Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2025

 SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN III MÙA VỌNG

Lm. Nguyệt Giang

CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG A
Is 35,1-6a.10; Gc 5,7-10; Mt 11, 2-11

Suy niệm 1:

Hôm nay, chúng ta bước vào Chúa nhật III Mùa Vọng, được gọi là Chúa nhật Gaudete của niềm vui. Giữa hành trình mong đợi Đấng Cứu Thế, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy vui lên, vì Chúa đang đến gần.

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết rằng: Đấng Mêsia không chỉ đến với chúng ta qua lời nói, nhưng qua những việc làm cụ thể của yêu thương: kẻ mù được thấy, người què được đi, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng. Đó là những dấu chỉ của một Thiên Chúa luôn hiện diện và hành động giữa đời sống con người.

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy mở rộng tâm hồn để đón nhận niềm vui và niềm hy vọng Chúa ban, xin Ngài củng cố đức tin, để giữa những thử thách của cuộc sống, chúng ta luôn vững tin và kiên trì chờ đợi ngày Chúa đến.

Chúa nhật thứ III MV là Chúa nhật màu hồng; Chúa nhật của niềm vui; vui vì Chúa sắp đến. Thật ra Chúa Giêsu đã đến trần gian cách nay hơn 2000 rồi, nơi hang đá Bêlem. Tuy nhiên có thể Chúa chưa đến được trong tâm hồn của chúng ta. Vì thế mà chúng ta hãy ngoan ngoãn mở lòng ra để Chúa bước vào đời ta bằng cách thống hối tội lỗi và tích cực làm nhiều việc lành, phúc đức, nhờ đó Chúa mới dễ dàng đến được với ta để ban lại niềm vui và ơn cứu độ.

Tin mừng hôm nay gồm 2 phần:

1. Mạc khải cho chúng ta biết được khuôn mặt đích thực của Đấng Cứu Thế.

2. Giới thiệu cho chúng ta biết về khuôn mặt tuyệt đẹp của Gioan Tẩy Gỉa.

Trước hết chúng ta hãy nhớ lại Tin Mừng tuần trước. Gioan Tẩy Gỉa đã giới thiệu khuôn mặt của đấng Messia là vị thẩm phán thật nghiêm khắc bằng những lời lẽ hết sức cứng rắn: “Đây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa…Ngài cầm nia trong tay mà sảy lúa của Ngài, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt". Vì vậy mà ông đã không ngần ngại kêu gọi mọi người phải sám hối chừa bỏ đàng tội lỗi. Ông cũng sẵn sàng lên án mạnh mẽ lối sống vô luân của vua Hêrôđê vì đã cướp lấy bà Hêrôđia là vợ của anh mình làm vợ. Do đó mà Gioan đã bị nhà vua bắt bỏ tù.

Trong hoàn cảnh bị cầm tù như thế, ông nhận thấy sự bất công lên ngôi, vậy mà đấng Messia ông đã từng loan báo lại không ra tay để trừng trị. Điều này khiến ông trở nên nghi ngờ không biết Đức Giêsu có phải là Đấng phải đến không?. Nên hôm nay mặc dù đang trong cảnh tù đày ông vẫn tìm cách sai 2 môn đệ của mình đến để hỏi xem Chúa Giêsu có thật sự là Đấng Messia mà ông loan báo và muôn dân đang trông đợi hay không?: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?".

Tuy Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp cho môn đệ Gioan biết Ngài là Đấng Messia, nhưng qua việc Ngài bảo họ về và thuật lại cho Gioan Tẩy Gỉa nghe biết những điều Ngài đã và đang làm: "người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta", chắc hẳn Gioan sẽ rõ. Bởi lẽ đó là những việc làm đúng với những gì mà tiên tri Isaia đã loan báo trước đó khoảng 800 năm. Tiên tri Isaia khi ấy đã loan báo về một thời đại tươi sáng, trong thời đại ấy Đấng Messia sẽ thực hiện.

Như thế một mặt Chúa Giêsu vừa xác nhận cho Gioan biết Ngài chính là Đấng Messia. Mặt khác, Ngài cũng cho biết Đấng Messia mà Gioan Tẩy Gỉa đã loan báo không phải là một vị thẩm phán khắc khe hay trừng phạt mà là một Đấng đầy lòng từ ái, sẵn lòng tha thứ cho những ai biết ăn năn sám hối. Đấng ấy không phải là một vị thẩm phán thích lên án và muốn giết chết nhưng là một Đấng yêu mến sự sống, bởi lẽ Ngài “đến là để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất”. Đó mới thật là khuôn mặt đích thực của Đấng Messia, Người tôi tớ của Giavê Thiên Chúa mà Isaia đã loan báo từ ngàn xưa.

Dẫu rằng trong lúc bị tù đày, Gioan Tẩy Gỉa có chút xao xuyến, hoài nghi, nhưng Chúa Giêsu không hề trách móc ông, bởi Ngài hiểu và thông cảm về hoàn cảnh đau khổ mà ông đang phải chịu. Vì vậy mà sau khi các môn đệ Gioan đi rồi, Chúa Giêsu đã không ngớt lời ca ngợi và giới thiệu cho mọi người biết về con người, sứ mạng cao cả của Gioan Tẩy Gỉa.

- Đó là một con người đầy cương trực và can đảm, dám sống chết cho sứ mạng mình đã loan báo. Ông cũng rất mạnh mẽ sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để làm chứng cho sự thật và công lý, chứ không giống như hình ảnh cây sậy phất phơ trước gió cách nhu nhược, uốn mình theo dư luận và áp lực của thế quyền.

- Đó là một con người biết sống hy sinh khổ chế, dám chọn cho mình đời sống nghèo khó nơi hoang địa, khác với những người chỉ biết nuông chiều xác thịt, thỏa mãn với những vật chất sa hoa và vui hưởng lạc thú lả lướt nơi cung điện giàu sang.

Cho dẫu Gioan Tẩy Giả chọn lấy cách sống cô tịnh và khắc khổ, nhưng ngài được mọi người kính phục và được Chúa Giêsu khen tặng là người cao trọng nhất trong các con cái do người nữ sinh ra. Gioan Tẩy Gỉa trở nên cao trọng bởi vì ông chính là ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước và là người trực tiếp dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến.

Tuy vậy, Gioan Tẩy Giả vẫn nhỏ hơn những con người sống trong thời đại Tân ước, thời kì mà những người Kitô hữu như chúng ta được thừa hưởng và đón nhận ơn cứu độ do Chúa Giêsu mang đến.

Xin cho chúng ta cảm nhận được tình thương của Chúa mà biết nỗ lực đáp lại tình thương ấy bằng cách can đảm sống cho những giá trị của tin mừng cho dẫu phải chịu nhiều hy sinh thử thách để làm chứng cho Chúa. Cụ thể trong trong những ngày này, xin cho chúng ta biết dành nhiều thời giờ hơn để dọn lòng sám hối, xưng thú tội lỗi để đón ơn tha thứ của Chúa, hầu chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón mừng Chúa đến ban tặng cho ta niềm vui ơn cứu độ.

 

Suy niệm 2: HÃY VỮNG TÂM-CHÚA ĐANG ĐẾN

Có một câu chuyện vui thế này.

Một cổ động viên bóng đá trước giờ đá luân lưu hồi hộp đến mức vừa chắp tay cầu nguyện cho thủ môn đội nhà bắt được bóng. Và quả thật, khi thủ môn cản được cú sút đầu tiên, cả sân vận động nổ tung trong tiếng reo hò. Fan hâm mộ ôm nhau, nhảy cẫng lên, vui mừng như thể mọi lo lắng bỗng tan biến.

Chỉ cứu được một bàn thua thôi, mà đã đem lại niềm vui lớn lao cho cả một rừng người.

Những ngày này, hòa nhịp cùng trái bóng tròn đang lăn trên các sân cỏ Thái Lan trong kỳ SEA Games 33, bầu khí háo hức và hy vọng lan tỏa khắp nơi. Thế nhưng hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta bước vào Chúa nhật III Mùa Vọng-Chúa nhật của niềm vui và hy vọng.

Nếu chỉ một bàn thắng được cứu trong bóng đá đã làm con người vui mừng đến thế, thì Chúa đến để cứu cả cuộc đời con người, cứu cả thế giới, lẽ nào chúng ta lại không vui và không hy vọng?

Chúng ta vui, vì lễ Giáng Sinh-kỷ niệm biến cố Con Thiên Chúa làm người để cứu độ nhân loại-đã đến rất gần.

Chúng ta hy vọng, vì Thiên Chúa là người Cha giàu lòng thương xót, luôn sẵn sàng tha thứ và ban dư tràn ân sủng cho những ai biết mở lòng đón nhận Ngài.

1. Niềm vui được biểu lộ cả bên ngoài lẫn bên trong

Phụng vụ hôm nay diễn tả niềm vui ấy bằng những dấu chỉ rất sống động: cây nến màu hồng được thắp sáng giữa ba cây nến tím; linh mục chủ tế mặc phẩm phục màu hồng; phụng vụ cho phép cắm hoa và đệm nhạc nhẹ. Những dấu chỉ ấy nhắc chúng ta rằng: niềm vui cứu độ đã ở rất gần.

Niềm vui ấy được cảm nhận bên ngoài: thời tiết se lạnh làm lòng người dễ chịu hơn; các gia đình bắt đầu dọn dẹp, trang hoàng nhà cửa; các nhà thờ làm hang đá, treo đèn, giăng cờ hoa; đường xá được quét dọn sạch đẹp hơn.

Nhưng niềm vui Mùa Vọng không dừng lại ở những trang trí bên ngoài. Niềm vui đích thực phải được sinh ra trong lòng người: niềm vui của những tấm thiệp và lời chúc chân thành trao gửi cho nhau; niềm vui của tâm hồn được bình an sau giờ tĩnh tâm; niềm vui của người tín hữu được chạm đến lòng thương xót Chúa qua Bí tích Hòa Giải, được tha thứ và làm mới lại.

2. Hy vọng được Thiên Chúa hứa ban

Trong bài đọc thứ nhất, giữa cảnh lưu đày khốn khổ vì phải sống kiếp nô lệ tại Babylon, Thiên Chúa sai ngôn sứ Isaia loan báo một niềm hy vọng lớn lao: Thiên Chúa sẽ đến cứu dân Người; Ngài sẽ làm cho bàn tay rời rã nên mạnh mẽ, cho đầu gối mỏi mòn được vững vàng, cho người mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người què nhảy nhót như nai. Đau khổ và nước mắt sẽ không còn là tiếng nói cuối cùng.

Tin Mừng cho biết, giữa cảnh dân Do Thái sống dưới ách thống trị của đế quốc Rôma, Gioan Tẩy Giả xuất hiện như người thắp lên niềm hy vọng. Ông loan báo một Đấng cao trọng đang ở giữa dân Người. Gioan khiêm tốn xác nhận: ông chỉ làm phép rửa bằng nước, còn Đấng đến sau ông sẽ làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần; ông chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, còn Đức Giêsu mới là Ánh Sáng thật.

3. Muốn vui thật và hy vọng thật, phải hoán cải thật

Thế nhưng, niềm vui và hy vọng ấy không tự nhiên mà có. Để đón Chúa đến, con người cần chuẩn bị tâm hồn. Đó chính là lời kêu gọi sám hối và canh tân của các ngôn sứ.

Gương Gioan Tẩy Giả mời gọi chúng ta sống ba thái độ căn bản:

- Sống khó nghèo: Gioan không tìm tiện nghi hay hưởng thụ, nhưng chọn đời sống giản dị, để tâm hồn được tự do và thanh thoát.

- Can đảm làm chứng cho chân lý: Gioan không thỏa hiệp với sự dữ, dám nói sự thật dù phải trả giá bằng mạng sống.

- Khiêm tốn sống thật về mình: Gioan không nhận vinh quang về mình, nhưng chấp nhận làm người dọn đường để Đức Kitô được lớn lên.

Kính thưa cộng đoàn,

Niềm vui Kitô giáo không giống niềm vui thắng thua của một trận bóng bùng lên rồi chóng tắt. Niềm vui của Chúa là niềm vui sâu xa, được sinh ra từ một con tim biết hoán cải và tín thác.

Ước gì trong Chúa nhật Gaudete này, mỗi chúng ta biết mở lòng để Chúa đến “cứu” những góc tối trong cuộc đời mình, biết loại bỏ kiêu căng, giả dối và ích kỷ, để niềm vui của chúng ta là niềm vui bền vững, và hy vọng của chúng ta là niềm hy vọng không bao giờ làm thất vọng. Amen.


Suy niệm 3: HÃY VỮNG TÂM-CHÚA ĐANG ĐẾN

Có một cậu bé được mẹ hứa:

- “Chiều nay mẹ sẽ mua cho con một cây kem.”

Cả buổi chiều, cậu bé cứ đứng ngóng ngoài cửa. Mỗi lần nghe tiếng xe chạy qua là lại hỏi:

- “Mẹ về chưa?”

Chờ mãi, chờ hoài, cậu bắt đầu sốt ruột, rồi phụng phịu:

- “Chắc mẹ quên rồi!”

Nhưng khi trời vừa sẩm tối, mẹ về thật, không chỉ có kem, mà còn thêm bánh và quà. Cậu bé vừa mừng vừa xấu hổ vì đã vội nghi ngờ.

Câu chuyện đơn sơ ấy cũng là câu chuyện của chúng ta trong đời sống đức tin: Chúa đã hứa sẽ đến, nhưng vì đợi lâu, ta dễ nản lòng, dễ nghi ngờ, thậm chí trách Chúa đến chậm.

Chính trong tâm trạng ấy, Lời Chúa hôm nay vang lên như một lời an ủi mạnh mẽ: “Hãy vững tâm, đừng sợ! Này Thiên Chúa của anh em đang đến.”

Đó không chỉ là lời dành cho dân Chúa xưa kia, mà còn cho chúng ta hôm nay.

1. Khi người công chính cũng có lúc hoang mang

Tin Mừng cho thấy một hình ảnh rất nhân bản: Gioan Tẩy Giả-vị ngôn sứ mạnh mẽ, không sợ vua chúa, giờ đây lại đang băn khoăn trong ngục tù. Ông sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” Đó không phải là câu hỏi của kẻ mất đức tin, mà là tiếng kêu của một con người đang chịu đau khổ.

Khi bị giam cầm, khi sứ mạng xem ra thất bại, khi Thiên Chúa dường như im lặng, ngay cả người công chính cũng có lúc hoang mang.

Câu hỏi của Gioan cũng là câu hỏi của chúng ta:

- Khi cầu nguyện mà chưa thấy lời đáp,

- Khi sống ngay lành mà vẫn gặp thử thách,

- Khi chờ đợi mà Chúa dường như đến quá chậm.

2. Dấu chỉ của Đấng Mêsia: chữa lành và hồi sinh

Đức Giêsu không trả lời bằng lý thuyết, nhưng bằng những dấu chỉ rất cụ thể: “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người phong hủi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, người nghèo được loan báo Tin Mừng.” Đó chính là lời ứng nghiệm ngôn sứ Isaia:“Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, kẻ què sẽ nhảy nhót như nai.”

Thiên Chúa đến không để phô trương quyền lực, nhưng để chữa lành, phục hồi, nâng dậy và ban hy vọng. Những phép lạ ấy không chỉ là chuyện thể lý, mà còn nói đến sự chữa lành nội tâm:

- người mù vì ích kỷ được thấy bằng ánh sáng yêu thương,

- người què vì tội lỗi được đứng lên,

- người nghèo, người bé mọn được Tin Mừng nâng đỡ.

3. Kiên nhẫn-con đường của người có đức tin

Thánh Giacôbê nhắc nhở chúng ta: “Anh em hãy kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm.” Ngài dùng hình ảnh rất đời thường: người nông dân gieo hạt-chờ mưa-đợi mùa gặt.

Không ai gieo hôm nay mà đòi gặt ngày mai. Cũng vậy:

- Đức tin cần thời gian,

- Hy vọng cần kiên nhẫn,

- Ơn cứu độ đến theo thời điểm của Thiên Chúa, chứ không theo sự nôn nóng của con người.

Mùa Vọng dạy chúng ta không chỉ biết chờ, mà là chờ trong tin tưởng, chờ trong trung thành, chờ bằng những việc yêu thương cụ thể.

4. “Phúc thay ai không vấp ngã vì Thầy”

Đức Giêsu kết thúc bằng một lời vừa an ủi vừa mời gọi: “Phúc thay ai không vấp ngã vì Thầy.”  Phúc cho ai:

- không bỏ cuộc khi Chúa đến chậm,

- không mất niềm tin khi thập giá xuất hiện,

- không thất vọng khi đường Chúa khác với mong đợi của mình.

Và Đức Giêsu khẳng định: “Trong số phàm nhân, chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả.”

Thiên Chúa không đòi chúng ta phải hoàn hảo, Ngài chỉ mời gọi chúng ta trung thành và vững tâm.

Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta:

- Vững tâm khi thử thách đến,

- Mở mắt đức tin để nhận ra những dấu chỉ Chúa đang âm thầm hành động,

- Kiên nhẫn chờ đợi trong hy vọng và yêu thương.

Giữa những hoang mang của cuộc đời, xin cho chúng ta luôn nghe vang vọng lời ngôn sứ: “Hãy vững tâm, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đang đến.” Amen.


Suy niệm 4: HÃY VỮNG TÂM, CHÚA ĐANG ĐẾN

- Có một bà cụ trong xóm đạo, tuổi đã cao, tai đã nặng. 

Sáng nào bà cũng chống gậy ra đầu ngõ, và lặng lẽ ngồi chờ.

- Người hàng xóm thấy vậy liền hỏi: “Bà ra đây chờ ai vậy?”

- Bà cụ mỉm cười hiền hậu đáp: “Tôi chờ con tôi đi làm về.”

- Người ấy ngạc nhiên: “Giờ này là buổi sáng , nó đang đi làm mà, sao về được?”

- Bà cụ chậm rãi đáp: “Tôi biết nó chưa về đâu, nhưng ngồi chờ thì tôi thấy ấm lòng hơn.”

Thưa cộng đoàn, bà cụ không nhầm giờ, không sốt ruột, cũng không bỏ về. Bà chờ vì tình yêu, vì bà tin chắc rằng con mình sẽ trở về.

Lời Chúa hôm nay cũng muốn nói với chúng ta như thế.

- Ngôn sứ Isaia trong bài đọc 1, đã cất tiếng an ủi dân Chúa khi họ đang mệt mỏi trong cảnh bị lưu đày, tưởng chừng mất hết hy vọng là: “Hãy vững tâm, đừng sợ.” Ngôn sứ không phủ nhận khó khăn, nhưng cho thấy Thiên Chúa đang đến để đổi thay tất cả: sa mạc sẽ nở hoa, người mù được thấy, người què đi được, người đau khổ được vui mừng.

Lời ấy thật gần gũi với chúng ta những người cao tuổi: khi sức khỏe ta bị giảm sút, khi bệnh tật ghé thăm thường xuyên, khi lòng mình dễ buồn phiền, dễ lo âu... Nhưng ta hãy tin rằng bất cứ lúc nào, Thiên Chúa cũng nhớ đến chúng ta. Người luôn đến để nâng đỡ và chữa lành tâm hồn chúng ta. Nên ta hãy đặt hy vọng kiên vững nơi Người.

- Thánh Giacôbê trong bài đọc 2, nhắc nhở chúng ta rằng: “Anh em hãy kiên nhẫn, như người nông dân chờ mùa gặt.” Người nông dân gieo hạt rồi phải chờ mưa đợi nắng, không thể đốt giai đoạn, thúc ép cây lớn nhanh hơn được.

Cũng vậy, trong đời sống đức tin: có những điều ta phải chờ, có những nỗi đau ta phải chịu, có những lời cầu nguyện của ta chưa được Chúa nhậm lời ngay... Nhưng Lời Chúa khẳng định rằng: Chúa đã gần đến. Vì thế, sự chờ đợi của chúng ta sẽ không vô ích.

- Tin Mừng hôn nay cho biết: Mặc dù Thhánh Gioan Tẩy Giả là người công chính, nhưng có lúc ông cũng băn khoăn. Từ trong ngục tù, ông sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Thầy có thật là Đấng phải đến không?” Chúa Giêsu không trả lời bằng lý thuyết, Ngài chỉ kể lại những việc Ngài đang làm cho họ nghe: “Người mù thấy được, người què đi được, người nghèo được nghe Tin Mừng.” Nghĩa là: Ở đâu có yêu thương, ở đó có Thiên Chúa. Ở đâu có chữa lành, ở đó Chúa đang hiện diện.

Và sau khi môn đệ Gioan đi khỏi, Chúa Giêsu liền lên tiếng ca ngợi Gioan Tẩy Giả hết lời trước mặt dân chúng. Điều này cho thấy: Chúa hiểu được tâm trạng của Gioan và sự yếu đuối của con người. Ngài rất trân quý đời sống cô tịnh, hy sinh khổ chế cũng như sự cương trực can đảm của Gioan. Vì bảo vệ sự thật và công lý Gioan sẵn sàng hy sinh chết cho sứ mạng của mình , chứ không giống như cây sậy phất phơ trước gió nhu nhược, uốn mình theo dư luận và áp lực của thế quyền. 

Mùa Vọng không phải chỉ ngồi đó để đếm xem bao giờ đến lễ Giáng Sinh, mà là ngồi xuống để mở lòng đón chờ Chúa đến bằng cả tấm lòng yêu mến và tin tưởng, như bà cụ ngồi chờ đợi đứa con ở đầu ngõ. Chờ nhưng không than trách, không buông xuôi, mà giữ lòng ấm áp vì tin rằng Chúa đã đến, đang đến và sẽ đến.

Ông bà và anh chị em thân mến, những lời cầu nguyện âm thầm của ông bà rất cao đẹp trước mặt Chúa. Sự kiên nhẫn và trung thành của ông bà là kho tàng quý giá cho Giáo Hội.

Chúa Nhật Hồng hôm nay, mời gọi chúng ta vui mừng lên trong hy vọng. Xin cho mỗi người chúng ta luôn: vững tâm khi mệt mỏi, kiên nhẫn khi chờ đợi, tin tưởng khi yếu đuối. Để mỗi ngày sống, chúng ta đều có thể thưa với Chúa: “Con kiên nhẫn chờ Chúa, vì chờ Chúa thì lòng con mới cảm thấy bình an và ấm áp hơn.” Amen.


 Thứ hai: Mt 21, 23-27

Trong cuộc sống ngày nay, việc nhận ra được chân lý đã là khó, nói chi sống theo chân lý quả là không dễ chút nào. Xin Chúa cho chúng ta có được đôi tai sâu lắng như Đức Maria, để chúng ta cũng có thể nhận ra lời chân lý từ Chúa. Và xin cho chúng ta có được sức mạnh nội tâm như Đức Maria, để can đảm sống theo lời chân lý của Chúa dạy.

Khi thấy đời sống độc thân-khiến tịnh của các linh mục, anh em chính quyền thường hay thắc mắc và đặt câu hỏi: Làm sao các vị ấy có thể sống khiết tịnh được?

Nếu là người có thiện chí, thì lời giải thích của ta sẽ làm cho họ hiểu và dễ chấp nhận. Ngược lại, nếu họ hỏi để đã kích, bôi nhọ, chế nhạo thì dù cho ta giải thích thế nào đi nữa họ cũng không tin.

Sau khi Chúa đánh đuổi những người buôn bán và đổi tiền ra khỏi đền thờ. Các Thượng Tế, Kinh Sư và Đầu Mục cảm thấy khó chịu nên họ muốn nhổ bỏ "cái gai Giêsu" ra khỏi mắt họ. Thế là họ họp lại với nhau, bàn luận cách thế nhằm hạ bệ Ngài.

Sau cuộc hội thảo, họ thống nhất đưa ra hai câu hỏi để bẫy Chúa Giêsu vướng vào khung luật tử hình, đó là:

1. “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?

2. “Ai đã cho ông quyền đó để ông làm?”

Hai câu hỏi trên không phải vì họ thiện chí muốn tìm hiểu sự thật, nhưng là vì họ muốn gài bẫy để hạ bệ và tiêu diệt Đức Giêsu. Điều này không chỉ xảy ra một lần trong đời Chúa Giêsu mà ít nhất là ba lần.

Trước những câu hỏi nhằm tìm cách gài bẫy như thế này, Chúa Giêsu không bao giờ trả lời trực tiếp? Bởi nếu trả lời trực tiếp quyền ấy là do từ trời là sẽ phạm vào khung luật cao nhất thời bấy giờ; còn nếu trả lời không biết, thì sẽ đánh mất niềm tin của dân chúng. Đàng nào cũng nguy!

Nhưng “võ quít dày có móng tay nhọn”. Thay vì trả lời trực tiếp, Chúa đảo ngược tình thế nhằm đưa họ về chính cõi lòng, để tự vấn lương tâm bằng cách đặt câu hỏi ngược lại: “Tôi xin hỏi các ông một điều, nếu các ông trả lời đúng thì tôi sẽ nói cho các ông biết, tôi lấy quyền ai mà làm việc đó. Vậy phép rửa của ông Gioan bởi Thiên Chúa hay bởi loài người?.”

Nếu họ trả lời phép rửa của Gioan bởi trời, thì tại sao không tin Chúa? vì chính Gioan làm chứng và loan báo về Đấng Cứu Thế là do Thiên Chúa sai đến nên có uy quyền Thiên Chúa. Còn nếu họ trả lời là do bởi người ta, thì sẽ gặp phải phản ứng mạnh của dân chúng, bởi họ tin ông Gioan là ngôn sứ từ trời đến nhằm dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Đàng nào cũng không được, nên họ chọn giải pháp an toàn nhất là nói: “chúng tôi không biết” cho xong chuyện. Dù họ biết rõ, nhưng lại phải dối lòng!

Xin Chúa cho chúng ta luôn biết can đảm sống và làm chứng cho chân lý qua việc tích cực dấn thân cho những giá trị của Tin mừng tình thương với niềm tin tưởng và phó thác vào quyền năng của Chúa. Amen.

 

Thứ ba: Mt 21, 28-32

Có thể nói con đường xa nhất vẫn là con đường từ miệng đến tay. Đúng vậy, để biến lời nói thành việc làm cụ thể quả là một khoảng cách xa vời. Đó cũng là lời Chúa nhắc nhở chúng ta qua phần phụng vụ lời Chúa hôm nay. Xin cho chúng ta biết nói ít làm nhiều và biết biến những lời tuyên xưng ngoài miệng trở thành những việc làm cụ thể trong cuộc sống đức tin mình.

Những câu đố vui:

1. Làm thế nào để phân biệt người Việt Nam và người nước ngoài?

- Thưa cần phải dựa vào 3 yếu tố sau đây: 1 là đi chậm; 2 là ăn nhanh; 3 là đái công khai.

2. Làm sao phân biệt được đàn ông và đàn bà Việt Nam?

- Thưa dựa vào 2 yếu tố: Đàn ông tắm nhưng không thay quần áo; còn đàn bà thì thay quần áo nhưng ít khi tắm.

3. Để phân biệt được đâu là người Việt, người Trung Quốc, người Nhật và người Mỹ, người ta dựa vào hai yếu tố nào?

- Thưa đó là “Nói” và “Làm”; Người Mỹ: nói là làm; Người Trung Quốc: làm mới nói; Người Nhật: nói trước làm sau; Còn người Việt Nam: nói một đàng làm một ngã!

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho biết tư tưởng của TC khác xa với tư tưởng con người. Đúng như lời tiên tri Isaia đã nói: “Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng Ta cũng vượt trên tư tưởng các ngươi thế ấy” (Is 55, 9).

Khuynh hướng tự nhiên của con người thì trọng lời nói hơn việc làm; lý thuyết thích hơn thực hành. Các thượng tế và kỳ lão luôn tự hào cho mình là người công chính và có quyền giảng dạy, buộc dân chúng phải làm theo. Chúa Giêsu không bác bỏ điều đó, nên có lần Người đã kêu mời dân chúng “hãy làm theo những gì họ dạy”. Tuy nhiên bên cạnh đó, Chúa cũng cảnh báo dân chúng “đừng làm theo những việc họ làm,” bởi "họ dạy một đàng lại làm một ngã." Nói thì đúng, làm thì sai. Dạy sống đạo đức, nhưng họ lại cư xử bất nhân với người khác. Nguy hiểm nhất là “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy.” (Mt 23, 4).

Với câu chuyện về hai người con. Người con thứ nhất tuy ban đầu nói “không” trước lời mời gọi vào làm vườn nho của cha, nhưng sau đó anh ta lại hối hận và đã “đi làm” theo ý muốn của người cha. Còn người con thứ hai thì ngoan ngoãn nói lời “xin vâng” trước lời kêu gọi vào làm vườn nho của người cha, nhưng thực tế thì sau đó anh ta lại “không đi làm” theo như những gì anh ta nói.

Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng: vườn nho nước trời chỉ dành cho những ai biết làm theo thánh ý Thiên Chúa, chứ không dành ban tặng cho người chỉ biết vâng vâng, dạ dạ: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa! " là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7, 21).

 Xin cho chúng ta những ngày cận kề lễ giáng sinh này, không chỉ biết khiêm tốn mở lòng lắng nghe lời Chúa mà còn biết nổ lực thực hành lời Chúa dạy bằng những hành động cụ thể qua việc sám hối xưng thú tội lỗi đón nhận ơn tha thứ của Chúa và tích cực gia tăng những việc làm bác ái đem niềm vui đến với những người trong gia đình mình và trong khu xóm họ đạo.

 

Thứ tư: (17/12): Mt 1, 1-17

Theo lịch phụng vụ, hôm nay chúng ta bước vào giai đoạn thứ hai của mùa vọng. Giai đoạn này kéo dài một tuần lễ, từ ngày 17 đến 24 tháng 12, nhằm chuẩn bị gần để mừng đại lễ Giáng Sinh, tưởng niệm biến cố Chúa Kitô đã ngự đến trần gian lần thứ nhất trong lịch sử nhân loại.

Khởi đầu cho gia đoạn này, GH cho chúng ta nghe lại bảng gia phả của Chúa Giêsu Kitô do thánh sử Matthêu trình bày. Có lẽ mỗi khi đọc hay nghe bảng gia phả này, chúng ta cảm thấy không có gì lý thú. Nhưng nếu đọc kỹ với tâm tình cầu nguyện, chúng ta cũng cảm nhận nhiều điều Chúa muốn nói với ta. Rất riêng, tôi cảm nhận 3 điều:

1. Trước hết bảng gia phả này muốn minh chứng Đức Giêsu là Đấng Messia và là Người Con của lời hứa.

- Theo Tin mừng của thánh Luca thì gia phả của Chúa Giêsu được tính từ thời thánh Giuse lên đến thời tổ tông loài người là ông Ađam. Còn bảng gia phả của thánh Matthêu lại bắt nguồn từ tổ phụ Abraham trở xuống. Nhưng lại nhấn mạnh đến tước vị của Đức Giêsu là Chúa Giêsu Kitô là con vua David và con của Abraham.

- Rồi đến con số 14. Matthêu chia bảng gia phả thành 3 phần bằng nhau, với 3 thời kỳ. Mỗi thời kỳ gồm có 14 đời: từ Abraham đến vua David, 14 đời. Từ vua David đến thời lưu đày Babylon, 14 đời. Từ thời lưu đày Babylon đến Chúa Giêsu Giáng sinh, 14 đời. Có thể cách chia như vậy không chính xác lắm, nhưng Matthêu muốn nhấn mạnh đến con số 14 là để minh chứng nguồn gốc xuất thân của Đức Giêsu gắn liền với dòng tộc vua David. Bởi theo tiếng Hy Bá Lai thì người ta chỉ viết các phụ âm thôi, còn người đọc phải thêm các nguyên âm vào sau phụ âm theo ý nghĩa của mạch văn. Mà tên David được viết là D+V+D. Nếu tính theo giá trị con số thì D=4; V=6; D=4, như vậy tổng giá trị của các phụ âm này là 4+6+4= 14.

* Những điều trên, Matthêu ngầm minh chứng cho người Do Thái hiểu rằng: Đức Giêsu chính là đấng Messia, bởi được sinh ra trong dòng tộc vua David; đồng thời Ngài cũng là con của  Abraham, nghĩa là Người Con của lời Chúa hứa.

2. Tiếp đến bảng gia phả nhấn mạnh đến tình thương và ơn cứu độ phổ quát của TC.

Trong bảng gia phả, Matthêu nêu tên rất nhiều hạng người. Trong đó có những người tốt lành thánh thiện nhưng cũng không ít những người xấu xa, tội lỗi. Đặc biệt trong đó có nêu tên 4 người phụ nữ. Mà những người phụ nữ này đều có vấn đề.

- Nàng Thamar: là con dâu của gia đình Giu-đa. Nhưng sau khi chồng nàng chết, gia đình Giuđa lại không cưới nàng cho người con út theo tập tục Do Thái, nên nàng đã giả dạng làm kỹ nữ mà ăn ở với ba chồng là ông Giuda để sinh con nối dõi tông đường (St 38).

- Nàng Rahab: là kỹ nữ người Giêricô. Nàng có công trong việc che giấu những người thám thính thời ông Giô-sê. (x. Gs 6,22-25)

- Nàng Rút: là thiếu nữ dân ngoại, người Mô-áp. Nhưng vì lòng hiếu thảo với mẹ chồng đã về chung sống tại Bêt-lem và kết hôn với Booz là ông cố nội của vua Đavit.

- Nàng Bat-sa-ba vợ của Uria: Nhưng bà đã ngoại tình với vua Đavit và đã sinh ra vua Salomon (x. 2Sm 11, 2-12,25).

Cho dẫu dòng tộc ấy có nhiều bất toàn, nhưng Đức Giêsu đã sẵn sàng đi vào dòng tộc đó. Người chấp nhận gắn kết đời mình với những con người tội lỗi và ngoại giáo. Tất cả nhằm minh chứng cho một tình yêu lớn lao và ơn cứu độ phổ quát mà TC dành cho hết mọi người.

3. Cuối cùng bảng gia phả xác quyết Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế.

Ngay từ đầu nếu để ý, ta nhận thấy bảng gia phả trình bày theo thứ tự ông này sinh ra ông kia. Nhưng khi đến Chúa Giêsu thì Matthêu lại không trình bày theo nguyên tắc ấy mà Matthêu lại cho biết Đức Giêsu được sinh ra bởi một người nữ tên là Maria, do quyền năng của Thánh Thần. Điều này minh chứng cho biết Đức Giêsu được sinh ra không bởi người nam, nhưng do quyền năng của Thánh Thần. Nên Ngài thuộc dòng dõi thần linh, là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế mà TC đã hứa ban cho nhân loại ngay sau khi nguyên tổ phạm tội.

Kế hoạch của TC thật vĩ đại, khó hiểu với đầu óc hạn hẹp của con người. Từ một dân tộc bất trung, phát xuất từ những con người nhiều tội lỗi, nhưng TC lại chấp nhận đi vào dòng lịch sử và dòng đời có nhiều bất toàn ấy, để hoàn thành chương trình cứu độ theo lời hứa của Người một cách kì diệu đến ngỡ ngàng!

Trước kế hoạch kì diệu của TC, xin cho chúng ta biết khiêm tốn mở lòng  đón nhận mầu nhiệm ơn cứu độ của Người bằng tâm tình cảm mến tri ân. Nhất là biết sống bao dung, tha thứ và hòa hợp với hết mọi người, bởi ý thức rằng Chúa đã chấp nhận đi vào cuộc đời ta là những kẻ tội lỗi, để Người yêu thương tha thứ và cứu độ ta.

 

Suy niệm 2:

Khi đọc và suy niệm về bảng gia phả của Đức Giêsu, chúng ta không khỏi ngạc nhiên, bởi vì: Đức Giêsu là Thiên Chúa thánh thiện, tốt lành vô cùng. Nhưng vì quá yêu thương nhân loại lỗi lầm nên Chúa đã chấp nhận xuống thế làm người và đã sinh ra trong một dòng tộc bao gồm đủ mọi thành phần. Trong đó có người tốt, nhưng đa phần lại là những người xấu và tội lỗi như: tổ phụ Giacóp đã giành quyền trưởng nam của anh mình;  Đavít vị vua tốt lành nhưng lại cướp vợ Uriagia; Salômôn vị vua khôn ngoan nhưng lại sa đọa; bà Rút là dâu hiền nhưng lại là dân ngoại; Tama là gái điếm; Bathsheba vợ của ông Urigia nhưng lại chấp nhận cho vua Đavít cưỡng đoạt … Qua đó cho ta hiểu rằng: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5, 20). Chúa chấp nhận đi vào dòng lịch sử nhân loại với đầy những khiếm khuyết để chia sẻ, đồng cảm nhằm cứu độ nhân loại tội lỗi. Đó quả là ân sủng lớn lao mà Thiên Chúa dành cho con người.

Mỗi người chúng ta khi sinh ra cũng được Thiên Chúa sắp xếp trong một đất nước, một dân tộc và một gia cảnh khác nhau. Nơi ấy người tốt và người xấu cùng sống chung với nhau. Là những Kitô hữu, Chúa còn đặt chúng ta vào trong môi trường, hoàn cảnh gia đình và Họ đạo, xã hội… khác nhau. Môi trường, hoàn cảnh ấy bao giờ cũng có người tốt kẻ xấu; thánh thiện và tội lỗi; công chính và bất lương... Môi trường và hoàn cảnh mà chúng ta đang sống có khi thuận lợi, nhưng lắm khi cũng gặp phải rất nhiều khó khăn, bất lợi. Dẫu vậy, chúng ta phải luôn tin rằng: “Ơn Ta đủ cho con” (2Cr 12,9).

Xin Chúa cho chúng ta biết vui lòng đón nhận tất cả mọi người, mọi nghịch cảnh xảy ra nơi gia đình cũng như xã hội chúng ta đang sống, mà không kêu ca, phản kháng. Trái lại luôn biết đặt tin tưởng phó thác vào đường lối nhiệm mầu của Thiên Chúa để nỗ lực thi hành tốt ơn gọi và bổn phận của mình theo thánh ý Chúa, Ngõ hầu mang niềm vui Tin mừng của Chúa đến cho mọi người.

 

Thứ năm (18/12): Mt 1,18-24

Thánh Giuse được GH gọi là thánh cả, bởi nơi ngài có rất nhiều nhân đức cao trọng. Nhưng nếu đặt biến cố thiên thần Gabriel truyền tin cho thánh Giuse trong bố cảnh mùa vọng, thì lời Chúa hôm nay như mời gọi chúng ta hãy học nơi thánh Giuse mẫu gương của cầu nguyện và thi hành đức bác ái, nhằm chuẩn bị tâm hồn xứng hợp để đón mừng mầu nhiệm giáng sinh gần kề.

1. Thánh Giuse mẫu gương của cầu nguyện. 

Để nhận ra thánh ý Chúa, điều kiện tiên quyết phải là gắn bó mật thiết với Chúa bằng đời sống cầu nguyện. Nói như thế, thì thánh Giuse chính là mẫu gương của cầu nguyện. Chắc hẳn cả đời thánh Giuse phải là lời cầu nguyện liên lỉ, nhờ đó mà ngài dễ dàng nhận ra thánh ý Chúa trong mọi biến cố của cuộc đời.

Tin mừng cho biết ít nhất có 3 lần thánh Giuse được Thiên Thần Chúa báo mộng:

- Lần thứ nhất: Tin mừng cho biết, trước khi về chung sống với Đức Maria, thì Đức Maria đã mang thai. Nhận ra điều đó, thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng nhờ âm thầm gắn bó với Chúa bằng đời sống cầu nguyện mà thánh Giuse đã nhạy bén nhận ra Đức Mẹ chịu thai là bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Còn Hài Nhi mà Đức Maria đang mang là Đấng Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Vâng theo lệnh truyền của Chúa, ngay lập tức thánh Giuse đã đón nhận Maria về nhà làm bạn mình.

Lần thứ hai: Vì lo sợ mất ngai vàng nên nhà vua Hêrôđê đã ra lệnh tìm cách giết Hài Nhi. Nhận biết điều đó qua lời mộng báo của Thiên Thần, thánh Giuse đã nhanh chóng đưa Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cập để lánh nạn.

Lần thứ ba: Sau khi vua Hêrôđê băng hà, lập tức thánh Giuse lại được thiên thần Chúa báo mộng lần nữa là đem Hài Nhi trở về lại quê hương. Thánh nhân đã vâng phục thánh ý Chúa, đưa gia đình về Palestin và sống ẩn dật tại làng quê Nagiarét.

Như thế thì trong bất cứ hoàn cảnh nào, thánh Giuse cũng đều nhạy bén nhận ra thánh ý của Chúa và mau mắn thi hành. Có được như vậy là vì ngài luôn sống mật thiết với Chúa trong bầu khí của âm thầm cầu nguyện.

2. Thánh Giuse mẫu gương đời sống bác ái.

Biết được Đức Maria mang thai mà tác giả không phải là của mình, thay vì theo phản ứng tự nhiên thánh Giuse chỉ cần đưa Đức Maria ra tố cáo. Chắc chắn Đức Maria sẽ bị ném đá cho đến chết chiếu theo luật Do Thái thời bấy giờ. Nhưng thánh Giuse đã không hành xử như thế. Trái lại, ngài chọn giải pháp âm thầm rút lui bằng cách “định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo”. Cách xử như thế cho thấy thánh Giuse là một con người độ lượng và giàu lòng bác ái.

Hơn thế nữa để chăm sóc Đức Maria không phải là vợ của ngài đúng nghĩa và nuôi dưỡng Chúa Giêsu không phải là con ruột ngài, trong một hoàn cảnh khó nghèo nơi làng quê Nazareth sẽ không dễ dàng chút nào. Cuộc sống ấy đòi hỏi thánh Giuse phải hy sinh rất nhiều. Nếu không có tình bác ái cao thượng, chắc hẳn ngài sẽ không chu toàn tốt được sứ mạng mà Thiên Chúa trao phó.

Mùa vọng sắp kết thúc, đây là thời điểm chúng ta phải chuẩn bị mọi thứ linh tinh bên ngoài để mừng đại lễ Giáng sinh. Là những người kitô hữu, xin cho chúng ta đừng quá mãi mê thế sự mà quên đi chuẩn bị tâm hồn xứng hợp để cho Chúa ngự vào. Cách chuẩn bị xứng hợp nhất trong những ngày này là ta hãy cố gắng chu toàn tốt bổn phận cầu nguyện và nỗ lực sống tình bác ái với nhau, theo mẫu gương của Thánh Giuse.

 

Thứ sáu (19/12): Lc 1, 5-25

Gần đến lễ giáng sinh sẽ có rất nhiều niềm vui bất ngờ đến với ta. Niềm vui khi nhận được những cánh thiệp giáng sinh xinh xinh của những người quen. Niềm vui khi đọc được những dòng tin nhắn chúc mừng giáng sinh thật ý nghĩa của người thân yêu. Niềm vui khi đón nhận được những món quà giá trị do bạn bè gửi tặng. Vui vì được sum hợp bên gia đình với những bữa cơm đầm ấm của ngày lễ…

Tin mừng hôm nay cũng nói đến niềm vui bất ngờ mà TC hứa sẽ tặng ban cho ông bà Giacaria và Elisabeth. Đó là bà "Elisabeth vợ ngươi sẽ hạ sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên trẻ là Gioan”.

Đây quả là một món quà vô cùng lớn lao mà TC thương ban cho ông bà. Cao quý bởi vì quà TC ban tặng không phải là món quà vật chất, nhưng chính là người con mà ông bà luôn hằng mong mỏi đợi chờ. Cao quý vì với qùa tặng này TC sẽ làm tan biến hết mọi nỗi tủi nhục mà hai ông bà đã gánh chịu suốt bao năm dài. “Chúa đã làm cho tôi thế nầy, trong những ngày Người đoái thương, cất nổi khổ nhục tôi khỏi người đời”.

Có lẽ chính vì quá bất ngờ trước hồng ân lớn lao mà TC thương ban, nên đã làm cho ông Giacaria vui mừng đến ngỡ ngàng đến nỗi không thể thốt nên lời! Chỉ có thinh lặng trong cầu nguyện, Giacaria mới có thể cảm nếm được thế nào là mầu nhiệm tình thương cao cả của TC.

Tuy nhiên, để đón nhận được món quà cao quý và tận hưởng niềm vui lớn lao ấy, ông Giacaria và bà Elisabeth đã phải nỗ lực sống đời công chính và âm thầm cầu nguyện trong gần hết cuộc đời.

Muà giáng sinh này chắc mỗi chúng ta cũng có những niềm vui. Nhưng niềm vui lớn nhất vẫn là niềm vui được Thiên Chúa yêu thương nên đã  ban tặng cho ta chính Người Con yêu quý của Người là Hài Nhi Giêsu. Xin cho chúng ta cảm nhận được niềm vui lớn lao đó mà kiên tâm sống đời công chính và kiên trì cầu nguyện để đón nhận được niềm vui ơn cứu độ.

 

Thứ bảy (20/12): Lc 1, 26-38

Tin mừng hôm nay thuật lại biến cố Thiên Thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria, khởi đầu cho chương trình cứu độ đầy yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người. Để thực hiện chương trình cứu độ, Thiên Chúa đã chọn gọi Đức Maria cộng tác trong việc cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế và Đức Maria đã đáp lời bằng hai tiếng “xin vâng”. 

Mỗi khi đọc “kinh kính mừng” là chúng ta nhắc lại lời sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria khi xưa: “kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phước lạ hơn mọi người nữ….” .

Lời truyền tin này là một lời chào chúc quý giá và mang giá trị hết sức cao cả. Bởi lẽ, có ơn phúc nào cao lớn cho bằng ơn phúc được Thiên Chúa ở cùng (chính Chúa là nguồn mọi ơn phúc và Đấng ban ơn phúc. Được Thiên Chúa ở cùng thì có mọi ơn phúc nơi mình rồi). Và có hạnh phúc nào lớn bằng hạnh phúc được Thiên Chúa ưu ái chọn làm Mẹ Thiên Chúa. (Được chọn làm mẹ vua đã là vinh dự và ơn phúc quá lớn rồi huống chi là Mẹ Vua Trời).

Ý thức sứ mạng cao quý ấy trong vui mừng khôn tả vượt trí hiểu, Đức Maria đã bối rối và tự hỏi lời chào ấy có ý nghĩa như thế nào? Nhưng sau khi được Thiên Thần giải thích, Đức Maria biết đó là ý định Thiên Chúa, dù không hiểu hết, nhưng Đức Maria vẫn khiêm tốn ngoan ngoãn vâng nghe.

Có nhiều điều xảy ra trong đời sống vượt ngoài trí hiểu và khả năng chúng ta, chúng ta cảm thấy không thể thực hiện được, nhưng “đối với Thiên Chúa thì mọi chuyện đều có thể”. Từ không, Chúa đã sáng tạo nên vũ trụ vạn vật chỉ bằng lời phán truyền. Từ bùn đất, Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Bằng quyền năng,  Thiên Chúa đã làm cho bà Isave cao niên và son sẻ mang thai và sinh con. Nên việc cưu mang và hạ sinh Đấng Cứu Thế vẫn đồng trinh đối với Đức Maria là chuyện bình thường. Do đó, nếu ta biết tin tưởng và khiêm tốn để Chúa hành động nơi cuộc đời của ta như Đức Maria, thì Chúa cũng sẽ làm những điều kì diệu trên đời ta.

Tuy dẫu Thiên Chúa quyền năng làm được mọi sự. Nhưng Thiên Chúa lại yêu thích con người cộng tác với Chúa.

Để chọn gọi dân riêng, Chúa đã mời gọi tổ phụ Abraham cộng tác, và Abraham đã vâng lời bỏ xứ sở ra đi theo ý định Thiên Chúa. Thế là một dân riêng của Chúa đã hình thành.

Để cứu dân tộc Israel ra khỏi kiếp nô lệ bên Ai cập, Thiên Chúa đã mời gọi Môsê cộng tác, dù sợ hãi về sự kém cỏi của mình, Môsê vẫn vâng phục  ý muốn của Chúa. Thế là cuộc giải phóng đã hoàn tất.

Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa chọn Đức Maria, một người thiếu nữ bình thường, nghèo khó làm mẹ Đấng Cứu Thế và Mẹ đã ngoan ngoãn tin tưởng vâng nghe. Thế là chương trình cứu độ từ ngàn đời của Thiên Chúa được thực hiện.

Để cứu độ mỗi chúng ta, Chúa cũng mời gọi chúng ta hợp tác với Chúa. Như thánh Augustinô đã nói: “Chúa dựng nên con Chúa không cần con, nhưng để cứ độ con Chúa cần con cộng tác”. 

Xin cho chúng ta biết noi gương Đức Maria biết  khiêm tốn và ngoan ngoãn vâng theo thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh mà tích cực cộng tác với ơn cứu độ của Chúa để cứu chính mình và qua ta ơn cứu độ đến được với tha nhân.

Thứ Tư, 10 tháng 12, 2025

 HÀNH TRÌNH CUỘC ĐỜI-ƠN GỌI-SỨ VỤ (1971–2028)

“ĐỂ LẠI BÌNH AN”

LỜI NÓI ĐẦU

Tôi viết những trang hồi ký này như một lời tạ ơn dâng lên Thiên Chúa nhân dịp kỷ niệm 25 năm linh mục (2003–2028). Nhìn lại hành trình đời mình – một quãng đường dài chất đầy gian truân, bất an nhưng cũng chan chứa bao ân tình và nâng đỡ – tôi càng xác tín rằng Chúa không nắn đúc tôi bằng những thành công rực rỡ, nhưng bằng những thử thách, những giới hạn và cả những giọt nước mắt.

Có lẽ cũng vì cuộc đời tôi đi qua nhiều biến cố bất an nên khi lãnh nhận thánh chức linh mục, tôi đã chọn cho mình phương châm sống: “...ĐỂ LẠI BÌNH AN...” (Ga 14,27).

Tôi tin rằng chính Chúa đã dùng những tháng năm nghèo khó, bấp bênh và đầy thử thách để chuẩn bị tôi trở thành người gieo rắc bình an cho những ai đang sống trong bất an như chính tôi đã từng trải qua.

Quyển sách nhỏ này không nhằm kể công, nhưng là một lời chứng, một lời tri ân, và cũng là một lời khích lệ gửi đến những ai đang mệt mỏi trên hành trình ơn gọi hoặc giữa những xoay vần của cuộc đời. 

CHƯƠNG I

GỐC RỄ GIA ĐÌNH VÀ TIẾNG GỌI ÂM THẦM (1971–1991)

1. Miền quê khởi đầu-nơi gieo mầm đức tin và nhân bản

Tôi sinh ra và lớn lên giữa một miền quê nghèo, nơi dòng đời bình lặng trôi theo nhịp sông nước Nam Bộ. Cuộc sống lam lũ và thiếu thốn, nhưng trong mỗi gia đình luôn cháy lên một ngọn lửa âm ỉ: tình thương và sự chân thành.

Gia đình tôi cũng thế. Không dư dả tiền bạc, nhưng giàu lòng đạo đức. Ba mẹ tôi không học cao, nhưng là những người “khôn ngoan của trái tim”, dạy con bằng gương sáng và đời sống tin yêu Chúa.

Những buổi tối quanh ngọn đèn dầu, mẹ lần chuỗi Mân Côi; tiếng hạt chuỗi rơi đều như tiếng Chúa gõ cửa tâm hồn trẻ thơ. Những sáng Chúa nhật, ba gọi tôi dậy sớm đi lễ; khi đôi dép nhựa còn ướt sương, nhưng lòng tôi thì háo hức lạ thường.

Tôi không biết rằng chính những điều bình dị ấy đã âm thầm gieo vào lòng tôi hạt giống ơn gọi.

2. Ước mơ đầu đời-trái tim muốn chữa lành người nghèo

Ngay từ nhỏ, tôi đã có một ước mơ giản dị: được giúp đỡ người nghèo khổ.
Sau khi tốt nghiệp phổ thông, ước mơ ấy rõ ràng hơn: thi vào ngành Y.

Tôi nghĩ đơn giản: “Học Y để chữa bệnh cho người nghèo, nhất là cho ba mẹ và những người thường đau yếu vùng quê không đủ tiền lên bệnh viện lớn.”

Tôi ôn thi ngày đêm với hy vọng thực hiện giấc mơ ấy. Nhưng rồi thực tế phũ phàng hiện ra: gia đình không đủ tiền cho tôi học đại học. Ba mẹ nói với tôi điều ấy, và tim tôi như lặng xuống.

Tôi không ngờ rằng, chính khi cánh cửa Y khoa đóng lại, Chúa lại đang âm thầm mở ra cánh cửa ơn gọi.

3. Tín hiệu đầu tiên-lời mời gọi từ những người đạo đức

Từ lâu, ba mẹ và nhiều người trong họ đạo đã nhìn thấy nơi tôi điều mà chính tôi chưa nhận ra: con đường tu trì. Họ khuyên tôi nghĩ đến ơn gọi linh mục. Nhưng lúc ấy tôi không muốn. Tôi còn bám víu vào giấc mơ đại học, yêu thích ngành Y, và cũng nghĩ mình quá tầm thường để đi tu. “Tôi mà đi tu sao?”- tôi từng tự hỏi như thế. Nhưng ơn gọi luôn đi vào đời ta một cách âm thầm, qua những người rất đỗi bình thường.

4. Một biến cố nhỏ-nhưng đổi hướng cả cuộc đời

Trong thời gian tự ôn thi ở nhà, một ngày kia Đức cha Phêrô Lê Tấn Lợi (lúc đó là sinh viên năm thứ nhất, ngành hóa, Đại học Cần Thơ) trở về quê và rủ tôi tham dự lớp dự tu đầu tiên của Giáo phận Cần Thơ. Tôi còn do dự. Nhưng mẹ tôi nói rõ ràng:

Một là ở nhà lập gia đình.

- Hai là đi tu.

Gia đình không thể lo nổi chi phí cho con đại học.

Lời của mẹ như một bước ngoặt. Cùng lúc ấy, cha sở Phêrô Nguyễn Thành Chất đang tuyển người đi tu; điều kiện duy nhất: tốt nghiệp lớp 12.

Trong họ đạo lúc ấy, chỉ có tôi và cậu sinh viên Lợi đủ điều kiện. Tôi đứng trước ngã rẽ quan trọng nhất đời mình, và cuối cùng, như một sự an bài, tôi đồng ý vào Nhà xứ Bô-na để sống thử đời tu.

5. Những ngày sống tại nhà xứ-nơi chạm vào trái tim mục tử

Sống cạnh cha sở Chất, một linh mục vui tính, hiền hòa, gần gũi, và thương dân nên tôi cảm mến. Nơi cha, tôi dần thấy đời tu không xa lạ như tưởng tượng. Mỗi ngày tôi được:

- thức dậy với giờ kinh sáng và thánh lễ,

- được cùng với cha đi thăm bà con giáo dân và những người đau yếu

- theo cha lao động trồng mía và làm ruộng,

- được dạy giáo lý cho các em nhỏ.

Tôi thấy nơi cha điều gì đó rất đẹp: một đời linh mục hy sinh phục vụ ân cần.

Nhìn cha, lòng tôi như mềm lại. Và không biết tự khi nào, tôi bắt đầu yêu thích đời mục vụ.

6. Khởi đầu lớp dự tu-bước chân rụt rè nhưng đầy hy vọng

Đầu năm 1991, lớp dự tu Giáo phận Cần Thơ chính thức khai giảng, dưới sự hướng dẫn của cha Carôlô Hồ Bặc Xái. Tôi, một cậu thanh niên quê nghèo, ít trải nghiệm, cảm thấy mọi thứ đều xa lạ và bỡ ngỡ khi được cha đặc trách gửi vào nhà xứ An Hội sống và sinh hoạt cùng với một số anh em đồng hướng. Nhưng tôi tự nhủ: “Nếu Chúa đã mở cửa, mình sẽ cố bước vào.”

7. Nỗ lực học tập-chạy để không thua anh em

Để theo kịp các bạn, tôi phải cố gắng gấp đôi:

- học chương trình dự tu bắt buộc,

- học thêm Anh văn, Pháp văn,

- học đàn, học hát, nhạc lý và vẽ,

- học đánh máy và các kỹ năng mục vụ khác.

Ngày nào tôi cũng như chạy đua. Nhưng chính những tháng ngày ấy đã rèn luyện tôi để sau này phục vụ cộng đoàn cách đa dạng và hiệu quả hơn.

8. Một năm thực tập-bước xuống “cánh đồng mục vụ” đầu tiên

Sau hai năm dự tu, lớp thi vào Đại Chủng viện Thánh Quý. Nhưng mỗi tỉnh chỉ được gửi 5 hồ sơ. Sóc Trăng có nhiều ứng sinh, nên tôi và đa số anh em phải tạm dừng lại.

Theo chương trình dự tu, tôi được cha đặc trách gửi đi thực tập mục vụ tại Giáo xứ Nam Hải. Một chú dự tu trẻ làm được gì?

Tôi chỉ biết:

- sinh hoạt thiếu nhi,

- dạy giáo lý cho trẻ,

- phụ giúp việc nhà xứ,

- học hỏi nơi cha sở cách tiếp cận giáo dân.

Một năm ấy giúp tôi trưởng thành hơn, thương người hơn, và hiểu rõ hơn lời mời gọi phục vụ.

9. Trở lại Cần Thơ-những thử thách rèn luyện nội tâm

Kết thúc năm thực tập, tôi trở lại Cần Thơ tiếp tục học và… tiếp tục chờ.

Ba năm ấy đầy thử thách: có lúc hết tiền, hết gạo, sống bằng mì gói cả tuần; nhưng không thể liên lạc với gia đình, vì bấy giờ chưa có điện thoại; nên phải chờ đến ngày gia đình tiếp tế.

Nhưng những thiếu thốn ấy không làm tôi nản. Trái lại, chúng giúp tôi:

- tiết kiệm hơn,

- chịu khó hơn,

- kiên nhẫn hơn,

- biết phó thác hơn,

- và học cách bình an ngay trong bất an.

Đó chính là hạt giống của phương châm linh mục sau này: “Để Lại Bình An.”

10. Cánh cửa mở ra-chính thức bước vào Đại Chủng viện Thánh Quý

Sau ba năm dự tu và thêm một lần thi, cuối cùng như một món quà Chúa ban, tôi được bề trên phê duyệt vào Đại Chủng viện Thánh Quý. Khoảnh khắc ấy, tôi chỉ biết cúi đầu thầm thưa: “Lạy Chúa, con thuộc về Ngài.” Và đó là điểm khởi đầu cho hành trình dài của đời linh mục, một hành trình mà tôi chỉ có thể tiến bước bằng một lời đơn giản: Tạ ơn Chúa.

CHƯƠNG II

HÀNH TRÌNH ĐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH QUÝ (1995–2002)

1. Cánh cửa Chủng viện mở ra-bắt đầu một hành trình mới

Ngày 14/08/1995, sau ba năm dự tu kiên trì và hai lần thi, tôi nhận được tin được gọi vào Đại Chủng viện Thánh Quý. Đối với tôi, đó thật sự là một “phép lạ của bình an”, món quà Chúa trao sau bao năm chờ đợi trong bấp bênh và thiếu thốn.

Bước chân đầu tiên vào chủng viện, tôi ngỡ ngàng trước một thế giới hoàn toàn mới:

- đời sống thiêng liêng được chăm chút từng ngày, 

- giờ giấc nề nếp, việc học tập bài bản, 

- kỷ luật rõ ràng, 

- cộng đoàn đông anh em đến từ nhiều vùng miền khác nhau. 

Niềm vui lớn, nhưng lòng tôi vẫn thoáng chút lo lắng:

- Liệu tôi có theo kịp anh em?

- Liệu tôi có đủ trí tuệ và nghị lực?

- Liệu tôi có xứng đáng với ơn gọi Chúa trao?

Những câu hỏi ấy không làm tôi nản chí, trái lại, chúng đưa tôi trở về với lời hứa của Chúa Giêsu, điều sau này trở thành phương châm đời linh mục của tôi: “Thầy để lại bình an cho anh em.”

Tôi bước vào hành trình chủng viện với tâm thế của người muốn sống trọn vẹn lời bình an ấy.

2. Những năm triết học-nền móng của lý trí và đức tin

Những năm đầu đời chủng viện gắn với việc học triết học, một thử thách không nhỏ đối với một chủng sinh quê nghèo, kiến thức nền còn hạn chế như tôi. Triết học đòi hỏi tư duy logic, khả năng phân tích, đọc nhiều và suy tư nhiều. Nhiều đêm tôi cố gắng học đến mức mắt cay và đầu óc nặng trĩu.

Nhưng chính nơi triết học, tôi khám phá ra điều quan trọng: đức tin không mù quáng, và lý trí cũng không khô khan. Chúng gặp nhau ở điểm chung: tìm kiếm chân lý và bình an nội tâm.

Trong những lúc mệt mỏi nhất, tôi được quý cha giáo nhắc nhẹ: “học không phải để trở thành ông thầy uyên bác, nhưng để sau này biết nói Lời Chúa cho người khác.” Lời ấy nâng tôi dậy không biết bao lần, giúp tôi trở lại với bình an nơi bàn học.

3. Mái nhà chủng viện-nơi rèn luyện toàn diện con người

3.1. Nhân bản-học làm người trước khi làm linh mục

Chủng viện dạy tôi bài học quan trọng: “Hãy học làm người trước khi làm linh mục.”

Tôi tập sống giờ giấc, chấp hành kỷ luật, tôn trọng anh em, biết lắng nghe, biết đối thoại, biết chấp nhận khác biệt và kiên nhẫn với những điều nhỏ nhặt.

Tôi nhận ra: người thiếu trưởng thành rất dễ gây bất an cho người khác. Vì thế tôi tập sống hiền hòa hơn, bớt nóng nảy, bớt phê phán và biết mỉm cười nhiều hơn. Trong những điều tưởng chừng nhỏ bé ấy, tôi cảm nhận Chúa đang âm thầm đào luyện tôi.

3.2. Thiêng liêng-đặt Chúa làm trung tâm đời sống

Đời sống thiêng liêng trở thành hơi thở hằng ngày của tôi: Thánh Lễ, giờ kinh, nguyện gẫm, chầu Thánh Thể, xét mình mỗi tối, cầu nguyện riêng.

Nhiều buổi sáng quỳ trước Nhà Tạm, tôi chỉ thầm thì: “Lạy Chúa, xin cho con bình an để sống ngày hôm nay.” Và bình an ấy đến nhẹ nhàng, sâu lắng, như dòng nước trong chảy qua tâm hồn.

3.3. Đời sống cộng đoàn-bầu khí rèn luyện con tim

Sống giữa một cộng đoàn đông anh em, tôi nhận ra không ít giới hạn nơi chính mình: đôi lúc nóng nảy, nhạy cảm, đôi khi mặc cảm vì mình nghèo. Nhưng chính đời sống chung lại trở thành môi trường quý giá giúp tôi trưởng thành: học tha thứ, biết tôn trọng người khác, biết sống dịu dàng và kiên nhẫn.

Dưới chân Thánh Giá, tôi cảm nghiệm rõ: Chúa dùng cộng đoàn để mài giũa tâm hồn tôi.

4. Một năm thực tập mục vụ-lần đầu chạm vào đời sống đoàn chiên

Sau hai năm triết học, tôi được sai về họ đạo Nhơn Mỹ (Kế Sách – Sóc Trăng) để thực tập mục vụ. Lần đầu đi thử khiến tôi lo lắng lắm, nhưng bà con hiền hòa và cha sở nhân hậu giúp tôi nhanh chóng hòa nhập.

4.1. Sống với người nghèo-bài học không có trong sách vở

Những ngày mục vụ vùng quê giúp tôi hiểu thực tế đời mục tử: thăm viếng, dạy giáo lý, tập hát, sinh hoạt thiếu nhi, đi lại trên những con đường xa bằng xe đạp hoặc xuồng ghe, thức khuya dậy sớm để lo công việc bổn phận.

Nhiều lúc mệt muốn ngã quỵ. Có khi bị hiểu lầm, có khi bị từ chối. Nhưng lúc ấy tôi nhớ đến lời cha sở nói: “Làm mục tử thì phải đi bằng đôi chân của dân, sống bằng nhịp sống của dân.”

Trong từng gia đình tôi đến thăm, tôi học được hai tiếng thiêng liêng: đồng hành.

4.2. Những bất an-và sự trưởng thành âm thầm

Có những lúc tôi buồn, thấy mình bất tài, vụng về. Nhưng chính trong những giờ cầu nguyện, tôi nghe như Chúa nói: “Bình an của Thầy ở với con.” Và tôi hiểu: bình an không phải là không có thử thách, mà là có Chúa ở giữa thử thách.

4.3. Trở về chủng viện-một con người khác

Kết thúc năm đi thử, tôi trở lại chủng viện để bắt đầu bốn năm thần học. Lúc ấy, tôi đã khác: trầm lắng hơn, chín chắn hơn, và bình an hơn. Tôi đi vào chặng đường kế tiếp với tâm thế của người đã chạm đến đời sống thật.

5. Những năm thần học-đào sâu linh đạo mục tử

Bốn năm học thần học giúp tôi đi sâu vào mầu nhiệm Đức Kitô và ơn gọi linh mục. Thần học không chỉ là kiến thức, mà còn là hành trình để trái tim tôi được chạm đến tình yêu Thiên Chúa. Tôi học để trở thành:

- người loan báo Tin Mừng,

- người cha thiêng liêng,

- người mang bình an vào thế giới đầy bất an.

Càng học, tôi càng cảm nghiệm lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa. Đó là điều nâng đỡ tôi suốt những năm sau này.

6. Những bài học từ nghèo khó-chương trình đào tạo âm thầm của Chúa

Đời chủng sinh lúc đó còn nhiều thiếu thốn. Tôi quen với việc thắt lưng buộc bụng để dành tiền giúp cha mẹ tuổi già đau bệnh. Những mùa hè, thay vì nghỉ ngơi, tôi đưa cha vào bệnh viện để điều trị bệnh. Nhiều lúc mệt đến rã rời, tôi chỉ biết thưa: “Lạy Chúa, xin giúp con vượt qua.”

Chính kinh nghiệm nghèo khổ ấy giúp tôi thấu hiểu nỗi lo của người nghèo, điều trở thành nền tảng cho linh đạo sứ vụ của tôi sau này.

7. Thánh Thể-nguồn bình an nâng đỡ mỗi ngày

Điều nuôi dưỡng tôi hơn tất cả không phải là sách vở, mà là: Thánh Lễ, giờ kinh, giờ chầu Thánh Thể và những giờ nguyện ngắm lặng lẽ. Trước Mình Thánh, tôi cảm nghiệm bình an sâu lắng, thứ bình an mà không thế gian nào cho được.

Tôi không ngờ rằng chính bình an ấy sẽ trở thành món quà tôi khao khát trao cho tha nhân trong sứ vụ linh mục sau này.

8. Bước ngoặt cuối – năm thực tập mục vụ và chuẩn bị chịu chức phó tế

Ngày 07/06/2002, tôi rời chủng viện để bắt đầu năm thực tập tại Giáo xứ Đại Hải. Tôi nhận ra: Ước mơ ngành Y của tôi không thành, nhưng Chúa đưa tôi vào con đường chữa lành tâm hồn; nghèo khó làm tôi đau, nhưng lại dạy tôi biết cảm thương. Mọi biến cố trong đời đều nằm trong kế hoạch yêu thương của Chúa.

Ngày 17/12/2002, tôi được Đức Cha Emmanuel Lê Phong Thuận đặt tay truyền chức phó tế tại chính Đại Chủng viện Thánh Quý. Khoảnh khắc ấy, tôi run lên trong hạnh phúc: ơn Chúa đổ xuống, lời mời gọi phục vụ vang lên, tiếng thì thầm khẻ nói: “Hãy theo Thầy.”

Trong thinh lặng nội tâm, những lời ấy thôi thúc, như định hình tương lai đời linh mục tôi: “Thầy để lại bình an cho anh em.” (Ga 14,27) Và tôi thầm nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con trở nên khí cụ của bình an, để con đem bình an ấy đến cho những người đang sống trong bất an.”

CHƯƠNG III

NGÀY LINH MỤC-ÂN BAN CỦA BÌNH AN

Có những ngày đời người cứ trôi qua bình thường. Có những ngày đến rồi quên. Nhưng cũng có một ngày duy nhất thiêng liêng đến mức đổi hướng vận mệnh một con người. Đối với tôi, đó là ngày được đặt tay lãnh nhận thiên chức linh mục.

Đó không phải là ngày tôi trở thành người “đặc biệt”, nhưng là ngày tôi thuộc trọn về Chúa Giêsu, Đấng đã gọi tôi từ khi tôi còn trong dạ mẹ và đã dìu tôi đi qua biết bao bất an của tuổi thơ, tuổi trẻ, để rồi dừng lại dưới bàn tay của Đức Giám mục hôm ấy.

1. Đêm trước lễ truyền chức-phút gặp gỡ thật sâu với chính mình trước Thánh Thể

Tối hôm trước ngày lãnh chức, ngày 26/05/2003, tôi ngồi một mình trong nhà nguyện tối chủng viện. Ánh sáng duy nhất đến từ Nhà Tạm và ngọn đèn chầu khẽ rung trong gió.

Tôi quỳ xuống… rồi khóc. Không phải là nước mắt buồn, nhưng là nước mắt tri ân. Tôi nhớ lại từng đoạn đường Chúa đã dẫn tôi đi: những thiếu thốn ở quê nhà; những năm tháng dự tu đầy chông chênh; những giờ học hành căng thẳng; những lúc tưởng chừng phải bỏ cuộc; những bất an đeo bám tuổi trẻ.  Tất cả hiện lại như cuộn phim quay chậm.

Trong thinh lặng, tôi chỉ thưa một câu: “Con không xứng đáng. Nhưng xin cho con thuộc trọn về Chúa.” Và tôi tin Chúa đã đáp lại bằng chính lời của Người: “Thầy để lại bình an cho con.”

2. Giây phút đặt tay-khi bình an của Chúa đi vào đời tôi

Sáng sớm hôm ấy, xe 7 chỗ chở ba anh em chúng tôi từ đại chủng viện Thánh Qúy về nhà thờ Đại Hải để lãnh nhận thánh chức linh mục. Cùng đi với chúng tôi có cha giáo: Carolo Hồ Bặc Xái, Cha Thạnh (giáo phận Vĩnh Long, phó giám đốc chủng viện). Ngoài trời, cơn mưa mùa hạ chợt đến bất ngờ, khiến tôi lo nghĩ không biết bà con có đến tham dự thánh lễ được không? Nhưng khi đến nơi, tôi rất vui mừng vì khuôn viên nhà thờ đông chật người đến tham dự thánh lễ truyền chức và cầu nguyện cho anh em chúng tôi. 

Hương trầm bay nhẹ, tiếng ca đoàn ngân vang, ánh sáng tràn qua những khung kính như muốn ôm lấy cả cộng đoàn.

Đến giây phút giám mục Emmanuel giơ tay và đọc lời nguyện truyền chức, tôi cảm thấy thời gian đứng lại. Không phải là cảm giác “luồng điện mạnh” như nhiều người chia sẻ. Với tôi, đó là một dòng nước êm dịu nhưng sâu thẳm, thấm vào tận đáy lòng, mang lại sự bình an khó diễn tả.

Đó là bình an của Chúa Giêsu, thứ bình an mà thế gian không thể ban và cũng chẳng ai có thể lấy đi. Và từ giây phút ấy, tôi hiểu rằng:  Tôi không còn sống cho riêng mình. Tôi sống cho Tin Mừng. Sống cho Giáo Hội. Sống để trở thành khí cụ của bình an giữa đời.

3. Nghi thức phủ phục-đặt cả cuộc đời trong lòng Giáo Hội

Khi tôi nằm phủ phục trên nền nhà thờ Đại Hải, và ca đoàn hát Kinh Cầu Các Thánh, tôi như được đưa trở lại toàn bộ hành trình ơn gọi: giây phút đầu tiên nghe tiếng Chúa mời gọi, những đêm rơi nước mắt vì mệt mỏi, những thử thách để tôi biết mình thuộc về ai, những lần cầu xin được bình an giữa xao động của chính lòng mình.

Tôi nhận ra một sự thật: Linh mục chỉ có thể đứng vững khi trước hết biết phủ phục. Khoảnh khắc ấy, tôi trao trọn đời mình cho Chúa và cho lời cầu nguyện của toàn thể Hội Thánh.

4. Khoảnh khắc mặc áo lễ-trở thành hình ảnh của Đấng tôi phụng sự

Khi mẹ tôi, đã già yếu, được người cháu dìu lên cung thánh để trao áo lễ cho cha sở khoác lên mình tôi, tim tôi nghẹn lại. Không phải vì tôi thấy mình trở nên quan trọng. Nhưng vì tôi hiểu: Từ đây, tôi phải yêu như Chúa yêu, tha thứ như Chúa tha, bước đi như Chúa bước, hiến mình như Chúa hiến.

Chiếc áo lễ không làm tôi “lớn hơn”, nhưng khiến tôi “nhỏ lại”, để cho Chúa được lớn lên trong cuộc đời tôi.

5. Lời nguyện truyền chức-một chương mới được viết vào đời tôi

Khi Đức Giám mục đọc lời thánh hiến: “Xin đổ tràn Thần Khí thánh thiện trên tôi tớ Chúa…”  Giây phút ấy, tôi cảm nhận như trời cao đang mở ra. Lời ấy không chỉ phong chức cho tôi trong một ngày, mà mở ra cho tôi một sứ mạng trọn đời:

- đem bình an của Chúa cho người đau khổ;

- chữa lành những tâm hồn bị thương;

- loan báo Tin Mừng cho người thất vọng;

- trở nên dấu chỉ của hy vọng giữa bao biến động của nhân thế.

6. Thánh lễ mở tay-hy lễ đầu tiên và nỗi lòng của một tân linh mục

Ngày dâng lễ tạ ơn mở tay tại Hậu Bối quê nhà, trời mưa lớn, đường đất trơn lầy. Khách dự lễ bị bùn đất bám đầy quần áo. Tôi lo lắng, sợ người ta ngại mà quay về. Nhưng không. Họ đến đông hơn tôi tưởng. Nhìn họ ngồi chật nhà thờ nhỏ, lòng tôi an lại.

Khi nâng chén thánh đầu tiên trong đời linh mục, tôi hiểu sâu hơn thế nào là hiệp tế với Chúa Giêsu. Trong chén rượu nhỏ bé ấy, tôi thấy: 

mồ hôi của người lao động, 

nước mắt của người nghèo, 

nỗi lo của những gia đình trẻ, 

tiếng kêu của người bệnh, 

và nỗi đau của biết bao phận người.

Đến khi đọc lời truyền phép, tôi run lên. Chúa hiến mình để trao bình an cho nhân loại, còn tôi được mời gọi hiến đời để trao bình an của Chúa cho những ai Người gửi đến.

7. Phương châm đời linh mục- “ĐỂ LẠI BÌNH AN.” (Ga 14,27)

Trong phần kết lễ mở tay, trong bài cảm ơn, tôi có đề cập đến phương châm linh mục: “ĐỂ LẠI BÌNH AN.” Tôi chọn câu này không phải vì nó “hay”, nhưng vì nó là câu chuyện đời tôi. Từ nhỏ đến lớn, tôi đã trải qua biết bao bất an:

bất an vì nghèo,

bất an trong thử thách ơn gọi,

bất an trong học hành,

bất an vì những yếu đuối của chính mình,

và bất an trong những năm mục vụ đầu tiên.

Nhưng mỗi lần tôi lo lắng, Chúa lại đặt vào lòng tôi sự bình an của Người. Vì thế, tôi hiểu rằng: Đời linh mục không phải để xây vinh quang cho mình, nhưng để đặt bình an vào những tâm hồn đang hỗn loạn. Người nghèo, người bệnh, người tội lỗi, người tuyệt vọng, người đang gãy đổ, người bị tổn thương… tất cả đều cần một linh mục biết mang bình an của Chúa đến.

Phương châm ấy không phải khẩu hiệu. Đó là định hướng sống, cách sống, linh đạo sống của đời linh mục tôi.

CHƯƠNG IV

NHỮNG NĂM ĐẦU SỨ VỤ-THỬ THÁCH VÀ TRƯỞNG THÀNH

Trong đời linh mục, những năm đầu sứ vụ giống như những mùa mưa đầu tiên của người nông dân: đất còn mềm, cây còn non, và gió bão dễ làm bật rễ. Nhưng cũng chính lúc ấy, rễ lại cắm sâu nhất.

Thời gian ở Đại HảiSakeo là “ngôi trường đời” mà Chúa dùng để đào luyện tôi không chỉ để làm mục tử, mà trước hết để làm người sống đức tin, sống yêu thương và sống bình an.

1. Về Đại Hải-hành trình chông chênh

Hè năm 2002, khi vừa rời mái Chủng viện, tôi được sai về nhà thờ Đại Hải. Tôi đến đó với hành trang là bảy năm đào tạo thần học đầy ước mơ, nhiệt huyết và tự tin. Nhưng chỉ ít tháng sau, thực tế mục vụ đã khiến tôi “ngã sóng soài”: nhiều việc vượt ngoài khả năng, nhiều tình huống chưa từng được học, áp lực mục vụ dồn dập, và đôi khi cả những hiểu lầm,  khiến tôi mệt mỏi và chao đảo.

Tôi bước vào một giai đoạn khủng hoảng tinh thần thực sự. Trong giai đoạn có nhiều bất an như thế, thì cha tôi lại đột ngột qua đời (ngày 07/03/2003). Tôi vừa lo công việc họ đạo trong chức năng phó tế, vừa phải đối diện với hoàn cảnh khó khăn gia đình, vừa lo cho mẹ già không ai bên cạnh để chăm sóc trong tương lai.

Nhiều đêm trằn trọc, tôi thầm hỏi: “Lạy Chúa, con có làm sai gì không? Con có đủ sức để đi tiếp không? Con có thật sự được Chúa gọi không?” Trong những đêm như thế, phương châm “ĐỂ LẠI BÌNH AN” trở thành tiếng gọi mạnh nhất. Chính tôi đang thiếu bình an, mà Chúa lại sai tôi đi gieo bình an. Điều nâng tôi dậy không phải là sức trẻ hay kiến thức, mà là Thánh Thể tình người nghèo.

Có những chiều mệt mỏi, tôi ngồi trước Nhà Tạm chỉ thưa: “Lạy Chúa, xin đừng để con gục ngã.” Và lạ thay, sáng hôm sau tôi lại có sức để đi thăm bệnh nhân, dạy giáo lý, chăm thiếu nhi, lắng nghe những gia đình đau khổ. Chúa dùng chính sự đơn sơ của những người nghèo để an ủi tôi.

2. Bài học mục vụ đầu đời-khi lý thuyết và thực tế không giống nhau

Ở Chủng viện, chúng tôi được học thần học, Kinh Thánh, phụng vụ, giáo luật… nhưng ở Đại Hải, tôi học những điều không có trong sách:

- Học lắng nghe trước khi dạy dỗ

Một cụ già từng nói với tôi: “Cha ơi, con không cần cha giảng hay. Con chỉ cần cha ngồi nghe con kể.” Lúc ấy tôi hiểu: một linh mục trước hết là người lắng nghe nỗi đau của con người, rồi mới là người giảng dạy.

- Học khiêm tốn

Có những điều tôi nghĩ mình biết, nhưng thực tế lại khác hoàn toàn. Nhiệt thành quá đôi khi lại khiến người ta… mệt mỏi. Tôi phải học điều thật quan trọng: Không phải cái gì mình muốn làm cũng là điều người ta đang cần.

- Học chấp nhận giới hạn bản thân

Linh mục không giải quyết được mọi vấn đề. Đôi khi, ơn gọi của linh mục là hiện diện, đồng hành, cầu nguyện, và trao bình an của Chúa cho những gì mình không thể thay đổi. Những bài học âm thầm ấy đã trở thành hành trang quý báu cho suốt hành trình mục vụ sau này.

3. Sakeo-từ phó xứ đến chánh xứ: một trang mới, một trách nhiệm lớn

Sau hơn một năm ở Đại Hải, ngày 28/05/2004, mẹ yêu dấu của tôi được Chúa gọi về sau những tháng ngày chống chọi với căn bệnh ung thư. Tuy đau đớn thể xác, nhưng mẹ không hề kêu than mà âm thầm hy sinh chịu đựng, để cho con cháu được an lòng. Mất mát ấy làm tôi đau buồn khó tả, nhưng cũng là biến cố giúp tôi hiểu người đau khổ cần một mục tử cảm thông, chia sẻ  như thế nào.

Ngày 12/08/2004, tôi được sai về Sakeo làm phó xứ, cộng tác với cha sở trong việc xây dựng nhà thờ mới. Bảy năm sau, ngày 12/08/2011, tôi được ĐGM Stêphanô Tri Bửu Thiên bổ nhiệm làm cha sở, với sứ mạng hoàn thành nhà thờ, nhà giáo lý và các công trình mục vụ. Chỉ một năm sau, nhờ sự quảng đại của ân nhân, nhà thờ được hoàn thành, không chỉ bằng gạch đá, mà bằng mồ hôi, nước mắt và tình người.

Sakeo là vùng quê nghèo, đường xa, đất phèn, mùa lũ triền miên, dân chúng lam lũ. Nhưng họ chân thành, thương linh mục bằng sự tử tế ít ai ngờ. Tôi học ở họ bài học lớn về tình người, đức tin, và sự bền bỉ trong thử thách.

Ở Sakeo, tôi học:

- Xây dựng cơ sở vật chất bằng sự kiên nhẫn. Nhà thờ, nhà giáo lý, từng bức tường… đều được dựng lên bằng lòng kiên trì và niềm hy vọng.

- Xây dựng cộng đoàn bằng sự ân cần. Thiếu nhi, giáo lý viên, hội đoàn… tất cả cần thời gian, tình thương và sự bao dung.

- Xây dựng niềm tin bằng tình yêu thương người nghèo. Thăm bệnh, lo chi phí, chăm sóc người neo đơn… chính họ giúp tôi yêu đời linh mục hơn.

- Sống phương châm “bình an” giữa sóng gió. Không phải lúc nào linh mục cũng được đón nhận. Có khi bị hiểu lầm, bị chống đối, bị xét đoán. Nhưng chính lúc đó, tôi hiểu rằng: Bình an của Chúa không phải là không có bão tố, mà là có Chúa ở giữa bão tố.

4. Quản hạt Sóc Trăng-vai trò mới, gánh nặng mới, ơn Chúa mới

Tháng 12 năm 2018, tôi được tín nhiệm bầu làm Quản hạt Sóc Trăng. Đó không phải là vinh dự, mà là trách nhiệm: nhiều giáo xứ và giáo điểm, nhiều công việc, nhiều linh mục cần nâng đỡ, nhiều chương trình cần tổ chức. Chính lúc ấy, tôi hiểu hơn bao giờ hết: Nếu không bám vào Chúa, linh mục sẽ kiệt sức.

Tôi học cách chia sẻ công việc, làm việc nhóm, đồng hành với anh em linh mục, và đặc biệt là giữ bình an nội tâm trước áp lực mục vụ. Dường như Chúa nói với tôi: “Cha chọn con để con mang bình an đến cho anh em linh mục trước.”

5. Nhìn lại những năm đầu sứ vụ là hồng ân lớn nhất

Người ta thường nghĩ những năm đầu đời linh mục là những năm khó khăn nhất. Còn tôi, khi nhìn lại, tôi thấy có nhiều bất an, nhưng lại là những năm đẹp nhất:

- đẹp vì được rèn luyện,

- đẹp vì được gần người nghèo,

- đẹp vì nhận ra giới hạn bản thân,

- đẹp vì Chúa sửa dạy qua từng thử thách,

- đẹp vì trong sóng gió, tôi học cách neo đời mình vào bình an của Chúa.

Nếu không có những năm ấy, tôi sẽ không có được tôi của hôm nay. Và sẽ không bao giờ hiểu được ân ban bình an của Chúa quý giá đến dường nào trong đời linh mục.

CHƯƠNG V

MỤC TỬ GIỮA LÒNG ĐỜI-NIỀM VUI VÀ NƯỚC MẮT

Đời linh mục không phải là một con đường thẳng. Có những đoạn rất êm ả, có những đoạn gập ghềnh; có lúc tưởng như bay trên đỉnh núi, nhưng cũng có khi rơi vào những thung lũng tối. Thế nhưng, trong mọi hoàn cảnh, linh mục vẫn được mời gọi trở nên người mang bình an của Chúa, như người cầm ngọn đèn đi trước đàn chiên để chúng không lạc trong đêm.

Sau những năm dài gắn bó với Đại Hải và Sakeo-hai mảnh đất đã đào luyện tôi nên một linh mục trưởng thành-Chúa lại mở ra một hành trình mới, rộng hơn, nhiều thử thách hơn, nhưng cũng nhiều ơn lành hơn.

1. Rời Sakeo-bước qua một ngưỡng cửa mới

Năm 2020, sau gần 16 năm gắn bó với Họ đạo Sakeo, nơi chan hòa tình người, đơn sơ mà ấm áp, tôi nhận bài sai về làm chánh sở Họ đạo Giuse (Việt Kiều) tại thành phố Sóc Trăng. Sự thay đổi môi trường chưa bao giờ là dễ. Từ một họ đạo ruộng đồng bao quanh, tôi bước vào một họ đạo nhỏ giữa lòng thành phố:

- giáo dân đa dạng,

- công việc mục vụ phong phú,

- các mối tương quan phức tạp hơn.

Có người hỏi tôi: “Cha có sợ không khi qua môi trường mới?”

Tôi chỉ mỉm cười: “Sợ chứ… nhưng tôi tin Chúa hơn.”

Những ngày đầu thật giống như mang đôi giày mới: hơi cấn, hơi lạ, hơi khó chịu. Nhưng rồi càng đi, càng thấy vừa. Ở đây, tôi hiểu sâu hơn rằng: mục tử không chọn nơi mình ở; mục tử đi nơi Chúa sai.

2. Một năm ở Mỹ Xuyên-hành trình ngắn nhưng đầy dấu ấn

Chỉ sau một thời gian ngắn ổn định nhân sự và trùng tu cơ sở vật chất tại họ đạo Giuse (Việt Kiều), tôi được sai về Mỹ Xuyên ngày 14/01/2021.

Thời gian chỉ hơn một năm, nhưng đủ để để lại nhiều kỷ niệm đẹp:

- người dân chân chất, hiền hòa;

- cộng đoàn giàu tình người;

- người nghèo, người bệnh, người già neo đơn chiếm số đông, sống xa nhà thờ xen lẫn với bà con không cùng tôn giáo.

Ở đây tôi học lại một bài học tưởng quen mà rất mới: Linh mục không phải là người giải quyết mọi vấn đề, linh mục là người đồng hành và xẻ chia.

Có những lần tôi chỉ biết nắm tay người bệnh, đọc chậm rãi một kinh Kính Mừng. Vậy mà ánh mắt họ sáng lên, bình an trở lại. Và chính lúc đó, tôi cũng cảm nhận bình an tuôn chảy trong lòng mình.

3. Sóc Trăng-sứ vụ lớn, cộng đoàn lớn, trách nhiệm lớn

Đại dịch Covid-19 bùng phát trở lại khi tôi còn ở Mỹ Xuyên. Chỉ kịp ổn định cơ sở vật chất, các đoàn thể và tích cực làm việc bác ái xã hội giúp đỡ các gia đình nghèo. Tôi được ĐGM trao nhiệm vụ đi thăm viếng mục vụ và trợ giúp lương thực, thực phẩm bà con trong các khu cách ly nơi các huyện thị thuộc tỉnh Sóc Trăng.

Đến ngày 02/08/2022, tôi được bổ nhiệm làm linh mục Chánh sở Sóc Trăng, một trong những giáo xứ rộng lớn và là trung tâm của giáo hạt. Đó vừa là niềm vui lớn, vừa là một thử thách không nhỏ:

- nhiều ban ngành, đoàn thể,

- nhiều chương trình liên kết giáo hạt, giáo phận,

- nhiều công việc phát sinh mỗi ngày,

- và đặc biệt, nhiều tâm hồn cần được dẫn dắt.

Nếu Sakeo dạy tôi kiên nhẫn, Việt Kiều dạy tôi linh hoạt, Mỹ Xuyên dạy tôi sự gần gũi, thì Sóc Trăng dạy tôi khôn ngoan và bao dungỞ đây, tôi học cách để tâm bình an trước mọi chuyện:

- chuyện vui không quá phấn khích,

- chuyện buồn không mất bình tĩnh,

- chuyện khó không vội kết luận,

- chuyện phức tạp thì bước lùi lại để nhìn bằng ánh sáng của Chúa.

Đây cũng là nơi phương châm “Để lại bình an” của tôi được thử thách mạnh nhất.

Nơi đây theo ý ĐGM, tôi ổn định lại tổ chức họ đạo: sắp xếp lại nhân sự HĐMVGX, các giới, các ban ngành, đoàn thể và đứa vào hoạt động có nề nếp vì từ lâu chương trình mục vụ của giáo xứ rời rạc, thiếu sức sống. Ngoài ra, cũng theo ý ĐGM, tôi bắt tay vào việc sửa chữa, trùng tu mới lại nhà thờ, nhà xứ, trường lớp...đã xuống cấp. Tuy gặp rất nhiều khó khăn về kinh phí, nhưng với ơn ban của Chúa và sự cộng tác nhiệt thành của nhiều người. Cuối cùng mọi việc đã diễn tiến thuận lợi. Khi nhìn lại tôi cảm nhận được rằng: "Ơn Ta đủ cho con" (2Cr 12,9); và "Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được" (Lc 1,37).

4. Kiêm nhiệm Đại Tâm-trở về với những người nghèo Khmer

Tháng 06/2025, tôi được ĐGM Phêrô Lê Tấn Lợi trao thêm nhiệm vụ kiêm nhiệm Đại Tâm, một cộng đoàn người Khmer nghèo đơn sơ nhưng giàu nghĩa tình. Nơi đây, tôi nhận ra rằng sứ vụ linh mục không chỉ là:

- cử hành bí tích,

- dạy giáo lý,

- tổ chức sinh hoạt…

mà còn là hiểu văn hóa, tôn trọng truyền thống, hiện diện giữa đời sống dân quê, và đem Tin Mừng đến bằng tình thương hơn là bằng lời nói.

Người Khmer ít nói, nhưng rất chân thành. Họ nghèo vật chất, nhưng rất giàu tình nghĩa. Và điều họ cần nhất là: một mục tử hiền lành, gần gũi và biết lắng nghe.

Nơi đây, tôi trải nghiệm rõ hơn ý nghĩa của việc gieo bình an cho những người mang nhiều nỗi bất an trong đời sống vật chất lẫn tinh thần.

5. Vui-Buồn-Nước mắt-Và những trái ngọt của sứ vụ

Đi qua nhiều nơi, tôi mang trong lòng đủ mọi cung bậc:

Những niềm vui lớn

- rẻ em đến nhà thờ ngày một đông,

- giáo lý viên trưởng thành,

- các đoàn thể biết làm việc chung,

- người nghèo được nâng đỡ,

- tội nhân trở về,

- cộng đoàn hiệp nhất,

- giáo xứ trở thành “ngôi nhà thiêng liêng” cho biết bao con người.

Những nỗi buồn thầm lặng

- khi bị hiểu lầm,

- khi mục vụ bế tắc,

- khi bị chỉ trích,

- khi mất ngủ vì những chuyện không tên,

- khi bất lực trước nỗi đau của giáo dân.

Những giọt nước mắt. Có những giọt nước mắt không ai biết, nhưng lại chính là dòng nước thanh luyện tâm hồn linh mục.

Ai từng khóc vì nỗi đau của người khác sẽ hiểu hơn lòng thương xót của Chúa.

6. Qua tất cả, bình an trở thành khí cụ của sứ vụ

Ngày chịu chức linh mục, tôi chọn câu: “Để lại bình an” (Ga 14,27). Khi chọn, tôi chưa hiểu hết. Càng sống, càng trải nghiệm, tôi càng thấm sâu:

- Bình an là quà tặng lớn nhất Chúa ban cho linh mục.

- Và bình an cũng là quà tặng lớn nhất linh mục có thể trao lại cho người khác.

- Bình an không phải là không có bão tố, mà là có Chúa ở ngay trong bão tố.

Linh mục chỉ có thể trao bình an khi chính mình đã đi qua những cơn bất an của cuộc đời.

7. Kết chương-Mục tử giữa lòng đời

Đi qua bao giáo xứ, mỗi nơi một vẻ:

Sakeo giản dị,

Việt Kiều sinh động,

Mỹ Xuyên trầm lắng,

Sóc Trăng nhộn nhịp,

Đại Tâm nghèo khó và thân thương…

Tôi nghiệm ra một điều rất quý: Nơi nào có con người, nơi đó cần một mục tử mang bình an. Nơi nào có bất an, nơi đó linh mục được sai đến.

Cuộc đời linh mục của tôi cho đến hôm nay là hành trình nối dài của hai tiếng gọi:

- Tiếng gọi của Chúa: “Hãy theo Thầy.”

- Tiếng gọi của con người: “Cha ơi, xin giúp chúng con.”

Giữa hai tiếng gọi ấy, tôi bước đi từng ngày, với lòng biết ơn, với sự khiêm tốn, và với ước nguyện duy nhất: “Để lại bình an cho bất cứ ai Chúa đặt trên đường đời tôi.”

CHƯƠNG VI

SỐNG VÀ GIEO BÌNH AN GIỮA NHỮNG BIẾN ĐỘNG MỤC VỤ

Nếu trong những chương trước, hành trình ơn gọi đưa tôi từ những bối rối đầu đời đến sự xác tín khi thưa: “Lạy Chúa, con đây”, thì những năm tháng sứ vụ lại là trường học thực sự của bình an. Ở đó, tôi nghiệm ra rằng: bình an không đến từ những hoàn cảnh thuận lợi, nhưng từ một trái tim biết cậy dựa vào Chúa mỗi ngày.

Thánh chức linh mục không mở ra một con đường bằng phẳng, nhưng là con đường đúng: đúng thánh ý, đúng sứ mạng, đúng ơn gọi Chúa dành cho mình. Chính trên con đường ấy, tôi cảm nghiệm sâu xa hơn lời của Chúa Giêsu: “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.”

1. Những vùng đất mới-những thử thách mới

Linh mục luôn được sai đi, và mỗi lần được sai đi là một lần bước vào một hành trình mới. Mỗi họ đạo có một “linh hồn” riêng, một lịch sử riêng, một niềm vui và vết thương riêng.

Có nơi nghèo đến nao lòng.

Có nơi chia rẽ âm ỉ.

Có nơi đông đảo nhưng bộn bề lo toan.

Có nơi nhỏ bé, tưởng chừng bị quên lãng...

Ở bất cứ nơi nào, tôi cũng cảm nhận tiếng mời gọi: “Con hãy mang bình an của Thầy đến cho họ.”

Tôi nhớ rõ một họ đạo miền quê ngày đầu nhận nhiệm sở: đường đất lầy lội, nhà tranh mái lá, cuộc sống khó khăn. Một bà cụ nghèo đến mức chỉ dám đem biếu tôi một rổ rau tập tàng. Nhưng trong ánh mắt bà, tôi thấy một sự bình an sâu thẳm, bình an của một tâm hồn hoàn toàn cậy dựa vào Chúa. Và chính bà đã gieo bình an vào lòng tôi nhiều hơn tôi gieo cho bà.

2. Gieo bình an bằng sự hiện diện

Nhiều khi linh mục không thể giải quyết hết mọi khó khăn của giáo dân, nhưng linh mục có thể hiện diện. Và sự hiện diện ấy âm thầm và khiêm tốn lại là liều thuốc chữa lành mạnh nhất.

Tôi nhớ những đêm khuya, được gọi đi xức dầu cho một người bệnh hấp hối. Căn nhà tối, chỉ có ngọn đèn dầu leo lét. Khi tôi đọc lời nguyện xức dầu, một sự bình an nhiệm lạ bao phủ cả gia đình. Không ai nói gì nhiều, nhưng ai cũng biết: Chúa đang ở đó.

Linh mục không thể cho người ta nhiều thứ, nhưng có thể đem đến sự hiện diện của Chúa. Và ở đâu có Chúa, ở đó có bình an.

3. Khi mục vụ gặp giông bão

Không thiếu những giai đoạn đầy sóng gió: hiểu lầm, chống đối, những lời nói vô tình làm tổn thương, những hy sinh không được nhìn thấy. Có khi tôi mệt mỏi đến mức tự hỏi: “Lạy Chúa, con có đang làm điều đúng không?” Nhưng chính những lúc ấy, phương châm “ĐỂ LẠI BÌNH AN” vang lên mạnh mẽ nhất.

Tôi học cách:

- Im lặng khi cần im lặng.

- Cầu nguyện trước khi phản ứng.

- Phân định thay vì nóng nảy.

- Tìm lại sức mạnh nơi Thánh Thể.

Những giờ chầu thinh lặng vào buổi tối đã giữ gìn đời linh mục của tôi. Đặt tất cả trước Thánh Thể, tôi cảm nhận một dòng suối bình an âm thầm tuôn chảy, xoa dịu mọi lo toan.

4. Bình an qua sự hòa giải và tha thứ

Linh mục là người của Bí tích Giao hòa. Hơn ai hết, linh mục cũng cần sống tinh thần giao hòa mỗi ngày. Trong mục vụ, tôi chứng kiến nhiều gia đình đổ vỡ, anh em thù nhau vì vài mét đất nhỏ, cha con không nhìn mặt nhau suốt nhiều năm vì hiểu lầm. Nhiều lần, tôi đứng giữa họ không phải như một trọng tài, nhưng như một người kết nối.

Tha thứ mở cửa cho bình an.

Hòa giải là hoa trái của tình yêu.

Tôi nhớ hai anh em giận nhau 20 năm. Khi già yếu, họ tìm đến tôi. Sau một hồi trò chuyện và cầu nguyện, một người bật khóc và nói lời tha thứ: “Thôi… bỏ qua nha!”

Hôm ấy, tôi biết chắc: đó là phép lạ của Chúa, và tôi chỉ là một dụng cụ bé nhỏ.

5. Kiên trì gieo bình an-từng hạt nhỏ

Nhiều hạt giống không mọc ngay. Có hạt phải chờ nhiều năm.

Những lần thăm nhà âm thầm, những giờ dạy giáo lý thiếu nhi, những cuộc thăm bệnh nhân, những buổi họp ban ngành, những phút cầu nguyện với bà con giáo dân… tất cả đều mang theo một chút bình an của Chúa.

Nhìn lại 25 năm linh mục, tôi hiểu: Bình an không phải điều gì cao siêu. Bình an là hoa trái của lòng trung tín.

6. Hoa trái lớn nhất: chính Chúa làm

Sau bao năm, bài học lớn nhất mà tôi học được là: Linh mục gieo-Chúa mới làm cho mọc lên.

Bình an mà linh mục để lại không phải của mình, nhưng của Chúa.

Sứ vụ linh mục không nên thơ bằng khả năng riêng, nhưng bằng ơn Chúa.

Điều còn lại trong lòng người khác không phải dấu ấn của tôi, nhưng là dấu ấn của tình thương ChúaVà đó chính là ý nghĩa đẹp nhất của phương châm đời linh mục tôi đã chọn: “ĐỂ LẠI BÌNH AN.”

CHƯƠNG VII

25 NĂM LINH MỤC VÀ BA BÀI HỌC LỚN TRONG ĐỜI TÔI

Hai mươi lăm năm không dài đối với lịch sử Hội Thánh, nhưng là cả một hành trình đối với đời linh mục của tôi: hành trình có nước mắt và nụ cười, có khủng hoảng và hồi sinh, có yếu đuối và ơn nâng đỡ.

Nhìn lại, tôi không thấy mình làm được điều gì lớn lao. Tôi chỉ thấy: Chúa đã đi trước, song hành và chờ đợi tôi trên mọi nẻo đường. Trong suốt hành trình ấy, tôi học được nhiều điều. Nhưng có ba bài học lớn đã trở thành ba trụ cột nâng đỡ đời linh mục của tôi.

1. Bài học thứ nhất: Mọi sự đều khởi đi từ Chúa

Ơn gọi không phải là chọn lựa của tôi, nhưng là chọn gọi của Chúa.

Từ cậu học trò nghèo ước mơ học ngành y, đến chàng thanh niên tìm hiểu ơn gọi nơi nhà xứ Bô-na, rồi dự tu giáo phận tạm trú nơi nhà thờ An Hội, cho đến ngày đặt tay chịu chức linh mục, tất cả đều là những bước đi Chúa đã chuẩn bị từ lâu.

Những nơi tôi được sai đến.

Những người tôi gặp.

Những biến cố tưởng như ngẫu nhiên.

Những lúc tưởng chừng bế tắc.

Mọi thứ đều mang dấu chỉ của sự dẫn dắt âm thầm.

Tôi hiểu rằng: Không phải do tôi giỏi, nhưng do Chúa muốn dùng tôi. Nhận ra điều ấy, lòng tôi được thanh thản. Khi phó thác cho Chúa, bình an tự nhiên lan tỏa.

2. Bài học thứ hai: Bình an là hoa trái của lòng khiêm tốn và hiền lành

Trong 25 năm mục vụ, tôi trải qua đủ cảm xúc: được yêu thương, bị hiểu lầm, được nâng đỡ, bị chỉ trích. Đôi khi muốn phản ứng, tự vệ, chứng minh mình đúng. Nhưng càng sống, tôi càng thấy rõ: Cách hành xử của Chúa Giêsu mới đem lại bình an thật.

Ngài hiền lành.

Ngài khiêm nhường.

Ngài biết im lặng khi cần.

Ngài biết nói lời yêu thương đúng lúc.

Ngài biết tha thứ khi bị xúc phạm.

Và Ngài mời gọi: “Hãy học cùng Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng.” Từ đó, tôi nghiệm thấy:

- Khiêm tốn làm dịu căng thẳng.

- Hiền lành xoa dịu vết thương.

- Tha thứ hàn gắn đổ vỡ.

- Một nụ cười chân thành mở ra cánh cửa đang khép lại.

Người linh mục càng nhỏ bé, thì bình an càng lớn. Và bình an càng lớn, cộng đoàn càng được hưởng nhiều ích lợi.

3. Bài học thứ ba: Sứ vụ linh mục là hành trình yêu thương

Nếu phải tóm gọn 25 năm linh mục trong một chữ, tôi chọn chữ “Yêu”. Yêu cụ thể, chứ không lý thuyết:

- đi thăm bệnh nhân lúc đêm khuya,

- lắng nghe nỗi lòng của người nghèo,

- giải tội cho người đang chiến đấu với tội lỗi,

- hòa giải những con người đã thù ghét nhau,

- dạy dỗ thiếu nhi trong những buổi học ồn ào,

- âm thầm quét sân nhà thờ lúc mọi người đã ra về.

Không có yêu thương, đời linh mục sẽ trở thành gánh nặng. Có yêu thương, đời linh mục trở nên đẹp và nhẹ nhàng.

Và chính tình yêu làm cho phương châm “ĐỂ LẠI BÌNH AN” trở thành hiện thực. Vì chỉ có trái tim yêu thương mới tạo ra bình an đích thật.

Ba bài học ấy nói với tôi:

“Mọi sự đều khởi đi từ Chúa.”

“Bình an đến từ khiêm tốn và hiền lành.”

“Sứ vụ là hành trình yêu thương.”

…những sứ điệp ấy đã trở thành ba nền tảng vững chắc trong đời linh mục của tôi. 25 năm đã qua, nhưng tôi vẫn cảm thấy như chỉ mới bắt đầu.

Còn nhiều điều phải học.

Còn nhiều điều phải sửa.

Còn nhiều tâm hồn phải nâng đỡ.

Còn nhiều bình an phải gieo.

Và tôi âm thầm thưa: “Lạy Chúa Giêsu, xin tiếp tục dùng con để gieo bình an của Chúa, nhất là nơi những tâm hồn đang bất an. Xin làm cho con trở nên khí cụ nhỏ bé của bình an Chúa giữa đời.” 

CHƯƠNG VIII

NHỮNG NGƯỜI ĐÃ NÂNG ĐỠ TÔI TRÊN HÀNH TRÌNH ƠN GỌI

Nhìn lại hành trình ơn gọi, tôi càng xác tín rằng: Ơn gọi không bao giờ là câu chuyện của một cá nhân. Ơn gọi luôn là hoa trái của những bàn tay nâng đỡ, của những con người đã âm thầm gieo vào đời ta những hạt giống của đức tin, lòng kiên trì, sự tử tế và tình yêu thương.

Nếu hôm nay tôi còn đứng được giữa bao biến cố, thử thách và thiếu thốn, ấy là vì Chúa đã gửi đến tôi những con người tuyệt vời. Họ giống như những ngọn đèn dọc đường, chiếu sáng từng đoạn hành trình tối tăm của tôi. Mỗi người trong họ là một ân huệ Chúa ban.

1. Gia đình-chiếc nôi đầu tiên của ơn gọi

- Cha mẹ tôi-tấm gương âm thầm mà sáng ngời

Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo giữa thời chiến và những năm tháng hậu chiến gian nan. Cha tôi, ông Phêrô Nguyễn Văn Mười, là người nông dân chất phác, ít nói nhưng đầy nội lực. Mẹ tôi, bà Cêcilia Cao Thị Chơn, là người phụ nữ chịu thương chịu khó, sẵn sàng hy sinh vì chồng, vì con không một lời than vãn.

Cha mẹ không có gì để cho chúng tôi ngoài gia tài quý nhất: đức tin và lòng đạo đức chân thành.

Tôi lớn lên giữa những bữa cơm đơn sơ, những lời kinh tối trong căn nhà nghèo, và những hy sinh thầm lặng của cha mẹ, nhưng chính những  yêu thương và nước mắt thầm lặng ấy của cha mẹ đã gieo vào tôi khát vọng: “Sau này phải sống để mang lại bình an cho người khác.” Đó là hạt giống đầu tiên của ơn gọi linh mục.

- Anh chị em tôi-món quà của sự cảm thông

Tôi được nâng đỡ bởi tình yêu của những người anh, người chị luôn biết xẻ chia. Họ chấp nhận phần thiệt thòi để tôi an tâm theo đuổi ơn gọi. Những hy sinh âm thầm ấy đến hôm nay tôi vẫn trân trọng như một món nợ ân tình không bao giờ trả hết.

2. Những vị mục tử đã gieo vào tôi hạt giống đầu tiên

- Cha sở Phêrô Nguyễn Thành Chất-người đặt nền móng ơn gọi.

Cha Phêrô Chất không chỉ là cha sở Bô-na, nhưng là bàn tay đầu tiên của Chúa chạm vào ơn gọi của tôi. Sống cạnh cha, tôi nhìn thấy một mục tử chân thật: 

ngày ra đồng với giáo dân, 

chiều đi thăm bệnh, tối đọc kinh, 

sáng nghe thánh ca và dâng thánh lễ sốt sắng. 

Cha không giảng nhiều, nhưng cuộc đời cha là một bài giảng sống động.

Từ cha, tôi hiểu rằng: “Linh mục là để yêu thương-để ở với Chúa và ở giữa dân.”

- Đức cha Phêrô Lê Tấn Lợi-người mở cánh cửa ơn gọi cho tôi.

Tôi không thể quên ngày mà Đức Cha còn là sinh viên năm thứ nhất Đại Học Cần Thơ về quê và rủ tôi tham dự lớp dự tu đầu tiên của giáo phận. Chỉ một lời gợi ý nhẹ nhàng: “Út Lanh ơi, mình đi tu”. Từ đó cuộc đời tôi rẽ sang một hướng khác.

Sau này khi ngài trở thành giám mục, tôi càng nhận ra sự nhiệm mầu của Chúa khi dùng những gặp gỡ tưởng như rất bình thường để dẫn tôi vào ơn gọi.

- Cha Carôlô Hồ Bặc Xái-người thầy của những bước khởi đầu dự tu.

Trong thời gian dự tu tại Cần Thơ, cha Carôlô như một người cha hiền và người thầy gần gũi. Cha tìm nguồn quỹ trợ giúp anh em dự tu đóng học phí cho các khóa học Anh Văn. Cha tạo điều kiện cho anh em dự tu sống gắn kết với nhau. Cha dạy chúng tôi bằng chính cuộc sống của ngài: kính mến Chúa, yêu thương  Hội Thánh, thân thiện với mọi người, ham học hỏi và cố gắng chu toàn tốt bổn phận trong âm thầm.

3. Những người anh em-bạn đồng hành trên đường tu trì

Từ dự tu đến đại chủng viện, tôi được sống bên cạnh nhiều người bạn tốt, nhóm nhà thờ An Hội gồm có: Đức cha Phêrô Lợi, cha Tổng đại diện Phêrô Hài, cha giám đốc TTMV Antôn Kha, cha Phêrô Siêng, cha Phêrô Diễm (Gp Mỹ Tho), thầy giáo sư Anh Văn Lê Công Tuấn (Gp Vĩnh Long)… Mỗi người mang một nét riêng: thông minh, hiền hòa, vui tươi, sâu sắc, kiên trì. Nhìn họ, tôi thấy mình cần phải cố gắng nhiều. Nhờ họ, tôi học được rằng: Ơn gọi không thể sống một mình. Ơn gọi lớn lên trong tình huynh đệ.

4. Những giáo dân âm thầm nâng đỡ tôi

Trong suốt sứ vụ, tôi gặp biết bao giáo dân hiền lành, nghèo khó nhưng giàu đức tin:

- Những cụ già đi lễ mỗi ngày.

- Những người mẹ mang đến nhà xứ nải chuối, bó rau.

- Những thanh niên nhiệt tình giúp xây dựng cộng đoàn.

- Những bệnh nhân dạy tôi bài học kiên trì và phó thác.

- Những gia đình nghèo nhưng luôn giữ nụ cười tươi.

Họ là những “vị thánh âm thầm” nâng đỡ đời linh mục của tôi. Nhờ họ, tôi mới có thể sống phương châm: “Để lại bình an.”

5. Những người đã cầu nguyện cho tôi

Ơn gọi đứng vững là nhờ những lời cầu nguyện âm thầm mà đôi khi tôi không biết tên.

Có các cụ già lần chuỗi cho tôi.

Có những người đọc kinh cầu cho các linh mục mỗi ngày.

Có những em thiếu nhi dâng hy sinh cho cha xứ.

Có những giáo dân luôn nhắc: “Cha ráng giữ sức khỏe để phục vụ chúng con.”

Lời cầu nguyện của họ là sức mạnh vô hình đưa tôi đứng vững những khi mệt mỏi.

Tất cả những ai đã đi qua đời tôi đều là hồng ân. Nếu không có họ, ơn gọi của tôi đã gãy đổ từ lâu. Tôi xin tạ ơn Chúa, vì qua họ, Chúa đã dẫn tôi từng bước. Và tôi xin ghi lòng tạc dạ: “Con là linh mục hôm nay vì đã có rất nhiều người đã yêu con, nâng con và cầu nguyện cho con.”

CHƯƠNG IX

BÌNH AN-PHƯƠNG CHÂM VÀ LINH ĐẠO ĐỜI LINH MỤC

1. “Thầy để lại bình an cho anh em”-Lời trối thiêng liêng của Chúa

Phương châm linh mục của tôi “ĐỂ LẠI BÌNH AN” bắt nguồn từ lời trăn trối của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly. Chúa không để lại tiền bạc, quyền lực hay triết thuyết, nhưng để lại Bình An-món quà chỉ có thể được trao bởi một trái tim yêu thương.

Đối với tôi, bình an không phải là một ý tưởng đạo đức, nhưng là linh đạo cốt lõi của đời linh mục. 25 năm sứ vụ giúp tôi cảm nghiệm sâu sắc: Bình an không phải là không có thử thách, nhưng là có Chúa ở giữa thử thách.

2. Bình an-ơn nhưng không của Thiên Chúa

Trong ngày lãnh nhận chức thánh, tôi thầm xin Chúa hai điều:

-  Cho con được sống trong bình an của Ngài.

- Cho con được mang bình an đến cho người khác.

Nhìn lại cuộc đời, tôi nhận ra bình an không phải do hoàn cảnh thuận lợi hay khả năng bản thân, nhưng là quà tặng của sự phó thác.

Tôi từng đi qua những giai đoạn đầy bất an:

- Thử thách trong những ngày đầu tu.

- Những nơi mục vụ thiếu thốn, cô quạnh.

- Những quyết định khó trong vai trò quản hạt.

- Những hiểu lầm và nỗi đau mục vụ...

Nhưng mỗi khi chao đảo, tôi lại nghe lời Chúa nói: “Đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi.” Và tôi đứng dậy.

3. Bình an-hành trình chiêm niệm và biến đổi nội tâm

Để có thể “để lại bình an”, trước hết tôi phải trở thành người của bình an.

a. Bình an với Chúa

Đó là bình an đến từ thánh lễ tôi dâng, từ giờ chầu thinh lặng, từ Lời Chúa mỗi ngày, từ việc ở lại trong tình yêu Chúa. Mỗi ngày tôi cố giữ một khoảnh khắc để trở lại với nguồn mạch bình an.

b. Bình an với chính mình

Người linh mục phải học chấp nhận những giới hạn, những vết thương và sự bất toàn của mình, để được Chúa chữa lành. Một linh mục không bình an trong lòng thì khó mà nâng đỡ người khác.

c. Bình an với tha nhân

Đây là phần khó nhất nhưng cũng đẹp nhất của sứ vụ. Một lời khuyên đúng lúc, một thái độ ôn hòa, một sự lắng nghe chân thành, một cử chỉ tha thứ – đó là những hạt giống bình an mà tôi cố gắng gieo mỗi ngày.

4. Bình an-sứ mạng của người linh mục

25 năm qua, tôi nghiệm thấy rằng: Bình an là ngôn ngữ mục vụ hiệu quả nhất. Bình an mở lòng người, xoa dịu các vết thương vô hình và tạo không gian để Chúa hoạt động.

Trước khi giảng dạy-hãy gieo bình an.

Trước khi sửa dạy-hãy tạo bình an.

Trước khi quyết định-hãy tìm bình an.

Nhiều giáo dân không cần một bài giảng hay, họ chỉ cần một linh mục mang bình an.

5. Bình an-di sản tôi muốn để lại

Tôi không mong để lại những công trình lớn. Nhà cửa, cơ sở vật chất sẽ cũ. Công trình sẽ thay đổi. Chương trình mục vụ sẽ được người khác tiếp nối. Điều tôi ước mong để lại là: Những con người được bình an hơn vì tôi đã từng đến với họ.

Nếu một ngày nào đó người ta nhớ đến tôi, tôi chỉ mong họ nói: “Cha là người mang bình an.” Vậy là đủ.

Lạy Chúa Giêsu-Đấng đã để lại bình an cho các môn đệ, xin cũng ban cho con bình an của Thầy mỗi ngày.

Xin dạy con ở lại trong tình yêu Chúa để đời linh mục của con biết rao giảng không bằng tiếng ồn, nhưng bằng sự hiền hòa của bình an.

Xin biến con thành khí cụ bình an cho mọi người Chúa gửi đến.

CHƯƠNG X

ĐỊNH HƯỚNG SỨ VỤ TRONG NHỮNG NĂM SẮP TỚI

1. Phục vụ trong tâm tình tạ ơn

Nhìn lại 25 năm linh mục, tôi thấy rõ từng chặng đường đều được dẫn dắt bởi bàn tay quan phòng của Chúa. Vì thế, định hướng đầu tiên trong những năm tới của tôi là: Tiếp tục phục vụ với một trái tim đầy tạ ơn.

Tạ ơn vì ơn gọi.

Tạ ơn vì những con người Chúa gửi đến.

Tạ ơn vì những thách đố giúp tôi trưởng thành.

Tạ ơn vì bình an Chúa đổ xuống từng ngày.

Từ tâm tình tạ ơn ấy, tôi muốn bước vào những năm sứ vụ mới với một trái tim đơn sơ và an vui.

2. Xây dựng cộng đoàn hiệp thông-mục tiêu ưu tiên

Trong bối cảnh Hội Thánh đang tiến bước theo tinh thần Hiệp Hành, định hướng của tôi đặt trên ba trục:

a. Hiệp thông trong các gia đình

Tôi muốn chú trọng hơn đến mục vụ gia đình:

- chữa lành những vết thương hôn nhân,

- xây dựng các nhóm cầu nguyện khu xóm,

- nuôi dưỡng văn hóa đối thoại và tôn trọng.

b. Hiệp thông giữa các giới và đoàn thể

Một giáo xứ mạnh là giáo xứ biết cộng tác.

Tôi mong củng cố tinh thần hiệp nhất giữa các ban ngành, tránh cục bộ hay khép kín.

c. Hiệp thông trong Hội Thánh địa phương

Trong vai trò quản hạt, tôi muốn nâng đỡ các linh mục trẻ, chăm sóc những cộng đoàn khó khăn, và cùng nhau xây dựng một linh đạo linh mục: Bình an-Hiệp nhất-Bác ái.

3. Chọn lựa ưu tiên: người nghèo và người bị tổn thương

Ở đâu có người nghèo, ở đó có Chúa Giêsu. Những năm tới, tôi muốn dành thời gian và nguồn lực cho:

- người nghèo vật chất,

- người nghèo tinh thần,

- các gia đình đổ vỡ,

- người trẻ lạc hướng,

- người xa cách Hội Thánh,

- anh chị em dân tộc Khmer.

Người linh mục sẽ không bao giờ lầm đường nếu đặt người nghèo ở trung tâm sứ vụ.

4. Canh tân đời sống cầu nguyện và thiêng liêng

Hoạt động nhiều đến đâu mà quên đời sống thiêng liêng thì mọi sự sẽ trống rỗng. Tôi muốn kiên trì với những lựa chọn:

- Trung thành với giờ chầu Thánh Thể.

- Giữ giờ xét mình buổi tối.

- Tĩnh tâm cá nhân hằng tháng.

- Đặt mọi quyết định trên nền tảng Lời Chúa.

Đời linh mục được đo không bằng công trình, nhưng bằng trái tim đặt trước Thánh Thể.

5. Gieo rắc bình an-linh đạo xuyên suốt

Định hướng căn bản và trọn đời của tôi vẫn là: “Thầy để lại bình an cho anh em.”

Tôi muốn gieo bình an trong lời giảng, tạo bình an trong điều hành, mang bình an vào những nơi xung đột, trao bình an cho người lo âu, và sống bình an trong chính tâm hồn mình.

Tôi không ao ước những công trình lớn. Tôi chỉ mong để lại: những con người bình an hơn, nhờ tôi đã bước vào cuộc đời họ.

 

LỜI KẾT

CUỘC ĐỜI-ƠN GỌI-SỨ VỤ-TẤT CẢ LÀ HỒNG ÂN

Khép lại quyển sách này, lòng tôi dâng lên một xác tín sâu xa: Mọi sự trong đời linh mục đều là hồng ân nhưng không của Thiên Chúa.

Từ một cậu bé quê nghèo với giấc mơ đơn sơ, đến một chủng sinh đi qua bao thử thách; từ một linh mục phục vụ nhiều nơi, đến một cha sở, một quản hạt, một người mục tử cho cả anh chị em Kinh và Khmer… tất cả đều vượt quá khả năng và ước mơ của tôi.

Nếu có điều gì đẹp trong 25 năm qua, đó là Chúa đã dùng sự yếu đuối của tôi để biểu lộ sức mạnh của Ngài.

Nếu có điều gì tôi thấy bình an, đó là tôi đã cố gắng sống thật với ơn gọi của mình. Và nếu có điều gì tôi muốn tiếp tục, đó là sống để lại bình an cho mọi người tôi gặp.

Tôi xin tạ ơn Thiên Chúa.

Xin biết ơn gia đình, quý Đức cha, Qúy cha, bạn bè, giáo dân và tất cả những người đã nâng đỡ tôi.

Và tôi xin phó thác những năm tháng phía trước cho Chúa,  Đấng đã khởi sự nơi tôi và chắc chắn sẽ hoàn tất.

“Lạy Chúa, hồng ân Chúa chan hòa suốt đời con. Xin cho con mãi là khí cụ mang bình an của Chúa, để cuộc đời linh mục của con trở thành lời ca tạ ơn không ngơi nghỉ.” Amen.

  SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN III MÙA VỌNG Lm. Nguyệt Giang CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG A Is 35,1-6a.10; Gc 5,7-10; Mt 11, 2-11 Suy niệm 1: Hôm...