SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XVIII THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN-B
Xh 16,2-4.12-15; Ep 4,17.20-24; Ga 6, 24-35
Suy niệm 1:
Làm việc để tìm kiếm cơm bánh nuôi dưỡng thân xác là mục tiêu cơ bản nhất
của con người. Nhưng con người không chỉ có nhu cầu ăn uống mà còn có nhu cầu
tinh thần và tâm linh. Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải vượt
lên những cái tầm thường của cuộc sống mau qua để vươn lên những giá trị vĩnh
cửu. Muốn vươn lên sự sống vĩnh cửu, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy “Đến Với”
và hãy “Tin Vào” Ngài.
Đức Giêsu đã làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám đông, cho thấy Ngài
quan tâm đến nhu cầu của thân xác của con người. Nhưng Ngài không dừng lại ở
việc thỏa mãn nhu cầu cơ bản là “đói cho ăn, khát cho uống”. Bởi lẽ cơm bánh
chỉ là thứ lương thực mau qua dành cho thân xác, chứ không phải là thứ lương
thực đem lại sự sống đời đời. Do đó, Ngài muốn ban cho con người thứ lương thực
thường tồn đem lại sự sống vĩnh cửu.
Để có được của ăn mau qua nuôi dưỡng thân xác, con người phải ra công làm
việc vất vã “đổ mồ hôi, sôi nước mắt ” mới có của ăn.
Để có của ăn vĩnh cửu, nuôi dưỡng tinh thần và tâm linh, con người chỉ cần
làm hai việc: "Đến với Chúa Giêsu và Tin vào Ngài".
Cái đói của thân xác không cồn cào bằng cái đói tinh thần.
Con người đói công bằng và hạnh phúc, đói yêu thương và kính trọng.
Con người khát niềm vui và bình an, cảm thông và sự thật.
Tận trong nơi sâu thẳm cõi lòng, con người đói khát một ai đó để mình gắn bó, yêu mến và tôn thờ.
Đức Giêsu mời chúng ta hãy tin vào Ngài là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Hãy đến với Giêsu để bắt đầu được nếm thử tấm bánh của Ngài, vì chính Ngài là Tình yêu, Sự thật và Bình an.
Lời mời gọi của Chúa Giêsu đã được chính Thánh Augustinô cảm nhận và Tự thú rằng: “Tâm hồn con khắc khoải không ngừng cho tới khi được nghỉ yên trong Chúa”. Và Thánh Phaolo cũng quả quyết: "Tôi sống nhưng không phải tôi sống. Mà chính Đức Kitô sống trong tôi" (Gl 2,20).
Như thế mọi vinh hoa, quyền thế và của cải trần gian không thể lấp đầy nỗi khát vọng sâu xa của con người. Chỉ khi nào được kết hợp mật thiết với Chúa, ở trong Chúa, khi ấy con người mới tìm thấy bình an và hạnh phúc đích thực.
Lạy Chúa, Xin cho chúng con biết siêng năng đến với Chúa Giêsu với niềm tin
yêu, để chúng con được chính Chúa nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Bánh Thánh, là
thứ lương thực không hư nát và đem lại sự sống đời đời cho chúng ta.
Suy niệm 2:
Tin Mừng hôm
nay mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng sâu sắc hơn về bản chất của Chúa Giêsu
Kitô và mối liên hệ của chúng ta với Ngài.
Qua những
lời nói và việc làm của Chúa Giêsu cho ta biết rằng, Ngài không chỉ là một
người thầy, một nhà tiên tri, mà còn là Bánh Hằng Sống trao ban cho nhân loại.
Vì thế,
không ít lần Chúa Giêsu đã khẳng định với dân chúng: "Ta chính là bánh hằng sống từ trời
xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời" (Ga 6, 41-51). Khác với bánh mà ông
Mô-sê ban cho dân Israel trong sa mạc, bánh của Chúa Giêsu ban không chỉ nuôi
sống thể xác mà còn bổ sức và nuôi dưỡng cả tinh thần và linh hồn.
Tuy nhiên,
để lãnh nhận bánh sự sống do Thiên Chúa thương ban, chúng ta cần phải “tin vào”
Chúa Giêsu và “đến với” Ngài. Đức tin là yếu tố quan trọng để chúng ta được kết
hợp mật thiết với Chúa Kitô và đón nhận sự sống vĩnh cửu của Ngài.
Chúa Giêsu cho ta biết, Chúa Cha mới là Đấng ban bánh sự sống, Bánh
Giêsu cho nhân loại. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của Chúa Cha trong
công cuộc cứu chuộc nhân loại.
Có lẽ nhiều người trong chúng ta, đã từng trải qua cảm giác tâm hồn mình đôi khi như trống rỗng vì thiếu thốn một điều gì đó. Nhưng ta không tìm thấy sự lấp đầy hiệu quả nào cả nơi trần gian này. Vì thế, Lời Chúa hôm nay cho ta biết được chỉ có Chúa Giêsu, Bánh Hằng Sống mới có thể lấp đầy và làm cho chúng ta được no thỏa trong Ngài.
Nều như thể xác cần được ăn uống lương thực mau qua là cơm bánh ở trần gian để được sống và lớn lên, thì linh hồn cũng cần được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và các bí tích để được sống. Tuy nhiên để linh hồn được nuôi dưỡng bằng các bí tích thì chúng ta phải kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu qua việc cầu nguyện, tham dự Thánh lễ và Rước lễ thật sốt sắng.
Nếu như Tấm Bánh Giêsu đã được bẻ ra để trao ban sự sống cho nhân loại, thì đến lược chúng ta cũng mời gọi chấp nhận hy sinh bẻ đời mình ra, để chia sẻ tình thương cho những người xung quanh, đặc biệt là những ai đang gặp khó khăn, thử thách… bằng những hành động bác ái cụ thể.
Xin Chúa cho
chúng ta biết siêng năng đến với Chúa Giêsu, Đấng là nguồn mạch sự sống mà kết
hợp mật thiết với Ngài nơi bàn tiệc Lời Chúa và bàn Tiệc Thánh Thể trong Thánh
Lễ hàng ngày, ngỏ hầu chúng ta được no thỏa sự sống thần linh của Chúa. Khi ấy chúng ta mới tìm thấy được bình an, niềm vui và hạnh phúc đích thực của đời mình.
Suy
niệm 3: BÁNH SỰ SỐNG
Tin mừng tuần trước trình thuật phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá, nuôi 5000 người ăn no nê, dư 12 thúng đầy. Khi ấy, dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài không muốn nên đã lánh lên núi cầu nguyện một mình. Sau đó, Chúa Giêsu cùng với các môn đệ vượt biển trong đêm tối sang bên kia và vào Caphanaum để giảng dạy.
Biết tin
ấy, dân chúng tìm đến với Chúa Giêsu rất đông, vì muốn được ăn bánh no bụng mà
không cần phải ra công làm việc vất vả. Tuy nhiên, Chúa Giêsu muốn dẫn dắt họ
vượt qua nhu cầu vật chất ấy để hướng đến một loại "bánh" cao cả hơn.
Đó là chính Bánh Giêsu. Bánh này mới nuôi dưỡng tâm hồn, mang lại sự sống vĩnh cửu và
hạnh phúc đích thực cho con người. Tuy nhiên để ăn được bánh Giêsu do chính Chúa Cha tặng ban, chúng ta cần phải:
- Tin vào Chúa
Giêsu: Nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, là con đường duy nhất dẫn
đến sự sống đời đời.
- Sống theo
Lời Chúa: Áp dụng Lời Chúa vào cuộc sống hàng ngày, để Lời Chúa trở
thành kim chỉ nam cho mọi hành động của chúng ta.
- Tham dự các
bí tích: Đặc biệt là bí tích Thánh Thể, nơi chúng ta được rước Mình và
Máu Chúa Kitô, để được nuôi dưỡng linh hồn.
Thực hiện những việc làm ấy, linh hồn của ta sẽ được kết hợp mật thiết với Chúa Kitô, nguồn sự sống và là niềm hạnh phúc đích thực của con người. Được Chúa Kitô ở cùng, đời ta sẽ được biến đổi mỗi ngày nên giống Chúa hơn.
* Vậy chúng ta hãy tích cực áp dụng Lời Chúa dạy vào các môi trường sống:
. Nơi gia
đình: Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa, và sống theo
gương mẫu của Chúa Giêsu.
. Nơi Họ đạo: Chúng ta hãy tham gia các hoạt
động của giáo xứ, giúp đỡ những người khó khăn, và cùng nhau xây dựng một cộng
đoàn yêu thương.
. Trong xã hội: Chúng ta hãy làm chứng cho
Chúa Kitô bằng cách sống tốt đời đẹp đạo, và đóng góp tích cực cho xã hội.
Chúa Giêsu luôn
tha thiết mời gọi chúng ta đến với Người, để được Người nuôi dưỡng bằng bánh sự
sống là chính Chúa. Xin cho mỗi người chúng ta biết mở lòng đón nhận Lời Chúa,
sống theo Lời Chúa, và chia sẻ Lời Chúa với những người xung quanh. Amen.
Thứ
hai: Mt 14, 13-21
Suy
niệm 1:
Tin
mừng hôm nay khắc họa khuôn mặt của một vị Thiên Chúa giàu lòng thương xót nơi
Đức Giêsu. Thánh Matthêu cho biết Chúa Giêsu chính là hiện thân của lòng thương
xót của Thiên Chúa:
-
Qua ánh mắt và tấm lòng: Mặc dù Chúa Giêsu và các môn đệ xuống thuyền tìm đến
một chỗ hoang vắng để nghỉ ngơi đôi chút, nhưng khi “ra khỏi thuyền,
Đức Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương”, nên
Ngài đã mở lòng đón tiếp họ.
-
Qua lời giảng dạy: Vì muốn mang đến cho dân chúng Tin mừng cứu độ, nên Chúa
Giêsu đã không ngần ngại “đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy
trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời.” (Mt 9, 35). Ngay
cả khi Ngài tìm đến nơi thanh vắng để nghỉ ngơi đôi chút, nạp
lại năng lượng, lấy lại sức, vậy mà khi nhìn thấy dân chúng
tuôn đến, Ngài lại tiếp tục hăng say rao giảng Tin mừng nước trời cho
họ.
-
Qua việc làm: chạnh lòng trước những nỗi đau khổ về phần xác và phần hồn của
dân chúng, Ngài không ngần ngại ra tay “chữa lành hết các bệnh
nhân” tìm đến với Ngài. Ngài còn làm phép lạ hóa bánh ra nhiều
cho 5000 người ăn no nê, dư 12 thúng đầy từ 5 chiếc bánh
và 2 con cá. Nhờ đó mà họ mới có đủ sức để trở về với mái ấm gia đình
mình.
Xin
cho chúng ta biết không ngừng cảm tạ, chúc tụng tình thương lớn lao của Thiên
Chúa dành cho chúng ta nơi Đức Giêsu, bằng cách siêng năng tìm đến Chúa qua
việc tham dự thánh lễ và năng rước lễ; nhất là biết cảm thương và tích cực làm
việc bác ái giúp đỡ người nghèo, với mong muốn góp phần lan truyền lòng thương
xót của Chúa đến với mọi người.
Suy niệm 2: NÔN NẢ TÌM KIẾM
“Nghe tin Gioan Tẩy Giả đã chết, Chúa Giêsu rời bỏ nơi
đó, xuống thuyền đi đến nơi hoang địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết, thì từ các
thành phố đi bộ theo Ngài”.
Kính thưa Anh Chị em,
Phúc Âm hôm nay mở đầu với một ‘hung tin’ như thế!
Biết vậy, Chúa Giêsu bỏ đám đông để được ở một mình. Vậy mà chẳng yên thân; dân
chúng ‘nôn nả tìm kiếm’ Ngài!
Trước cái chết của Gioan, một cái chết báo trước cái
chết của Ngài, Chúa Giêsu đau đớn lặng người. Cái chết của Gioan hầu như không
tạo ra một dư luận ồn ào nào, và xem ra, cũng không có lấy một lời nỉ non; phải
chăng vì nó xảy ra lặng lẽ ở một góc tối dưới một dinh thự sáng rực náo nhiệt
nhân tiệc mừng ngày sinh của một quận vương ngông cuồng! Chúa Giêsu không vui
và âm thầm rút vào cô tịch là lẽ thường. Thế nhưng, việc người ta không để Ngài
yên là điều khó chấp nhận! Ngài đã phản ứng thế nào? Thấy họ, “Ngài chạnh lòng
thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ”.
Hãy chiêm ngắm trái tim và lòng lân mẫn của Chúa
Giêsu! Bao lần chúng ta viện lý do sợ quấy rầy Ngài; ngần ngại trở lại với Ngài
vì lỗi này, lỗi kia; chúng ta sợ những gì Ngài sẽ nghĩ, điều Ngài sẽ trách;
chúng ta xấu hổ… và kết quả là, chúng ta tìm cách xa lánh Ngài. Thật ủi an khi
Tin Mừng hôm nay cho biết, Ngài không xua đuổi ai nhưng luôn trắc ẩn với bất cứ
ai tìm đến Ngài. Bởi thế, dù thấy mình bất xứng đến đâu, tội lỗi đến mấy, bạn
hãy cứ mạnh dạn ‘sấn tới’; Ngài không bao giờ mệt mỏi để tha thứ. Hãy ‘nôn nả
tìm kiếm’ Ngài và nhất tâm hy vọng với lòng tin tưởng lớn lao nhất!
Bài đọc Dân Số hôm nay tiết lộ một trải nghiệm tương
tự của Môisen; ông phải chịu đựng, giày vò, khi chứng kiến cảnh “Dân
tụm năm tụm bảy đứng ở cửa lều mà kêu khóc”. Họ kêu khóc vì nóng lòng vào
Đất Hứa cũng đành; đàng này, họ kêu khóc vì những quả dưa gang, dưa chuột, củ
hành, củ hẹ xứ người… Đã quá mệt mỏi với dân đến nỗi Môisen xin được chết cho
khuất mắt Chúa; ông ‘nôn nả tìm kiếm’ Ngài, nói khó với Ngài. Và Thiên Chúa đã
mủi lòng! Ngài ban cho dân thịt ăn theo một cách thức lãng mạn không ít ngoạn
mục khi cho chim cút rơi xuống rợp trại ngay giữa chốn heo hút; để rồi, họ ‘trơ
tráo’ hát mừng, “Reo lên mừng Thiên Chúa, Đấng trợ lực chúng ta!” như
Thánh Vịnh đáp ca thổ lộ.
Một linh mục thân tín của cố Tổng Giám Mục Philipphê
Nguyễn Kim Điền tâm sự. Mỗi ngày, ngoài giờ làm việc và đọc sách, Đức Cha hầu
như thường xuyên ở trước Mình Thánh Chúa trong phòng nguyện sát phòng ngài. Có
lần, vị linh mục phải xuất hiện đến hai ba lần, Đức Cha mới đứng lên và xuống
tiếp khách, dù trước đó ngài biết có người lấp ló. Đặc biệt, những lúc khó
khăn, hầu như ngài không rời nơi đó suốt ngày!
Anh Chị em,
“Chúa Giêsu rời bỏ nơi đó”. Lời Chúa mời gọi bạn và tôi tự hỏi, mỗi khi cô đơn,
đau buồn; mỗi khi đối diện với các vấn nạn dường như không thể vượt qua, chúng
ta kiếm điều gì, tìm đến ai? Môisen, dân chúng thời Chúa Giêsu, Đức Cha
Philipphê đã mách cho chúng ta, ai mới là người đáng cho chúng ta kiếm tìm! Quả
thế, chỉ nơi Giêsu, trong Giêsu và nhờ Giêsu, bạn và tôi mới tìm được sức sống,
sự mạnh mẽ, sự an toàn và suối nguồn bình an đích thực!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, không tìm Chúa, con sẽ tìm một thứ gì khác,
một ai khác. Cho con thôi khờ khạo!”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)
Suy niệm 3: CHẠNH LÒNG THƯƠNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên
Chúa yêu thương săn sóc như người mẹ hiền. Không chịu nổi khi thấy con cái đau
khổ thiếu thốn. Đã nghe thấy tiếng than thở của Ít-ra-en sống kiếp nô lệ lầm
than. Đã ra tay giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai-cập. Khi vào sa mạc không có
bánh ăn, họ kêu than trách móc. Chúa đã ban man-na nuôi họ. Ăn man-na mãi cũng
chán, thiếu thịt, họ lại kêu than oán trách. Mô-sê vừa thương vừa sợ. Chạy đến
kêu cầu Chúa. “Sao Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên con? …Có phải con đã
sinh ra nó không mà Ngài lại bảo con: ‘Hãy bồng nó vào lòng, nhu vú nuôi bồng
trẻ thơ, mà đem vào miền đất Ta đã thề hữa với cha ông chúng? Con lấy đâu ra
thịt cho cả dân này ăn”. Mô-sê, tôi tớ của Chúa cũng có tấm lòng của Chúa. Yêu
thương dân. Nên không chịu nổi tiếng kêu than của dân. Và Chúa chạnh lòng
thương ban chim cút cho họ ăn dư thừa (năm lẻ).
Đến
thời sau hết, chính Thiên Chúa đích thân đến chăm sóc dân Người. Hôm nay Chúa
Giê-su bày tỏ tấm lòng yêu thương chăm sóc cho dân như người mẹ hiền. Chúa
chạnh lòng thương vì thấy họ lầm than khốn khổ. Chúa dạy các tông đồ phải lo
cho họ ăn. Đừng để họ đói khát đi về đường xa trời tối. Bánh của Chúa ban khiến
họ không những ăn no nê. Mà còn hạnh phúc. Vì cảm nhận được tình yêu thương của
Chúa. Và hơn nữa Chúa còn chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Giải thoát họ
khỏi nô lệ trong cõi u mê không lối thoát. Chúa chính là tấm bánh làm no thoả
mọi cơn đói khát của con người. Với quyền năng và tình thương Chúa biến những
tấm bánh bé nhỏ thành lớn lao nuôi cả vạn người. Chúa biến nỗi khổ thành niềm
vui. Chúa biến thất vọng thành hi vọng. Chúa biến nô lệ thành tự do. Chúa biến
lầm than thành hạnh phúc.
Có
những tiên tri giả đem tấm bánh giả dối đến cho dân. Tấm bánh vẽ với những lời
hứa hão huyền, dễ dãi. Như Kha-nan-gia. Ông không làm theo lời Chúa. Ông đưa
dân vào con đường lầm lạc. Nên chính ông phải chết trước (năm chẵn). Tấm bánh
của Chúa là tấm bánh thật. Tấm bánh ban không dễ dàng. Vì chính Chúa phải từ
trời xuống. Phải chịu biết bao vất vả. Phải chịu cả khổ hình và cái chết. Mới
có thể ban tấm bánh hạnh phúc đích thực thoả mãn mọi cơn đói khát của ta. Mô-sê
và Giê-rê-mi-a cũng là những môn đệ đích thực. Nên phải đau khổ, vất vả, yêu
thương phục vụ dân Chúa.
Xin
cho con biết phân biệt bánh thật và bánh vẽ. Xin cho con trở thành môn đệ đích
thực của Chúa. Phục vụ bằng tình yêu và hi sinh. Để đem tấm bánh của Chúa cho
nhân loại.
Thứ ba: Đn 7,9-10.13-14; 2Pr 1,16-19; Mc 9,2-10 (Mt 17,1-9)
KÍNH CHÚA HIỂN DUNG
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cùng lên núi với Chúa Giêsu không phải để
được biến hình, nhưng là để được biến đổi đời sống qua việc lắng nghe và thực
hành lời dạy của Chúa Giêsu, Con Chí Ái của Chúa Cha. Nhờ đó ta mới trở nên
hoàn thiện hơn như lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Các con hãy nên hoàn
thiện, như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt.5,48).
Ơn gọi của người Kitô hữu chính là trở nên người con trong Người Con yêu
dấu của Chúa Cha là Đức Giêsu Kitô. Nhưng làm thế nào để ta trở nên
người con yêu dấu của Chúa Cha trong Đức Giêsu?
Thưa, tin mừng hôm nay chỉ ra cho chúng ta một vài gợi ý sau đây:
- Chấp nhận đi vào con đường thập giá.
Nếu trước đó, khi nghe Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó mà
Ngài sắp phải trãi qua, thì các môn đệ, nhất là Phêrô đã không chấp nhận
nên đã đứng ra quyết liệt can ngăn; thì với cuộc biến hình này, Chúa Giêsu như
muốn giúp các ông hiểu rằng: vinh quang có được chỉ đến sau khi dám chấp nhận
đi vào con đường thập giá.
- Tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Tin mừng cho biết trong khi cầu nguyện trên núi cao, thì hình dạng Ngài
bổng biến đổi: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục
Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”. Khi ấy, Chúa Cha đã xác
nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người." (Mt
3, 16-17), và tiếp liền sau đó, Người mời gọi chúng ta hãy tin vào Đức Giêsu
chính là Con yêu dấu của Người.
- Vâng nghe lời Chúa Giêsu chỉ dạy.
Trong biến cố biến hình này Chúa Giêsu cũng đã minh định cho các tông đồ
biết: Ngài chính là Mô-sê (luật) và Ê-li-a (ngôn sứ) mới. Nơi Ngài gom tóm toàn
thể lề luật và lời ngôn sứ được nói trong Cựu ước; nay lề luật và lời ngôn sứ
ấy được kiện toàn hoàn hảo nơi Đức Giêsu: “Anh em đừng tưởng Thầy đến
để bãi bỏ luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ,
nhưng là để kiện toàn.” (Mt 5,17). Chính vì thế mà Chúa Cha đã
kêu gọi chúng ta là hãy "vâng nghe lời Người".
* Tóm lại, để trở nên người con yêu dấu của Chúa Cha trong Đức Giêsu, đòi
buộc chúng ta phải thực hiện hai việc sau đây:
- Chấp nhận từ bỏ tất cả, để tiến bước trên hành trình đức tin theo
Đức Giêsu, với niềm tín thác tuyệt đối vào thánh ý Thiên Chúa Cha nơi Đức Giêsu
Kitô.
- Phải luôn chú tâm lắng nghe và thực hành lời Chúa Giêsu chỉ dạy, qua việc
say mê học hỏi, suy niệm và sống Phúc âm. Hãy để cho lời Chúa thấm nhập vào mọi
suy nghĩ, lời nói và việc làm của chúng ta, như thánh Phao-lô đã cảm nhận và
nêu gương đời sống cho chúng ta: “Tôi sống, nhưng không còn phải là
tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2, 20). Nhờ thế, ta mới
xứng đáng được gọi là “con yêu dấu của Chúa Cha”. Amen.
Suy niệm 2: HÃY TIN VÀO ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ CON THIÊN CHÚA
Bài đọc 1, trích sách tiên tri Đa-ni-en, trong một thị kiến tiên tri
Đa-ni-en nhìn thấy cảnh tượng choáng ngợp vinh quang, có sự xuất hiện của một
vị bô lão sáng chói và một nhân vật được gọi là "Con Người" đang ngự
giá mây trời mà đến. Vị bô lão ấy chính là Chúa Cha đã trao cho "Con
Người" tức là Chúa Giê-su Ki-tô quyền thống trị vĩnh cửu, vinh quang và
vương quốc chẳng hề suy vong; muôn người thuộc mọi dân tộc đều phải phụng sự
Người.
Bài đọc 2, trích thư thứ hai của thánh Phê-rê tông đồ, ngài đã nhắc
lại những điều mắt thấy tai nghe qua những sự kiện lạ lùng mà Đức Giêsu đã thực
hiện, cụ thể qua hai biến cố trọng đại là: biến hình trên núi Ta-bor và sự phục
sinh vinh quang của Đức Giê-su Ki-tô. Từ đó, Thánh Phê-rô khẳng định với các
tín hữu đang gặp nhiều thử thách về niềm rằng: Chúa Giê-su chính là Con Một yêu
dấu của Chúa Cha và được Chúa Cha yêu mến. Để qua đó mời gọi các tín hữu hãy
tin tưởng tuyệt đối vào Người.
Tin mừng hôm nay thuật lại cuộc biến hình của Đức Giê-su trên núi Ta-bor,
nhằm củng cố niềm tin cho các môn đệ và mạc khải Thiên Tính của Người.
Biến cố biến hình trên núi Ta-bor xảy ra sau khi Đức Giêsu loan báo cho các
môn đệ Ngài biết về cuộc khổ nạn con đường thập giá mà Ngài sẽ phải trãi qua.
Nhưng tông đồ Phê-rô không chấp nhận Thầy mình đi vào con đường ấy. Thế là ông
đã đứng ra can ngăn quyết liệt. Vì thế, ông đã bị Chúa Giêsu khiển trách rất
nặng lời: “Sa-tan, hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà
chỉ biết việc loài người.” (Mc 8, 33). Nếu chúng ta đặt sự
kiện Đức Giêsu hiển dung vào trong bố cảnh trên, ta mới hiểu được biến cố
Đức Giêsu biến hình trên núi Ta-bor mà Tin mừng hôm nay trình thuật là nhắm đến
2 mục đích chính:
1. Củng cố đức tin cho các môn đệ.
Qua lời tuyên bố của Chúa Cha từ trên cao: “Ðây là Con Ta rất
yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người", Thiên Chúa như muốn củng cố
niềm tin cho các môn đệ vào Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa
một cách mạnh mẽ và vững vàng hơn.
2. Giúp các môn đệ can đảm chấp nhận con đường thập giá.
Con đường thập giá là đường đau khổ, chẳng ai muốn đi. Cuộc biến hình rực
rỡ trên đỉnh đồi Tabor chính là liều thuốc đắng bọc đường gíúp các môn đệ dễ
dàng nuốt lấy vị đắng của hy sinh thập giá mà Đức Giêsu sắp bước vào; cũng như
nhờ qua vị ngọt biến hình này giúp các môn đệ đủ sức vượt qua những gian nan,
thách đố, đau khổ và hy sinh khi thi hành sứ vụ loan báo niềm vui tin mừng nước
trời sau này.
Chính sức mạnh đức tin mới đem lại cho ta niềm hy vọng để dấn bước theo
Chúa trên con đường thập giá. Đức tin cũng chính là sức mạnh giúp ta can đảm
đón nhận những nghịch cảnh xảy ra trong cuộc đời. Nhờ đức tin mà chúng ta mới
dễ dàng vâng theo thánh ý Chúa, ngay cả khi mạng sống của ta bị đe dọa, bởi ta
tin rằng ở phía sau thập giá ấy là cả một bầu trời vinh quang phục sinh rực
rỡ.
Xin Chúa ban thêm niềm tin nơi chúng ta, để trong mọi hoàn cảnh của cuộc
sống, chúng ta vẫn luôn trung thành bước theo Chúa, với niềm hy vọng vào mầu
nhiệm phục sinh vinh quang nơi Đức Giêsu Kitô, theo gương các Thánh Tử Đạo Việt
Nam, là những bậc tiền nhân của chúng ta.
Suy niệm 3: BIẾN ĐỔI TÍCH CỰC (St)
Thánh lễ hôm nay được gọi là lễ hiển dung hay biến hình. Việc Chúa Giêsu biến hình và hiển dung là một biến cố quan trọng. Việc này được cả ba Tin mừng nhất lãm: Thánh Mat-thêu, Thánh Mac-cô và thánh Lu-ca ghi lại.
1. Sự kiện
Câu chuyện này xảy ra 6 ngày sau khi Phêrô long trọng tuyên xưng Đức Giêsu
là Con Thiên Chúa. Điều đáng chú ý là ngay sau đó lần đầu tiên Chúa báo
trước cho các môn đệ của Ngài biết là Ngài sẽ bị bắt, bị tra tấn và cuối cùng
sẽ phải chịu chết. Lời loan báo của Chúa làm các tông đồ choáng váng.
Phêrô không chịu nổi trước lời loan báo đó nên ông đã công khai lên tiếng can
ngăn Chúa. Phêrô tưởng làm như thế là làm vui lòng Thầy. Có ngờ đâu là lại bị
Chúa quở mắng cho một trận thậm tệ: “Sa-tan, hãy lui đi, vì ngươi không
biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người”. Chúa đuổi
Phêrô cút xa cho khỏi mắt Ngài.
Và sau đó Chúa đem 3 môn đệ thân tín lên núi, ở đó Người biến hình rực rỡ
vinh quang. Có lẽ qua biến cố hiển dung này Chúa muốn cho các môn đệ không phải
quá thất vọng về mình sau khi loan báo cuộc thương khó lần thứ nhất.
Biến cố biến hình như thế nào thì chúng ta đã biết. Ở đây tôi chỉ muốn
lưu ý đến một vài điểm quan trọng sau:
- Trước hết khi Chúa biến hình thì tất cả những gì thuộc con người trần thế
của Ngài hoàn toàn bị biến mất. Không còn một chút dấu vết gì về con người nhân
tính của Ngài nữa.
- Sau đó Ngài đã để tỏ lộ ra một Đức Giêsu hoàn toàn khác. Ba môn đệ của
Chúa đã phải ngây ngất trước một Đức Giêsu hoàn toàn đổi khác như thế.
- Thái độ của các môn đệ của Chúa, làm cho chúng ta cũng phải vui lây.
Phêrô đã không ngần ngại đề nghị với Chúa để ông được làm một điều mà trước đó
có lẽ chưa bao giờ ông dám nghĩ tới. Ông cũng như các bạn của ông đều muốn kéo
dài đến bất tận cái cảnh tuyệt vời này.
- Thế nhưng Chúa đã không cho ông được dừng lại ở đó. Chúa lại dẫn các ông
xuống núi để tiếp tục cho xong con đường mà Chúa đã lựa chọn.
Sau này khi nhớ lại câu chuyện ông đã từng được chứng kiến, Phêrô đã viết
như thế này: “Khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc
quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo
những chuyện hoang đường được thêu dệt một cách khéo léo, nhưng là vì chúng tôi
đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người...” (2Pr 1,16-17)
Vâng! Cuộc biến hình và hiển dung của Chúa đã làm cho các môn đệ vững tin
hơn. Tuy nhiên niềm tin ấy còn phải được củng cố thêm bằng biến cố Phục sinh.
Chỉ sau biến cố Phục sinh và được Chúa Thánh Thần biến đổi, các tông đồ mới trở
thành những người hoàn toàn thuộc về Chúa.
2. Bài học
Thử hỏi câu chuyện hôm nay sẽ đem lại cho chúng ta bài học gì ? Có nhiều
bài học nhưng ở đây tôi chỉ muốn nói đến sự biến hình.
Rõ ràng là mọi người đều thấy: Không phải chỉ có một lối biến hình, mà có
hai: có loại biến tốt nên xấu. Giuđa là một thí dụ. Và có loại biến hình từ tầm
thường trở nên tốt đẹp hơn. Chúng ta có thể kể ra đây trường hợp của Phêrô.
Chúng ta phải cảnh giác với loại thứ nhất và chú tâm vào loại thứ hai.
* Có loại biến hình làm cho chúng ta phải sợ.
Nhiều người đã được trông thấy bức ảnh Tiệc Ly của nhà danh hoạ Leonard de
Vinci có Chúa Giêsu và 12 tông đồ ăn bữa sau hết. Họa sĩ muốn tìm một
khuôn mặt thật dịu dàng và nhân từ, đẹp đẽ, để hình dung nét mặt cực thánh của
Chúa Giêsu, thì may mắn làm sao, lúc vào một nhà thờ kia, ông thấy trong đám
thanh niên hát lễ, có anh Pietro Bandenelli, một thanh niên có nét mặt khôi ngô
phi thường. Sau một hồi nói chuyện, cậu đã bằng lòng theo ông về sở để làm mẫu
cho ông vẽ. Cặm cụi vẽ xong, họa sĩ đem treo ở xưởng, và ai hỏi mua ông cũng
không bán.
Sau đó hai năm, họa sĩ tài danh ấy lại phải mất nhiều thời gian để tìm ra
một người có nét mặt cứng cỏi và xấu xí tượng trưng cho gương mặt của Giuda.
Ông vào một ngõ hẻm, thì gặp một người bẫn thỉu, xấu xa, ghẻ lở, giơ tay xin
ông bố thí. Ông nghĩ bụng, dầu có đi hết các phố chợ, có lẽ cũng chẳng gặp ai
xấu hơn chàng này. Ông bảo chàng đứng dậy đi theo về nhà để ông vẽ cho xong bức
ảnh kia, bởi bức ảnh chỉ còn thiếu Giuda là xong.
Khi bước vào nhà, trông thấy bức tranh, chàng tự nhiên khóc lên. Chủ nhà
cũng như mọi người trong phòng đều ngạc nhiên không hiểu lý do gì. Người ta
gặng hỏi, chàng mới trỏ tay lên bức ảnh và nói: Ông quên tôi rồi sao ?
Cách đây hai năm, tôi đã được ông mời đến đây để làm mẫu cho ông vẽ khuôn mặt
Chúa Giêsu. Khi ấy tôi đẹp đẽ, đã được ông ca tụng và lấy làm mẫu để vẽ Chúa
Giêsu. Nhưng sau đó tôi đã nhẹ dạ theo chúng bạn, tôi đâm ra chơi bời, sa đọa;
ngày nay trong cảnh túng thiếu, bị các bạn và anh em bỏ rơi, tôi chỉ còn trông
cậy vào đức ái của ông mà thôi. Vâng một cuộc biến hình nhưng thật đáng
ghê sợ. Ngày nay cũng không thiếu gì những cảnh biến hình như thế.
* Và có những việc biến hình làm cho chúng ta mong ước.
Trong biến cố hôm nay Chúa đã làm biến đi tất cả những gì thuộc về con
người trần thế của Ngài để sau đó hình ảnh về một vị Thiên Chúa nơi Đức Giêsu
được hiển lộ ra vinh quang rực rỡ. Cuộc đời của người Kitô hữu chúng ta
đang lữ hành trên con đường tiến về nhà cha trên trời cũng phải như thế. Mỗi
ngày sống trên trần thế này là mỗi ngày chúng ta phải lột xác để biến hình và
hiển dung nên xinh đẹp giống Chúa hơn.
Cha John Diamond một nhà giảng thuyết nổi tiếng bên Mỹ có kể lại câu chuyện
này: “Hôm đó có một linh hồn vì chán ngấy cuộc sống ở thế gian cho nên linh hồn
đi lên trước cửa Thiên đàng. Tới nơi linh hồn gõ cửa. Ở trong có tiếng hỏi vọng
ra: “Ai đó”
Linh hồn trả lời: “Con đây ạ” .
Cửa vẫn đóng.
Sau đó linh hồn lại trở về với đời sống ở trần thế tìm thầy học đạo. Sau
một thời gian thấy mình đã tiến bộ, linh hồn lại lên gõ cửa thiên đàng một lần
nữa. Lại một tiếng hỏi từ bên trong như lần trước và linh hồn trả lời một cách
quả quyết hơn:
- Dạ chính con đây.
Cửa vẫn đóng.
Linh hồn lại phải trở về trần thế...mở sách Tin Mừng để xem Chúa muốn gì.
Quả thực khi mở Tin Mừng ra linh hồn mới thấy con đường của mình phải đi. Đó là
con đường tự hủy. Chúa nói thật rõ về con đường đó. Đó là phải làm chết cái tôi
ích kỷ, hay khoe khoang phô trương, hay tự mãn, hay ghen ghét của mình. Phải
làm chết đi cái tôi đầy hận thù, nhiều kiêu ngạo và đầy dẫy những ham muốn bất
chính để làm cho con người của mình dần dần được giống Thiên Chúa là Cha ở trên
trời hơn. Sau một thời gian thấy mình quả thực đã không còn là mình nữa
thì linh hồn lại lên trời...lại gõ cửa...lại có tiếng từ bên trong hỏi vọng ra:
- Ai đó ?
Vừa nghe xong câu hỏi linh hồn đáp lại ngay:
- Dạ thưa chính Chúa đấy ạ.
Vừa trả lời xong thì linh hồn thấy cửa Thiên đàng được mở ra và cả một đạo
binh các thiên thần long trọng đón linh hồn vào thiên đàng.
Cuộc biến hình mang ý nghĩa tích cực là những cuộc biến hình khởi đi từ sự
quyết tâm trở với Chúa về sau những lần trượt ngả qua việc thành tâm ăn năn sám
hối lãnh nhận bí tích giải tội để đón nhận tình thương và sự tha thứ của Chúa;
việc biến hình mỗi ngày nên xinh đẹp hơn khi chúng ta biết đến gần Chúa qua
những thánh lễ và dọn lòng mình xứng hợp để đón nhận Thánh Thể Chúa Giêsu cách
sắt sắng; và quan trọng nhất vẫn là biết vâng nghe lời Chúa Cha phán dạy
là “hãy vâng nghe và thi hành lời dạy bảo của Đức Giêsu Kitô, con yêu
dấu của Người”. Nghe và thực hành lời Chúa chính là điều kiện căn bản nhất
để biến đổi cuộc đời chúng ta mỗi ngày nên giống Chúa Giêsu, con yêu dấu của
Chúa Cha. Mà để nên giống Đức Giêsu thì một trong những điều quan trọng nhất là
làm theo thánh ý Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là thi hành
ý định muôn năm của vị trí sai Thầy.” (Ga 4,34).
Suy niệm 4:
Có thể nói giá trị cao quý nhất mà ai cũng tìm kiếm và
mong đạt đến đó chính là: chân thiện mỹ. Khi nói về mỹ, nghĩa là cái đẹp thì
không ai có thể cưỡng lại được. Bởi lẽ ai cũng thích đẹp: thích mình đẹp, thích
ngắm người đẹp, thích chiêm ngưỡng cảnh đẹp. Cho nên, các tông đồ thật sung
sướng và ngây ngất khi chiêm ngắm vẻ đẹp thần thánh tuyệt trần khi nhìn thấy
cảnh tượng Thầy mình biến hình trên núi Ta-bor.
Vẻ đẹp thần thánh ấy đã tỏa ra rực rỡ, khiến cho dung
nhan Đức Giêsu trở nên chói lọi như mặt trời, y phục Ngài rạng ngời sáng láng
như mặt trăng. Vẻ đẹp thần thánh ấy được toát ra không phải nhờ Make up bên
ngoài nhưng đến từ bên trong tâm hồn. Bởi lẽ tâm hồn đẹp mới toát nên vẽ đẹp
thể xác bên ngoài.
Có lẽ nhiều người trong chúng ta đã trải qua một thời,
với mong sao có được “cơm no áo ấm” để rồi ngày nay, chúng ta lại bước vào thời
kỳ mới làm sao được “ăn ngon mặc đẹp”. Chính vì quan tâm đến mặc đẹp bên ngoài
nên có khá nhiều người dành thời giờ và tiền bạc để chăm chút ngoại hình của
mình, với ước mong sao được xinh đẹp hơn. Họ mong muốn có được một làn da mịn
màng, tươi trẻ, dáng vóc thon thả nên đi tẩy trắng, cắt mắt, nâng mũi, chỉnh
sửa môi cằm miễn sao đẹp là được, bất chấp tốt kém và đau đớn vì dao kéo.
Mới đây trên
trang web VOV2, tác giả Thu Hà, có đăng tải một bài nói về vẻ đẹp, với tựa
đề: Hoa hậu đâu chỉ là vẻ đẹp hình thể.
Tác giả cho biết: “Chỉ sau 1 tuần đăng quang ngôi vị
“Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2023” (Miss World Vietnam 2023), hoa hậu Huỳnh Trần
Ý Nhi lại “đăng quang” nhiều “danh hiệu” không mong muốn khác như “Hoa hậu
drama”, “Hoa hậu vạ miệng”, “Hoa hậu dẫn đầu số lượng anti-fan”… (Nhóm anti-fan
Hoa hậu Ý Nhi trên mạng xã hội hiện đã lên tới hơn 260.000 thành viên và vẫn
tiếp tục gia tăng). Sở dĩ Huỳnh Trần Ý Nhi bất đắc dĩ bị nhận những ‘danh
hiệu” này là do cô đã có những phát ngôn gây “vạ miệng” mà đỉnh điểm là câu
nói: “Trong khi bạn bè đồng trang lứa với tôi chỉ dành thời gian để ngủ, để
chơi, để uống trà sữa, thì tôi đã tham dự cuộc thi hoa hậu. Tôi nghĩ mình
trưởng thành hơn các bạn, khi mà các bạn vừa đi học vừa đi làm thì tôi đã là
một hoa hậu”. Không dừng lại ở đó, trong một phát ngôn khác cô lại tự cho mình
là người nổi tiếng ở Bình Định, sánh ngang với các danh nhân như nhà thơ
Hàn Mặc Tử và vua Quang Trung.
Ồn ào về những phát ngôn gây tranh cãi của Hoa hậu Ý
Nhi khiến dư luận bức xúc chưa có dấu hiệu hạ nhiệt. Thậm chí “nóng” đến mức
nhiều nghệ sĩ và khán giả đề nghị Ban tổ chức Miss World Vietnam 2023 tước bỏ
danh hiệu của Hoa hậu Huỳnh Trần Ý Nhi vì cho rằng cô không xứng đáng, bất chấp
việc cô và đại diện Ban tổ chức trực tiếp xin lỗi khán giả.
Xưa nay, danh xưng hoa hậu vốn là biểu tượng cho vẻ
đẹp phụ nữ Việt Nam, từ ngoại hình đến trí tuệ, tâm hồn... Bởi lẽ, người đoạt
chiếc vương miện danh giá không chỉ là người chiến thắng về nhan sắc mà còn là
người hội tụ nhiều yếu tố, đặc biệt là trí tuệ, tài năng, nhân cách và tâm hồn…
mới có thể lan tỏa những giá trị tốt đẹp cho cộng đồng, cho xã hội, góp phần
tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ, và nét đẹp văn hóa. Còn nếu yếu tố trí tuệ,
tài năng và nhân cách thì chỉ là người xinh thôi chứ không phải là Hoa hậu đúng
nghĩa.
Chiêm ngắm vẻ đẹp sáng ngời của Chúa Giêsu qua biến cố
biến hình trên núi Ta-bor hôm nay, Chúa cũng muốn chúng ta mỗi ngày trở nên
xinh đẹp hơn, sáng hơn, rực rỡ hơn không chỉ trong mắt người đời mà còn trong
mắt Chúa nữa. Nhưng làm sao để biến đổi đời mình trở nên xinh đẹp hoàn hảo như
lòng Chúa mong muốn?
Thưa trước hết, Chúa mời gọi chúng ta
hảy chọn Chúa làm lẽ sống, nghĩa là sống theo lối sống của Chúa Giêsu, như
lời của Chúa Cha đã phán truyền: “Ðây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các
ngươi hãy nghe lời Người”. Như vậy muốn đẹp lòng Chúa thì điều kiện trước tiên là phải vâng nghe
lời Chúa Giêsu chỉ dạy. Nghĩa là để cho lời Chúa thấm nhập và chiếu rọi cuộc
đời mình, nghĩa là để cho lời Chúa biến đổi ta trở nên can
đảm dám chấp nhận từ bỏ mình, vác thập giá hàng ngày mà theo Chúa, nghĩa
là để cho lời Chúa biến đổi từ con người của ta từ trong tối tăm tội lỗi trở
nên con người tươi sáng; từ con người ích kỷ tham lam thành người quảng đại bác
ái, hy sinh phục vụ; từ con người kiêu căng tự đắc trở thành con người của
khiêm nhu tin tưởng phó thác vào quyền năng của Chúa.
Thứ hai để được biến đổi nên đẹp lòng Chúa, ta còn
phải nỗ lực tiến bước mỗi ngày được gần Chúa hơn. Ta hãy lưu ý đến địa điểm mà
Đức Giêsu biến hình, đó là ở trên ngọn núi cao, điều này muốn nói với ta là:
muốn được biến đổi nên xinh đẹp, đòi hỏi ta phải nỗ lực cố gắng vươn
lên để thể hiện lối sống cao cả, cao đẹp, cao thượng, cao quý hơn. Chúa
Giêsu chỉ biến hình khi lên núi cao để tiếp xúc thân mật với Chúa Cha. Vì thế
để được biến đổi, chúng ta cần phải cố gắng vươn lên cao để gặp gỡ Chúa, nhờ đó
mà những bóng tối của thù hận, giận hờn, ganh ghét… làm cho gương mặt ta trở
nên xấu xí ghê sợ được ánh sáng vinh quang của Chúa xua tan nhường chỗ cho ánh
sáng bao dung, quảng đại, yêu thương, tha thứ ,hy sinh phục vụ của Đức
Giêsu lan tỏa nơi tâm hồn và cuộc sống của mỗi người chúng ta.
Ứơc mong tâm tư, ý nghĩ, lời nói, hành động… của
chúng ta được biến đổi mỗi ngày nên xinh đẹp hơn, nhờ vào việc lắng nghe lời
dạy của Chúa Giêsu và gắn kết đời mình với Người nhờ vào đời sống cầu
nguyện cũng như tích cực chu toàn bổn phận Chúa trao với lòng yêu mến
Chúa. (St)
1. Truyện: Khi chúng ta hiển dung
Jiddu Krishnamurti, người Ấn-độ (1895- 1986) là một
tác giả và nhà diễn thuyết nổi tiếng về các vấn đề triết học và tinh thần, cho
rằng, trong mỗi con người có ba “nhân vật” đang chung sống:
* Một là “tôi-là." Đây là con người thật của tôi,
chân tướng của tôi. Ví dụ: bản chất tôi (tôi-là) là người tham lam, ích kỷ,
lười biếng…)
* Hai là “Tôi-muốn-là." Đây không phải là bản
chất con người tôi, nhưng là con người mà tôi mong muốn trở thành. Ví dụ: Tôi
hiện là người tham lam, ích kỷ, lười biếng nhưng tôi muốn sống như là người
quảng đại, vị tha, năng động…
* Ba là “Tôi-tưởng-tôi-là." Đây cũng không phải
là bản chất con người tôi, nhưng là ảo tưởng tôi có về mình. Ví dụ: Một số kinh
sư và Pha-ri-sêu thời Chúa Giêsu thực chất là người tham lam dối trá, nhưng cứ
tưởng mình là người công chính đạo đức.
2. Hãy biết mình
Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất
kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng
thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo
thù.
Một lần kia nó nói với sư tử rằng:
– Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn và trông
giống anh lắm. Nó bảo em rằng: “Trên đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám
đối mặt với nó." Thằng cha này không coi ai ra gì cả!
Sư tử tức giận và bảo rằng:
– “Thế mày có nhắc đến tên tao không?”
Thỏ trả lời:
– Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng
lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi.
Sư tử càng tức điên người lên và hỏi:
– Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay.
Thỏ liền dẫn sư tử ra sau núi, và chỉ một cái giếng ở
đàng xa và bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!
Sư tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy
giếng. Quả thực, nó trông thấy ngay một tên, với cặp mắt giận dữ đang trừng
trừng nhìn nó. Sư tử rống lên một tiếng, tên kia cũng rống lên một tiếng. Sư tử
xù lông cổ lên tên kia cũng xù lông cổ lên. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên
kia cũng hăm dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ dồn hết sức mình nhảy phốc xuống
giếng để cho thằng khốn nạn kia một trận. Thế là, con sư tử ngạo mạn tự huỷ
diệt đời mình dưới giếng sâu…
3. Biến hình
Một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về
cuộc đời của ông như sau: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi
cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực
để biến đổi thế giới này."
Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa đời người
trôi qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời
cầu nguyện của tôi như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi
những người trong gia đình của con.”
Giờ đây tôi đã già và những ngày còn lại chỉ đếm được
trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi một lần nữa như
sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi chính mình con.”
Và ông kết luận: “Nếu tôi biết cầu nguyện như
thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.”
* Mùa thường niên: Mt 14, 22-36
Suy niệm 1:
Cuộc đời chúng ta có lúc yên bình, nhưng lắm khi cũng gặp giông bão, khiến
chúng ta sợ hãi bất an. Xin Chúa ở bên che chở, chấn an và giúp ta chọn
lựa hướng sống phù hợp với ý Người. Nhờ đó, thuyền đời của ta mới có
thể vượt qua sóng gió hiễm nguy của biển đời mà cập bến bình an, nhờ
sức mạnh ơn ban của Chúa.
Những hình ảnh được đề cập trong đoạn Tin mừng hôm nay giúp chúng ta hiểu
rằng:
1. Hình ảnh biểu trưng:
- Các môn đệ chính là mỗi người chúng ta.
- Con thuyền là Giáo Hội.
- Biển khơi là trần gian.
- Đêm tối, bảo tố, sóng gió là những thử thách do ma quỷ gây
nên.
2.
Giống như các môn đệ xưa, chúng ta đã bước vào con thuyền của Giáo Hội,
khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy.
Cùng
ở trong con thuyền Giáo hội, chúng ta đang hiệp hành tiến bước trên biển trần
này.
3.
Tựa như con thuyền của các môn đệ bị sóng to gió lớn đánh dữ dội, thì ở mọi
thời, mọi nơi... Giáo Hội cách chung, cách riêng thuyền đời của mỗi người
chúng ta cũng phải đương đầu với bao là chống đối, vu khống, bôi nhọ và
loại trừ...do thế lực của ma quỷ, thế gian, xác thịt gây ra.
4.
Ví như bóng đêm là những vết đen đáng tiếc xảy ra trong Giáo Hội. Hay
những đau khổ, thất bại và bất hạnh xảy đến trong cuộc sống, khiến
cho niềm tin chúng ta chao đảo, lắm khi mất cả phương hướng sống.
5.
Sánh như tông đồ Phê-rô, vì nghi ngờ vào quyền năng của Chúa, khiến ông sợ hãi,
sắp chìm. Cuộc đời của người Kitô hữu chúng ta khi đối mặt với những khó khăn,
đau khổ và thử thách... khiến ta lo sợ, nghi ngờ vào quyền năng Chúa nên lắm
khi đánh mất niềm tin và hy vọng để buông mình chìm sâu vào dòng chảy của biển
đời. Nhưng hãy vững tin vì có Chúa luôn ở bên đời ta để nâng đỡ và ra tay cứu
giúp, nếu chúng ta biết tha thiết kêu cầu Người như tông đồ Phêrô: “Lạy
Thầy, xin cứu tôi”.
Xin Chúa ban thêm lòng tin nơi chúng
con, để dù trong bất cứ hoàn cảnh thử
thách nào, ngay cả những lúc bước đi trong đêm tối của đức tin, chúng
con cũng vẫn an tâm tiến bước trên sóng gió của biển đời. Xin Chúa thương đồng
hành và hướng dẫn để con vững bước tiến về bến bờ của bình an.
Suy niệm 2: SỰ KỲ DIỆU CỦA CÔ ĐƠN
“Giải tán họ xong, Ngài lên núi cầu nguyện một mình.
Đến chiều, Ngài vẫn ở đó một mình!”.
“Một là tự tử, hai là về thành phố, ba là ôm chặt
Chúa!”. Đó là chia sẻ của cha René Voillaume khi ngài nói đến ‘thời gian nhà
tập’ của một Tiểu Đệ Chúa Giêsu tại sa mạc Sahara, nơi nhiệt độ thông thường có
thể lên đến 58°C và lạnh dưới - 45°C!
Kính thưa Anh Chị em,
Không phải đợi đến ngày vào sa mạc Sahara, Đừc Giêsu
mới chọn ‘ôm chặt Chúa’; nhưng trong suốt cuộc sống của mình, Ngài đã luôn ôm
chặt Chúa Cha. Thật thú vị, với ý tưởng này, Tin Mừng hôm nay hé lộ ích lợi của
cô đơn; đúng hơn, ‘sự kỳ diệu của cô đơn!’.
Khi bạn coi việc ở một mình là cô đơn, Chúa Giêsu coi
nó là cô tịch; khi bạn coi cô tịch là lãnh địa của trống vắng, Chúa Giêsu coi
nó là lãnh địa của gặp gỡ; khi bạn chạy trốn cô tịch, Chúa Giêsu đi tìm nó! Nhờ
kiên trì ôm chặt Chúa Cha như Chúa Giêsu, bạn và tôi mới có thể cảm nhận ‘thiên
đàng của những gặp gỡ’, cảm nhận ‘sự kỳ diệu của cô đơn!’. Tuy nhiên, điều làm
cô đơn trở nên kỳ diệu là một cô đơn đầy Chúa, một cô đơn ‘ôm lấy Chúa và được
Chúa ôm lấy’, chứ không phải cô đơn theo nghĩa cô độc nghèo nàn!
Sau khi giải tán dân, Chúa Giêsu lên núi một mình để
cầu nguyện. Quan trọng, để cầu nguyện! Ngài sẵn sàng rời bỏ sự vồ vập của đám
đông để ở một mình với Chúa Cha, một điều gì đó mà Ngài khắc khoải mỗi ngày.
Khác với Chúa Giêsu, việc ở một mình của chúng ta có thể nhanh chóng dẫn đến
một nỗi cô đơn nhất định; những lúc ấy, chúng ta cảm thấy bị thôi thúc muốn tìm
một ai đó, một thứ gì đó vốn có thể giúp gây mê, hầu tránh khỏi cảm giác đau
đớn. Nếu đúng vậy, hãy học ôm chặt Chúa Cha như Chúa Giêsu, ở lại với Ngài; học
cách tận hưởng sự hiện diện của Ngài! Bấy giờ, ‘sự kỳ diệu của cô đơn’ sẽ tỏ
mình, ‘thiên đàng’ sẽ tỏ hiện, nỗi đau biến thành niềm vui và bất an biến thành
bình an.
Như Chúa Giêsu, bạn hướng lòng lên Chúa, kết hiệp với
Ngài; và điều sẽ xảy ra là chính lúc đó, bạn có thể liên đới với những người
khác cách sâu sắc hơn. Một mình trên núi “cho đến chiều tối”, Chúa Giêsu vẫn ý
thức việc các môn đệ đang vật lộn với biển, Ngài vẫn gần gũi họ; từ đó, kịp có
mặt với họ trong cuộc chiến đấu với sóng dữ, kêu gọi họ can đảm. Và cuối cùng,
bước lên thuyền, đưa họ vào bờ. Cũng thế, trong cầu nguyện, chúng ta ở gần và
đến gần những người khác cách đặc biệt. Đó chính là ‘sự kỳ diệu của cô đơn!’.
Bài đọc Dân Số nói đến một trải nghiệm tương tự. “Lều
Hội Ngộ” được coi như điểm hẹn cô tịch để con người gặp gỡ Thiên Chúa, tìm lại
chính mình. Chúa đòi vợ chồng Aaron và Miriam ra đó, vì hai người này có lỗi
với Môsê. Ở đó, Ngài nói cho họ sự sai trái. Và cũng ở đó, Aaron và Miriam nhận
ra lỗi mình, và xin Ngài xót thương, “Lạy Chúa, xin dủ lòng xót thương, vì
chúng con đắc tội với Ngài!” đúng với tâm tình của Thánh Vịnh đáp ca.
Anh Chị em,
“Ngài vẫn ở đó một mình!”. Càng ở với Thiên Chúa, Chúa
Giêsu càng gần con người. Như Ngài, chúng ta ôm chặt Chúa, ôm chặt thiên đàng,
nhưng vẫn có thể gần gũi với tha nhân. Như vậy, cô đơn không thể mài mòn; trái
lại, giúp chúng ta gắn bó với Chúa, sống trong tình yêu thương của Ngài; đồng
thời, liên kết sâu sắc với anh chị em mình để trở nên khí cụ bình an của Ngài
cho họ. Rõ ràng, cô đơn cũng có sự kỳ diệu của riêng nó!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con sợ cô đơn, dạy con yêu mến nó,
một cô đơn đầy Chúa; nhờ đó, con có thể cảm nhận sự kỳ diệu của nó!”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)
Thứ tư: Mt 15, 21-28
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm nay khắc hoạ hình ảnh về một người phụ nữ tuyệt đẹp trong đức
tính, cách ứng xử và đức tin mạnh mẽ.
Xin cho chúng ta biết học đòi bắt chước gương sáng của bà, để chúng ta xứng
đáng được Chúa chúc lành.
Nét đẹp của người phụ nữ Á đông nói chung, cách riêng phụ nữ Việt Nam xưa
nay được quý trọng ở đức tính chịu thương, chịu khó, khiêm tốn và kiên nhẫn.
Nói như thế thì người phụ nữ ngoại giáo trong đoạn tin mừng hôm nay có đầy
đủ những đức tính ấy:
- Với đức tính chịu thương của người mẹ, chắc hẳn bà ta đã tiêu
tốn không ít là tiền của và sức lực để tìm thầy, chạy thuốc khắp nơi cứu chữa
cho đứa con yêu quý của bà khỏi tình trạng khốn khổ do ma quỷ gây nên. Chính
sức mạnh tình thương đã giúp bà ta vượt qua mọi rào cản ngăn cách của luật lệ
cấm kỵ giữa người Do Thái và dân ngoại mà tìm đến với Chúa Giêsu.
- Với đức tính chịu khó, bà đã không ngần ngại vượt qua ranh giới
hiểm trở tìm đến với Thầy Giêsu, với mong muốn con mình được cứu chữa khỏi thần
ô uế ám hại.
- Với lòng khiêm tốn, bà ta đến trước mặt Chúa Giêsu rồi phục lạy
Người với lời khấn xin: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Lòng
khiêm tốn ấy càng sâu thẳm khi nhìn nhận mình chỉ là chó con trước mặt
Chúa. “Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn
rơi dưới bàn ăn của con cái”.
- Với tinh thần nhẫn nại, bà đã không nản lòng trước lời từ
chối khó nghe của Chúa Giêsu “Hãy để con cái ăn no trước đã vì không
nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó”. Nhưng những lời đắng
lòng ấy đã không làm cho bà tự ái và bỏ cuộc; trái lại làm cho bà thêm kiên
nhẫn nên van xin cho tới cùng “Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn
những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống”.
* Tất cả những đức tính cao quý trên sẽ không có được nơi người phụ nữ nếu
không có được đức tin mạnh mẽ. Chính nhờ lòng tin mạnh mẽ của bà mà đứa con yêu
quý của bà được Chúa Giêsu cứu chữa, như lời Chúa Giêsu xác nhận: “Này
bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy.”
Suy gẫm về hình ảnh của người phụ nữ ngoại giáo tuyệt đẹp hôm nay, ta cảm
thấy hổ thẹn vì nhiều người trong chúng ta không có được những đức tính cao quý
và đáng yêu như bà: chịu thương, chịu khó, lòng khiêm tốn và kiên nhẫn trong
tương quan và công việc. Nhất là đức tin của chúng ta còn chưa đủ mạnh để dám
phó thác hoàn toàn vào tình thương và quyền năng của Chúa, đấng chúng ta tôn
thờ.
Xin Chúa giúp chúng ta có được đức tin mạnh mẽ để trong mọi hoàn cảnh ta
luôn sẵn sàng tín thác vào lòng thương xót. Đồng thời cũng cho chúng ta ý thức
sống tốt những đức tính nhân bản cần thiết trong đời sống làm người.
Suy
niệm 2: THIÊN CHÚA XÓT THƯƠNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Các
bài Sách Thánh hôm nay tương phản nhau mãnh liệt: niềm tin của dân ngoại và sự
bất tín của Ít-ra-en. Ít-ra-en đã chứng kiến biết bao việc kỳ diệu Chúa làm
nhưng vẫn thiếu niềm tin. Hôm nay họ sợ người khổng lồ nên chống đối Mô-sê,
chống lại ý Chúa. Không chịu vào Đất Hứa theo hướng nam qua vùng Ca-đê mà chọn
đi vòng qua phía đông theo sông Gióc-đan. Họ thiếu niềm tin vào Chúa. Xét về
quân đội thời ấy, còn ai mạnh hơn Ai cập. Thế mà Chúa đã tiêu diệt tất cả trong
nháy mắt. So với quân đội Pha-ra-ô thì những người khổng lồ này có là gì. Nếu
tin Chúa họ đâu phải sợ hãi đến hoảng loạn và chống lại ý Chúa như vậy (năm
lẻ).
Tuy
Ít-ra-en bất tín. Nhưng Chúa vẫn trung tín. Sau khi trừng phạt rồi lại xót
thương. Tiếp tục yêu thương và cứu chữa họ: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình
muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương. Ta sẽ lại xây ngươi lên,
và ngươi sẽ được xây lại” (năm chẵn).
Lòng
thương xót của Chúa bao la. Nên sau cùng đã trải rộng ra khỏi Ít-ra-en, đến với
mọi dân mọi nước. Hôm nay người phụ nữ Ca-na-an đã được hưởng lòng thương xót
của Chúa. Đó là dấu hiệu Chúa lập ra một dân mới. Bà chưa hề biết Chúa, mới chỉ
nghe nói, thế mà đã tin tưởng hết sức vào Chúa.
Chúa
đặt ra trước mặt bà 3 chướng ngại lớn và bà đã vượt qua.
-
Một sự im lặng: Chúa không đáp lại lời bà xin. Nhưng bà vẫn tha thiết, kiên trì
và dai dẳng cầu xin.
-
Một lời từ chối: “Thầy chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Ít-ra-en thôi”.
Ranh giới đã được phân định. Thế mà bà vẫn nhất quyết nài xin.
-
Một lời nhục mạ: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó”. Thật
là tàn nhẫn. Nhưng bà này đã chấp nhận: “Nhưng chó cũng có thể được những
mảnh vụn bánh từ bàn chủ rơi xuống”. Vượt qua 3 vật cản xuất sắc nên bà
xứng đáng được Chúa khen thưởng và ca ngợi về lòng tin. Bà không còn phải là
chó con nữa. Bà trở nên con cái Chúa. Được đồng bàn với Chúa. Không còn phải
chờ bánh vụn. Nhưng được hưởng bánh tự do trên bàn của Chúa.
Tạ
ơn Chúa vì Lòng Thương Xót của Chúa bao la trải rộng khắp mười phương. Xin cho
con được vững tin vào Lòng Thương Xót của Chúa.
Suy niệm 3: KHÔNG ĐÁP LẠI MỘT LỜI
“Chúa Giêsu không đáp lại một lời!”.
Gioan Maria Vianney, một người mà đầu đời, dường như
Thiên Chúa không đáp lại một lời với chủng sinh này. Sức khoẻ kém, trí khôn
giới hạn, học lực khiêm tốn. Vậy mà, nhờ kiên trì, Vianney làm linh mục. Suốt
40 năm, Vianney đã đốt lên ‘ngọn nến đời mình’ cho đến khi không còn gì để tiêu
hao. Ấy thế, “Tù nhân chiếc hộp giải tội” đã làm thánh, đến nỗi Lyon phải xây
nhà ga mới, tăng các chuyến tàu từ Ars để phục vụ hàng vạn linh hồn!
Kính thưa Anh Chị em,
Thiên Chúa thường im lặng, đó là một sự thật! Tin Mừng
hôm nay chứng thực điều đó. Một phụ nữ ngoại giáo cứ lẽo đẽo theo sau Thầy trò
Chúa Giêsu, xin Ngài chữa cho con gái mình; vậy mà phản ứng đầu tiên của Ngài
là ‘không đáp lại một lời!’.
Thật ngạc nhiên, hiện thân của một Thiên Chúa xót
thương ‘không đáp lại một lời’ trước nài nỉ của một người mẹ khốn khổ; ngạc
nhiên hơn, sau sự can thiệp của các môn đệ, Ngài bảo, “Thầy chỉ được
sai đến cùng các chiên lạc nhà Israel!”, “Đấng Cứu Độ Muôn Dân” chỉ đến với
chiên lạc Israel? Chưa hết, những lời ‘muối mặt’ không thể hiểu nổi, “Không
nên lấy bánh của con cái mà vứt cho cún!”. Thật sốc! Nhưng rõ ràng, do sự
quan phòng, Chúa Cha đã lôi kéo cô đến với Ngài và Ngài đã ‘tương tác’ với sự
lôi kéo này, không phải để thô lỗ hay từ rãy nhưng cho phép cô thể hiện một đức
tin vốn còn ‘rất thiếu’ nơi nhiều người. Đó là lý do tại sao, thoạt tiên, Ngài
từ chối!
Trong cuộc sống, nhiều lúc xem ra Thiên Chúa rất câm
nín. Nhưng nếu Ngài câm nín, chúng ta phải biết, Ngài có lý do. Ngài không bao
giờ ngoảnh mặt; đúng hơn, sự im lặng của Ngài là một cách thức để lôi kéo chúng
ta đến gần Ngài hơn; hơn cả việc Ngài muốn chúng ta thuộc về Ngài tức thì ngay
khi Ngài hét ‘thật to, thật rõ’ điều đó! Im lặng của Chúa không nhất thiết là
dấu hiệu của việc Ngài chẳng thiết tha gì đến chúng ta, nhưng đó thường là ‘một
hành động mang tính thanh luyện’ nhằm mời gọi chúng ta biểu lộ đức tin của mình
lên một cấp độ cao hơn, đầy đủ hơn và dĩ nhiên, mạnh mẽ hơn.
Sách Dân Số hôm nay, cách nào đó, cho thấy sự lạnh
lùng của Thiên Chúa. Ngài nói thật nhiều, nhưng khác nào, đã ‘không đáp lại một
lời’ trước những con người mà Ngài gọi là “cộng đồng hư đốn”. Ngài phán, “Cộng
đồng hư đốn này đã cấu kết với nhau chống lại Ta. Trong sa mạc này chúng sẽ bị
tiêu diệt và sẽ chết hết!”. Nói thì vậy, nhưng Ngài đã không làm thế! Quả
vậy, nhờ lời cầu khẩn của Mô-sê, Ngài tha cho dân. Thánh Vịnh đáp ca bộc lộ tâm
tình, “Lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con, bởi lòng thương dân Ngài!”.
Anh Chị em,
“Ngài không đáp lại một lời nào!”. Biết bao lần Thiên Chúa câm nín trước con người như
Ngài đã câm nín trước Giêsu, Con Một! Ngài đang câm nín trước một cuộc chiến vô
lý không hồi kết; Ngài câm nín khi hàng vạn người không nhà không cửa vì trận
lũ 140 năm mới có một lần! Đúng như sách Dân Số cho thấy, Thiên Chúa thanh
luyện con người theo cách của Ngài, vào giờ của Ngài, với lòng thương xót và ý muốn
thánh thiện của Ngài. Phần bạn và tôi, cứ kiên trì cầu nguyện và đốt lên ‘ngọn
nến đời mình’ cho đến khi không còn gì để tiêu hao!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cả khi con xem ra không còn gì để mất, xin
cho đầu gối con được sưng lên vì kiên tâm ngước lên Ngài!”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)
Thứ năm: Mt 16, 13-23
Nhớ Thánh Đa-minh,
linh mục
KHẮC GHI TRONG TÂM HỒN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Dân
Do thái là dân cứng đầu cứng cổ. Dù đã chứng kiến biết bao việc lạ Chúa làm và
thấy Mô-sê thực hiện biết bao điềm thiêng dấu lạ, nhưng cứ mỗi lần gặp thử
thách họ lại bộc lộ niềm tin yếu kém. Họ than van kêu trách. Họ đòi hỏi thoả
mãn nhu cầu tức khắc. Họ sống theo xác thịt. Họ chưa có Thần Khí. Họ gây áp lực
khiến Mô-sê cũng mất tinh thần mà chao đảo niềm tin. Lề Luật mới được ghi khắc
vào bia đá. Chưa ghi trong tâm hồn. Nên lòng họ còn chai đá (năm lẻ).
Chúa
mong muốn con người tiến sâu và xa hơn trong tình yêu Chúa. Chúa mong muốn họ
sống theo Thần Khí chứ không theo xác thịt. Chúa muốn ghi khắc Lề luật vào trái
tim chứ không vào bia đá. Để họ tự mình nhận biết Chúa không cần phải có ai dạy
dỗ. Chúa quyết định khơi lên trong trái tim họ lòng tin yêu đích thực. Đó là
giao ước mới: “Đây là giao ước mới ta sẽ ký với nhà Ít-ra-en sau những ngày
đó. Ta sẽ đặt Lề Luật của Ta trong đáy lòng chúng, và sẽ ghi trong tâm hồn
chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta” (năm chẵn).
Khi
Chúa Giê-su đến đã hứa ban Thần Khí. Để con người được Thiên Chúa hướng dẫn. Để
con người sống trong thân tình với Thiên Chúa. Có xác tín riêng. Không phải
sống hời hợt bên ngoài, dựa dẫm theo đám đông. Chính vì thế Chúa hỏi từng môn
đệ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai”. Không thể chạy theo dư luận.
Phải có xác tín riêng. Và chính Chúa Cha đã soi sáng cho thánh Phê-rô để ông
đại diện các tông đồ tuyên xưng: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng
sống”.
Tuy
nhiên để được Thần Khí soi sáng hướng dẫn, con người cần từ bỏ mọi suy nghĩ và
hành xử theo xác thịt. Phê-rô chưa thoát khỏi xác thịt. Trong một phút để xác
thịt chi phối ông đã sai lầm. Cũng như Mô-sê, Phê-rô còn một chút yếu đuối.
Mô-sê cũng suốt đời kiên vững, nhưng vẫn còn một phút giây chao đảo. Chỉ có Chúa
Giê-su tràn đầy Thần Khí. Tình yêu mến Chúa Cha tràn ngập trong tâm hồn. Nên
Chúa Giê-su không phút giây nào không tuân hành thánh ý Chúa Chá. Vì thế Chúa
trở nên người Con Yêu Dấu hằng đẹp lòng Chúa Cha. Đó là khuôn mẫu của chúng ta.
Hãy
noi gương Chúa Giê-su luôn để Thần Khí hướng dẫn mọi suy nghĩ, lời nói, việc
làm. Ta sẽ biết chu toàn thánh ý Thiên Chúa. Sẽ trở nên con người mới. Của giao
ước mới. Hoàn toàn thuộc về Chúa. Là dân của Chúa. Là con của Chúa.
* Khi nói về Thánh Đa-minh, GH dùng
nhiều biểu tượng để khắc họa ơn gọi và sứ vụ của ngài.
1. Ngôi sao 8 cánh: Trong ngày rửa tội, người mẹ đỡ đầu ngài nhìn thấy
một ngôi sao 8 cánh chiếu sáng trên tráng ngài suốt buổi lễ rửa tội. Nhiều
người cho đây là điềm báo về tương lai sáng lạng của thánh nhân: ánh sáng
rạng ngời soi GH.
2. Con chó ngậm đuốc sáng: Khi mang thai, mẹ ngài nhìn thấy một giấc
mơ lạ lùng. Bà thấy một con chó ngậm đuốc sáng đang chạy như muốn đốt cả thế
giới. Người ta cho rằng đây là điềm báo nói về ơn gọi giảng
thuyết của ngài sau này.
3. Cành hoa huệ: tượng trưng cho nhân đức khiết tịnh nổi
tiếng và tâm hồn thánh thiện tinh tuyền của ngài. Vì thế mà trên 4
đầu thánh giá huy hiệu của dòng Đa minh do ngài sáng lập đều có hoa huệ trắng
nở tươi.
4. Sách Phúc Âm và cây gậy: tương truyền rằng thánh Phê-rô và thánh
Phao-lô hiện đến với thánh nhân trong một giấc mơ và trao cho ngài quyển sách
Phúc âm và cây gậy. Hai biểu tượng nói lên sứ mạng của người môn
đệ là luôn mau mắn lên đường rao giảng Tin mừng.
5. Chuỗi Mân Côi: truyền thuyết vẫn cho rằng, Đức Mẹ đã hiện ra với
thánh nhân và trao tràng chuỗi mân côi, rồi dạy ngài cách lần hạt mân côi. Đây
chính là vũ khí mạnh mẽ nhất giúp ngài chống lại các bè rối và là
phương cách tốt nhất để ngăn chặng sức mạnh của quân thù.
6. Áo dòng đen-trắng: ngài là vị sáng lập dòng anh em thuyết giáo hay
ta quen gọi là dòng Đaminh, thánh nhân đã chọn tu phục với hai màu đen-trắng
cho anh em trong dòng của ngài. Hình ảnh này cũng được cách điệu trên huy hiệu
của dòng Đaminh.
Với 6 hình ảnh trên phần nào đã khắc họa lại con người, ơn gọi và sứ vụ của
thánh Đaminh. Qua đây Chúa cũng muốn chúng ta noi gương và bắt chước đời sống
của thánh nhân để ta cũng khắc họa đời mình trở nên những ảnh xinh đẹp, tinh
tuyền và tươi sáng trong mắt Chúa và trong lòng mọi người.
Thứ sáu: Mt 16, 24-28
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ cũng như chúng ta hãy đặt
trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
Nhiều người nghĩ rằng vì không muốn cho chúng ta sống sung túc, hưởng thụ
cách tự do nên Chúa Giêsu mới kêu gọi chúng ta dấn bước trên con đường thập giá
để theo Người. Tuy nhiên chỉ có những ai cảm nhận được Đức Giêsu chính là hiện
thân của một vị Thiên Chúa quyền năng, nhưng lại rất giàu lòng thương xót đã
sẵn sàng chấp nhận mọi gian lao thử thách, ngay cả hy sinh mạng sống vì chúng
ta và để cứu rỗi chúng ta thì mới sẵn sàng dấn bước theo Ngài.
Vinh quang chỉ xuất hiện ở đàng sau thập giá. Nên muốn đạt đến vinh quang
phục sinh, ta sẽ không còn chọn lựa con đường nào khác, ngoài con đường thập giá
mà Chúa đã đi qua. Vì thế mà Người mới xác quyết mạnh mẽ: “cứu lấy mạng
sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì
sẽ cứu được mạng sống mình”. Chỉ khi nào ta xác định được
linh hồn cao quý hơn thể xác, sự sống đời đời quý hơn sự sống chóng qua đời
này…thì khi đó ta mới hiểu được lời dạy của Chúa Giêsu mà sẵn sàng tiến bước
trên con đường hẹp.
Chúa cho biết khi chọn lựa để bước theo Chúa trên con đường hẹp, quả là khó
khăn vô cùng, nên Chúa hứa sẽ đồng hành, bên vực và tán thưởng cho những ai dám
dấn bước vào. Ngược lại, Ngài sẽ lấy làm hổn thẹn nếu ai đó chối bỏ không dám
dấn bước theo Ngài: “Ai hổ thẹn vì Ta và vì lời Ta trong thế hệ ngoại tình
và tội lỗi này, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn từ khước nó, khi Người đến trong
vinh quang của Cha Người cùng với các thần thánh.".
Xin cho chúng ta biết luôn tin tưởng vào Đức Giêsu chính là hiện thân của
một vị TC giàu lòng thương xót mà sẵn lòng dấn bước theo Ngài trên mọi nẻo
đường đời cho dẫu phải bước đi trên con đường thập giá. Bởi chúng ta tin rằng
đó mới là con đường dẫn đến hạnh phúc thật cho đời ta.
Suy niệm 2:
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải can đảm từ bỏ
mình, vác thập giá và hân hoan bước đi trên con đường theo Chúa. Nhưng để
làm được điều đó không hề dễ chút nào, không nói là quá khó khăn đối với chúng
ta là đàng khác. Khó nhưng không phải là không thể. Bởi vì Chúa Giêsu chỉ cho
chúng ta phương cách để có thể thực hiện điều ấy:
Hãy nghĩ đến những bậc giá trị trong đời sống mà chọn lựa. Xem chúng ta
đang yêu quý cái gì? Linh hồn hay thể xác, sự sống chóng qua đời này hay sự
sống đời đời mai sau…Nếu ta ý thực được giá trị linh hồn và sự sống mai sau là
quý thì ta sẽ dễ dàng buông bỏ tất cả, hy tất cả để dấn bước theo Chúa trên con
đường hẹp. Bởi vì ta biết rằng con đường hẹp là con đường dẫn đến sự sống đích
thực.
Phải có một đức tin vững mạnh vào Chúa. Một khi tin vào Chúa sẽ bên vực
chúng ta trong nước trời, ta sẽ dễ dàng ưu tiên làm mọi việc để tôn vinh danh
thánh Chúa trong cuộc sống. Khi có đức tin vững mạnh vào Chúa thì cho dù cuộc
sống ta có gặp phải những gian nan thử thách hay phải đối diện với chính
cái chết, ta vẫn hân hoan công khai tuyên xưng Danh Chúa trước mặt người
đời.
Xin Chúa giúp chúng ta khôn ngoan đặt lại những bậc thang giá trị trong đời
sống và giúp ta can đảm sống theo bậc thang giá trị ưu tiên theo sự hướng dẫn
của Chúa; đồng thời xin Chúa củng cố đức tin cho chúng ta nên vũng mạnh nhờ đó
chúng ta mời có sức mạnh dấn bước theo Chúa trên mọi nẻo đường đời.
Suy
niệm 3: ĐƯỢC VÀ MẤT
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ai
cũng muốn được. Không ai chịu mất. Nhưng thế nào là được và thế nào là mất thì
không phải ai cũng hiểu. Nhất là vì con người có hai đời sống. Đời này và đời
sau. Trong hai đời sống hai cách được và mất khác nhau. Được ở trần gian là
thực tế trước mắt nên nhiều người tìm kiếm. Được ở Nước Trời xa vời nên nhiều người
không thấy. Tuy nhiên được ở trần gian mau qua như trần gian. Được trên Nước
Trời là vĩnh viễn. Được ở trần gian không bao giờ thoả mãn. Được trên Nước Trời
là hạnh phúc trọn vẹn. Khác biệt lớn lao và khó khăn nhất là cách chiếm đoạt
rất khác nhau. Được ở trần gian do vun quén cho bản thân. Được trên Nước Trời
lại thủ đắc bằng từ bỏ hết những gì ở trần gian, kể cả bản thân và mạng sống
mình. Như lời Chúa phán: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất
mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Cái được ở trên Nước
Trời là sự sống vĩnh cửu, dù cả trần gian cũng không so sánh được. “Nếu
người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc
người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình”? chính Chúa mới là Chúa Tể trời
đất, có quyền xét xử định đoạt số phận chúng ta. Trần gian chỉ chiếm được đời
này. Phải bó tay trước đời sau. Thiên Chúa làm chủ cả đời này lẫn đời sau. Ai
bỏ Chúa theo trần gian chỉ được một chút đời này. Ai bỏ trần gian mà theo Chúa
chỉ bị thiệt thòi một chút đời này. Nhưng sẽ được đời sau vô cùng phong phú
sung mãn không gì sánh được. Thiên Chúa làm chủ. Điều đó được chứng tỏ qua dòng
lịch sử.
Thời
Mô-sê Thiên Chúa đã cứu người Ít-ra-en khỏi ách nô lệ Ai cập. Ít-ra-en đang nô
lệ bỗng thành tự do. Đang tản mát bỗng thành một dân tộc. Đang bơ vơ bỗng được
đất chảy sữa và mật. Đang yếu ớt bỗng chiến thắng quân đội Ai cập hùng mạnh
nhất thế giới thời ấy. Đó chính là vì Chúa là Thiên Chúa của họ (năm lẻ).
Ít-ra-en
phản bội nên bị Chúa phạt. Phải làm nô lệ cho Ni-ni-vê. Nhưng rồi đến ngày Chúa
phục hồi dân Chúa. “Phải, đức Chúa khiến cho Gia-cóp và Ít-ra-en lấy lại sức
kiêu hùng”. Ngài cho Ni-ni-vê hùng mạnh một thời gian. Rồi trừng phạt vì họ
không tuân hành thánh ý. “Bấy giờ, hễ ai nhìn thấy ngươi cũng đều phải tránh
xa và nói: “Ni-ni-vê đã bị phá tan hoang!” Ai còn cảm thương nó? Ta tìm đâu cho
ngươi những người an ủi”? (năm chẵn).
Hôm
nay Chúa mời gọi tôi. Hãy khôn ngoan đừng khờ dại. Hãy biết chọn Thiên Chúa chứ
đừng chọn thế gian. Hãy biết bỏ đời này để được đời sau. Được chính Chúa. Là
hạnh phúc muôn đời.
Thứ bảy: 2Cr 9,6-10; Ga 12, 24-28
KÍNH THÁNH LÔ-REN-XÔ, PHÓ TẾ, TỬ ĐẠO
Cả
hai bài đọc hôm nay đều nói lên tinh thần hy sinh vô vị lợi vì nước trời.
Bài
đọc 1: Với nguyên tắc bình thường, ngoại trừ bất thường, Thánh Phaolô cho
biết: “gieo nhiều” sẽ “gặt nhiều”. Theo nguyên tắc này, thánh Phaolô kêu gọi
các tín hữu Côrintô cũng như chúng ta hãy tích cực dâng hiến đời mình để phục
vụ Chúa. Nhưng để dâng hiến phục vụ, đòi hỏi ta phải hy sinh. Mà hy sinh là
việc làm khó. Bởi lẽ ta thường cho rằng những gì ta dâng hiến là của ta. Nhưng
thực ra những gì ta “Có” và ta “Là” đều do Thiên Chúa ban tặng. Nên “ai
vui vẻ dâng hiến sẽ được Thiên Chúa yêu thương” (x. 2 Cr 9,7).
Còn bài
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu được quy luật căn bản: chết
để được sống, “nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó
vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt.” (Ga
12,24); dựa trên quy luật này chúng ta mới hiểu được lời xác quyết của Chúa
Giêsu: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng
sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Ga
12,25).
Thầy
phó tế Lô-ren-sô đã nhận ra nguyên tắc và hiểu được quy luật ấy nên ngài
đã vui vẻ dâng hiến đời mình mà sẵn sàng chết đi vì tình yêu.
- Yêu
Chúa, thánh nhân đã rời bỏ quê hương Hu-ét-cô, nước Tây Ban Nha thân yêu
để đi đến Rô-ma du học. Tại đây ngài được biết đến là con người nổi danh về tài
đức. Nhưng không vì thế mà ngài tìm cho mình cuộc sống vinh hoa, phú quý. Trái
lại, thánh nhân đã dùng tài đức Chúa ban để dấn thân phụng sự Chúa và phục vụ
đắc lực cho GH dưới thời Giáo hoàng Xít-tô II, trong một bối cảnh đầy hiểm nguy
bởi sự cấm cách và bách hại khắc nghiệt của hoàng đế Đê-ci-ô.
- Yêu
người, thánh nhân đã không ngại hy sinh dấn thân trong trách nhiệm phục vụ
người nghèo. Với vai trò là vị phó tế trưởng, quảng trị tài sản của Giáo hội,
ngài luôn ưu tư lo cho người nghèo. Ngay trong giờ phút nguy khốn nhất, với cái
chết cận kề, ngài vẫn không quên dùng tất cả tài sản của Giáo hội để đem ra
phân phát cho người nghèo. Với ngài tài sản quý giá nhất chính là người nghèo.
Nên sau khi phân phát hết của cải cho người nghèo, ngài đã dẫn họ đến trước mặt
viên tổng trấn Va-lê-ri-a-nô và xác nhận cho biết: những người nghèo đứng trước
mặt tổng trấn đây chính là tài sản quý giá của Giáo hội.
Tình
yêu chính là nguồn lực và sức mạnh thúc đẩy thánh Lau-ren-sô sẵn sàng phụng sự
Chúa và phục vụ tha nhân hết lòng, cho dẫu phải chịu nhiều đau khổ, ngay cả hy
sinh mạng sống mình. Đúng như lời thánh Phao-lô đã nói: “Ai vui vẻ dâng
hiến sẽ được Thiên Chúa yêu thương.” (2Cr 9,7) Thánh nhân đã vui vẻ
dâng hiến vì cảm thấy mình được Chúa yêu thương. Nên ngay khi bị lửa thiêu đốt,
ngài vẫn khôi hài nói với hoàng đế: "Một bên đã chín rồi hãy chiên bên kia
nữa mà ăn!". Sau đó ngài cầu xin cho thành phố Rô-ma được trở lại
với Ðức Kit-ô và cho Ðức Tin Công Giáo được lan tràn khắp cùng thế giới. Sau
đó, ngài được vinh dự lãnh nhận triều thiên tử đạo vào năm 258 và đã được Thiên
Chúa yêu thương ban thưởng sự sống đời đời, vì đã coi thường mạng sống mình ở
đời này vì tình yêu Chúa và mọi người.
Xin
cho chúng ta có được tình yêu Chúa nồng nàn, để chúng ta luôn trung kiên sống
và làm chứng niềm tin, cho dẫu phải chịu nhiều gian khổ, ngay cả hy sinh mạng
sống mình; đồng thời cũng xin cho chúng ta có được lòng yêu người, nhất là
những người nghèo như thánh Lau-ren-sô, để ta tận tâm phục vụ tha nhân với hết
khả năng của mình.
Suy niệm 2: AI PHỤC VỤ THẦY, THÌ HÃY THEO THẦY
1. “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy”
Đức Giê-su mời gọi các môn đệ của Ngài, các môn đệ vào thời của Ngài và các
môn đệ thuộc mọi thời, trong đó có chúng ta hôm nay: Ai phục vụ Thầy,
thì hãy theo Thầy. (c. 26)
Khi nói đến phục vụ, chúng thường nghĩ ngay đến hiệu quả và thành tích; và
để có hiệu quả và thành tích, thì cần phải có khả năng và tài năng, cần phải
được huấn luyện tốt và lâu dài, cần phải có chuyên môn; và để có tất cả những
điều vừa kể, chúng ta không thể không nói đến nguồn tài chính và những phương
tiện khổng lồ. Những điều này là cần thiết, nhất là khi chúng ta đang sống và
làm việc trong một thế giới và xã hội, càng ngày càng đòi hỏi tính chuyên môn
và chất lượng công việc.
Hiệu quả của việc phục vụ là điều quan trọng và cần thiết, nhưng nếu chúng
ta quan niệm việc phục vụ, và rộng hơn sứ mạng của chúng ta, chỉ trên bình diện
hiệu quả, thì thật là mệt mỏi, thậm chí tuyệt vọng nữa, khi chúng ta gặp trở
ngại, thiếu nhân sự, ngăn cấm, thất bại, hoặc đến một lúc nào đó và lúc ấy
không thể tránh được, chạm đến giới hạn tất yếu của bản thân, hoặc khi chúng ta
không còn sức lực.
Hiệu quả của việc phục vụ là điều quan trọng; nhưng với Đức Giê-su, đó
không phải là điều tiên quyết, điều tiên quyết là đi theo Ngài, là chỉ đi theo
Ngài mà thôi, như truyền thống thiêng liêng của Giáo Hội luôn nhấn mạnh và gọi
là Sequela Christi, “Đi theo Đức Ki-tô” (tiếng La-tinh). Đi theo
Đức Giê-su chính là nền tảng của việc phục vụ, của sứ mạng, của đời sống dâng
hiến. Đi theo Đức Giê-su, chính là lí do hiện hữu của việc phục vụ, và làm cho
việc phục vụ của chúng ta trở nên khác với những việc do người khác thực hiện,
làm cho việc phục vụ của chúng ta mang chiều kích “tông đồ”, nghĩa là trở thành
lời chứng cho Đức Ki-tô và cho Tin Mừng của Ngài.
Đi theo Đức Ki-tô, chính là “việc phục vụ” mà Đức Ki-tô mong muốn, và cũng
chính là việc phục vụ mà thế giới và xã hội hôm nay cần đến ở chiều sâu. Đi
theo Đức Ki-tô là một việc phục vụ, thay vì làm cho chúng ta mệt mỏi và tuyệt
vọng, sẽ luôn mang lại cho chúng ta bình an và niềm vui, bởi vì chúng ta lúc
nào, trong hoàn cảnh nào và ở lứa tuổi nào, chúng ta cũng có thể đi theo Đức
Ki-tô. Và chính lúc chúng ta cảm thấy mong manh, rơi vào hoàn cảnh bất lực và
giới hạn, chúng trở nên giống Đức Ki-tô nhất, bởi vì con đường Ngài đi là con
đường của “hạt lúa mì”, con đường phục vụ cho sự sống, bằng cách “coi thường sự
sống mình”.
2. Con đường “Hạt Lúa”
Để phục vụ cho sự sống, để cho sự sống được tiếp tục, được sinh sôi phải
“coi thường sự sống mình”, nghĩa là phải chia sẻ, trao ban, cho đi và hi sinh
chính sự sống của mình. Đó chính là qui luật muôn đời của sự sống, được ghi
khắc ở khắp nơi trong thế giới sáng tạo và trong kinh nghiệm sống, và ai trong
chúng ta cũng biết và thậm chí có kinh nghiệm về qui luật này của sự sống.
- Đó hạt lúa, phải chịu chôn vùi và nát tan, để sinh ra nhiều hạt khác. Và
đó cũng là con đường của tấm bánh.
- Đó là sự cho đi chính bản thân mình của cha mẹ, để sự sống được lưu
truyền nơi những người con. Điều đặc biệt đúng theo nghĩa đen nơi những người
mẹ; nhất là khi có những người mẹ, hy sinh sự sống của mình để sinh con.
- Đó là sự hy sinh cuộc đời của các tu sĩ nam nữ, các linh mục để chính
Thiên Chúa làm phát sinh ra hoa trái sự sống gấp trăm. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa cũng không đi con đường lạ lùng nào khác
ngoài con đường muôn đời của sự sống, nghĩa là con đường của hạt lúa mì: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ
trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (Ga 12, 24)
3. “Hạt Lúa Đức Giê-su”
Thật là kỳ lạ, để tha tội cho loài người và từng người chúng ta, tại sao
Đức Ki-tô lại phải đi con đường “đổ máu”? Con đường mà chính Ngài cũng cảm thấy
xao xuyến: "Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy
Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã
đến." (Ga 12, 27)
Sự “xao xuyến” của Đức Giê-su còn lớn hơn nữa, theo lời kể của các Tin Mừng
nhất lãm: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14, 34; x. Mt
26, 38 và Lc 22, 44), và theo thư Do thái: “Khi còn sống kiếp phàm
nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin
lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết.” (Dt 5, 7)
Người xao xuyến, đó là vì với thân xác mỏng manh của Con Thiên Chúa nhập
thể, Ngài được mời gọi bày tỏ Khuôn Mặt Rạng Ngời của Thiên Chúa Cha, một khuôn
mặt đã bị hiểu lệch lạc, bị bóp méo, ngay từ nguồn gốc sự sống (x. St 3), nhưng
không phải bằng những kì công lớn lao, hay những phép lạ cả thể; bởi vì lịch sử
Dân Do Thái và cuộc đời của Đức Giê-su cho thấy rằng, những kì công lớn lao và
những phép lạ cả thể không những không mang lại lòng tin, nhưng còn khơi dậy
lòng ham muốn không cùng những điều lạ, ngoài ra còn bị Sự Dữ xen vào khơi dậy
những cách hiểu và hành động lệch lạc[1]. Vì thế, theo ý của Chúa Cha, Ngài được mời gọi bày tỏ Khuôn Mặt Rạng Ngời
của Cha, theo một cách khác, “một cách điên rồ và sỉ nhục”, nhưng lại là sức
mạnh và sự khôn ngoan thần linh, qua việc:
- Đối diện với chính Sự Dữ biểu dương sức mạnh bạo lực ở mức độ tuyệt đối
và dưới mọi hình thức, không phải bằng sức mạnh bạo lực lớn hơn, nhưng bằng sự
hiền lành tuyệt đối của Con Thiên Chúa, để chiến thắng sự dữ và giải thoát
chúng ta khỏi sự dữ và tất cả những gì liên quan đến sự dữ (x. Tv 8; hình ảnh
Con Chiên và bầy sói dữ).
- Gánh lấy mọi “bệnh hoạn tật nguyền” của con người, nghĩa là mang vào
mình, trong sự thinh lặng không lên án, mọi hành vi tội lỗi của những con người
cụ thể trong cuộc Thương Khó, qua đó mang vào mình mọi tội lỗi của loài người
và từng người cách trọn vẹn.
- Và nhận vào mình thân phận đau khổ và phải chết của loài người chúng ta,
không phải với sự phản kháng và thái độ kêu trách, nhưng bằng lời nguyện tín
thác: “Cha ơi, con xin phó sự sống của con trong tay Cha” (Tv
31, 6).
Chúa tự nguyện chịu khổ hình, bởi những con người cụ thể trong cuộc Thương
Khó, chính là để bày tỏ cho tôi tình yêu đến cùng của Chúa dành cho tôi, dù tôi
là ai và đang ở trong tình trạng nào. Vậy, tôi được mời gọi nhận ra nơi “CHÉN”
của Đức Giê-su, nghĩa là nơi những gì Đức Người mang lấy trong cuộc Thương Khó,
có chính bản thân tôi, như tôi là, nhỏ bé, giới hạn, yếu đuối, tội lỗi; tôi
hiện diện cách trọn vẹn, được đón nhận cách trọn vẹn và được bao dung cách trọn
vẹn trên đôi vai của Đức Giê-su, trong ánh mắt của Đức Giê-su, trong trái tim
của Đức Giê-su. Như thế, chúng ta được mời gọi
nhận ra với sự kinh ngạc và tâm tình cảm tạ: Người Gieo Giống thần linh, là Đức
Ki-tô, không chỉ gieo Lời của Người (x. Mc 4, 1-9), nhưng còn gieo luôn chính
mình. Chân lí này phải mang lại cho chúng ta niềm hi vọng vững chắc và niềm vui
khôn tả: Hạt Giống Giê-su tất yếu sẽ sinh hoa kết quả gấp trăm, vì Người mạnh
hơn sự dữ và sự chết. Đó chính là mầu nhiệm Vượt Qua. Và Ngài vẫn “gieo” Lời và
“gieo” luôn chính Mình, để phục vụ cho sự sống của chúng ta mỗi ngày trong
Thánh Lễ, dù chúng ta có như thế nào.
Đi theo Đức Ki-tô trên con đường của hạt lúa mì, là cách làm phát sinh hoa
trái hiệu quả nhất; và hoa trái không phải đến từ tài năng của chúng ta, nhưng
của sự sống thần linh, của sự sống mới, của Đức Ki-tô phục sinh. Đó chính là
cách phục vụ Đức Ki-tô mà thánh phó tế Lau-ren-sô đã sống và sống đến cùng.
Lm. Giuse Nguyễn Văn
Lộc
* Mùa thường niên: Mt 17, 14-20
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho ta biết hậu quả tai hại do cứng lòng tin.
- Do cứng lòng tin đã làm hư hỏng cả thế hệ, đó là lời than phiền của
Chúa Giêsu khi phải đối mặt với tình trạng đau khổ của đứa bé trai bị mắc chứng
bệnh kinh phong:“Ôi thế hệ cứng lòng tin và hư hỏng!”.
Sách sáng thế cho biết: Do Nguyên Tổ đã không tin vào tình thương của TC
nên đã dùng tự do Chúa ban để khướt từ Ngài, với mong muốn đi tìm một hạnh phúc
mà không cần TC. Từ đó đau khổ, bệnh tật và sự dữ xuất hiện lan tràn qua muôn
thế hệ. Nhìn thấy những nỗi khổ đau của nhân loại cách chung, cách riêng tình
trạng của đứa bé phải chịu sự khống chế của ma quỷ, Chúa Giêsu đã cất lên lời
than thở “Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ nữa?”.
Qủa vậy, một khi con người không còn ý thức sự hiện diện của Chúa trong
cuộc sống mình, thì hậu quả thật khôn lường xảy ra không chỉ làm hư hỏng đến
thế hệ tương lai mà còn hư hoại cả vũ trụ này.
- Do kém lòng tin không thể khống chế được ma quỷ. Chính Chúa
Giêsu cho biết lý do tại sao các môn đệ không thể chữa lành được đứa
bé trai bị quỷ ám. “Vì các con yếu lòng tin!”. Và Người còn
khẳng định: “nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải… thì chẳng có gì
các con không làm được”.
Thật vậy, đức tin là món quà do lòng yêu thương của Thiên Chúa ban
tặng cho mỗi người. Nhờ đức tin mà ta dễ dàng vượt qua mọi gian nan thử
thách. Chính đức tin đem đến cho ta niềm hy vọng ngay khi gặp đau khổ.
- Nhờ tin tưởng vào Chúa, cụ già Ab-ra-ham đã đón nhận niềm vui vì được
Chúa ban cho đứa con trai khi tuổi đời đã 90. Nhờ đức tin, ông sẵn
sàng vâng lệnh Chúa mà sát tế người con yêu dấu của mình vì tin rằng Chúa sẽ
thực hiện những điều tốt đẹp nhất cho ông.
- Cũng vậy, nhờ tin tưởng vào Chúa, mà Phêrô đã can đảm bước đi trên mặt
nước. Nhưng khi bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.
- Đọc Phúc âm, chúng ta thấy rằng bao nhiêu phép lạ mà Chúa Giêsu thực hiện
được khởi đi từ lòng tin của con người, như lời Chúa phán: “Này con, lòng
tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi
hẳn bệnh.” (Mc 5,34). Chúa Giêsu còn quả quyết mạnh mẻ: “Mọi
sự đều có thể đối với người có lòng tin.” (Mc 9, 23).
Xin Chúa củng cố đức tin nơi chúng ta, nhờ đó ta mới có thể vượt thắng được
mọi gian lao thử thách và đủ sức mạnh thiêng liêng để chiến đấu và khống chế
được ma quỷ.
Suy
niệm 2: SỐNG ĐỨC TIN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thế
giới nhiễu nhương. Ma quỉ và bạo chúa thống trị thế giới. Sự ác và sự dữ đè bẹp
con người. Nếu không có đức tin con người không thể sống nổi.
Thời
Mô-sê dân Ít-ra-en chỉ là một nhóm người nô lệ. Không tổ chức. Không lực lượng.
Nhưng họ có đức tin. Họ tin vào Chúa. Họ đi theo Mô-sê. Và Chúa đã làm những
việc vượt quá sức tưởng tượng của họ. “Anh em được những thành lớn và đẹp mà
anh em đã không xây, những nhà đầy mọi thứ của cải mà anh em đã không tích trữ,
những bể nước có sẵn mà anh em đã không đào, những vườn nho và vườn ô-liu mà
anh em đã không trồng”. Vì thế Mô-sê khuyên nhủ họ “đừng quên Đức Chúa,
Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ…anh em phải kính sợ…phải
phụng thờ…và nhân danh Người mà thề” (năm lẻ).
Thời
Kha-ba-cúc, mặc dù Ít-ra-en bị Can-đê đặt ách thống trị tàn ác, chỉ vì Ít-ra-en
tội lỗi phản bội Chúa. Nhưng Chúa khuyên nhủ dân hãy cứ tin tưởng và chờ đợi.
Vì ngày Chúa giải thoát dân rồi sẽ đến: “Nó đang tiến nhanh tới chỗ hoàn
thành, chứ không làm cho ai thất vọng. Nếu nó chậm tới, thì cứ đợi chờ, vì thế
nào nó cũng đến, chứ không trì hoãn đâu”. Trong khi chờ đợi phải giữ vững
đức tin. Vì “ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính
thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình” (năm chẵn).
Thời
Chúa Giê-su ma quỉ hoành hành ác liệt. Khống chế con người. Các tông đồ cũng
đành chịu thua. Nhưng khi Chúa đến, Chúa dùng quyền năng chế ngự và bắt ma quỉ
phải vâng phục. Giải phóng con người khỏi ách nô lệ ma quỉ. “Đức Giê-su quát
mắng tên quỷ, quỷ liền xuất, và đứa bé được khỏi ngay từ giờ đó”. Chúa cho
biết ma quỷ hoành hành vì con người thiếu niềm tin. Chúa than phiền vì thế hệ
thiếu niềm tin: “Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin và gian tà! Tôi còn phải
ở với các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ
nữa”? Ngài cho các tông đồ biết mọi việc trên thế giới có thể giải quyết dễ
dàng với người có lòng tin: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi,
thì dù anh em có bảo núi này: ‘Rời khỏi đây, qua bên kia! Nó cũng sẽ qua, và sẽ
chẳng có gì mà anh em không làm được”.
Thời
đại chúng ta bị biết bao ngọn núi ngăn trở khiến ta nản lòng. Tưởng không có gì
có thể xê dịch được những ngọn núi ngăn chặn đời sống. Nhưng ta hãy an tâm. Nếu
có đức tin một chút thôi, ta có thể giải quyết vấn đề cộng đoàn thật dễ dàng.
Và thế giới ổn định. Vì khi có đức tin ta sống nhờ Chúa. Ta làm việc bằng sức
mạnh của Chúa. Và mọi việc sẽ tốt đẹp.
SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XVIII THƯỜNG NIÊN
Lm. Minh Anh, Tgp Huế
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN-B
CƠN ĐÓI TÂM LINH
“Hãy ra công làm việc…
để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh!”.
“Được tạo dựng cho vô biên, mỗi người có một cơn đói tâm
linh bên trong; cơn đói đó có tên ‘Lỗ Hổng của trái tim’. Dù nhỏ hay không quá
nhỏ, nó vẫn là một lỗ hổng ‘có kích cỡ Chúa Kitô!’; nó thuộc về Ngài, Đấng
không cho phép bất cứ điều gì khác lấp đầy!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho biết, dân chúng lại tìm Chúa
Giêsu để được ăn no nê; Ngài sử dụng cơn đói thể xác để chỉ cho họ thấy một
‘cơn đói tâm linh’ sâu sắc hơn.
Mỗi người chúng ta đều đói, liên tục đói và muốn được thỏa
mãn! Hẳn thức ăn thức uống là một trong những cơn đói, nhưng cơn đói sâu sắc nhất
mà mỗi người đều có là ‘cơn đói tâm linh’, nó còn có tên ‘Lỗ Hổng của trái
tim!’. Vấn đề là chúng ta thường cố thoả mãn ‘theo những cách không bao giờ thoả
mãn’. Do đó, bạn và tôi cần nghe lời Chúa Giêsu, “Hãy ra công làm việc không phải
vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường
sinh!”. Lương thực Ngài ban là gì? Đó là Mình và Máu, Linh Hồn và Thiên Tính của
Ngài. Đó chính là Bí tích Thánh Thể!
Đoạn văn này mở đầu cho diễn từ dài - “Bánh Ban Sự Sống” -
sẽ được đọc trong ba Chúa Nhật tiếp theo. Suốt diễn từ này, Chúa Giêsu nói rõ,
Thịt Ngài “thật là của ăn”, Máu Ngài “thật là của uống”. Ăn Thịt và uống Máu
Ngài là con đường duy nhất dẫn đến sự sống đời đời. Một số người nghe điều này
thấy rằng quá khó để chấp nhận; họ bỏ đi. Ngài đã từng hỏi nhóm Mười Hai liệu họ
có rời đi không; Phêrô thưa, “Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con sẽ theo ai? Thầy có
lời ban sự sống đời đời!”.
Suy gẫm về lời dạy này của Chúa Giêsu trong vài tuần tới,
điều quan trọng là chúng ta hãy bắt đầu với nền tảng vốn là ‘cơn đói tâm linh’
của mình! Mỗi chúng ta đều trải nghiệm và nhận thức được nó. Không ai thoát khỏi
nó. Vì lý do đó, hãy nhìn vào tâm hồn. Bạn thấy gì? Có một sự bồn chồn và ham
muốn chưa thoả mãn nào đó không? Bạn có cảm nhận những cơn thèm muốn trong tâm
hồn mình? Khi thấy được điều này, hãy biết rằng, bạn đã khám phá ra ‘điểm khởi
đầu’ của cuộc sống viên mãn. Nếu không thể thấy được cơn đói bên trong, bạn
không thể hướng đến nguồn thoả mãn!
Anh Chị em,
“Để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh!”.
Thánh Thể là lương thực thường tồn, nguồn mạch của tất cả những gì được mong ước!
Tuy nhiên, chúng ta thường không thấy điều đó nên dễ dàng rơi vào cái bẫy coi
Thánh Thể là nghĩa vụ phải thực hiện mỗi tuần, thậm chí có thể coi là ‘bất tiện’.
Nếu đây là đấu tranh của bạn, hãy thử áp dụng vài Chúa Nhật tới để xem xét lại
sự hiểu biết của bạn về Bí tích Thánh Thể. Thánh lễ Chúa Nhật, hơn bất kỳ điều
gì khác, phải được hiểu là nguồn thoả mãn sâu sắc nhất của chúng ta. Nó phải được
coi là câu trả lời cho mọi khát khao, sự bồn chồn bên trong vì ‘cơn đói tâm
linh’ đang cồn cào. Không phải tiền bạc, sự nổi tiếng, địa vị, quyền lực hay bất
kỳ điều gì làm chúng ta thoả mãn. Nhưng là Chúa! Ngài đến trước hết và trên hết
trong Thánh Lễ. Bạn có tin và hiểu được điều đó không?
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, xin đổi mới và làm sâu sắc thêm tình yêu của con
đối với Quà Tặng Thánh Thể; nhờ đó, ‘Lỗ Hổng của trái tim’ con được lấp đầy và
con hết đói!”, Amen.
Thứ
hai: ĐIỀU TUYỆT VỜI RỒI CŨNG XẢY RA
“Ai nấy đều ăn và được
no nê!”.
“Thật là khờ khạo khi bạn muốn chinh phục thế giới! Thật là
khôn ngoan khi bạn muốn chinh phục ‘cái tôi!’. Cuộc sống của bạn không đo bằng
những gì giành được, nhưng đo bằng những gì bạn đã vượt qua! Và điều tuyệt vời
rồi cũng xảy ra!” - Morrison.
Kính thưa Anh Chị em,
“Cuộc sống được đo bằng những gì bạn đã vượt qua!”. Ý tưởng
của Morrison được gặp lại qua Lời Chúa hôm nay khi Matthêu mở đầu Tin Mừng bằng
‘cái chết của Gioan’ và kết thúc nó với việc hơn ‘5.000 người được no nê’. Qua
đó, Chúa Giêsu đã chinh phục ‘cái tôi’, ‘vượt qua chính mình’; và ‘điều tuyệt vời
rồi cũng xảy ra!’.
Sau khi nghe tin Gioan - người anh họ - chết, Chúa Giêsu xuống
thuyền, tìm một nơi hoang vắng. Rõ ràng, Ngài muốn ở một mình! Vậy mà, dân chúng
không để Ngài yên. Họ biết Ngài đi đâu và phải đợi Ngài ở đâu! “Ra khỏi thuyền,
trông thấy một đoàn người đông đảo, Ngài chạnh lòng thương”; và - ‘điều tuyệt vời
rồi cũng xảy ra!’ - “Ngài chữa những người bệnh tật trong họ”. Bằng cách ấy, những
‘rắc rối riêng’ của Ngài đã phải xếp qua một bên, nhường chỗ cho những nhu cầu
lớn hơn của người khác.
Câu chuyện tiếp tục khi chiều xuống, các môn đệ đến thưa
Ngài, “Xin Thầy cho dân chúng về!”. Không, “Chính anh em hãy cho họ ăn!”. Làm
sao họ có thể nuôi ngần ấy người khi chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con
cá? Họ nghĩ, đây là chuyện ngụ ngôn! Họ đã quá tập trung vào việc sẽ làm được
‘ít như thế nào’; họ không nghĩ với cái ‘ít như thế nào’ họ có, Chúa sẽ làm như
thế nào! Điều gì đã xảy ra trong đầu họ khi Chúa Giêsu bảo mọi người ngồi thành
từng nhóm? Họ đã nói gì trong khoảnh khắc đó? Không ai biết. Tuy nhiên, điều
chúng ta biết, là họ đã vâng lời! Họ không phàn nàn điều đó là vô nghĩa. Chỉ với
hành động vâng lời, ‘điều tuyệt vời rồi cũng xảy ra’, họ không mất gì cả!
Quả thế, điều không thể đối với con người vẫn có thể đối với
Thiên Chúa! Các môn đệ, dẫu bất lực, vẫn là những ‘chiếc giỏ’ mang bánh cá đã
hoá nhiều cho dân. Thiên Chúa cũng sẽ làm những điều không tưởng trong chúng ta
nếu mỗi người cho phép Ngài sử dụng ‘cái ít ỏi’ của mình; và quan trọng hơn,
‘vâng lời’ Ngài! Trước bao thách thức của công cuộc Tân Phúc Âm hoá, nếu bạn sẵn
sàng đem ‘cái ít ỏi’ và những hạn chế của mình cho Chúa Giêsu, luôn vâng lời
Ngài, Ngài sẽ làm những điều không tưởng.
Anh Chị em,
“Ai nấy đều ăn và được no nê!”. Chúa Giêsu muốn có những kết
quả tương tự nơi bạn và tôi. Nếu cái chết của Gioan mở đầu cho câu chuyện hơn
‘5.000 người’ được no nê, thì cái chết của Ngài sẽ mở đầu cho câu chuyện hơn
‘năm châu’ được nghe biết Tin Mừng. Bạn và tôi cũng hãy làm như vậy tuỳ theo đấng
bậc và hoàn cảnh của mình. Tuy nhiên, đôi khi có vẻ như sự cố gắng của chúng ta
không mang lại kết quả như mong đợi. Chuyện gì thế? Hãy cứ can đảm, cứ cho đi
những gì bạn có dù nó ‘ít như thế nào’. Đừng sợ, bạn sẽ không mất gì cả, vì nếu
bạn cho đi, Ngài sẽ nhân lên gấp bội. Hãy loại bỏ những ‘khiêm tốn giả tạo’ khi
cảm thấy không đủ; cứ tin tưởng vào Chúa, vào tình yêu, vào sức mạnh của phục vụ,
của lòng thương xót. Và phép lạ rồi cũng xảy ra!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con chùn bước. Cho con biết tặng trao
‘cái ít ỏi’, vâng lời và tín thác vào Chúa; phần còn lại, Chúa lo. Và ‘điều tuyệt
vời rồi cũng xảy ra!’”, Amen.
Thứ ba: CHÚA
HIỂN DUNG-CHỐN CỰC LẠC
“Lạy Thầy, chúng con
ở đây, thật là hay!”.
“Lạy Chúa, Ngài đem đến gian lao và cũng chính Ngài cất đi
mọi nguy khốn. Ngài trừng phạt con bằng bao cực hình tột độ. Nhưng con được
bình an, vì Ngài đã kịp chìa cho con cây sào thật đúng lúc để cứu con khỏi dòng
nước cuốn. Ôi có Ngài - thiên đàng của con - con không còn đớn hèn bạc nhược vốn
chỉ biết say sưa với khoái lạc, kiêu hãnh và dâm ô. Ôi, Giêsu - chốn cực lạc -
Ngài giúp con hoàn thành những dự án giá trị và khả thi trong đời!” - Paul
Verlaine.
Kính thưa Anh Chị em,
Như Paul Verlaine, ba môn đệ trên núi Taborê xem ra cũng được
Chúa Giêsu chìa cho cây sào thật đúng lúc khi lòng họ đang rối loạn vì những gì
Ngài nói về cuộc thương khó sắp tới. Phêrô, Giacôbê và Gioan hạnh phúc tột độ
khi Ngài biến hình sáng láng trước mặt họ, một phép lạ chưa từng thấy! Với họ,
Taborê, một ‘chốn cực lạc’ ngọt ngào!
Vậy mà cuộc Hiển Dung trên núi được mừng kính hôm nay vẫn
không phải là một phép lạ! Tại sao? Vì đã có một phép lạ ‘thực sự’ và ‘thường
xuyên’ khi Con Thiên Chúa ‘duy trì’ một sự xuất hiện trong dáng vẻ bình thường
của một phàm nhân trên những nẻo đường Palestina! Qua đó, các môn đệ và những
người đương thời đã chiêm ngắm Ngài, ‘chốn cực lạc’ - ‘thiên đàng hạ thế!’.
Kỳ diệu thay! Trên những con đường ấy, những con đường triền
đồi đầy đá và những thung lũng lặng lẽ của Đất Thánh, khuôn mặt của Thiên Tử
Giêsu đã ‘không bừng sáng’ như mặt trời. Sự bình thường của ‘nhân tính’ Ngài
kín kẽ bền vững, che khuất thường xuyên ‘thiên tính’ rạng rỡ của Ngài. Đó là
phép lạ của sự khiêm nhường, phép lạ của sự hạ mình với ơn gọi nhập thể, ngôn sứ,
chịu đau khổ và chết đi cho nhân loại. Và này, Ngài sẽ lên trời - ‘chốn cực lạc’
- kéo nhân loại mà Ngài đến để đem về nơi nó phải về.
Đaniel tiên báo ‘chốn cực lạc’ ngọt ngào ấy, nơi mà toà cao
cả của Thiên Chúa rạng ngời uy nghi - bài đọc một. Đấng Lão Thành là hình ảnh
Chúa Cha, “Tôi thấy có ai như Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến
lại gần bên Đấng Lão Thành”. Thánh Vịnh đáp ca reo lên, “Chúa là Vua Hiển Trị,
là Đấng cao cả trên khắp địa cầu!”.
Phêrô cũng xác tín những gì đã chứng kiến trên núi ngày ấy
- bài đọc hai. Đức Kitô mà Phêrô và các tông đồ rao giảng không phải là chuyện
hoang đường, nhưng là một Thiên Chúa làm người, “Chúng tôi đã được chứng kiến
nhãn tiền sự uy nghi của Người”. Phêrô quả quyết đã nghe tiếng Chúa Cha trên
núi ngày ấy, “Hãy nghe lời Người!”.
Anh Chị em,
“Lạy Thầy, chúng con ở đây, thật là hay!”. “Ở đây” là ở với
Chúa Giêsu, trong Chúa Giêsu, một Đức Giêsu Kitô Phục Sinh cho dẫu Ngài phải trải
qua đau khổ, thập giá và sự chết. Sự kiện Biến Hình mang đến cho chúng ta một
thông điệp hy vọng; mời gọi chúng ta ước ao sống với Chúa Giêsu, ở lại với Ngài
ngay hôm nay qua những anh chị em mà chúng ta phục vụ; mời gọi chúng ta vượt
qua khổ đau, đừng quá gắn bó với những gì trần tục, để thực hiện một hành trình
hướng về thiên đàng, chiêm ngưỡng Chúa Giêsu đời đời. Vì thiên đàng chính là
Ngài, ‘chốn cực lạc’, một con người, hơn là một địa điểm!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, giữa biển đời dậy sóng khổ đau, cho con biết cố
sức bơi về ‘chốn cực lạc’ Giêsu; ở đó, Ngài đang đợi để kịp chìa cho con cây
sào!”, Amen.
Thứ
tư: KÉO XUỐNG LÒNG THƯƠNG XÓT
“Này bà, lòng tin của
bà mạnh thật!”.
“Khiêm nhượng là tĩnh lặng hoàn hảo của con tim; là ngôi
nhà phước huệ, nơi tôi có thể đi vào, đóng cửa và quỳ lạy Cha tôi. Linh hồn tôi
bình an như biển sâu êm đềm khi bên trên là bão tố; ở đó, khiêm nhượng sẽ kéo
xuống lòng thương xót!” - Andrew Murray.
Kính thưa Anh Chị em,
Nơi “ngôi nhà phước huệ Giêsu”, người mẹ khốn khổ của Tin Mừng
hôm nay “đã đi vào, đóng cửa và quỳ lạy”. Phép lạ đã xảy ra! Tâm hồn cô “như biển
sâu êm đềm khi bên trên là bão tố”. Vì lẽ, lòng khiêm nhượng và niềm tin của cô
đã ‘kéo xuống lòng thương xót!’.
“Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó
con!”. Có thực Chúa Giêsu ngụ ý việc cứu giúp người mẹ này tựa hồ việc ném thức
ăn cho những con vật? Nhìn bên ngoài, có thể ‘có’; nhưng tận thâm tâm, Chúa
Giêsu không nghĩ như thế. Chẳng có gì xúc phạm ở đây! Điều Ngài nói là sự thật
và không thô lậu dưới bất cứ hình thức nào. Về căn bản, Ngài muốn nói, cô không
xứng đáng với ân huệ này. Dẫu đây là một cách nói gây sốc, nhưng bằng cách này
- lần đầu tiên - Chúa Giêsu cho biết một sự thật về tình trạng tội lỗi và bất xứng
của bất cứ ai trước bất cứ ân huệ nào của Thiên Chúa. Và người phụ nữ này, đại
diện cho cả nhân loại, xác nhận sự thật về sự bất xứng này!
Thứ hai, câu trả lời ‘muối mặt’ của Chúa Giêsu cho phép người
phụ nữ này phản ứng với sự khiêm tốn và niềm tin đến mức tột đỉnh. Nó thể hiện ở
chỗ, cô không phủ nhận việc mình ‘được’ sánh với một con vật dưới gầm bàn; thay
vào đó, cô khiêm tốn chỉ ra rằng, cả những cún con cũng được phép nhặt những đồ
thừa. Ôi khiêm nhường! Và Chúa Giêsu hẳn đã biết sự khiêm nhượng của cô lớn như
thế nào, nó sẽ toả sáng làm sao cùng với niềm tin cô bày tỏ. Cô không bị xúc phạm
bởi sự thật về sự bất xứng của mình nhưng cô đón nhận nó và tìm kiếm lòng
thương xót Chúa bất chấp mọi sự.
Khiêm nhường có khả năng giải phóng đức tin, đức tin có khả
năng giải phóng lòng thương xót và - hơn thế nữa - mở ra quyền năng của Thiên
Chúa. Bài đọc Giêrêmia cho thấy điều tương tự. Chính đức tin và lòng khiêm nhượng
của dân Chúa đã khiến họ nhìn nhận sự bất trung của mình; họ kêu cầu Ngài, và
Ngài xót thương, “Ta vẫn dành cho ngươi lòng thương xót!”. Họ đã cảm nhận lòng
nhân ái của Ngài, “Chúa canh giữ chúng ta như mục tử canh giữ đàn chiên!” -
Thánh Vịnh đáp ca.
Anh Chị em,
“Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!”. Mỗi người chúng ta đều
có câu chuyện của riêng mình và không phải lúc nào cũng là một câu chuyện “có
thể xuất bản”, không phải lúc nào cũng là một câu chuyện trong sạch… Nhiều lần
đó là một câu chuyện khó khăn với nhiều khổ đau, nhiều bất hạnh và nhiều tội lỗi.
Tôi phải làm gì với câu chuyện của mình? Giấu nó? Không! Tôi phải mang nó đến
trước Chúa Giêsu, “Lạy Chúa, xin dủ lòng thương con!”. Đây là điều mà người mẹ
tuyệt vời này dạy chúng ta! Hãy can đảm mang câu chuyện đau thương của riêng
mình đến trước Chúa Giêsu - dẫu luôn luôn có những điều xấu xí trong đó - chạm
đến sự dịu dàng của Ngài. Hãy khiêm nhượng và tin tưởng, bạn và tôi cũng sẽ
‘kéo xuống lòng thương xót’ Chúa!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, giúp con can đảm đi vào ngôi nhà phước huệ Giêsu
mỗi ngày, đóng cửa và quỳ lạy, để tâm hồn con rồi sẽ bình an như biển sâu êm đềm
khi bên trên là bão tố!”, Amen.
Thứ năm: QUÀ
TẶNG NĂNG QUYỀN
“Thầy sẽ trao cho
anh chìa khoá Nước Trời!”.
“Chìa khoá cuối cùng trong chùm chìa khoá thường mở được ổ
khoá!” - Paul Dickson.
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng hôm nay không nói đến chìa khoá cuối cùng mở được ổ
khoá, nhưng nói đến chìa khoá đầu tiên mở được Nước Trời, một ‘quà tặng năng
quyền’ đáng kinh ngạc mà Chúa Giêsu trao cho Phêrô, “Thầy sẽ trao cho anh chìa
khoá Nước Trời!”.
Chúa Giêsu nói rất rõ, “Dưới đất, anh ràng buộc điều gì,
trên trời cũng ràng buộc” và ngược lại! Đây không phải là một quà tặng bình thường,
nhưng là một cam kết ‘theo nghĩa đen’ giữa Chúa Giêsu và Phêrô - Giáo Hoàng
tiên khởi. Thoạt đầu, hẳn Phêrô không hiểu hết ý nghĩa của món quà vô giá này,
nhưng khi Giáo Hội bắt đầu vào những năm đầu tiên, các tông đồ và Phêrô sẽ được
Chúa Thánh Thần nhắc nhở rằng, Chúa Giêsu đã nói điều đó. Để rồi, với thời
gian, các ngài hiểu rõ ý nghĩa của nó hơn. Thẩm quyền này được áp dụng lần đầu
tiên rõ nét nhất tại Công Đồng Giêrusalem khi trong Giáo Hội có sự bất đồng về
việc cắt bì. Sau nhiều cuộc tranh luận, Phêrô đứng lên, tuyên bố với thẩm quyền
của mình và những người khác vâng theo. Vấn đề được giải quyết.
Từ đó, các tông đồ tiếp tục công việc giảng dạy, chăn dắt
và thánh hoá. Phêrô, cuối cùng, đã đến Rôma để rao giảng và trở thành Giám mục
đầu tiên ở đây. Tại Rôma, Phêrô đã chết và những người kế vị ngài đã thừa kế
món quà đáng kinh ngạc này. Bởi lẽ, Chúa Giêsu không có ý định giới hạn ‘quà tặng
năng quyền’ này chỉ khi Phêrô còn sống nhưng nó được truyền lại cho tất cả những
người kế vị Phêrô là các Giám mục Rôma. Đó là lý do tại sao Giáo Hội Chúa Kitô
là Giáo Hội Công Giáo Rôma. Thật thú vị, nếu Phêrô đã đến Malta, hoặc
Giêrusalem, hoặc Châu Á thì ngày nay rất có thể sẽ có một tên gọi khác như Giáo
Hội Malta, Giêrusalem hoặc Giáo Hội Công Giáo Châu Á. Vì thế, Giáo Hội Chúa
Kitô là Giáo Hội Công Giáo Rôma, nơi Phêrô đã đến, cũng là nơi đặt ngai toà của
ngài.
Qua nhiều thế kỷ, năng quyền tối cao của quà tặng này được
định nghĩa và chúng ta hiểu được ý nghĩa của nó. Điều đó có nghĩa là Phêrô và tất
cả các đấng kế vị được ‘toàn quyền và tức thì’ để giảng dạy một cách dứt khoát
về đức tin và luân lý cũng như cai quản, hoặc chăn dắt, theo tâm trí và ý muốn
của Chúa Kitô. Vì vậy, nếu Giáo Hoàng nói một điều gì đó là đúng về đức tin hoặc
luân lý thì - khá thẳng thắn - đó là sự thật. Và nếu Giáo Hoàng đưa ra một quyết
định về việc quản trị Giáo Hội thì - khá đơn giản - đó là điều Chúa Kitô muốn
thực hiện. Nó đơn giản đến như vậy!
Anh Chị em,
“Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời!”. Lời Chúa mời gọi
chúng ta sống trong tâm tình tạ ơn và yêu mến khi đón nhận những giáo huấn của
Mẹ Hội Thánh; đồng thời, cầu nguyện cách riêng cho Đức Thánh Cha, người đón nhận
trực tiếp ‘quà tặng năng quyền’ của Chúa Kitô. Bởi lẽ, quà tặng yêu thương này
- liên quan đến việc giảng dạy về đức tin và luân lý cho dân Chúa, cho chúng ta
- được gọi là “không thể sai lầm” của đấng kế vị Phêrô. Hãy yêu mến Đức Thánh
Cha, cầu nguyện cho Ngài, và nhất là lắng nghe ngài!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, thật dễ dàng để con tiếp cận những giáo huấn của
Mẹ Hội Thánh, đừng để con sử dụng các phương tiện để đọc và nghe những gì nhảm
nhí, vô bổ!”, Amen.
Thứ sáu: THÁNH
HOÁ NÓ!
“Ai muốn đi theo Thầy,
phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà
theo!”.
Nick Vujicic không có tứ chi; đúng hơn, chỉ có 1 bàn chân 2
ngón. Từ 8 tuổi, anh muốn tự tử; lên 10, tự dìm mình vào bồn tắm. Ấy thế, tình
yêu đã giúp anh vượt qua! “Chúa đã lên kế hoạch cho cuộc đời tôi, tôi không thể
tự dìm mình xuống. Tự coi mình là vô giá trị, bạn đặt giới hạn cho những điều kỳ
diệu! Tôi không có tay để chạm vào người khác, nhưng trái tim tôi sẽ làm điều
đó; nó sẽ làm rung động trái tim nhiều người!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Một khi ôm lấy thập giá đời mình, Vujicic trở nên khí cụ
tuyệt vời của Chúa. Phải chăng Vujicic đã sống bí quyết Chúa Giêsu tiết lộ
trong Tin Mừng hôm nay, ‘thánh hoá nó!’, “Ai
muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo!”.
Đối mặt với đau khổ do chính mình hoặc người khác gây ra,
chúng ta có thể nghe, “Đây là ý Chúa” và chúng ta tiếp tục thu thập hy sinh như
những con tem được sưu tầm với hy vọng sẽ trình chúng tại cửa thiên đàng. Thế
nhưng, bản thân đau khổ chẳng có giá trị gì! Chúa Kitô không phải là người khắc
kỷ. Ngài khát, Ngài đói, Ngài mệt, Ngài không thích bị bỏ rơi; Ngài để người
khác giúp đỡ và bất cứ khi nào có thể, Ngài xoa dịu nỗi đau, dù là thể xác hay
tinh thần của người khác. Vậy thì, điều gì đang xảy ra?
Trước khi mang thập giá, điều đầu tiên chúng ta làm là đi
theo Chúa Kitô! Vấn đề không phải là chịu đau khổ rồi mới theo Ngài. Chúa Kitô
phải được chúng ta theo đuổi ‘từ Tình Yêu’; để từ đó, bạn và tôi hiểu được ý
nghĩa của hy sinh và từ bỏ chính mình! Chính tình yêu dẫn chúng ta đến hy sinh.
Bất kỳ tình yêu đích thực nào cũng sinh ra theo cách này; nhưng không phải mọi
hy sinh đều sinh ra tình yêu. Thiên Chúa không cần hy sinh; Thiên Chúa là Tình
Yêu - và chỉ từ góc nhìn đó - nỗi đau, mệt mỏi và thập giá mới có ý nghĩa theo
mô hình đã được mặc khải trong Chúa Kitô. “Khi một người yêu, người đó không
đau khổ; nhưng nếu một người đau khổ, thì sự đau khổ đó đã được yêu!”.
Trong những sự kiện của cuộc sống, bạn đừng tìm nguồn gốc
thiêng liêng để giải thích những thập giá đời mình - “Tại sao Chúa gửi nó đến
tôi?” - nhưng tìm cách ‘thánh hoá nó’, “Làm sao tôi có thể biến nó thành một
hành động của đức tin và tình yêu?”. Từ đó, chúng ta dõi theo Chúa Kitô và làm
sao tin chắc chúng ta có thể xứng đáng với cái nhìn thương xót của Chúa Cha
cùng một cái nhìn mà Ngài đã nhìn Con mình trên thập giá.
Anh Chị em,
“Ai muốn đi theo Thầy,
phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo!”. Nhiều Kitô hữu sẵn sàng làm bạn với Chúa Giêsu khi thuận
lợi; tuy nhiên, vẫn có một số khác là bạn thực sự của Ngài, họ luôn ôm lấy thập
giá, ‘thánh hoá nó’ cả trong những hoàn cảnh xấu nhất. Đời sống Kitô hữu là một
trận chiến liên tục, khốc liệt và kéo dài cả đời - trận chiến từ bỏ mình. Tất cả
chúng ta đều bị cám dỗ để đào ngũ khỏi chiến cuộc khắc nghiệt lúc này lúc khác;
tuy nhiên, sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu chúng ta không bằng lòng ôm chặt thập
giá đời mình để ‘thánh hoá nó’ như Chúa Kitô đã thánh hoá!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con giới hạn cho những điều kỳ diệu; điều
đó bao hàm việc con sẵn sàng ôm lấy thập giá đời con, ‘thánh hoá nó’. Được như
thế, con sẽ nên thánh!”, Amen.
Thứ
bảy: TRUYỀN CẢM HỨNG
“Nếu chết đi, nó mới
sinh được nhiều hạt khác!”.
Một ấn phẩm Anh trao thưởng cho định nghĩa tốt nhất về một
người bạn. Trong hàng nghìn câu trả lời, có một số câu đáng chú ý. “Đó là một
người có lòng trung thực bất khả xâm phạm; một người nhân lên tình yêu, truyền
cảm hứng cho bạn và người khác!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa lễ thánh Laurensô cho thấy sức mạnh và tầm quan trọng
của việc ‘truyền cảm hứng’ và ‘nhân lên tình yêu’ nơi những ai sống cho tình
yêu Thiên Chúa và tha nhân!
Không ai ‘nhân lên tình yêu’ và ‘truyền cảm hứng’ mạnh mẽ bằng
Chúa Giêsu, “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, nó vẫn trơ trọi một
mình; còn nếu chết đi, nó sinh được nhiều hạt khác!”. Dùng hình ảnh hạt lúa chết
đi để vụ mùa bội thu, Chúa Giêsu đang nói đến nghịch lý chết và sống - một chân
lý - nhưng đó là quy luật để thiên nhiên tồn tại! Ngài mời chúng ta sống ‘chân
lý nghịch lý’ đó. Không vị thần nào được tôn thờ, yêu mến mà dám sống, dám chết
cho các tín đồ của mình như Chúa Giêsu, Đấng từng nói, “Không có tình yêu nào lớn
hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu!”. Đó là một tình yêu có sức
giục giã người khác hướng về điều thiện như hạt lúa sẵn sàng chết đi để nhân
lên những đồng lúa vàng nối tiếp những đồng lúa vàng.
Laurensô được ‘truyền cảm hứng’ từ ‘Người Bạn có lòng trung
thực bất khả xâm phạm’ Giêsu, cảm nghiệm được tình yêu của Ngài, đã nên giống
Ngài khi chịu nướng chậm trên một chiếc giường sắt; không phải cực lòng, nhưng
rất vui lòng: “Lật tôi lại để hai bên được chín đều!”. Chỉ những con người đầy
tin yêu vào Đấng đã chết cho mình mới can đảm đến thế. Bạn và tôi không được gọi
để sống và chết anh hùng như Laurensô, nhưng Chúa Phục Sinh đã ban ân sủng
tương tự để mỗi người đủ sức ‘truyền cảm hứng’ và ‘nhân lên tình yêu’ bằng cách
sống vị tha cách hào phóng nhất có thể!
Ngắm cuộc đời các thánh, chúng ta được ‘truyền cảm hứng’ từ
sự trung thành của các ngài dành cho Chúa Kitô và Giáo Hội. Cũng thế, hành vi
trung thành của chúng ta rồi sẽ ‘truyền cảm hứng’, ‘nhân lên tình yêu’ và lòng
can đảm nơi những người khác để họ cũng có thể làm điều tương tự! Phaolô nói,
“Ai vui vẻ dâng hiến, thì được Thiên Chúa yêu thương. Vả lại, Ngài có đủ quyền
tuôn đổ xuống trên anh em mọi thứ ân huệ, để anh em vừa được luôn đầy đủ mọi mặt,
vừa được dư thừa mà làm mọi việc thiện” - bài đọc một. “Phúc thay người biết cảm
thương và cho vay mượn!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Anh Chị em,
“Nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác!”. Sự chết
mang mầm sự sống, thập giá tiềm tàng phục sinh. Cuộc đời Chúa Giêsu trên trần
gian là một chuỗi ngày của mục nát và chết đi; thế nhưng, chính tình yêu trong
quãng đời xem ra không mấy thuận lợi này của Ngài đã kiến tạo một Vương Quốc mới
giữa lòng thế giới, Vương Quốc Tình Yêu. Suốt dòng lịch sử, bao người đã sống
cái ‘chân lý nghịch lý’ này; nhờ đó, ‘tình yêu nhân lên tình yêu’, những ‘hạt
vàng’ nhân lên những đồng lúa vàng. Bạn và tôi cũng hãy sống cái ‘chân lý nghịch
lý’ - quy luật Phục Sinh - đó! Bấy giờ, chúng ta cũng là những con người ‘chết
để sống’, ‘mất để được’, được cả đồng lúa, mới mẻ và vĩnh cửu!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, dạy con chắt chiu những ‘hiến tế nhỏ’ mỗi ngày;
chúng cũng sẽ ‘truyền cảm hứng’, ‘nhân lên tình yêu’ và con được cả cánh đồng!”,
Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét