo đuổi con đường hiếu
hòa. Sống ở đâu, hiện diện nơi nào, thì biến nơi đó thành niềm hy vọng và bình
an nhờ lối sống tích cực, lạc quan và yêu thương phục vụ chân thành của ta.
- Hãy mạnh dạn tuyên xưng đức
tin, và sẵn sàng làm chứng cho niềm vui tin mừng của Chúa bằng mọi cách
thế mà không hề sợ hãi.
Làm người, ai cũng khát khao được
hạnh phúc, nhưng con người lại bị nhận chìm trong nỗi bất hạnh bởi không biết
cội nguồn hạnh phúc nằm ở đâu. Xin Chúa ban cho chúng ta ơn khôn
ngoan, để chúng ta biết đâu là hạnh phúc thật và vĩnh cửu và đâu là
hạnh phúc giả tạo, không vững bền mà chọn lựa đúng đắn. Con đường Tám Mối Phúc Thật
dẫu là con đường hẹp, đường thập giá ít ai chọn lấy, nhưng đó lại là con đường
dẫn đến hạnh phúc đích thực.
Xin Chúa ban cho chúng ta đủ can đảm để bước đi trên con đường ấy với niềm hy vọng sẽ được gia nhập vào đoàn người đông đảo “mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế, miệng lớn tiếng tung hô chúc tụng danh thánh Chúa cùng các thánh nam nữ trên thiêng quốc. Cùng với lời tâm niệm như thánh Augustino: “ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi, tại sao không?” (St)
Suy niệm 4: CÁC THÁNH ĐƯỢC
CHÚA THƯƠNG VÀ THƯỞNG
Lm. Nguyễn Xuân Trường
Suốt năm phụng
vụ đã có nhiều ngày mừng kính riêng các thánh khác nhau. Tại sao lại có thêm
ngày lễ Các Thánh Nam Nữ?
Bởi vì có đông
đảo các thánh. Có nhiều thánh bởi vì không chỉ do công trạng cá nhân mỗi người,
mà chính là nhờ công ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu ban cho các thánh.
1. ĐÔNG
ĐẢO
Bài đọc 1 cho
thấy các thánh trên trời như một “đoàn người đông đảo, không tài nào
đếm nổi”. Cần loại bỏ ý nghĩ làm thánh chỉ dành riêng cho một số ít thành
phần ưu tuyển, ngược lại, làm thánh dành cho đông đảo mọi người. Nói vậy là vì
Kinh Thánh khẳng định con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Và
Chúa Giêsu đã mời gọi: “Các con hãy nên thánh như Cha các con trên
trời là Đấng Thánh”. Phải nói rằng: Chúa tạo dựng con người để họ trở nên
thánh vì Chúa đã đặt sẵn “gien thánh”, dòng máu thánh trong mọi người rồi. Thế
nên, bất cứ ai cũng có thể nên thánh.
2. PHÚC PHẬN
Lễ Các Thánh,
Giáo Hội cho đọc bài Phúc Âm về các mối phúc thật. Như vậy làm thánh là để
hưởng những phần phúc Chúa ban cho mỗi người. Lời Chúa cho thấy nên thánh không
phải do con người lập được những công lao hiển hách, mà là do công ơn Chúa cứu
độ nhờ máu Con Chiên.
Các mối phúc
cũng cho thấy các thánh được hưởng phúc Nước Trời không phải vì đã làm nên
những thành tựu lớn lao, mà là vì được Chúa xót thương ban thưởng phúc trường
sinh: “Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở
trên trời thật lớn lao.”
Thánh là kiến
tạo hạnh phúc thật. Hạnh phúc thật là gắn bó với Chúa là tình yêu. Trong tình
yêu Chúa vợ chồng có thể ôm chầm lấy nhau và reo lên: “Ôi, ông thánh của em!
Ôi, bà thánh của anh!” Chính tình mến Chúa yêu người đã đưa Các Thánh Nam Nữ
vào hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên Nước Trời. Amen.
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN-NĂM C
LỄ CÁC ĐẲNG
SỰ CHẾT KHÔNG PHẢI LÀ HẾT, NHƯNG LÀ CỬA NGÕ ĐƯA TA VÀO CÕI SỐNG VĨNH HẰNG
Trong nhịp sống bận rộn hằng
ngày, có lẽ ít ai trong chúng ta dừng lại để suy nghĩ về cái chết; một điều
chắc chắn sẽ đến với mọi người, nhưng lại là điều khiến nhiều người sợ hãi và
né tránh.
Chiều hôm nay, Giáo Hội mời gọi
chúng ta dừng bước, hướng lòng về những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta,
trong đó có: ông bà, cha mẹ, bạn bè, ân nhân, và tất cả các tín hữu đã qua đời
để tưởng nhớ và cầu nguyện cách đặc biệt cho các ngài.
Đây là ngày của tình yêu,
lòng biết ơn và niềm hy vọng:
- yêu thương những người đã
khuất,
- biết ơn vì họ đã gieo mầm đức
tin cho ta,
- hy vọng rằng một ngày kia,
chúng ta cũng sẽ được sum họp với họ trong hạnh phúc vĩnh hằng.
Nếu ngày lễ Các Thánh hướng lòng
ta về niềm vinh phúc trên trời, thì hôm nay, lễ Các Đẳng Linh Hồn hướng ta
về luyện ngục, nơi những linh hồn đang được Chúa thanh luyện để nên trong
sạch mà chiêm ngắm Tôn Nhan Người.
Người ta kể rằng: Một hôm, Thần
Chết đến gõ cửa một ngôi nhà và bảo với ông chủ
- “Đã đến lúc ngươi phải
theo ta đi rồi!”
Ông chủ hoảng sợ, van xin:
- “Xin cho tôi thêm ít thời gian,
tôi còn nhiều việc chưa làm xong!”
Thần Chết bình thản đáp:
- “Ta đã gửi cho ngươi nhiều thư
báo trước rồi: tóc ngươi đã bạc, mắt ngươi đã mờ, chân ngươi đã yếu... mà ngươi
có để ý đâu?”
Câu chuyện tuy vui nhưng khiến ta
suy nghĩ: cái chết không bao giờ đến bất ngờ, vì Chúa luôn gửi tín hiệu để báo
cho ta để chuẩn bị, nhưng vì mãi mê thế sự nên nhiều khi ta lại quên mất.
Có thể nói cả cuộc đời ta là một
hành trình chuẩn bị để gặp gỡ Chúa. Vì đối với người Kitô hữu, thì chết
không phải là hết, nhưng là cửa ngõ để ta bước sang cõi sống mới trong Đức
Kitô, Đấng đã chết và sống lại để mở đường cho ta đến sự sống đời đời.
Thánh Phaolô trong thư gửi tín
hữu Rôma khẳng định với ta rằng: “Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô,
chúng ta cũng sẽ cùng sống lại với Người.” (Rm 6,8), đúng như lời Chúa
Giêsu dạy trong Tin Mừng: “Ai tin vào Con thì được sống muôn
đời.” (Ga 6,40)
Đó là nền tảng đức tin và là niềm
hy vọng mà hôm nay, trong ngày cầu cho các đẳng linh hồn, Hội Thánh muốn củng
cố nơi chúng ta.
Thánh lễ hôm nay, tôi mời gọi
cộng đoàn cùng tôi chiêm ngắm lại mầu nhiệm sự chết và sự sống lại trong Đức
Kitô, để ta hiểu rõ hơn:
1. Nguồn gốc, ý nghĩa của ngày lễ
này?
2. Và ta phải sống thế nào cho
phù hợp với niềm hy vọng phục sinh mà ta tin nhận.
1. Nguồn gốc và ý nghĩa của ngày
lễ Các Đẳng Linh Hồn
- Nguồn gốc: Từ thế kỷ XI,
Thánh Ôdilô, viện phụ đan viện Cluny bên Pháp, đã khởi xướng
việc dành riêng ngày 2 tháng 11 để cầu nguyện cho những người đã qua
đời.
Ngài muốn rằng sau lễ kính Các
Thánh (1/11), toàn thể Hội Thánh hãy hướng lòng về những người đang được
thanh luyện trong luyện ngục, để cầu xin Chúa thương tha thứ và đón họ vào
hưởng phúc Thiên Đàng.
Truyền thống ấy nhanh chóng lan
rộng, và Đức Giáo hoàng Gioan XIV đã công nhận, cho phép toàn thể
Giáo Hội cử hành. Từ đó đến nay, ngày 02/11 trở thành Ngày tưởng
nhớ và cầu cho các tín hữu đã qua đời, một ngày chan chứa tình yêu, lòng biết ơn
và niềm hy vọng.
- Ý nghĩa: Ngày
lễ hôm nay gợi lại cho ta mầu nhiệm các thánh cùng thông công, một chân lý
rất đẹp của đức tin.
Hội Thánh công giáo gồm ba phần
với ba tình trạng hiệp nhất với nhau trong tình yêu của Đức Kitô:
- Hội Thánh khải
hoàn trên Thiên Đàng (các Thánh),
- Hội Thánh đau
khổ trong luyện ngục (các linh hồn đang thanh luyện),
- Hội Thánh lữ hành nơi
trần gian (chúng ta).
Ba thành phần ấy không tách biệt,
nhưng liên kết chặt chẽ với nhau trong tình hiệp thông thiêng liêng.
Khi ta dâng lễ, đọc kinh, làm
việc lành cho các linh hồn, ta không chỉ giúp họ sớm được hưởng Nhan Thánh
Chúa, mà còn thắt chặt sợi dây hiệp nhất giữa các thế hệ đức tin.
Hội Thánh tin rằng, vì ta
là chi thể trong Thân Thể mầu nhiệm Đức Kitô, vì thế những công phúc của
người này có thể giúp ích cho người kia.
Nên khi ta cầu nguyện cho các
linh hồn, là ta thực hiện một hành vi đức ái thiêng liêng rất cao quý, vì
qua đó ta:
- Bày tỏ lòng biết ơn: với
tổ tiên, ông bà, cha mẹ, ân nhân đã đi trước ta trong đức tin;
- Thể hiện tình hiệp thông
đức tin: chia sẻ công phúc, giúp đỡ nhau trên đường về quê trời;
- Gieo niềm hy vọng: rằng
mai này, khi ta ra đi, Hội Thánh cũng sẽ cầu cho ta như ta cầu cho họ hôm nay.
Đó là niềm hy vọng phục sinh mà
ngày lễ hôm nay muốn khơi dậy nơi mỗi người chúng ta.
2. Vậy ta phải sống thế nào
cho phù hợp với niềm hy vọng phục sinh mà ta tin nhận?
Dựa vào lời dạy của Chúa
Giêsu: “Ai thấy Con và tin vào Người Con ấy thì được sống muôn đời, và
Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 6,40), Thánh Phaolô
khẳng định với chúng ta rằng: “Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô,
chúng ta cũng sẽ cùng sống lại với Người.” (Rm 6,8)
Tuy nhiên niềm tin vào sự
sống đời sau không chỉ là một ý tưởng, mà phải được thể hiện bằng những hành
động cụ thể, vì như Thánh Giacôbê tông đồ đã nói: “Đức tin không có
việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Việc làm cụ thể để thể hiện đức
tin vào sự sống lại mà hôm nay chúng ta dành cho các đẳng linh hồn phải là:
a. Cầu nguyện và dâng Thánh
Lễ : Thánh Lễ là hy tế cao
trọng nhất, vì nơi đó chính Đức Kitô hiến mình cho nhân loại.
Khi ta hiệp dâng Thánh Lễ, là ta
cùng dâng chính Đức Kitô để cầu xin ơn tha thứ và ơn giải thoát cho các linh
hồn.
b. Làm việc lành phúc đức
và hy sinh: Mỗi việc bác ái, mỗi lần ta tha thứ, mỗi việc tốt ta làm vì
danh Chúa nếu ta dâng cho các linh hồn đều trở thành của lễ cứu độ giúp
họ sớm được hưởng vinh phúc.
c. Viếng đất thánh và tưởng
nhớ với lòng hiếu thảo: Khi ta đến nghĩa trang, thắp nén nhang hay đọc một kinh cầu nguyện, đó
không chỉ là nghi thức, mà là hành động của lòng hiếu thảo và đức tin,
nhắc ta rằng mình cũng sẽ theo bước họ về với Chúa.
d. Sống thánh thiện và chuẩn
bị cho chính mình: Cách tốt nhất để
giúp các linh hồn là sống tốt hôm nay. Vì khi ta sống công chính, yêu
thương, siêng năng lãnh nhận Thánh Thể, “Bánh Hằng Sống”, ta không chỉ
nên thánh, mà còn góp phần làm phong phú Nhiệm Thể Chúa Kitô, giúp ích cho toàn
thể Hội Thánh.
Anh chị em thân mến,
Trong Đức Kitô, sự chết
không còn là ngõ cụt, nhưng là cửa ngõ của sự sống đời đời. Khi ta cầu
nguyện cho người đã khuất, ta không chỉ giúp họ, mà còn bồi đắp trong
chính mình niềm tin và lòng trông cậy.
Xin cho Thánh lễ hôm nay giúp ta:
- Biết yêu thương và cầu nguyện
cho nhau khi còn sống,
- Biết tưởng nhớ và dâng công
phúc cho người đã khuất,
- Và biết sống mỗi ngày trong ánh
sáng phục sinh của Đức Kitô.
“Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin
cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi
trên họ.” Amen.
SỐNG MẦU NHIỆM CÁC
THÁNH CÙNG THÔNG CÔNG
- Có một cậu bé đến hỏi cha xứ:
Thưa cha, sao trong tháng 11 nhà thờ mình lại có nhiều lễ cầu cho người chết
vậy ạ?
- Cha xứ mỉm cười
đáp: Vì những người chết vẫn còn “sống nợ”!
- Cậu bé tròn mắt hỏi lại: “Sống
nợ” là sao, thưa cha? Người chết rồi mà còn nợ nần gì nữa?
- Cha xứ hiền hòa nói: Họ vẫn còn
“nợ” Thiên Chúa một chút tình yêu chưa trọn, một chút thánh thiện chưa đủ. Và
chúng ta, những người đang sống, có nhiệm vụ giúp họ “trả nợ” ấy bằng lời cầu nguyện,
việc lành, và Thánh Lễ.
Câu chuyện ấy nghe có vẻ dí dỏm,
nhưng lại chạm đến một chân lý sâu xa của đức tin: trong Hội Thánh, không
ai sống cho riêng mình, cũng không ai chết cho riêng mình, vì tất cả đều hiệp
thông trong tình yêu của Đức Kitô.
Chiều nay, chúng ta quy tụ trong
nhà Chúa để hiệp dâng Thánh Lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời, đặc biệt là
những người thân yêu của chúng ta. Đây là dịp để ta sống lại niềm cậy trông
vào mầu nhiệm Các Thánh cùng thông công, và xác tín mạnh mẽ vào sự
sống vĩnh cửu mà Chúa hứa ban.
1. Nền tảng Lời Chúa soi sáng
niềm cậy trông
Trước hết, để nuôi dưỡng niềm hy
vọng ấy, chúng ta cùng để Lời Chúa hôm nay soi sáng tâm hồn và củng
cố đức tin của chúng ta.
Cả ba bài đọc cùng vang lên một
sứ điệp chung: “Sự chết không tiêu diệt con người, vì Đức Kitô đã chiến
thắng sự chết.”
- Bài đọc I: Giữa đau khổ
tột cùng, ông Gióp vẫn kêu lên: “Tôi biết rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng
sống.” Đức tin ấy giúp ông hy vọng tuyệt đối vào Thiên Chúa trung tín,
Đấng sẽ cho ông được thấy Ngài “bằng chính đôi mắt của mình.”
- Bài đọc II: Thánh Phaolô
dạy rằng: “Những ai đã được dìm vào cái chết của Đức Kitô thì cũng được
sống lại với Người.” Nhờ phép Rửa, ta được kết hợp với Chúa trong cái
chết và sự phục sinh của Người.
- Bài Tin Mừng: Chúa Giêsu
quả quyết: “Ai ăn Thịt và uống Máu Ta thì sẽ được sống muôn đời.” Mỗi
lần rước Thánh Thể, ta được kết hiệp với Đấng đã chiến thắng sự chết là bảo
chứng của sự sống đời đời.
Như vậy, Lời Chúa hôm nay đặt nền
tảng cho niềm tin của chúng ta: Đức Kitô chịu chết và sống lại chính là
bảo chứng cho sự sống lại của mọi tín hữu. Từ niềm tin ấy, Hội Thánh giúp
ta hiểu sâu hơn qua mầu nhiệm Các Thánh cùng thông công, nơi mọi tín hữu,
dù sống hay đã qua đời, vẫn gắn bó mật thiết trong tình yêu của Chúa.
2. Mầu nhiệm Các Thánh cùng thông
công
Nếu Lời Chúa cho ta biết Đức
Kitô là nguồn sự sống, thì Hội Thánh lại dạy ta sống mối hiệp
thông trong tình yêu ấy.
Hội Thánh gồm ba phần trong cùng
một Thân Thể mầu nhiệm của Đức Kitô:
- Hội Thánh Khải Hoàn trên
trời – là các thánh được hưởng phúc.
- Hội Thánh Đau Khổ – là các
linh hồn đang thanh luyện nơi luyện ngục.
- Hội Thánh Lữ Hành – là
chúng ta còn đang bước đi giữa trần gian.
Dù ở ba trạng thái khác nhau,
nhưng tất cả đều liên kết chặt chẽ bằng mối dây yêu thương.
Những linh hồn nơi luyện ngục
không thể tự giúp mình, nên họ trông đợi nơi lời cầu nguyện và việc lành của
ta. Khi ta cầu cho họ, ta thực thi mầu nhiệm hiệp thông thiêng liêng, nối
kết giữa trời và đất, giữa người sống và người đã khuất.
Thật cảm động khi biết
rằng: mỗi lời kinh, mỗi Thánh Lễ, mỗi việc lành nhỏ bé của ta có thể
chạm tới các linh hồn trong luyện ngục, giúp họ thanh luyện để sớm được hưởng
tôn nhan Chúa.
Mầu nhiệm này là mầu nhiệm
của tình yêu vượt qua biên giới sự chết, thứ tình yêu mà Sách Diễm Ca nói
đến: “Tình yêu mạnh hơn sự chết.” (Dc 8,6)
Hiểu được mầu nhiệm hiệp thông
ấy, ta không thể chỉ dừng lại ở niềm tin lý thuyết. Đức tin chân thật luôn
dẫn đến hành động. Vậy ta phải làm gì để thể hiện tình hiệp thông ấy cách
cụ thể?
3. Ta sống mầu nhiệm hiệp thông
- Cầu nguyện và dâng Thánh
Lễ cho các linh hồn chính là hành động bác ái thiêng liêng cao quý nhất.
- Lãnh nhận và chuyển nhượng
ơn Toàn Xá cho các linh hồn, nhất là trong tháng 11.
- Viếng nghĩa trang, cầu
nguyện bên phần mộ, thắp lên ngọn nến của đức tin và lời yêu thương.
- Làm việc bác ái thay cho
các linh hồn: giúp người nghèo, thăm bệnh nhân, an ủi kẻ khổ đau.
- Dạy con cháu biết cầu
nguyện cho ông bà tổ tiên, để đức tin và lòng hiếu thảo được tiếp nối muôn đời.
Sống những điều ấy, ta không chỉ
giúp các linh hồn mau hưởng Nhan Thánh Chúa, mà còn gieo hạt hy vọng cho
chính cuộc đời mình. Vì như Chúa phán: “Phúc thay ai có lòng xót
thương, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.” (Mt 5,7)
Anh chị em thân mến,
Cái chết không phải là chấm hết,
mà là cửa ngõ bước vào sự sống mới. Cùng với ông Gióp, ta xác tín
rằng: “Chính tôi sẽ được thấy Thiên Chúa; chính tôi, chứ không phải
người khác, sẽ nhìn ngắm Ngài.” (G 19,27a)
Xin cho các đẳng linh hồn sớm
được nghỉ yên trong Chúa, và xin cho chúng ta biết sống trọn đức tin, đức cậy,
đức mến, để mai sau cùng được hợp tiếng với các thánh mà ca tụng Chúa muôn
đời. Amen.
LỄ I: G 19,1.23-27a; Rm 5,5-11;
Ga 6,37-40
Suy niệm 1:
Kính thưa quý ông bà và anh chị
em,
Những ngày này chúng ta được mời
gọi sống đỉnh cao của mầu nhiệm hiệp thông trong GH. Hiệp thông trong ân phúc
và hiệp thông trong cả tội lỗi.
Nếu hôm qua chúng ta
được hiệp thông với các thánh trên trời và cậy nhờ công đức của các ngài,
thì hôm nay chúng ta được kêu gọi để hiệp thông với các đẳng linh hồn
trong nơi luyện tội để trao quà ơn thánh bằng tình bác ái yêu thương.
Xác tín vào mầu nhiệm các thánh
cùng thông công, với niềm tin vững vàng vào ơn cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta
hãy dâng những hy sinh, những việc làm phúc đức cùng những lời nguyện cầu
nguyện chân thành lên trước tòa Chúa.
Xin Chúa thương đón
nhận những của lễ hy sinh chúng con mà tha thứ mọi hình phạt tạm cho
các đẳng linh hồn trong nơi luyện tội, nhất là linh hồn tổ tiên, ông
bà, cha mẹ và bạn hữu của chúng con, để các ngài sớm được dự
phần vào vinh quang trong nước trời.
Gói trọn những tâm tình đó,
giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối. Xin Chúa tha thứ những thiếu sót và tội
lỗi của chúng ta, để chúng ta xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh.
Có
một cụ già sắp qua đời, con cháu vây quanh, ai cũng buồn bã.
-
Cụ hỏi: Các con biết ta sắp đi đâu không?
-
Người con trưởng đáp: “Thưa cha, cha sắp đi xa.”
-
Cụ mỉm cười: “Đúng, ta đi xa, nhưng không phải đi mất,
mà là đi trước.
Ta chỉ về nhà Chúa trước các con thôi. Khi các con đến, ta sẽ ra đón các con!”
Câu
chuyện đơn sơ ấy lại diễn tả niềm tin Kitô hữu sâu xa: cái
chết không phải là dấu chấm hết, mà là cánh cửa mở ra sự sống đời đời.
Một triết gia nào đó đã nói: “Đã là người thì
phải chết.” Quả thật, cái chết là định luật chung của kiếp người: có người ra
đi trong bình an, có người bất ngờ, có người khi tuổi già, có người lúc xuân
xanh. Nhưng tất cả đều cùng về với Đấng đã tạo dựng nên mình.
Với đức tin, ta hiểu rằng: chết không phải là hết, mà là hành trình trở về nhà Cha.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay giúp ta khám phá
hành trình ấy qua ba bước hay ba chặng đường đời người: niềm tin –
cậy trông – và hy vọng vào sống đời đời.
1. Niềm tin của Gióp: Giữa đau khổ tột cùng, ông vẫn khẳng định: “Tôi biết Đấng bênh vực tôi vẫn sống.” Dù thân xác
tiêu tan, ông vẫn tin sẽ được thấy Thiên Chúa. Đó là niềm tin kiên vững mà
người tín hữu cần phải có khi đối diện đau khổ và cái chết.
2. Niềm cậy trông của Phaolô: Thánh Phaolô nói: “Trông
cậy không làm chúng ta thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu vào lòng ta.”
Đây cũng là câu chủ điểm của năm Thánh Hy Vọng “Hy vọng không làm ta thất vọng”.
Thật vậy, chính tình yêu nơi Đức Kitô chịu chết và sống lại là nền tảng cho
niềm hy vọng chắc chắn của chúng ta vào sự sống lại mai sau. Nhờ Người, ta được
hòa giải và hướng đến sự sống vĩnh hằng.
3. Lời hứa của Đức Giêsu: Chúa khẳng định: “Ai
tin vào Ta sẽ được sống muôn đời, và Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”
Ngài không chỉ hứa mà còn thực hiện bằng chính cái chết và phục sinh của mình.
Nhờ đó, cái chết trở thành con đường dẫn ta đến quê trời.
4. Sống hôm nay để sẵn sàng mai sau: Tưởng nhớ các tín hữu đã qua đời, chúng ta
cũng được nhắc nhớ rằng: ai rồi cũng sẽ “ra đi”. Quan trọng không phải là khi nào, mà là ta có sẵn
sàng hay chưa.
Nếu mỗi ngày ta sống trong ân sủng, yêu thương
và tha thứ, thì khi Chúa gọi, ta sẽ vui mừng thân thưa: “Lạy
Chúa, con đây!”
Xin Chúa cho chúng ta luôn sống trọn niềm tin
– cậy – mến, để khi cánh cửa đời này khép lại, cửa Thiên Đàng mở ra đón ta vào
hạnh phúc muôn đời.
Lạy Chúa, xin thương tha thứ và sớm ban hạnh phúc nước trời cho các linh hồn. Amen.
Suy niệm 2: NIỀM HY VỌNG PHỤC SINH TRONG ĐỨC KITÔ
- Có một cậu bé hỏi cha xứ: “Thưa cha, sao trong tháng 11 nhà thờ mình có
nhiều lễ cầu cho người chết vậy ạ?”
- Cha xứ mỉm cười đáp: “Vì người chết vẫn còn... sống nợ con ạ!”
- Cậu bé tròn mắt ngạc nhiên hỏi: “Sống nợ là sao ạ? Chết rồi mà còn nợ nần
nữa à?”
- Cha đáp: “Nợ tình yêu, nợ ơn nghĩa, nợ sự hiệp thông trong Hội Thánh. Họ
chưa trả hết, nên chúng ta giúp họ trả bằng lời cầu nguyện, hy sinh và việc
lành phúc đức.”
Cả nhà cười vui, nhưng câu chuyện
nhỏ ấy lại mở ra một chân lý sâu xa rằng: Cái chết không cắt đứt tình yêu,
và tình yêu thì không dừng lại bên nấm mồ. Đó chính là niềm tin và niềm
hy vọng mà hôm nay Phụng vụ Lễ Các Đẳng mời gọi chúng ta chiêm ngắm, với chủ đề:
niềm hy vọng vào sự sống đời đời trong Đức Kitô Phục Sinh.
- Bài đọc 1: cho ta biết trong đau khổ tột cùng, ông Gióp vẫn mạnh mẽ tuyên xưng đức tin:
“Tôi biết rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng
sống, và ngày sau cùng, tôi sẽ được thấy Thiên Chúa.”
Cho dẫu thân xác có tan rữa, Gióp
vẫn tin có Đấng Cứu Chuộc luôn sống, luôn yêu, và sẽ cho ông được
thấy Thiên Nhan Chúa. Đó là một đức tin vững vàng giữa khổ đau, một hy
vọng sáng lên giữa đêm tối của sự chết.
Bao người thân của chúng ta đã ra
đi cũng đang sống trong niềm hy vọng đó. Khi ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho họ,
là ta cũng đang củng cố chính niềm tin vào sự sống lại của mình. Tin
rằng Thiên Chúa không bỏ rơi một ai nơi mồ sâu.
- Bài đọc 2: Trong thư gửi tín hữu Rôma, Thánh Phaolô nhắc ta nhớ rằng: “Khi chúng ta còn là tội nhân, Đức Kitô đã chết vì chúng ta.” Nghĩa
là: ơn cứu độ không dành cho người hoàn hảo, mà dành cho người được
Chúa thương xót. Chính vì thế, ta tin rằng tình yêu của Chúa mạnh hơn
tội lỗi và sự chết.
Người chết trong ân sủng Chúa sẽ
được sống lại, còn những ai đang được thanh luyện cũng được bao phủ bởi tình
thương ấy.
Vậy điều quan trọng ta cần phải
nhớ là khi ta cầu cho các linh hồn, chính là lúc ta đang hợp tác với tình yêu cứu độ của Chúa
Giêsu, để tình yêu ấy chạm đến họ, giải thoát họ, đưa họ vào hạnh phúc viên
mãn.
- Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta rằng: “Ai đến với Ta, Ta sẽ không loại ra ngoài.” “Ai tin vào Ta, thì được
sống muôn đời, và Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”
Đây là lời hứa bảo đảm của Đấng Phục Sinh. Vì
không ai tin tưởng nơi Ngài mà phải thất vọng. Không linh hồn nào khao khát
tình yêu Ngài mà bị quên lãng.
Khi ta đọc Kinh Tin Kính, cùng
với GH ta tuyên xưng: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại và sự sống đời
đời,” Niềm xác tín ấy, không phải là công thức, mà là niềm hy vọng chắc chắn
của người Kitô hữu chúng ta vào: Chúa Giêsu đã chết và sống lại, nên bất cứ
ai chết trong Người thì cũng sẽ được sống lại với Người.
Anh chị em thân mến,
Lễ Các Đẳng không phải là ngày u
buồn, mà là ngày của niềm tin, tình yêu và hy vọng. Khi chúng ta đến nghĩa
trang, thắp nén hương, đọc một kinh cầu, hay xin một thánh lễ cho người đã
khuất, chúng ta đang nói với họ bằng ngôn ngữ của tình yêu: “Con nhớ cha
mẹ.” “Anh chị vẫn sống trong Chúa.” “Chúng ta sẽ gặp lại nhau trong
ngày Chúa cho sống lại.”
Niềm tin ấy sẽ giúp chúng ta sống
tốt hơn, vì chúng ta biết rằng: mọi việc lành ta làm, mọi hy sinh ta dâng,
mọi lời cầu ta đọc đều có giá trị đời đời trong mầu nhiệm các thánh cùng
thông công.
Nguyện xin Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc hằng sống, ban cho các linh hồn
được nghỉ yên trong bình an, và cho mỗi người chúng ta biết sống mỗi ngày
trong đức tin, đức cậy và đức mến, để mai sau cùng được đoàn tụ với họ
trong vinh quang Nước Trời. Amen.
LỄ II: Is 25,6a.7-9; Rm 8,14-23;
Mt 25,31-46
GIÚP ĐỠ CÁC ĐẲNG LINH HỒN
Tín điều các thánh
thông công do GH chỉ dạy, giúp chúng ta xác tín vào sự hiệp thông trong cùng
một Hội Thánh, đem đến niềm tin và hi vọng cho mỗi người Kitô hữu chúng ta.
Hôm nay Hội Thánh mời
gọi chúng ta hướng về những người đã an giấc ngàn thu, đợi chờ ngày Đức Kitô
trở lại trong vinh quang để kết hợp hồn xác lại để được Chúa ban hưởng phúc
trường sinh vĩnh cửu.
Bổn phận chúng ta là
thành phần GH chiến đấu, những người còn đang lữ hành trên trần thế, phải tích
cực cộng tác vào chương trình cứu rỗi của Đức Kitô, nhờ công nghiệp hi
sinh trên Thập Giá của Chúa, được tái diễn trên bàn thờ, qua Thánh lễ Misa,
chúng ta cùng được kết hợp vào cuộc khổ nạn và phúc sinhcủa Đức Kitô, để chuyển
cầu và cứu giúp các Đẳng linh hồn được hưởng ơn cứu độ Phục Sinh, mà họ đang
chờ đợi từng giây phút.
Để lời cầu nguyện và
cửa lễ hy sinh của chúng ta được Chúa chấp nhận, giờ đây chúng ta hãy thành tâm
thống hối.
Tín điều các thánh
thông công do GH chỉ dạy, giúp chúng ta xác tín vào sự hiệp thông trong cùng
một Hội Thánh, đem đến niềm tin và hi vọng cho mỗi người Kitô hữu chúng ta.
Hôm nay Hội Thánh mời
gọi chúng ta hướng về những người đã an giấc ngàn thu, đợi chờ ngày Đức Kitô
trở lại trong vinh quang để kết hợp hồn xác lại để được Chúa ban hưởng phúc
trường sinh vĩnh cửu.
Bổn phận chúng ta là
thành phần GH chiến đấu, những người còn đang lữ hành trên trần thế, phải tích
cực cộng tác vào chương trình cứu rỗi của Đức Kitô, nhờ công nghiệp hi
sinh trên Thập Giá của Chúa, được tái diễn trên bàn thờ, qua Thánh lễ Misa,
chúng ta cùng được kết hợp vào cuộc khổ nạn và phúc sinhcủa Đức Kitô, để chuyển
cầu và cứu giúp các Đẳng linh hồn được hưởng ơn cứu độ Phục Sinh, mà họ đang
chờ đợi từng giây phút.
Để lời cầu nguyện và
cửa lễ hy sinh của chúng ta được Chúa chấp nhận, giờ đây chúng ta hãy thành tâm
thống hối.
Để nhắc nhở chúng ta siêng năng
“đi viếng nhà thờ” mà cầu nguyện cho các đẳng linh hồn vào tháng 11, người ta
thường kể cho nhau nghe câu chuyện sau đây:
Ở một Họ đạo nọ, có một người đàn
ông sống đạo rất khô khan nguội lạnh. Ít khi thấy anh ta đi đến nhà thờ để tham
dự thánh lễ một mình. Anh chỉ đi nhà thờ, khi nào đứa con trai cưng bảy tuổi
của anh đòi đi mà thôi.
Số là vào một buổi chiều trong
tháng các đẳng linh hồn, đứa con của anh thấy bạn bè mình đều được cha mẹ dẫn
đi “viếng nhà thờ” để đọc kinh cầu nguyện cho ông bà tổ tiên đã qua đời, nó
cũng đòi đi cho bằng được, để cầu nguyện cho ông bà nội đã qua đời.
Sau khi đưa ra hết mọi lý lẽ để
cản ngăn con đừng đi nhà thờ không thành công, anh ta đành phải chiều lòng con
mà đưa nó đến nhà thờ.
Nhưng khi đến nhà thờ, anh không
vào tham dự thánh lễ mà ngồi chờ con bên ngoài hành lang nhà thờ. Anh dặn đứa
con: “Khi nào con đọc kinh xong thì ra, ba sẽ đưa con về!”.
Nhưng vì ngồi chờ quá lâu ở ngoài
nhà thờ, nên anh ta đã ngủ quên và không biết giờ kinh đã xong lúc nào. Trong
khi đang say ngủ như vậy thì anh mơ thấy một đoàn các Thiên Thần đông vô kể, từ
trên trời bay xuống, vị nào cũng ì ạch mang theo những bao chứa đầy những thứ
có màu trắng tựa như bông, lại bốc mùi rất thơm không thể nào diễn tả được. Quá
tò mò, anh chạy theo một vị Thiên Thần và hỏi nhỏ: đó là thứ gì vậy? Vị Thiên
Thần trả lời: đây là “các ơn thánh” mà những người trên trần gian đã tích góp
được nhờ vào việc đọc kinh, lần hạt và đi viếng nhà thờ, nay gửi xuống cho
người thân của họ đang bị giam cầm trong Luyện ngục. Được lệnh của Thiên Chúa
nay chúng tôi đi giao quà. Nghe vậy, anh liền rón rén đi theo các Thiên Thần.
Khi các Thiên Thần đi đến đâu thì
các linh hồn đều rất vui mừng bởi họ đều nhận được thật nhiều quà “ơn thánh” mà
bà con thân thuộc của họ gửi đến cho họ nên ai cũng đều cám ơn rối rít.
Sau cùng, còn lại một món quà nho
nhỏ, các Thiên Thần tìm đến một phòng giam trông rất hoang vắng rồi gõ cửa và
nói: “Này, ông bà cụ ơi, có quà của cháu nội gửi cho ông bà đây, ra mà nhận!”.
Bổng từ bên trong có tiếng vọng ra vừa vui mừng vừa xúc động nói: “Trời ơi,
chúng tôi mà cũng có người tưởng nhớ tới sao! Bởi vì từ khi chết cho tới nay đã
lâu quá rồi, đâu có ai nhớ đến chúng tôi nữa mà gửi quà! Nhưng thật cảm động vì
hôm nay chúng tôi nhận được món quà hết sức quý giá của đứa cháu nội, ôi hạnh
phúc biết bao!”.
Thật bất ngờ không thể tin vào
mắt mình nữa, bởi vì vừa khi mở cửa ra để lãnh quà “ơn thánh” của đứa cháu nội,
thì anh ta nhận ra đó chính là cha mẹ ruột của anh. Nhưng giờ đây hình dáng của
hai ông bà đã gầy óm và hốc hác đi quá nhiều, trông rất là đau khổ.
Lúc ấy anh thấy hai ông bà hướng
mắt nhìn về anh rồi từ từ tiến lại gần anh với một vẽ mặt rất tức giận. Với cái
gậy đang cầm sẵn trong tay, ông bà đã phang thẳng vào đầu anh một cái thật mạnh
và quát lớn: “Thằng con bất hiếu kia, mi còn mò tới đây làm gì nữa! Mi quả là
đứa con bất hiếu! Mi coi gương đứa con của mi mà từ nay ăn ở sao cho phải đạo
đó!”. Bị đánh một cú quá bất ngờ và đau điếng, anh chàng bèn tỉnh giấc. Khi
ngước mặt lên, anh ta bất ngờ nhìn thấy ông từ trông coi nhà thờ đang đứng
trước mặt anh và la lớn tiếng: “Mi là ai mà giờ này còn nằm trước cửa nhà thờ
ngủ như thế này!”.
Bấy giờ anh ta mới biết là mình
đang mơ. Và cú gậy vừa rồi là do ông từ đánh, chứ không phải ba mẹ anh đánh!
Trên đường lủi thủi về nhà, người
đàn ông ấy đã suy nghĩ thật nhiều về giấc mơ ấy. Cuối cùng anh ta cũng quyết
tâm đổi đời. Từ đó anh ta cương quyết sống đạo tốt hơn, siêng năng tham dự
thánh lễ thường xuyên và lúc nào cũng nhớ cầu nguyện cho cha mẹ anh ta thật
nhiều.
Câu chuyện trên là lời nhắc nhớ
mỗi người chúng ta hãy siêng năng cầu nguyện cho các linh hồn, nhất là trong
tháng 11 này, vì các ngài đang chờ đợi nơi chúng ta những người còn sống tặng
“quà ơn thánh” cho họ.
Qùa ơn thánh mà những người đã
chết mong chờ chính là những việc làm bác ái yêu thương, là những kinh nguyện
sáng chiều, là những hy sinh phục vụ chân thành và nỗ lực chu toàn tốt bổn phận
của mình trong gia đình, nơi họ đạo và ngoài xã hội. Nhất là những thánh lễ mà
chúng ta cùng hiệp dâng lên Chúa mỗi ngày với niềm xác tín vào mầu nhiệm các
thánh cùng thông công, nhờ vào tình thương cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô.
Tin tưởng vào tín điều các thánh
thông công, chúng ta hãy tích lũy thật nhiều quà công đức mà gửi tặng các linh
hồn nơi luyện tội, trong đó rất có thể là ông bà, cha mẹ, người thân của chúng
ta, với niềm xác tín vào lòng thương xót Chúa sẽ thanh luyện các
đẳng nên trinh trong, hầu xứng đáng bước vào nước trời chung hưởng niềm
vinh phúc cùng các thánh trong nhà Cha muôn đời. Amen.
LỄ III: Kn 3,1-9; Kh
21,1-5a.6b-7; Mt 5,1-12a
Hôm nay GH dành
một ngày đặc biệt để cầu nguyện cho các tín hữu qua đời.
Niềm
tin công giáo dạy chúng ta biết rằng: có thiên đàng để thưởng
người lành, có hoả ngục để phạt kẻ dữ, và có luyện ngục để thanh tẩy các linh
hồn còn vướng mắc các tội nhẹ chưa đền hết.
Các linh hồn nơi
luyện ngục không thể làm gì được cho mình, họ chỉ còn trông đợi vào những lời cầu
nguyện, những việc lành phúc đức và những hy sinh của chúng ta, những người
đang còn sống ở thế gian. Những việc làm ấy chính là món quà ơn thánh rất quý giá, giúp đỡ các
đẳng linh hồn sớm vượt qua những hình phạt tạm, được vào hưởng nhan thánh Chúa,
trong niềm vui bất diệt trên nước trời.
Tin tưởng và cậy
trông vào lòng thương xót Chúa, chúng ta hãy hiệp dâng thánh lễ này thật sốt
sắng và cố gắng lập nhiều công đức, để gửi tặng cho các linh hồn trong nơi
luyện tội, với niềm hy vọng các ngài sớm được Chúa ban thưởng niềm vui muôn đời
trong nước trời.
Một triết gia đã khẳng
định: “đã là người thì đều phải chết. Vậy, tôi là người, tôi cũng phải
chết”. Chết là cái đích cuối cùng của một đời người mà ai cũng phải
trải qua. Nhưng, khi nói về cái chết thì nó muôn màu, muôn vẻ, không ai giống
ai :
Có người sau một đêm yên giấc, đã
từ giã cõi đời này mà ra đi mãi mãi, không bao giờ trở lại.
Có người chết vì già nua đau yếu,
nhưng cũng có người chết trong lúc tuổi đời còn xuân xanh;
Có người chết bởi tai ương họan
nạn, nhưng cũng có kẻ chết trong lúc vui vẻ với người thân, bạn bè;
Có người chết vì bệnh tật hiểm
nghèo, nhưng cũng có kẻ chết vì muốn tự kết liệu đời mình bởi không tìm được
lối thoát trong cuộc đời này...vv. Quả là cái chết của con ngươi xảy ra
"muôn hình, vạn trạng".
Với niềm tin Kitô giáo thì cái
chết sẽ dẫn đưa con người đến sự sống đời đời.
Cả ba bài đọc lời Chúa trong
thánh lễ sáng nay đều đề cập đến 3 điều căn bản của niềm tin người kitô hữu
chúng ta, đó là: chết, sống lại và thưởng phạt.
- Bài đọc 1, trích sách Gióp, tác giả tin rằng cho dẫu phải
trải qua cuộc đời này đầy gian nan thử thách, hay phải chết đi do ma quỷ gây
ra, ông vẫn tin tưởng vào tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa là Đấng
cầm quyền trên sự sống chết của con người, sẽ cứu ông thoát khỏi mọi hiểm nguy
và đưa ông vào cõi phúc trường sinh một khi ông nhắm mắt lìa đời. (x.G 19,
25-27).
- Bài đọc 2, trích thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô
khuyên nhủ mọi tín hữu hãy luôn trông cậy vào TC. Dẫu biết rằng chúng ta
là tội nhân nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Ngài đổ tình yêu vào lòng
chúng ta nhờ Thánh Thần. Cũng chính vì yêu thương, Thiên Chúa đã để cho người
con duy nhất là Đức Giê su kitô đổ máu mình ra Cứu độ và giao hòa chúng ta lại
với Thiên Chúa. (x. Rm, 5-11)
- Còn bài Tin Mừng của thánh
Gioan, Chúa Giêsu đã
khẳng định với chúng ta rằng: sau cái chết là một sự sống mới trong Đức
Kitô. Nên ai tin vào Người thì được sự sống đời đời, Người sẽ cho họ sống
lại trong ngày sau hết và được cùng Người chung hưởng sự sống đời đời. (x.Ga 6,
39-40).
Như thế phụng vụ lời Chúa hôm nay
giúp cho ta hiểu rằng: số phận của chúng ta hệ tại ở việc nhận biết, tin tưởng
và kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu. Nhờ đó mà ta mới có được sống lại trong
Chúa vào ngày sau hết.
Giáo lý công giáo
cũng đã dạy cho chúng ta biết rằng: có thiên đàng để thưởng người lành, có hoả
ngục để phạt kẻ dữ, và có luyện ngục để thanh tẩy các linh hồn còn vướng mắc
các tội nhẹ chưa đền hết.
Các linh hồn trong
luyện ngục tự mình không thể làm gì được để được Chúa tha các hình phạt trong
luyện ngục, ở đó họ chỉ trông mong có một điều là hình phạt mau qua để chóng
được hưởng nhan thánh Chúa, do đó họ rất cần đến lời cầu nguyện của chúng ta,
cần đến những việc lành phúc đức và những hy sinh của chúng ta là những người
đang còn sống ở thế gian.
Tin tưởng vào lòng
thương xót của Thiên Chúa, Giáo Hội đã dành trọn tháng Mười Một trong năm để
cầu nguyện cho các linh hồn trong luyện ngục, một tháng với biết bao nhiêu là
việc lành mà chúng ta làm, với biết bao nhiêu là thánh lễ mà chúng ta tham dự
cách sốt sắng, với biết bao hy sinh mà chúng ta đã thực hiện, thì chắc chắn có
rất nhiều linh hồn trong luyện ngục được thoát khỏi hình phạt luyện ngục mà về
thiên đàng hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa.
Tín điều các thánh
thông công của Giáo Hội cũng nhắc nhắc nhở chúng củng cố tình hiệp thông rõ
nhất trong tháng này: hiệp thông với các thánh khải hoàn trên trời để xin ơn
trợ giúp nâng đỡ chúng ta đang lữ hành trên trần gian, hiệp thôn với các đẳng
đang đau khổ trong luyện ngục bằng các lời kinh nguyện và việc lành của chúng
ta để góp phần giải thoát các linh hồn trong nơi luyện tội.
Ai trong chúng ta
cũng đều có người thân qua đời, nếu họ đã được hưởng hạnh phúc thiên đàng, thì
họ sẽ cầu bàu cho chúng ta trước toà Thiên Chúa, nếu họ đang bị giam cầm trong
luyện ngục thì họ đang rất cần đến lời cầu nguyện và những hy sinh của chúng
ta, mỗi thánh lễ, mỗi lời nguyện, mỗi việc lành của chúng ta làm, tựa như những
giọt nước mát mẻ làm dịu bớt những cơn khát cháy trong đau khổ cũng như thâu
ngắn thời gian đền tội lại của họ trong luyện ngục.
Tháng Mười Một cũng
là tháng báo hiếu của con cái đối với ông bà cha mẹ đã qua đời. Xin lễ cầu
nguyện, lần chuổi Mân Côi, làm việc lành phúc đức.v.v...là những cách báo hiếu
đúng đắn và hữu hiệu nhất mà chúng ta dành cho các ngài.
Tin tưởng và cậy
trông lòng lòng thương xót, chúng con cậy vì danh Chúa nhân từ cho các linh hồn
được lên chốn nghỉ ngôi, hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô
cùng. Amen. (St)
Suy niệm 4: RA
ĐI CŨNG LÀ TRỞ VỀ
Kính thưa cộng đoàn,
Chiều hôm nay, trong bầu khí linh thiêng của
những ngày đầu tháng 11 – tháng mà Giáo Hội
dành riêng để tưởng nhớ và cầu nguyện cách đặc biệt cho các tín hữu đã qua đời
– chúng ta cùng quy tụ nơi Đất Thánh Sóc Trăng
thân thương này, nơi yên nghỉ của bao người thân yêu, để hiệp dâng Thánh lễ cầu
nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ và những
người thân đã khuất.
Đạo làm người, dù trong bất cứ truyền thống
văn hóa hay tôn giáo nào, cũng khởi đi từ lòng
biết ơn và hiếu thảo. Người Khmer có ngày Sen Dolta, người Phật tử có
mùa Vu Lan báo hiếu,
còn chúng ta – những người Kitô hữu – có tháng Các Đẳng
để tưởng nhớ, tri ân và cầu nguyện cho các linh hồn đang mong chờ ngày được vào
hưởng tôn nhan Chúa.
Thánh
lễ chiều nay
chính là đỉnh cao của đạo hiếu,
khi con cái hiệp thông trong cùng một đức tin và tình yêu, để dâng lên Thiên
Chúa hiến lễ tạ ơn
cùng với lời cầu nguyện chân thành,
xin Chúa nhân từ tha thứ và đón nhận linh hồn cha mẹ, ông
bà, tổ tiên cùng thân bằng quyến thuộc chúng ta vào hưởng hạnh
phúc muôn đời trong Nước Chúa.
Xin Chúa cũng giúp mỗi người chúng ta biết sống trọn đạo hiếu khi còn ở trần gian,
để mai này chúng con cũng được sum họp với các ngài trong vinh quang thiên
quốc.
Giờ đây, trong tâm tình hiếu kính, tin tưởng và hy vọng vào ơn cứu chuộc của Chúa, chúng ta cùng khiêm tốn nhìn nhận những lỗi lầm thiếu sót của mình, xin Chúa bao dung tha thứ, để chúng ta xứng đáng hiệp dâng Thánh lễ.
Ngày chết mà
người ta gọi là ngày đại hoạ, ngày kinh hoàng, thì đối với người tin Chúa, đó
lại là ngày đoàn tụ sum vầy
Đối với những ai không tin có sự sống đời sau thì cái chết là thảm hoạ khủng khiếp nhất trên đời, vì khi chết đến, nó sẽ cướp đi tất cả, không những là tất cả tài sản, của cải tiền bạc, công danh sự nghiệp của một đời người, mà còn cướp luôn mạng sống của họ.
Tuy nhiên, đối với các Ki-tô hữu, cái chết không
còn bi đát hãi hùng, không phải là một mất mát, nhưng là một sự trở về: chết
là về nhà Cha.
Xin mượn câu
chuyện sau đây để minh họa cho chân lý nầy :
Năm người con
đưa tiễn người mẹ yêu quý xuống tàu vượt biển đến một bến bờ xa cách vạn dặm
nằm bên kia bờ đại dương bát ngát.
Tàu rời bến, họ
vẫy tay tiễn biệt mẹ mà lòng tê tái buồn đau. Họ đứng lặng trên bờ, đăm đăm
nhìn con tàu rẽ sóng đưa mẹ ra khơi cho đến khi con tàu chỉ còn là một đốm
trắng li ti và mất hút ở cuối chân trời. Mắt mỗi người đều ngấn lệ vì mẹ đã đi
xa, tưởng như không bao giờ trở lại.
Mấy ngày sau đó,
ở bờ bên kia của đại dương, ông bà ngoại, cậu, dì và nhiều người thân yêu đang
tụ tập trên bến chờ đón mẹ về. Và khi thấy thấp thoáng từ xa con tàu buồm trắng
mà họ tin là có mẹ trên đó, thì họ cảm thấy tâm hồn nao nức mừng vui. Đến khi
mẹ vừa ra khỏi tàu, thì ông bà ngoại, cậu dì chạy ra ôm choàng lấy mẹ, mọi
người rất vui mừng hân hoan vì đã chờ đợi mẹ rất lâu mà mãi tới hôm nay mới có
ngày sum họp.
Thế là việc ra
đi của mẹ ở bờ bên nầy lại là sự trở về của mẹ ở bờ bên kia. Sự vĩnh biệt đau
thương bên nầy được tiếp nối với cuộc đoàn tụ hân hoan hạnh phúc ở bờ bến khác.
Chúa Giê-su dạy
ta biết sự chết như là con tàu buồm trắng trong câu chuyện trên đây, đưa người
ta rời khỏi bến nầy để đưa họ sang bờ bến khác, giúp con người từ giã thế giới
tạm bợ đời nầy để bước vào thế giới vĩnh cửu, để được đoàn tụ với Thiên Chúa,
với ông bà tổ tiên và thân nhân đã lìa đời trên thiên quốc.
Chính vì thế,
qua trích đoạn Lời Chúa trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su an ủi những ai còn
ở bờ bên nầy, nghĩa là những người còn sống trên dương gian rằng: “Anh
em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy,
có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho
anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với
Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,1-3).
Như thế, ngày
chết mà người ta gọi là ngày đại hoạ, ngày kinh hoàng, thì đối với người tin
Chúa, đó lại là ngày đoàn tụ sum vầy. Ngày đó, chúng ta sẽ được “đồng hưởng sự
sống đời cùng với Đức Trinh nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa; Thánh Giu-se bạn trăm năm
Đức Trinh nữ; các Thánh Tông đồ và toàn thể các Thánh đã sống đẹp lòng Chúa qua
mọi thời đại[1]”, nếu hôm nay
ta sống theo Lời Chúa dạy.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đi trước để
dọn chỗ cho đoàn con và mai đây Chúa sẽ trở lại để đưa đoàn con về với Chúa.
Xin cho anh chị
em tín hữu đã ly trần nhưng còn đang được thanh luyện, sớm thoát khỏi chốn
luyện hình để đến nơi Chúa đã dọn sẵn cho họ trên thiên quốc và được đồng hưởng
hạnh phúc cùng với ba ngôi Thiên Chúa và triều thần thánh đến muôn đời. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Suy niệm 5: TÂM
HỒN SIÊU THOÁT
Người có tâm hồn
nghèo khó không bám víu vào đời này nhưng bám chặt vào Chú, tựa nương vào Chúa,
như con thơ nép vào lòng mẹ và nhờ đó họ được Thiên Chúa ấp ủ, yêu thương và
ban cho họ hạnh phúc đời đời.
Trên cõi đời này
hiếm có ai nghèo như Chúa Giê-su. Mặc dù Ngài là Thiên Chúa Ngôi Hai đầy quyền
năng phép tắc, là bá chủ muôn loài muôn vật, nhưng Ngài đã hạ mình xuống thế,
trở nên người phàm, chấp nhận sinh ra trong chuồng súc vật khốn hèn, sống kiếp
nghèo không chỗ tựa đầu và cuối cùng, Ngài đã chọn chết nghèo, chết thảm vào
bậc nhất trong thiên hạ.
Chúa Giê-su
không chỉ sống nghèo mà Ngài còn là Đấng có tâm hồn nghèo khó và mong muốn
chúng ta cũng có tâm hồn nghèo khó như Ngài.
Khởi đầu bài
giảng trên núi, một bài giảng quan trọng của mình, Ngài đã nêu lên 8 mối phúc,
mà mối phúc đầu tiên là có tâm hồn nghèo khó. Ngài nói: “Phúc cho những
ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.” Qua lời này,
Chúa Giê-su không nhằm nói ai nghèo khổ là có phúc, nhưng Ngài nói: “Phúc
cho những ai có tâm hồn nghèo khó.”
Thế nào là có
tâm hồn nghèo khó?
Người có tâm hồn
nghèo khó là người ý thức rằng chẳng có gì là của riêng ta. Mọi sự ta có đều là
ân huệ Chúa trao ban cho ta. Ta quản lý một thời gian, rồi mai đây Ngài sẽ lấy
lại.
Thân xác ta
thuộc về Chúa. Mai đây Chúa lấy đi, ta trở về cát bụi.
Sự sống của ta
thuộc về Chúa, khi Chúa lấy đi, ta không giành lại được.
Sức khoẻ của ta
cũng do Chúa ban, nếu Chúa cất đi, ta trở thành người bại liệt tàn phế, nằm
liệt giường không chỗi dậy nổi đâu.
Tiền bạc ta có
cũng do Chúa ban. Chúa lấy đi, ta chỉ còn 2 bàn tay trắng.
Nên phải luôn
tâm niệm lời dạy của Chúa Giê-su: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh
hồn thì được ích gì!”
Biết như thế,
nên người có tâm hồn nghèo khó không bám víu vào đời này nhưng bám chặt vào
Chúa, không dựa vào tài năng sức lực của mình, mà hoàn toàn tựa nương vào Chúa,
như con thơ nép vào lòng mẹ và nhờ đó ta được Thiên Chúa ấp ủ, yêu thương và
ban cho ta hạnh phúc đời đời.
Thế là đúng như
lời Chúa Giê-su dạy: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước
Trời là của họ.”
- Còn đối với
những ai không có tâm hồn nghèo, họ xem tiền là Tiên là Phật, là chìa khóa vạn
năng, là quyền lực vô song có thể giải quyết mọi vấn đề. Thế là họ cam phận làm
nô lệ cho đồng tiền, tôn thờ đồng tiền, quay cuồng trong cơn lốc kiếm tìm tiền
bạc. Họ lao vào tiền bạc như những con thiêu thân lao vào lửa. Và cũng như
thiêu thân lao vào lửa, họ đốt cháy đời mình cách đau thương như lời thánh
Phao-lô nói: “Chung cục là họ sẽ phải hư vong” (Pl 3, 19). Thánh Phao-lô mô tả về tình trạng của hạng người này như sau: “Chúa họ thờ là cái bụng và cái họ lấy làm vinh quang
lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian…” (Pl 3, 19).
Hôm nay, lời dạy
sống tinh thần nghèo khó của Chúa Giê-su thúc đẩy chúng ta chọn lựa một trong
hai điều này: Hoặc là tham lam, mê đắm tiền bạc và tôn nó lên ngôi để rồi phải
hư mất đời đời; hay là siêu thoát khỏi mọi chi phối trói buộc của vật chất để
chỉ bám víu vào Thiên Chúa mà thôi để được Nước Trời làm gia nghiệp.
Lạy Chúa Thánh
Thần,
Nếu không được
Chúa soi sáng và ban ơn, không ai trong chúng con có thể siêu thoát khỏi mọi
quyến rủ của vật chất để hướng tâm hồn về phúc lộc quê trời.
Xin ban cho
chúng con đức khôn ngoan của Chúa, để chúng con nhận biết rằng chỉ những ai có
tâm hồn nghèo khó, siêu thoát khỏi mọi trói buộc của tiền tài và hướng lòng về
thượng giới, thì mới là người thật sự có phúc vì sẽ đạt được hạnh phúc thiên
đàng mà thôi.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Suy niệm 6: ĐIỀU
KIỆN ĐỂ ĐƯỢC HƯỞNG PHÚC THIÊN ĐÀNG
Trong lớp giáo
lý nọ, giáo lý viên hỏi các học sinh:
- Ta phạm tội
nào thì phải sa hỏa ngục?
Đây là một câu
hỏi dễ nên có nhiều học sinh giơ tay xin đáp. Các câu đáp quy về những thứ tội
sau đây:
- Tội cố ý giết
người, cố tình gây thiệt hại cho người khác như trộm cắp, chiếm đoạt; cố tình
phạm tội tà dâm, ngoại tình; cố ý lăng mạ làm mất danh dự người khác, vân vân…
Giáo lý viên
nói:
- Tất cả các câu
đáp của các em đều đúng. Bây giờ thầy hỏi tiếp:
- Có khi nào ta
không phạm những thứ tội như thế, cũng không cố tình làm hại ai, không đụng
chạm gì đến tài sản hay thân thể người khác… mà phải sa hỏa ngục không?
Sau một hồi cau
mày suy nghĩ, các học sinh đều trả lời là không. Thế nhưng thầy lại bảo là có,
khiến cả lớp ngạc nhiên pha lẫn nghi ngờ.
Thầy nói tiếp: Có
những khi ta không làm tổn thương ai, không chiếm đoạt tài sản người khác,
không xúc phạm đến ai… thế mà vẫn có thể bị sa hỏa ngục vì không ra tay cứu
giúp những người lâm cảnh gian nan khốn khó.
Nghe thế, học
sinh lại thêm nghi ngờ. Để thuyết phục học sinh tin chắc điều
này, thầy trích dẫn lời dạy của Chúa Giê-su qua hai dụ ngôn sau đây:
Thứ nhất là dụ
ngôn người giàu có với La-da-rô khốn khổ trong Tin Mừng Luca.
Người giàu “mặc
toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có người nghèo khó tên
là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những
thứ trên bàn ăn của ông ấy mà ăn cho đỡ đói, nhưng cũng chẳng ai cho.”
Thế rồi, cả hai người đều chết. La-da-rô thì
được vào thiên đàng vinh hiển; còn lão phú hộ thì phải sa hỏa ngục” (Lc 16, 19-21).
Người giàu đã
làm gì đến nỗi phải sa hỏa ngục? Ông ta không mắng chửi, không đánh đập, không
xua đuổi La-da-rô… Thế thì tại sao lão lại phải sa hỏa ngục?
Lão phải sa hỏa
ngục vì lão không ra tay cứu giúp La-da-rô đang đói khát trong khi lão thừa mứa
thức ăn.
Thứ hai là qua
dụ ngôn cuộc “Phán xét cuối cùng” được trích đọc hôm nay, Chúa Giê-su lên án những
người không ra tay cứu giúp người cùng khổ bằng những lời lẽ hết sức nặng nề: “Hỡi phường bị chúc dữ kia! Hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã
đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng…”
Thế là những
người này hết sức bàng hoảng, sửng sốt, khiếp sợ và tự hỏi: “Mình đã làm gì nên
tội mà Chúa bắt mình phải chịu hình phạt khủng khiếp đến thế? Mình không giết
người, không đốt nhà, không chiếm đoạt tài sản của ai, không gian dâm, không
ngoại tình, không mắng chửi hay làm mất thanh danh phẩm giá bất cứ ai… Thế thì
tại sao lại phải chịu hình phạt nặng nề kinh khủng như thế?
Chúa Giê-su đáp:
Các ngươi phải sa hỏa ngục “vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta
khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta
mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có
viếng thăm Ta!”
“Bấy giờ họ cũng
đáp lại rằng: 'Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ
hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?' Khi ấy
Chúa đáp lại: “Ta bảo thật cho các ngươi biết: Những gì các ngươi đã không làm
cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho
chính Ta” (Mt
25, 46).
Lạy Chúa Giê-su,
Lâu nay chúng
con không ngờ có một thứ tội rất nặng nề mà ai vi phạm thì phải sa hỏa ngục đau
khổ muôn đời, đó là tội không biết ra tay cứu giúp những người lâm cảnh gian
nan khốn khổ.
Xin cho chúng
con luôn quan tâm giúp đỡ người khốn khó, biết giảm bớt những chi tiêu không
cần thiết để chia sẻ cho những anh chị em nghèo thiếu chung quanh; nhờ đó, mai
đây Chúa sẽ tuyên bố với chúng con rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc
phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ
khi tạo dựng vũ trụ” vì các ngươi đã ra tay cứu giúp những anh chị em đang lâm
cảnh gian nan.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Suy niệm
7: HIẾU THẢO THEO
TINH THẦN KITÔ GIÁO
Hàng năm, dân tộc Khmer có ngày
lễ Sen Dolta – một lễ hội truyền thống đầy ý nghĩa. “Sen” nghĩa
là cúng, “Dol” nghĩa là bà, và “Ta” nghĩa là ông.
Trong những ngày này, bà con Khmer chuẩn bị chu đáo các nghi thức cúng bái để
thể hiện tấm lòng thành kính và hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà,
cha mẹ.
Cũng vậy, trong văn hóa Phật
giáo, ngày Vu Lan báo hiếu (rằm tháng Bảy âm lịch) là dịp người Phật
tử tưởng nhớ công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ và cầu siêu cho những
vong linh cô quả, những người thác oan, không nơi nương tựa.
Còn đối với chúng ta – những
người Kitô hữu – hôm nay, ngày 2 tháng 11, Giáo Hội long trọng cử
hành Lễ Các Đẳng Linh Hồn. Đây là ngày đặc biệt để toàn thể Dân Chúa tưởng nhớ,
tri ân và cầu nguyện cho tất cả các tín hữu đã qua đời, nhất là cho tổ
tiên, ông bà, cha mẹ và những người thân yêu của chúng ta.
Tuy nhiên, đối với người Công
giáo, việc tưởng nhớ và cầu nguyện cho người đã khuất không chỉ gói gọn
trong một ngày, mà được thực hiện hằng ngày, và đạt cao điểm trong tháng
11, tháng cầu cho các linh hồn.
1. Nền tảng của đức tin hiếu thảo
Thực hành này bắt nguồn từ niềm
tin vững chắc của chúng ta vào lời Chúa Giêsu: “Thật vậy, ý của Cha Ta
là: hễ ai thấy Con và tin vào Người, thì được sống muôn đời; và Ta sẽ cho họ
sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 6,40)
Chính niềm tin vào sự sống
lại và sự sống đời đời giúp người Kitô hữu luôn hướng về tổ tiên ông bà
cha mẹ đã qua đời, không bằng nghi lễ cúng tế, mà bằng lời cầu nguyện,
Thánh Lễ, và việc lành phúc đức, với xác tín rằng tình yêu mạnh hơn sự
chết.
2. Sống đạo hiếu theo tinh thần
Kitô giáo
Không ít anh chị em ngoài Công
giáo còn hiểu lầm rằng: “Theo đạo Công giáo là bỏ ông bỏ bà.”
Nhưng thực ra, đạo Công giáo
chính là đạo hiếu chân thật và sâu xa nhất, vì bắt nguồn từ chính Thiên Chúa là
Cha, là nguồn mạch của tình yêu và sự sống.
Người Công giáo luôn tưởng nhớ và
cầu nguyện cho tổ tiên:
- Hằng ngày trong Thánh lễ, Giáo
Hội cầu cho các linh hồn.
- Nhiều người xin lễ, dâng hy lễ,
lần chuỗi, làm việc bác ái để nhường công đức cho ông bà, cha mẹ.
- Mỗi việc tốt, mỗi hy sinh âm
thầm đều là một bông hoa thiêng liêng dâng tặng tổ tiên.
Tất cả những điều ấy đều phát
xuất từ giới răn của Thiên Chúa: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để
được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi.” (Xh
20,12)
Nếu trong ba điều răn đầu tiên,
Chúa dạy ta về bổn phận đối với Người, thì điều răn thứ tư chính
là điều răn hàng đầu trong mối tương quan giữa con người với nhau. Và Sách
Huấn Ca còn khẳng định: “Ai hiếu thảo với cha mẹ là đang làm vui lòng
Thiên Chúa.” (Hc 3,3). Sống hiếu thảo với người Công giáo là:
- Yêu mến, kính trọng, biết ơn và
vâng lời cha mẹ.
- Chăm sóc cha mẹ khi các
ngài già yếu, bệnh tật.
- Cầu nguyện cho cha mẹ khi
còn sống cũng như đã qua đời.
Lòng hiếu thảo không chỉ dành cho
cha mẹ ruột, mà còn với ông bà, thầy cô, cha xứ, bề trên, và những người có
trách nhiệm với ta. Khi sống tinh thần vâng phục, biết ơn và cộng tác trong
tình bác ái Kitô giáo cũng là cách chúng ta biểu tỏ lòng hiếu thảo. Hiếu thảo “là
điều răn duy nhất có lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và sống lâu trên mặt
đất.” (Ep 6,2-3). Ai sống hiếu thảo thì được Chúa chúc
phúc, ban bình an và trường thọ.
Nếu một số người còn cho rằng
theo đạo Công giáo là “bỏ ông bà”, thì có lẽ vì nơi chính chúng ta chưa
tích cực thi hành giới răn hiếu thảo Chúa dạy cách mạnh mẽ sống động. Vì thế,
trong tháng 11 này, mỗi người chúng ta được mời gọi sống giới răn thứ bốn Chúa
dạy cách tích cực hơn:
- Siêng năng tham dự Thánh
Lễ, nhất là cầu cho các linh hồn.
- Viếng nghĩa trang, quét
dọn phần mộ, thắp nến, dâng hoa và cầu nguyện.
- Làm việc bác ái, lập nhiều
công đức để dâng cho ông bà cha mẹ và các linh hồn mồ côi.
- Giữ bàn thờ gia tiên dưới
bàn thờ Chúa được trang trọng, gọn gàng, như dấu chỉ lòng hiếu kính trong
niềm tin phục sinh.
Ngày hôm nay, khi tưởng nhớ những
người đã khuất, chúng ta không chìm trong nỗi buồn mất mát, nhưng tràn
ngập niềm hy vọng: vì Đức Kitô đã chiến thắng sự chết và mở đường cho chúng ta
đến cõi sống đời đời.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn
biết sống lòng thảo hiếu theo tinh thần Kitô giáo, vừa làm vui lòng Thiên
Chúa, vừa làm trọn đạo nghĩa với tổ tiên, ông bà, cha mẹ và những người thân
yêu.
Lạy Chúa Giêsu, là Sự Sống lại và
là Sự Sống, xin thương tha thứ những thiếu sót lỗi lầm của các linh hồn tổ
tiên, ông bà, cha mẹ chúng con; xin cho các ngài được nghỉ yên trong bình an
của Chúa, và xin cho chúng con biết sống hiếu thảo, trung tín, để một ngày kia
được sum họp với các ngài trong Nước Trời. Amen.
Suy niệm 8 :
CUỘC THANH TẨY CUỐI CÙNG
“Chúa đã thử
thách các ngài như thử vàng trong lửa”.
Trên một bia mộ,
người ta đọc thấy dòng chữ: “Chỗ bạn đang đứng, chỗ tôi đã đứng. Nơi tôi đang
nằm, nơi bạn sẽ nằm!”.
Kính thưa Anh
Chị em,
“Nơi tôi đang
nằm, nơi bạn sẽ nằm!”. Lời Chúa ngày lễ Các Đẳng Linh Hồn đưa chúng ta về
“Luyện ngục”, một khái niệm thường bị hiểu lầm.
Luyện ngục là
gì? Là nơi chúng ta phải chịu trừng phạt vì tội lỗi? Cách Thiên Chúa hỏi tội về
các sai phạm của mỗi người? hay đó là kết quả cơn giận của Ngài?
Không! Luyện
ngục không gì khác hơn là tình yêu cháy bỏng và là ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’
Thiên Chúa dành cho những người Chúa chọn.
Sách Khôn Ngoan
nói, “Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa”.
Khi ai đó chết,
rất có thể họ không được hoán cải 100% để hoàn hảo về mọi mặt. Ngay cả các
thánh vĩ đại nhất mà cũng có khiếm khuyết trong cuộc sống.
Luyện ngục
không gì khác hơn là ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ tất cả vấn vương còn lại với
tội lỗi. Hãy tưởng tượng, bạn có một cốc nước tinh khiết 100%. Cốc này tượng
trưng cho thiên đàng. Bạn muốn thêm vào cốc đó một ít nước chỉ tinh khiết 99%.
Nước không tinh khiết 1% này đại diện cho những người lành thánh đã chết với
một số chấp trước nhẹ đối với tội lỗi. Nếu thêm nước đó vào cốc, cốc sẽ có một
số tạp chất, ít nữa 1%.
Vấn đề là thiên
đàng không chứa bất kỳ tạp chất nào, dù là nhỏ nhất. Vì thế, 1% đó vẫn cần được
lọc sạch.
Làm thế nào điều
này xảy ra? Chúng ta không biết. Chúng ta chỉ biết nó có. Nhưng cần hiểu rằng, đó
là kết quả của tình yêu vô hạn nơi Thiên Chúa những muốn thanh tẩy chúng ta
khỏi mọi ràng buộc, vướng bận.
Có đau không?
Rất có thể! Nhưng đau theo nghĩa buông bỏ. Và kết quả cuối cùng là tự do thực
sự, đáng giá cho bất kỳ nỗi đau nào có thể trải qua. Vì thế, luyện ngục là đau
đớn, nhưng là ‘nỗi đau ngọt ngào’ cần có từ ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ để kết
hiệp với Chúa trọn vẹn hơn. Chúa Giêsu nói, “Tất cả những người Chúa
Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi”; đó là những con người với những chiếc
áo trắng tinh tuyền, và những trái tim cũng tuyệt đối tinh tuyền!
Tưởng nhớ các
linh hồn, chúng ta sống mầu nhiệm Các Thánh Thông Công. Các linh hồn trải qua
cuộc thanh luyện này vẫn hiệp thông với Chúa, với Giáo Hội dưới thế và Giáo Hội
thiên quốc. Chúa sử dụng lời cầu của chúng ta dành cho các linh hồn, cũng như
việc các linh hồn cầu bầu cho chúng ta như những công cụ thanh tẩy của Ngài;
Ngài cho phép và mời chúng ta tham gia vào ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ của họ.
Điều này tạo nên một mối liên đới chặt chẽ của chúng ta với các linh hồn.
Anh Chị em,
“Chúa đã thử
thách các ngài như thử vàng trong lửa”. Như vàng trong lửa, một ngày kia, tất cả chúng
ta rồi cũng được thanh luyện như các linh hồn. Và không nghi ngờ gì nữa, các
thánh trên trời, đặc biệt dâng lời cầu nguyện cho họ trong thời gian thanh
luyện này. Đó là một sự thật đáng hoan hỷ và là một niềm vui lớn lao khi chúng
ta thấy cách thức Thiên Chúa sắp xếp toàn bộ quá trình này cho mục đích cuối
cùng của sự hiệp thông thánh thiện mà chúng ta được kêu gọi! Như vậy, ‘cuộc
thanh tẩy cuối cùng’ rõ ràng là cần thiết, nó là sáng kiến từ tình yêu và lòng
thương xót của Thiên Chúa!
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa, giúp
con ‘tập chết’ trước khi chết thật, may ra ‘nỗi đau ngọt ngào’ sau cùng sẽ
chóng vánh hơn! Đó là những hy sinh con dành cho các linh hồn!”, Amen.
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Suy niệm 9: LÒNG THẢO HIẾU
VÀ HY VỌNG PHỤC SINH
Mỗi độ tháng Mười Một về, Giáo
Hội lại hướng lòng chúng ta về các tín hữu đã qua đời, những người đã đi trước
chúng ta trong niềm tin và nay đang chờ được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu nơi Thiên
Chúa.
Đây là tháng của lòng thảo hiếu,
của tình tri ân và tưởng nhớ, là dịp để chúng ta sống lại lòng biết ơn đối với
cha mẹ, ông bà, tổ tiên, ân nhân, và cầu xin Chúa thương ban cho các linh hồn
sớm được hưởng nhan thánh Ngài.
Ngày xưa, có một cậu bé rất
nghịch ngợm và ham chơi. Cậu không nghe lời mẹ, suốt ngày rong chơi, rồi giận
dỗi bỏ nhà đi, mặc cho mẹ ngày đêm trông ngóng.
Ngày tháng trôi qua, khi đói khát
và mệt mỏi, cậu mới nhớ đến mẹ, nhớ những bữa cơm, nhớ bàn tay hiền từ chăm
sóc, nhớ giọng nói dịu dàng gọi tên mình. Cậu trở về, nhưng căn nhà xưa chỉ còn
lại cây xanh trong vườn. Cậu khóc, ôm lấy cây mà nức nở gọi “Mẹ ơi!”.
Lạ thay, từ cành cây trổ ra những
trái tròn, căng sữa ngọt, mát làn đó là cây vú sữa. Người ta nói rằng, đó là
tình mẹ hóa thân, để mãi mãi nuôi nấng, ủi an đứa con dại khờ.
Câu chuyện dân gian ấy chất chứa
một thông điệp nhân văn sâu sắc: Tình mẹ-tình cha-không bao giờ mất.
Dù cha mẹ đã khuất, tình yêu ấy
vẫn ở lại, như cây vú sữa vẫn âm thầm trao dòng sữa ngọt cho đời. Lời Chúa hôm
nay giúp ta chiêm ngắm tình yêu mạnh hơn sự chết:
- Trong bài đọc I (Kn 3,1-9): “Linh
hồn người công chính ở trong tay Chúa, và chẳng cực hình nào làm họ phải đau
khổ.” Cái chết không phải là hết, nhưng là cửa ngõ bước vào sự sống
đời đời.
- Thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Rôma nhắc
ta rằng: “Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ sống
với Người.” (Rm 6,3-9). Cái chết của người Kitô hữu được soi
sáng bằng niềm tin phục sinh.
- Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu đã xác quyết: “Ai
tin vào Ta thì dù đã chết cũng sẽ được sống.” (Ga 6,37-40). Chính
Chúa Giêsu là bảo chứng của hy vọng, là cây sự sống ban sự sống muôn đời.
Anh chị em thân mến,
Câu chuyện Cây vú sữa nhắc
ta về lòng hiếu thảo với cha mẹ, còn Lời Chúa hôm nay thì mời gọi ta mở rộng
lòng hiếu thảo ấy lên bình diện đức tin:
- Hiếu thảo không chỉ là tưởng
nhớ, tri ân, nhưng còn là cầu nguyện cho cha mẹ, tổ tiên, ông
bà đã qua đời, vì họ vẫn đang chờ chúng ta nơi Chúa.
- Mỗi Thánh lễ, mỗi Kinh Lạy Cha,
mỗi lời Kinh Mân Côi ta dâng lên hôm nay là dòng “sữa ngọt” của tình yêu ta đáp
lại ân tình người đã khuất.
Có lẽ nhiều người trong chúng ta
đã từng một lần hối tiếc vì chưa kịp nói “Con yêu Mẹ”, chưa kịp làm một điều gì
đó cho cha mẹ khi còn sống. Nhưng đức tin cho ta cơ hội để yêu thương sau cái
chết, bằng lời cầu nguyện, hy sinh, việc lành, và Thánh lễ cầu hồn.
Khi ta quỳ bên mộ, thắp nén
hương, ta không chỉ tưởng nhớ, mà còn bày tỏ niềm tin vào sự sống đời
sau: “Sự chết không tiêu diệt chúng ta, nhưng mở cửa cho ta bước vào sự
sống viên mãn với Chúa.”
Tháng các linh hồn là cơ hội để:
- Cầu nguyện cho cha mẹ, ông bà,
tổ tiên, ân nhân, những người đã giúp ta nên người và nên con Chúa.
- Sống hiếu thảo trong hiện tại,
yêu thương cha mẹ khi còn sống, đừng để “muộn màng như đứa con bên cây vú sữa.”
- Và trên hết, đặt trọn niềm hy
vọng vào Chúa Giêsu Phục Sinh, Đấng sẽ cho ta gặp lại những người thân yêu
trong vinh quang thiên quốc.
Nguyện xin Chúa là Cây Sự Sống
ban cho các linh hồn được hưởng ơn an nghỉ đời đời, và cho chúng ta biết sống
hiếu thảo, yêu thương, và hy vọng, để một ngày kia được đoàn tụ cùng các ngài trong
Nước Chúa.
Thứ hai: Lc 14, 12-14
Suy niệm 1:
“Như trời cao hơn đất thế nào,
thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng Ta cũng vượt trên
tư tưởng các ngươi thế ấy” (Is 5, 9). Đó cũng là sứ điệp mà lời
Chúa hôm nay muốn gửi đến chúng ta. Xin Chúa uốn lòng chúng ta
giống như trái tim Chúa, để chúng ta cũng có cách suy nghĩ và hành xử giống như
Chúa.
Gần đây rong khu vực nông thôn rộ
lên phong trào tổ chức đám tiệc. Ngoài tiệc cưới, đám tang, giỗ chạp… người ta
còn bày ra nhiều lý do khác để ăn mừng như: thôi nôi, đầy tháng, sinh nhật…nói
chung người ta tìm đủ mọi lý do để tổ chức tiệc. Thì ra người ta thích tổ
chức tiệc tùng là nhắm đến lợi nhuận kinh tế trong thời buổi "củi quế gạo
châu". Vì thế, những thực khách được nhắm đến thường là những người có
tiền và có địa vị trong xã hội. Còn những người nghèo thì ít khi người ta nghĩ
tới để mời dự tiệc.
Đó cũng chính là mưu tính của vị
thủ lãnh người Biệt Phái mà Chúa đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm nay. Để lên
án đầu óc tính toán vụ lợi, Chúa Giêsu đề nghị ông ta cần phải loại bỏ tính ích
kỷ và lòng tham lam tiền mà hãy quan tâm đến những người nghèo khổ. Vì thế Chúa
đề nghị ông ta và mọi người khi dọn tiệc nên “mời những người nghèo
khó, tàn tật, què quặt và đui mù”. Làm được như vậy, ta sẽ được phúc vì sẽ
được người nghèo biết ơn ở đời này và được Chúa ban thưởng hạnh phúc ở đời sau,
khi những người công chính sống lại đền ơn.
Để cụ thể hóa lời dạy của Chúa
Giêsu, ĐTC Phanxicô đã thiết lập ngày “Thế Giới Người Nghèo” hàng năm, với mục đích
hướng đến là nhắc nhở các cộng đoàn Kitô hữu , cũng như mỗi chúng ta phải “trở
nên dấu chỉ cụ thể, rõ ràng cho tình yêu thương của Chúa Kitô, đối với những
người rốt cùng và túng thiếu nhất” trong xã hội.
Xin cho chúng ta biết đáp lại lời mời gọi của Chúa và GH, mà thể hiện lòng yêu thương người nghèo, bằng những việc làm thiết thực như: lập “quỹ bác ái” tại các Họ đạo; học hỏi “sứ điệp ngày thế giới người nghèo”; dành một ngày Chúa nhật dâng thánh lễ cầu nguyện cách đặc biệt cho người nghèo; đi đến với người nghèo trong các khu xóm; chầu Thánh Thể và suy niệm Kinh Lạy Cha để thấm nhuần tinh thần đón nhận và chia sẻ. Đó chính là phương thế giúp ta đạt đến sự trọn lành và xứng danh là môn đệ Chúa Giêsu.
Suy niệm 2:
Vào thời Chúa Giê-su,
xã hội còn nhiều bất công. Người giàu đối xử phân biệt với người nghèo. Cho nên
khi tổ chức các bữa tiệc, người giàu thường chỉ mời những người cùng đẳng cấp
xã hội với mình. Vì thế, nhân cơ hội được mời tham dự bữa tiệc sang trọng tại
nhà ông thủ lãnh người biệt phái, Chúa Giê-su đã không ngần ngại lên tiếng nhắc
nhở vị thủ lãnh phải quan tâm đến người nghèo khó, đừng đối xử phân
biệt với họ. Qua đây, Chúa Giê-su muốn nhấn mạnh phẩm giá làm người là ngang
hàng nhau, không ai hơn kém trước mắt Thiên Chúa, bất kể họ là ai và đang sống
trong hoàn cảnh thế nào.
Lời dạy của Chúa
Giê-su một mặt nhắc nhở chúng ta cần loại bỏ thái độ xem thường người nghèo,
mặt khác cần phải yêu thương giúp đỡ những người yếu thế trong tình liên đới và
trách nhiệm xã hội. Cho nên, nếu mỗi người chúng ta tích cực sống theo tinh
thần bác ái do Chúa chỉ dạy, tin rằng thế giới này trở nên nhân bản và tốt đẹp
biết mấy.
Xin Chúa cho chúng ta biết mở rộng tấm lòng để yêu thương mọi người, nhất là những người khó khăn. Và xin cho chúng ta biết cách thể hiện tình yêu của Chúa bằng những hành động cụ thể trong cuộc sống hàng ngày. Amen.
Suy niệm 3: SỐNG QUẢNG ĐẠI VÀ KHIÊM NHƯỜNG
Lời Chúa hôm nay mời gọi ta sống tình
yêu nhưng không, làm việc lành không vì lợi ích hay tiếng khen,
nhưng vì lòng thương xót chân thành.
- Bài đọc 1: Thánh Phaolô xác quyết: “Ân ban và ơn gọi của Thiên Chúa là không
hối tiếc.” (Rm 11,29). Thât vậy, Thiên Chúa yêu thương và trung tín với con
người dù con người có bất toàn và yếu đuối. Thiên Chúa vẫn không rút lại ân sủng đã ban,
nhưng lại luôn mời gọi chúng ta đáp trả bằng tấm lòng biết ơn và quảng đại.
Tình yêu của Chúa không dựa trên công trạng, mà là ân huệ nhưng
không. Nhận ra điều ấy, ta được mời gọi sống biết ơn và tín thác vào Chúa. Đừng
bao giờ tuyệt vọng khi yếu đuối hay sa ngã.
- Bài Tin
Mừng: Chúa Giêsu dạy “Khi anh đãi khách, đừng mời bạn bè, anh em, hay những người giàu có,
kẻo họ mời lại mà anh được đền đáp. Nhưng hãy mời những người nghèo, tàn tật,
què quặt, đui mù; anh sẽ thật có phúc, vì họ không có gì để đền đáp, và anh sẽ
được trả lại trong ngày kẻ lành sống lại.” (Lc 14,12-14). Lời ấy nhắc nhở
ta đừng bao giờ toan tính thiệt hơn với người khác, nhất là những ai nghèo khổ.
Trong các mối quan hệ ta đừng bao giờ dựa trên sự đổi chác để tìm tư lợi cho
mình, mà phải dám âm thầm phục vụ cách nhưng không. Vì việc bác ái chỉ có giá
trị thực sự trước mặt Chúa khi ta thực hiện với lòng khiêm nhường và tình yêu
chân thành.
Chúa Giêsu đang mở tiệc tình thương giữa trần gian. Ngài không chỉ
mời gọi ta đến dự mà Ngài còn cần chúng ta mời gọi những ai nghèo khổ, cô đơn,
tội lỗi và bị bỏ rơi đến cùng ta tham dự bàn tiệc ân sủng trong thánh lễ hàng
ngày.
Nếu thế gian dạy ta “cho để được đáp trả”; còn Chúa lại dạy ta
“yêu mà không chờ đền”.
Ước gì mỗi người chúng ta biết sống quảng đại, khiêm nhường, và cho đi trong niềm vui Tin Mừng, nhờ đó ta mới xứng đáng được Chúa ban thưởng ân phúc lớn lao, như lời Ngài đã hứa: “Anh sẽ được trả lại trong ngày kẻ lành sống lại.” Amen.
Suy niệm 4: KHIÊM NHƯỜNG VÀ BÁC ÁI
Có một người nông dân nghèo mỗi ngày vẫn dành phần cơm ngon nhất cho người ăn xin bên đường.
Bạn anh nói:
- “Anh làm thế chẳng được gì cả!”
Anh đáp:
- “Tôi biết,
nhưng nếu chỉ làm điều tốt khi được trả công, thì đó đâu còn là lòng tốt nữa.”
Câu chuyện đơn sơ ấy nhưng diễn tả tinh thần mà Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta hôm nay: làm điều thiện trong khiêm nhường và bác ái, không tìm phần thưởng trần gian.
Khi được mời tham dự một bữa tiệc ở nhà người
Pharisêu. Chúa Giêsu thấy hầu như ai nấy đều thích chọn chỗ nhất; còn chủ nhà thì chỉ mời những người giàu có, với mong muốn được mời lại. Chúa
dạy rằng:
- Khiêm nhường là biết mình chỉ là thụ tạo, mọi sự là hồng ân Chúa.
- Khiêm nhường giúp ta tôn trọng mọi người, không so đo địa vị, không tìm vinh
dự.
Thánh Augustinô nói: “Muốn nên thánh, nhân đức đầu tiên là khiêm
nhường.”
Nhưng Chúa không dừng ở đó. Người mời gọi ta sống bác ái vô vị lợi: “Hãy
mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù.” Nghĩa là hãy yêu
thương, chia sẻ, giúp đỡ mà không mong đáp trả.
- Bác ái thật không nằm ở số tiền cho đi, mà ở tấm lòng trao ban.
- Mỗi hành động nhỏ: một lời thăm hỏi, một nụ cười, một bữa cơm
chia sẻ..., cũng là “bữa tiệc Tin Mừng” đem lại niềm vui cho người khác.
Sống khiêm nhường và bác ái là con
đường ngắn nhất dẫn ta đến Nước Trời.
Hãy làm điều thiện dù không ai biết, giúp người nghèo dù không ai cảm ơn. Bởi
vì phần thưởng thật không ở trần gian, nhưng ở nơi Thiên Chúa, Đấng “sẽ trả công cho anh em trong ngày các kẻ
lành sống lại.”
Xin Chúa giúp mỗi chúng ta biết sống đơn sơ, âm thầm và yêu thương
như chính Chúa Giêsu, Đấng khiêm nhường và hiến mình vì muôn người. Amen.
Thứ ba: Lc 14, 15-24
Nhớ Thánh Ca-rô-lô Bô-rô-mê-ô
Suy niệm 1:
Là Kitô hữu, ai trong chúng ta
cũng khao khát được tham dự vào bàn tiệc nước trời. Nhưng làm thế nào để đạt
được niềm khát khao sâu xa đó? Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu sẽ chỉ cho chúng ta
biết. Xin cho chúng ta biết lắng nghe và nỗ lực thực thi điều mà Chúa Giêsu chỉ
dạy để được tham dự vào bàn tiệc nước trời.
Thấy cái này nhớ đến cái kia, làm
điều này nghĩ đến điều nọ, đó là lẽ thường tình của con người. Cũng thế, trong
bữa tiệc tại nhà vị thủ lãnh Biệt phái, một người ngồi đồng bàn với Chúa Giêsu
đã bộc bạch suy nghĩ của mình: “phúc cho kẻ được ăn tiệc trong Nước
Thiên Chúa”. Nhân cơ hội này Chúa Giêsu đã hướng dẫn ông cũng như chúng ta
cách thế để đạt được niềm khao khát chính đáng là tham dự vào bữa tiệc nước
trời.
Chúa Giêsu cho biết bàn tiệc nước
trời đã dọn sẵn và rộng cửa đón nhận mọi người vào tham dự. Thế nhưng, Chúa
Giêsu cũng cho thấy con người lại quá say mê nhiều thứ khác ở trần gian nên dễ
dàng từ chối bàn tiệc nước trời.
Chúa Giêsu đưa ra 3 lý do khiến
người đời từ chối lời mời gọi tham dự bàn tiệc nước trời: Mới tậu một thửa
ruộng, nên cần phải đi xem đất (1). Mới mua năm đôi bò nên phải đi thử
chúng (2). Mới cưới vợ, bởi còn lo đến chuyện hạnh phúc đời này, không thể đến
được (3). Những lý do trên chung quy lại chỉ vì lợi ích trước mắt mà quên đi
hạnh phúc và giá trị vĩnh cửu đời đời
Hằng ngày, hàng tuần Chúa tha
thiết mời chúng ta đến tham dự bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể để ta cảm nếm
niềm vui nước trời. Nhưng chúng ta lại tìm mọi cách, diện mọi lý do để khướt
từ. Tất cả cũng vì còn say mê những giá trị chóng qua đời này là của cải, danh
vọng và lạc thú.
Xin Chúa ban cho chúng lòng cam đảm để vượt lên trên những giá trị trần thế chóng qua mà siêng năng đến tham dự bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể do Chúa thiết tha gọi mời. Được vậy, chúng ta mới có thể cảm nếm được niềm vui hạnh phúc nước trời hôm nay và mai sau.
Suy niệm 2:
Bữa tiệc trong văn hóa Do Thái
xưa là hình ảnh quen thuộc, tượng trưng cho niềm vui, sự đoàn kết và sự phong
phú. Tuy nhiên, bữa tiệc mà Chúa Giêsu mời gọi không chỉ là một bữa tiệc vật
chất, mà còn là một bữa tiệc thiêng liêng, đó chính là Nước Thiên Chúa.
Đoạn Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu
mời gọi chúng ta đến với một bữa tiệc ấy, một bữa tiệc của tình yêu và ơn phúc.
Lời mời gọi của Chúa Giêsu không giới hạn giàu nghèo, sang hèn, tất cả đều được
Chúa mời đến dự bàn tiệc này.
Dù vậy vãn có nhiều người từ chối
vì không quan tâm, vì vô tình, hay vì bận rộn với những công việc đời thường.
Điều này cho thấy con người thường quá bận rộn với những lo toan trần thế mà
quên đi những giá trị thiêng liêng cao quý.
Dẫu cho có nhiều người từ chối,
nhưng chủ nhà vẫn không nản lòng, ông tiếp tục mời những người qua đường, những
người nghèo khổ vào dự. Điều này cho thấy tình yêu của Thiên Chúa dành chúng ta
là kiên nhẫn và thiết tha biết mấy!
Mỗi ngày, Chúa Giêsu vẫn mời gọi
chúng ta đến với Ngài qua nhiếu cách thế, nhất là qua bàn tiệc thánh thể. Vì
thế, chúng ta đừng quá lo toan những giá trị trần thế mà quên đi lời mời gọi
tha thiết của Chúa.
Tạ ơn Chúa vì đã thương và kiên
nhẫn mời gọi con đến dự bàn tiệc Nước Chúa. Xin cho chúng ta luôn tích cực đáp
lại lời mời của Chúa bằng cách siêng năng tham dự thánh lễ và nỗ lực sống xứng
đáng với ơn gọi làm con cái Chúa. Amen.
Suy niệm 3: ĐƯỢC MỜI DỰ TIỆC
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể dụ ngôn về một ông chủ mở tiệc
lớn và mời nhiều người.
Đến giờ đãi tiệc, ông sai đầy tớ đi thưa: “Mời quý vị đến, vì mọi sự đã sẵn
sàng.” Nhưng thật đáng tiếc, ai nấy đều viện lý do để từ chối: người thì bận mua đất, người thì mới
cưới vợ, kẻ khác lại bận thử bò.
Qua hình ảnh đó, Chúa Giêsu muốn
nói với chúng ta về lời mời của Thiên
Chúa.
Bàn tiệc ấy chính là Nước Trời, là ơn cứu độ, là sự hiệp thông với Thiên Chúa và anh em.
Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn mời gọi con người đến dự, nhưng nhiều
người lại khước từ vì quá bận rộn với những chuyện trần
thế. Họ chọn những điều chóng qua thay vì điều vĩnh cửu.
Và khi những khách mời ban đầu
không đến, ông chủ mở rộng cửa
cho người nghèo, tàn tật, đui mù, què quặt, những người bị xã
hội loại trừ.
Qua đó, Chúa muốn dạy ta rằng: ơn cứu độ không dành riêng cho ai,
mà cho hết mọi người biết mở lòng đón nhận. Thiên Chúa luôn muốn “nhà của Ngài
được đầy khách”.
Cộng đoàn thân mến,
Mỗi Thánh Lễ chính là bữa tiệc Thánh Thể, nơi Chúa
dọn sẵn cho ta lương thực thiêng liêng. Nhưng thử hỏi: ta có sẵn sàng đến dự,
hay cũng đang viện lý do để “xin kiếu”? Có khi vì công việc, giải trí, hay
những bận tâm đời thường mà ta bỏ qua lời mời của Chúa?
Xin cho chúng ta biết quý trọng ơn được mời, biết
mau mắn đáp lại lời mời yêu thương của Thiên Chúa. Và hơn thế nữa, khi đã được
dự tiệc, ta cũng được mời gọi trở thành người được Chúa sai ra đi ngoài
đường, ngoài ngõ, để đem Tin Mừng đến cho những người còn xa Chúa, với mong
muốn mọi người cùng được chia sẻ niềm vui cứu độ.
Xin Chúa cho
chúng ta biết đáp lại lời mời của Chúa mỗi ngày bằng lòng yêu mến và vâng phục.
Xin cho chúng ta cũng biết mời gọi anh chị em mình đến dự bàn tiệc Nước Trời,
để “nhà Chúa được đầy khách” và tình yêu Ngài lan tỏa khắp nơi. Amen.
Suy niệm 4: NHỚ THÁNH CAROLO-BOROMEO-GM
Hôm nay, cùng với toàn thể Hội Thánh, chúng ta hân hoan mừng nhớ Thánh Ca-rôl-ô
Bô-rô-mê-ô, Giám mục. Ngài là vị mục tử đã để lại tấm gương
sáng ngời về tình yêu phục vụ và
lòng nhiệt thành tông đồ.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu
kể cho ta nghe dụ ngôn về một ông chủ mở tiệc
lớn và mời nhiều người.
Bữa tiệc ấy tượng trưng cho Nước Trời, nơi Thiên Chúa muốn quy tụ
mọi người đến chia sẻ niềm vui và ơn cứu độ. Nhưng thật đáng tiếc, nhiều người đã từ
chối lời mời, vì bận
tâm với những chuyện trần thế như: mua đất, thử bò, cưới vợ... Họ bỏ lỡ điều
quý giá nhất là được hiệp thông với Thiên Chúa. Vì thế, ông chủ mới mở rộng cửa cho người
nghèo, tàn tật, đui mù, què quặt, để “nhà của tôi được đầy
khách”.
Qua đó, Chúa muốn dạy ta rằng: ơn cứu độ không dành cho người tự
mãn, mà cho những ai khiêm nhường, biết mở lòng đón nhận lời
mời của Ngài.
Thưa anh chị em,
Thánh Carôlô-Bôrômêô chính là người đã đáp lại trọn vẹn lời mời của
Chúa. Ngài sinh ra trong gia đình quý tộc, có địa vị và danh
vọng, nhưng đã chọn con đường phục vụ Giáo Hội. Khi làm Giám mục Milano, ngài đã sống
đơn sơ, khổ hạnh, tận tụy chăm sóc dân Chúa, nhất là trong những năm dịch bệnh
hoành hành. Khi người khác trốn chạy thì ngài ở lại giữa đoàn chiên,
mang Mình Thánh Chúa đến cho người hấp hối, phân phát của ăn cho người nghèo,
và đem lại hy vọng cho những ai tuyệt vọng.
Thánh nhân đã không từ chối lời
mời của Thiên Chúa, và hơn nữa, ngài trở nên người đi mời:
mời gọi người tội lỗi trở về, mời gọi linh mục nên thánh, mời gọi dân Chúa đến với
bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể.
Trong Thánh Lễ hôm nay, khi chiêm ngắm gương sáng của Thánh
Carôlô-Bôrômêô, mỗi người chúng ta hãy tự hỏi:
1. Tôi có đang đáp lại lời mời của Chúa bằng đời sống đạo đức và
phục vụ không?
2. Tôi có sẵn sàng “ra đường, ngoài ngõ” để mời gọi anh chị em
mình đến với Chúa không?
Xin Thánh
Carôlô-Bôrômêô chuyển cầu cho chúng ta, để chúng ta biết sống quảng đại, biết
yêu thương phục vụ như ngài, và luôn sẵn sàng đến dự bàn tiệc Nước Trời mà
Thiên Chúa dọn sẵn cho những ai trung tín.
Xin Chúa cho chúng ta biết nêu gương sáng Thánh Carôlô-Bôrômêô, sẵn sàng đáp lại lời mời gọi yêu thương của Chúa bằng cả cuộc đời phục vụ, để khi tiệc Nước Trời mở ra, chúng ta xứng đáng được ở trong số những người “đầy nhà Cha trên trời”. Amen.
THÁNH CAROLO BORROMEO: GƯƠNG SÁNG CHO ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU
Thánh Carolo Borromeo, vị giám
mục đầy lòng nhiệt huyết và đức tin sâu sắc, được GH ngưỡng mộ và tôn kính bởi
những đức tính cao quý của mình. Ngài là một tấm gương sáng cho mọi Kitô hữu,
đặc biệt là các linh mục và tu sĩ noi theo.
Một số đức tính nổi bật của Thánh
Carolo Borromeo mà chúng ta có thể học hỏi:
1. Đức tin sâu sắc và
lòng nhiệt thành:
- Sống trọn vẹn Lời
Chúa: Thánh nhân luôn đặt Lời Chúa làm kim chỉ nam cho cuộc sống và công
việc.
- Tham gia các nghi thức tôn
giáo: Ngài tích cực tham gia các nghi thức tôn giáo và khuyến khích người
dân làm như vậy.
- Cầu nguyện thường
xuyên: Cầu nguyện là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của Thánh
nhân.
2. Sự khiêm tốn và lòng
phục vụ:
- Đặt nhu cầu của người khác
lên hàng đầu: Thánh nhân luôn quan tâm đến người nghèo, bệnh nhân và những
người yếu thế trong xã hội.
- Không ngừng học hỏi và cải
thiện bản thân: Ngài luôn tìm cách hoàn thiện bản thân để phục vụ tốt hơn.
- Sống đơn giản và khiêm tốn: Thánh
nhân không màng danh lợi, sống một cuộc sống giản dị và khiêm tốn.
3. Sự thông thái và quyết
đoán:
- Có tầm nhìn xa trông
rộng: Ngài có khả năng nhìn thấy những vấn đề của Giáo hội và xã hội, và
đưa ra những giải pháp hiệu quả.
- Đưa ra những quyết định
khó khăn: Ngài không ngại đưa ra những quyết định khó khăn để bảo vệ đức
tin và phục vụ người dân.
- Có khả năng tổ chức và
lãnh đạo: Thánh nhân đã thành lập nhiều cơ sở giáo dục, bệnh viện và các
tổ chức từ thiện.
4. Sự kiên trì và bền bỉ:
- Không nản lòng trước khó
khăn: Ngài đã phải đối mặt với nhiều khó khăn trong cuộc sống nhưng vẫn
luôn kiên trì.
- Làm việc không mệt
mỏi: Ngài đã dành cả cuộc đời để phục vụ Giáo hội và người nghèo.
5. Lòng yêu mến Giáo hội
và góp phần canh tân:
- Đóng góp tích cực vào Công
đồng Trentô: Ngài là một trong những nhân vật chủ chốt trong việc canh tân
Giáo hội tại Công đồng Trentô.
- Cải cách giáo phận
Milan: Ngài đã thực hiện nhiều cải cách để nâng cao đời sống đức tin của
giáo dân Milan.
- Xây dựng các cơ sở giáo
dục: Ngài thành lập nhiều trường học và chủng viện để đào tạo linh mục.
* Chúng ta có thể học hỏi gì
từ Thánh Carlo Borromeo?
- Sống một cuộc đời có ý
nghĩa: Bằng cách đặt đức tin vào Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
- Trở thành những người tốt
hơn: Bằng cách noi theo gương sáng của Thánh nhân về sự khiêm tốn, lòng
nhân ái và sự thông thái.
- Xây dựng một cộng đồng tốt
đẹp hơn: Bằng cách làm việc cùng nhau để giúp đỡ những người có hoàn cảnh
khó khăn.
* Thánh Carlo Borromeo là
một mẫu hình lý tưởng cho mọi Kitô hữu.
Cuộc đời và những việc làm của
ngài cho chúng ta thấy rằng, với đức tin, lòng nhiệt huyết và sự tận tâm, chúng
ta có thể làm được rất nhiều điều tốt đẹp cho Giáo hội và xã hội.
Thứ tư: Lc 14, 25-33
Suy niệm 1:
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tiếp
tục đưa ra những điều kiện cần thiết để trở thành môn đệ chân chính của Chúa.
Xin cho chúng ta tích cực làm theo lời dạy của Chúa với mong muốn trở nên môn
đệ đích thực của Người.
Thời buổi kinh tế thị trường (củi
quế gạo châu) như hôm nay, trước khi đầu tư vào bất cứ dự án hay công việc gì,
người ta đều phải tính toán chi tiết, kẻo thất bại sẽ gây tan nhà nát cửa và bị
người khác chê cười.
Đầu tư cho nước trời và tòng quân
đứng dưới cờ Giêsu là quyết định hệ trọng, ảnh hưởng hạnh phúc cả đời này lẫn
đời sau. Vì thế, Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta cần phải hãy suy
tính thật cẩn trọng.
Ví như người muốn xây nhà, trước
hết phải tính xem phí tổn bao nhiêu? có khả năng làm nổi hay không? Nếu không
thì đừng khởi công kẻo công trình đắp chiếu gây tổn hại kinh tế.
Cũng vậy muốn chống lại quân thù
kéo 20 ngàn quân vây đánh, nhà vua phải tính toán lực lượng xem có đối đầu nổi
không. Nếu ta chỉ có 10 ngàn quân và không có kế sách nào hay, thì tốt nhất nên
cầu hòa, hoãn binh kẻo thua trận, nước mất nhà tan là chắc chắn.
Nếu những sự đời như xây nhà,
đánh trận mà người ta còn biết suy nghĩ tính toán cẩn trọng như thế, thì hạnh
phúc vĩnh cửu nước trời và đi theo làm môn đệ của Chúa không phải là chuyện
đùa, nên cần phải suy tính và chuẩn bị thật chu đáo. Vậy phải chuẩn bị thế nào?
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ
cho chúng ta 2 cách tốt nhất để chuẩn bị: 1 là từ bỏ, 2 là vác thánh giá. Đó
chính là hai phương cách hữu hiệu tối ưu để được làm môn đệ Chúa và nhờ đó ta
sẽ chiếm hữu được nước trời.
Từ bỏ những gì mình yêu thích
cũng đồng nghĩa với việc vác thập giá vì nó khiến ta hối tiếc vì mất mát và
thấy thương đau vì những thử thách. Từ bỏ tiền bạc, của cải, danh vọng, tình
thân…xem ra còn dễ, nhưng từ bỏ ý riêng, bản thân để thuộc trọn về Chúa quả là
không dễ chút nào. Thật khó biết bao khi phải bỏ đi tính kiêu căng tự mãn, lòng
ích kỷ tham lam, bỏ con người cũ với những ý nghĩ cá nhân để hòan toàn vâng
phục theo ý Chúa hoàn toàn. Khó nhưng với sức mạnh ơn Chúa ta thì mọi sự đều có
thể.
Xin Chúa giúp chúng ta có đủ sức
mạnh ơn thánh để ta can đảm khướt từ mọi quyến rủ trần gian mà làm theo ý Chúa
muốn. Nhờ đó ta mới xứng đáng trở thành môn đệ chân chính của Chúa và chiếm hữu
được hạnh phúc nước trời.
Suy niệm 2:
Tin Mừng hôm nay Chúa
Giêsu đề ra những điều kiện cần thiết để trở thành môn
đệ Ngài:
- Từ bỏ mọi thứ: Điều
này không chỉ đơn thuần là từ bỏ những vật chất mà còn bao gồm cả những mối
quan hệ thân thiết nhất, thậm chí cả mạng sống của mình.
- Vác thập giá mình: Mỗi
người đều có những khó khăn, thử thách riêng, đó chính là thập giá mà chúng ta
phải vác để theo.
- Đi theo Chúa: Để đi theo Chúa,
trước hết Chúa Giêsu muốn chúng ta phải suy tính cẩn thận, tựa như việc xây
dựng một tòa tháp hoặc tham gia một cuộc chiến vậy. Nên chúng ta cần phải cân
nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định, để không phải hối hận về sau.
* Xin cho chúng ta hiểu rằng:
- Từ bỏ không phải là một sự mất
mát mà là một sự giải phóng. Khi chúng ta buông bỏ những thứ ràng buộc, chúng
ta sẽ có được tự do để yêu thương và phục vụ Chúa một cách trọn vẹn hơn.
- Thập giá là biểu tượng của sự
đau khổ và hy sinh, nhưng lại là con đường dẫn đến sự sống lại và vinh quang.
Khi chúng ta vác thập giá mình là chúng ta đang chia sẻ cuộc khổ nạn của Chúa
Kitô và đồng hành cùng Ngài trên con đường cứu độ nhân loại.
- Để trở thành môn đệ của Chúa
đòi hỏi chúng ta phải có một quyết tâm vững vàng và sự chuẩn bị kỹ lưỡng. Vì
thế một khi quyết định theo Chúa, chúng ta cần phải cầu nguyện, đọc Kinh
Thánh, tham gia các hoạt động của Giáo hội, nhờ đó đức tin của chúng ta mới
được củng cố vững mạnh cho dẫu phải đối mặt với những gian nan thử thách, chúng
ta vẫn sẵn sàng.
Xin Chúa ban cho chúng ta dồi dào
ơn sủng, để chúng ta can đảm từ bỏ mọi mọi sự mà hăng hái dấn bước theo Chúa
đến cùng, với niềm xác tín vững vàng vào con đường thập giá chính Chúa đã đi là
con đường duy nhất dẫn đến vinh quang phục sinh. Amen.
Suy niệm 3: TỪ BỎ ĐỂ YÊU THƯƠNG TRỌN VẸN
Lời dạy của Chúa trong đoạn Tin Mừng hôm nay “gây
sốc”, vì đi ngược lại với lối suy nghĩ tự nhiên của con người: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ
con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi
được.”
Thoạt nghe, người ta cho rằng Chúa Giêsu dạy ta
“ghét bỏ” tình thân. Nhưng thật ra, Người mời gọi ta sắp xếp lại trật tự các mối tương quan: yêu Chúa trên hết, nhờ đó
mà ta mới biết cách yêu thương người thân cho đúng đắn và sâu xa hơn.
Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma đã tóm kết
toàn bộ Lề Luật vài một điều duy nhất: “Ngươi
hãy yêu người thân cận như chính mình.” Yêu thương không chỉ là một giới luật, mà là chính bản chất của người môn đệ Đức Kitô.
Ai biết yêu thương là người đã chu toàn Lề Luật.
Nhưng để có thể yêu thương như Chúa yêu, ta cần một sự từ bỏ dứt khoát:
- Từ bỏ cái tôi ích kỷ, kiêu căng.
- Từ bỏ những gắn bó quá mức với của cải, danh vọng,
hay cả tình cảm riêng tư.
- Từ bỏ những điều ngăn cản ta bước theo Chúa cách
trọn vẹn.
Người môn đệ không thể yêu nửa vời, vì yêu thật thì phải dám mất, phải dám cho đi,
giống như Chúa Giêsu đã từ bỏ tất cả, ngay cả mạng sống mình để yêu thương nhân
loại.
Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng yêu thương là chu
toàn Lề Luật, nhưng để yêu thật lòng, chúng ta cần phải học cách từ bỏ theo
gương Người.
Xin Chúa giúp ta biết can đảm rũ bỏ cái tôi nhỏ nhen, dám ra khỏi mình để đến với tha nhân, và yêu Chúa trên hết mọi sự, để tình yêu của Chúa trở nên nguồn sống, chiếu sáng trong mọi chọn lựa và hoạt động của ta. Amen.
Thứ năm: Lc 15, 1-10
Suy niệm 1:
Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dùng
hai dụ ngôn để làm nổi bậc lên tình thương vô cùng của Thiên Chúa dành cho con
người. Xin cho chúng ta cảm nhận được tình thương Chúa mà chân thành sám hối để
an vui sống trong vòng tay yêu thương của Người.
Trong quyển sách “Niềm vui sống
đạo”. Tác giả người tôi tớ Chúa là đức cố Hồng Y Phanxiô-Xaviê Nguyễn Văn
Thuận đã dí dỏm nêu ra 10 khuyết điểm của Chúa Giêsu. Trong 10 khuyến
điểm đó có hai khuyết điểm liên quan đến đoạn Tin Mừng hôm nay:
1. Chúa Giêsu không biết làm toán.
Với dụ ngôn con chiên bị mất, cho
thấy lối cư xử của Chúa Giêsu tỏ ra không biết tính toán. Một kẻ có 100 con
chiên ở giữa đồng trống mà mất một con, hẳn phải tính toán xem làm sao một con
đi lạc lại hơn 99 con còn lại. Vậy mà Chúa Giêsu cho rằng 1 con đi mất cũng
bằng, chua nói là quý hơn 99 con còn lại, nên Người chấp nhận bỏ 99 con mà đi tìm cho kỳ được con chiên bị
mất. Rồi khi tìm thấy thì vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu mời bạn
hữu và những người thân cận đến chia vui. Hẳn là Chúa Giêsu không biết làm
toán!
2. Chúa Giêsu không sành
luận lý.
Chúa Giêsu chẳng những không cân
nhắc tính toán trên số lượng, mà đôi lúc lời dạy của Ngài xem ra đi ngược lại
với lối suy nghĩ bình thường của con người. Với dụ ngôn về đồng bạc bị mất,
người phụ nữ có 10 đồng, nhưng trong đêm lỡ đánh mất 1 đồng: “Bà thắp
đèn, quét nhà, moi móc tìm cho bằng được”. Rồi khi tìm được, thì bất
chấp giờ giấc nghỉ ngơi đêm của hàng xóm, bạn bè mà đánh thức họ để cùng chung
vui với mình. Sao bà không nghĩ dù sao thì cũng vẫn còn 9 đồng khác trong tay,
1 đồng rơi thì vẫn còn đó, tìm trong đêm chi cho mệt nhọc. Rồi lại vui mừng gì mà
đến độ phải làm phiền hà đến những người chung quanh trong đêm tối. Đúng là
thiếu lý luận!
Sau khi dí dỏm kể ra 10 khuyết
điểm của Chúa Giêsu, Đức cố Hồng Y tài đức của chúng ta đã tóm kết bằng một lý
do duy nhất, đó là: "vì Chúa Giêsu quá yêu thương chúng ta." Yêu đến nỗi không
nhớ lỗi lầm, không tính toán, không xét nét, không phê phán, không
câu chấp, không gò bó, không biên giới, không điều kiện... Tình yêu đó điên
cuồng đến độ phiêu lưu và hy sinh cả mạng sống mình; tình yêu đó khác với chuẩn mực hạn hẹp của xã hội và lối suy nghĩ ích kỷ của con người.
Thật ra, Chúa là Ðấng trọn lành,
làm sao Ngài có khuyết điểm được, nhưng Chúa lại là Tình Yêu vô hạn, mầu nhiệm. Trí
khôn loài người không hiểu hết, không tin nỗi, nên gọi là khuyết điểm! Chẳng
qua vì Chúa là yêu thương, mà yêu thương của Thiên Chúa cao hơn lý luận của con người. Và Ngài khích lệ chúng ta hãy can đảm chọn lựa cuộc sống làm chứng
cho 10 khuyết điểm tuyệt vời đó. Nghĩa là làm chứng cho tình yêu
cao vời của Thiên Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta cảm nhận được tình yêu lớn lao mà Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Và đừng bao giờ để chúng ta phản phúc lại tình yêu của Chúa.
Suy niệm 2:
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng
hai câu chuyện dụ ngôn về con chiên lạc và đồng tiền bị mất
để bày tỏ cho chúng ta thấy lòng thương xót vô biên của Ngài đối với mỗi
người chúng ta, dù chúng ta có là ai và tội lỗi thế nào.
- Con chiên tượng trưng cho mỗi
người chúng ta, khi đôi lúc ta lạc lối khỏi con đường chính đạo, xa lìa khỏi
Chúa. Nhưng Thiên Chúa, như đấng chăn chiên nhân lành, không bao giờ bỏ mặc ta. Ngài luôn tìm kiếm và sẵn sàng đón nhận ta trở về.
- Đồng tiền tượng trưng cho giá
trị nhân phẩm của mỗi người con cái Chúa. Dù ta có nhỏ bé, yếu đuối, hay có những lỗi
lầm lớn lao, thì trong mắt Chúa, ta vẫn luôn quý giá. Ngài sẵn sàng bỏ ra mọi
công sức để tìm kiếm và cứu chuộc ta.
Qua đó cho
ta hiểu được :
-
Tình thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta là vô
điều kiện, không hề đòi hỏi bất cứ điều gì. Tình yêu ấy luôn bao dung, tha thứ
và sẵn sàng đón nhận chúng ta trở về.
- Mỗi người chúng ta đều có giá
trị cao đẹp trong mắt Chúa. Ngài không bao giờ bỏ rơi bất cứ ai, dù là người tội lỗi
nhất. Khi ta quay trở về với Chúa, đó là niềm vui lớn lao không chỉ cho ta mà còn cho cả thiên đàng.
Cảm nhận trước tình vô biên của
Chúa, chúng ta hãy can đảm quay về cùng Chúa với lòng sám hối chân thành, hầu
xứng đáng được Chúa đón nhận vào trong vòng tay yêu thương của Người.
Khi đón nhận tình thương của Chúa, ta cũng được mời gọi thể hiện tình yêu thương ấy đối với những ai lầm lỗi cách vô điều kiện, sẵn sàng mở lòng tha thứ và đón nhận họ trở về cùng Chúa và GH.
Suy niệm 3:
Tin Mừng chúng ta vừa nghe cho
biết: Khi Chúa Giêsu giảng dạy, những người thu thuế và tội lỗi đến gần để nghe
Người. Còn những người Pharisêu và kinh sư thì lẩm bẩm: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và còn ăn uống với chúng nữa!”
Đáp lại, Chúa Giêsu kể cho họ
nghe hai dụ ngôn: con chiên bị lạc và
đồng bạc bị mất, cả hai dụ ngôn đều nói lên niềm vui lớn lao khi tìm lại
được điều đã mất.
Qua đó, Chúa Giêsu muốn mạc khải
cho ta biết về khuôn mặt của một vị Thiên Chúa giàu lòng thương xót và luôn chủ động đi tìm kẻ lạc đường. Người
không đứng chờ chúng ta quay về, nhưng ra đi trong tình yêu để tìm kiếm, vác ta
về trên vai, và mời gọi mọi người cùng chia sẻ niềm vui.
Trái lại, người Pharisêu tự cho
mình là công chính, không nhận ra mình cũng cần được cứu. Họ nhìn tha nhân bằng
con mắt phán xét hơn là cảm thông.
Từ đó, Chúa Giêsu muốn ta nhìn
lại chính mình:
- Tôi có coi thường hay khinh
miệt ai vì họ yếu đuối, lầm lỗi?
- Tôi có cảm nhận được niềm vui
và lòng nhân từ của Thiên Chúa khi Người đón nhận tôi, một người tội lỗi, trở
về không?
- Hãy tập nhìn người khác bằng
ánh mắt cảm thông thay vì phán xét.
- Mỗi khi gặp người lầm lỗi, ta
đừng bao giờ kết án nhưng hãy tìm cách giúp họ đứng dậy.
- Hãy cảm tạ Chúa mỗi ngày vì
Người vẫn không ngừng tìm kiếm và yêu thương ta.
Chúa chính là Mục Tử nhân lành, luôn đi tìm con chiên lạc là mỗi người
chúng ta. Xin cho ta cảm nhận được lòng thương xót của Chúa,
để cũng biết yêu thương và tha thứ cho anh chị em mình.
Xin cho ta luôn biết sống bao dung tha thứ và yêu thương phục vụ chân thành, hầu trở nên dấu chỉ của niềm vui Tin Mừng giữa một thế giới còn nhiều lạnh lùng và phán xét. Amen.
Thứ sáu: Lc 16, 1-8
Suy niệm 1:
Làm thế nào để trở
thành người quản lý khôn ngoan và trung tín? Đó là sứ điệp Lời Chúa
hôm nay muốn nói với chúng ta. Xin cho chúng ta biết tận dụng sự khôn ngoan
Chúa ban để sinh nhiều hoa trái tốt lành mang lại lợi ích cho mình và cho
nước trời.
Quản gia là người được ông chủ
rất tin tưởng trao phó tất cả tài sản cho quản
gia trông coi. Nhiệm vụ của người quản gia trung thành là
vừa quản lý tốt tài sản, vừa khôn khéo làm gia tăng tài sản cho
ông chủ. Thế nhưng người quản gia mà Chúa Giêsu đề cập trong đoạn Tin mừng hôm
nay tuy khôn ngoan nhưng lại bất trung.
Anh ta khôn ngoan vì biết
tận dụng tài sản sẵn có của chủ để thu lợi bất chính cho mình. Đến khi chủ gia
khám phá và có ý định sa thải, thì một lần nữa, anh khôn ngoan nghĩ
ra cách đáp cánh an toàn. Với sự nhanh nhẹn vốn có anh nghĩ
ngay đến việc dùng tiền của gian dối để mua lấy bạn hữu, với ý định sau khi mất
việc anh được nhiều người thương mến mà đón tiếp anh vào nương tựa nơi nhà họ.
Dù rất khôn ngoan nhưng anh vẫn
bị xem là kẻ bất lương vì 2 lý do: thứ nhất anh ta đã không
trung thực trong vai trò quản gia, có lẽ anh đã từng dùng tài sản của chủ làm
lợi cho mình. Thứ hai anh ta đã làm sai nguyên tắc
luân lý đòi buộc là dùng phương
tiện xấu hầu đạt được mục đích tốt.
Khi ca ngợi hành động
khôn ngoan của người quản gia bất lương này, Chúa Giêsu không có ý
khuyến khích chúng làm điều xấu để đạt mục đích tốt, nhưng Chúa muốn mời gọi
chúng ta học nơi người quản gia này biết khôn ngoan chuẩn bị cho
tương lai xa.
Chúng ta đang sống trong những
ngày cuối năm phụng vụ, Lời Chúa hôm nay là hồi
chu chuông cảnh tỉnh những ai còn đang ngủ mê trong tội lỗi bởi
lối sống bất trung với Chúa và gian dối với người kịp thời điều
chỉnh lại cuộc sống sao cho phù hợp với thánh ý của Chúa.
Xin Chúa cho chúng
ta biết luôn ý thức xử dụng tốt những ân huệ Chúa
ban: sức khỏe, thời giờ, tài năng, tiền
của… để sinh nhiều hoa trái tốt lành dâng hiến cho người và cho
nước trời.
Suy niệm 2:
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu
dùng câu chuyện về người quản lý bất trung để dạy chúng ta bài học sâu sắc về
sự khôn ngoan.
- Sự khôn ngoan của thế gian: Người
quản lý bất trung đã thể hiện một sự khôn ngoan nhất định khi đối mặt với tình
huống khó khăn. Ông ta đã sử dụng những mối quan hệ và tài sản của chủ để đảm
bảo tương lai cho mình. Tuy nhiên, đây là loại khôn ngoan của thế gian, một
loại khôn ngoan chỉ tập trung vào lợi ích cá nhân.
- Khôn ngoan của Thiên
Chúa: Chúa Giêsu khen ngợi sự khôn ngoan của người quản lý này, nhưng
Ngài không tán thành hành động của ông ta. Thay vào đó, Ngài muốn chúng ta hiểu
rằng ngay cả những người không tin cũng có thể có những hành động khôn ngoan.
Tuy nhiên, khôn ngoan của Thiên Chúa là một loại khôn ngoan cao cả hơn, một
loại khôn ngoan hướng đến việc xây dựng vương quốc của Thiên Chúa.
- Bài học cho chúng ta: Chúng
ta được mời gọi sử dụng những tài năng và khả năng của mình để phục vụ Thiên
Chúa và tha nhân. Thay vì chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân, chúng ta nên sống
một cuộc đời khiêm tốn, chia sẻ và yêu thương.
Chúng ta nên học hỏi từ người
quản lý bất trung về sự khôn ngoan trong việc quản lý tài sản. Tuy nhiên, chúng
ta cần sử dụng sự khôn ngoan này một cách đúng đắn, không vì lợi ích cá nhân mà
vì lợi ích chung.
Xin Chúa ban cho chúng con sự khôn ngoan như Chúa muốn. Nhờ đó chúng con biết sử dụng những tài năng và khả năng của mình mà phục vụ Chúa và tha nhân với lòng quảng đại, chia sẻ. Bởi vì chỉ khi cho đi, chúng ta mới nhận lại những điều cao quý Chúa ban. Amen.
Suy niệm 3: KHÔN NGOAN ĐỂ CHỌN ĐIỀU VĨNH CỬU
Trong thời buổi kinh tế bấp bênh,
chiến tranh leo thang, bão lụt khắp nơi, ai cũng lo “phòng thân”. Truyện kể rằng:
Một hôm, hai người bạn gặp nhau.
Anh A khoe:
- Tôi vừa mua thêm mấy cây vàng, cất kỹ trong két sắt. Lỡ có chuyện gì, ít
ra vẫn còn cái để sống!
Anh B cười:
- Còn tôi thì vừa “đầu tư” mấy chục suất cơm cho người nghèo, giúp ít học
bổng cho mấy đứa học sinh vùng lũ.
Anh A tròn mắt:
- Trời, giữa lúc khủng hoảng mà anh
còn đem tiền đi cho à?
Anh B cười dí dỏm:
- Anh đầu tư vào két sắt thì giữ được vàng; tôi đầu tư vào người nghèo thì
giữ được… lòng bình an.
Mất điện, mất mạng, mất tiền, vàng vẫn nằm đó mà mình đâu có mang theo
được. Còn “công đức” thì Chúa giữ giúp tôi trên trời, không sợ trộm, không sợ
rỉ sét!
Anh A im lặng, rồi cười:
- Vậy chắc tôi cũng nên… chia bớt
vàng cho nhẹ két.
Câu
chuyện nghe có vẻ vui tai, nhưng lại liên quan đến sứ điệp lời Chúa hôm nay:
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, nói đến
một người quản lý bất
lương nhưng khôn khéo. Khi bị sắp mất
việc, anh ta nhanh trí tìm cách “lấy lòng” các con nợ để sau này được họ đón
tiếp.
Chúa Giêsu không khen anh ta vì gian dối,
nhưng vì biết lo
xa và hành động quyết liệt để bảo đảm cho tương lai mình. Và Chúa
kết luận: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái sự sáng khi xử sự với người
đời.” Một lời nhận định đáng cho chúng ta suy nghĩ.
Trong xã hội hiện tại, giữa chiến tranh, bão lụt,
và khủng hoảng kinh tế... người đời ai nấy đều biết lo toan,
tính toán, tích trữ để bảo đảm cuộc sống: mua vàng, mua lương thực, đầu tư, bảo
hiểm... Nhưng mấy ai lo cho phần linh hồn, cho cuộc sống mai sau?
Bao người dành cả đời để “đầu tư” cho vật chất
chóng qua, mà quên rằng tương lai đời đời mới là điều đáng lo nhất.
Chúa
mời gọi chúng ta hãy
khôn ngoan như người quản lý kia, nhưng hướng trí khôn ấy về Thiên Chúa và Nước
Trời:
- Biết dùng của cải tạm bợ để gieo rắc tình thương,
bằng cách giúp đỡ người khó nghèo.
- Biết dùng thời giờ và tài năng để phục vụ, cầu nguyện,
và làm chứng cho Chúa.
- Biết
“đầu tư” vào kho tàng không hư mất nơi Chúa là phần thưởng thật.
Thư gửi tín hữu Rôma, cho biết Thánh Phaolô đã làm chứng cho mẫu
người khôn ngoan ấy: Ngài không tìm vinh quang đời này, nhưng đã dốc hết lòng rao giảng Đức Kitô,
và làm mọi sự “vì phần rỗi các linh hồn”.
Xin Chúa cho chúng ta, giữa một thế giới đầy
bất an, biết chọn cho mình một sự khôn ngoan đích thực: không
phải khôn khéo để vun vén cho mình, nhưng là khôn ngoan để đầu tư cho Nước Trời,
nơi của cải không bị mất đi, và nơi Chúa sẽ đón ta vào hạnh phúc muôn đời.
Thứ bảy: Lc 16, 9-15
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời
gọi chúng ta xác định lại chỗ đứng đích thực của đồng tiền, để có sự chọn lựa
khôn ngoan cho những giá trị của cuộc sống. Đó là điều thực tế hàng ngày xảy ra
trong cuộc sống nên rất cần chúng ta quan tâm.
Chúng ta đang sống trong đời đại
kinh tế thị trường nên tiền bạc có sức ảnh hưởng rất lớn trên cuộc sống. Nếu
không thức tỉnh chúng ta dễ rơi vào vòng xoáy kim tiền mà đánh mất những giá
trị cao quý khác, và có nguy cơ loại bỏ TC ra khỏi cuộc sống của mình.
Dẫu biết rằng tiền của thế gian
chỉ là phương tiện chứ không phải là ông chủ. Nhưng vì tiền bạc giúp con người
có được cuộc sống sung túc và thoải mái nên nó có một sức hút rất mãnh liệt.
Nhiều người say mê tiền bạc đến nỗi đặt nó lên làm ông chủ để tôn thờ ngang
hàng với thần thánh “tiền là tiên là phật”. Chính vì đặt tiền bạc vào địa vị
cao nhất đời mình, nên họ dễ dàng loại bỏ tất cả những giá trị cao quý khác. Vì
tiền người ta có thể làm bất cứ việc gì ngay cả tham nhũng, gian lận, bán rẻ
nhân phẩm và giết hại lẫn nhau để có được đồng tiền.
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ
cho chúng ta thấy được giới hạn của tiền bạc, và qua đó Chúa mời gọi chúng ta
hãy vươn tới tình bạn hữu và giá trị nước trời: “Thầy bảo cho anh em
biết: hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc,
thì họ sẽ đón tiếp các con vào nơi vĩnh cửu.” (Lc 16, 9). Đúng vậy,
tiền bạc không phải là ông chủ để ta tôn thờ mà chỉ là đầy tớ để phục vụ cho
tình bạn và là phương tiện vật chất làm bậc thang lót đường để đưa ta đến với
nhau và cùng nhau vươn lên đến tận trời cao. Vì thế mà Chúa Giêsu quyết liệt
đòi buộc chúng ta phải có thái dứt khoát chọn lựa giữa Thần Tài và TC: “Các
con không thể làm tôi TC mà lại làm tôi tiền của được!”.
Xin cho chúng ta biết khôn ngoan chọn Chúa làm gia nghiệp đời mình và đặt Chúa làm vị trí trung tâm và cao nhất trong các chọn lựa của đời sống Chúng ta. Để cho dù bất cứ hoàn cảnh nào xảy ra, chúng ta vẫn trung thành với Chúa Đấng đáng chúng ta yêu mến và tôn thờ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét