SUY
NIỆM LỜI CHÚA TUẦN V PHỤC SINH B
Lm Seoka
Tuần
này, phụng vụ Lời Chúa Bài đọc 1 tiếp tục mời gọi chúng ta đồng hành với Phaolô
và Barnaba trên những nẻo đường truyền giáo cho dân ngoại lần thứ nhất. Đoạn
sách Cvtđ hôm nay nói đến những buồn vui, sướng khổ khi thi hành sứ mạng truyền
giáo.
Vui
vì được nhiều người dân ngoại đón nhận Tin mừng của Chúa.
Sướng
vì những khả năng làm phép lạ do Chúa ban để củng cố niềm tin cho tín hữu và
góp phần thuận lợi cho việc loan báo Tin mừng.
Nhưng
bên cạnh đó cũng gặp rất nhiều đau khổ.
Khổ
vì bị hiểu lầm bởi dân ngoại, bị ghi kỵ, làm nhục và chống đối liên tục của
những người gốc Do Thái.
Đau
vì ném đá, bị bắt và bị đánh đập đến nữa sống nữa chết và bị trục xuất ra khỏi
thành của họ.
Nhưng
cho dù sướng hay khổ, vui hay buồn, thành công hay thất bại vẫn không làm sờn
lòng nản chí của tông đồ Phaolô và Barnaba. Bởi hai ông luôn ý thức truyền giáo
chính là lệnh truyền tâm quyết của Chúa Giêsu phục sinh trao ban cho các môn đệ
trước khi về trời: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm
phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần" (Mt 28,19). Loan
báo Tin mừng còn mang một giá trị cao quý gắn liền với đời sống của Phaolô, nếu
không thi hành sẽ rất là đau khổ: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng
Tin Mừng”(1 Cr 9,16).
Làm
chứng nhân cho Chúa là một vinh dự cao quý do Chúa Phục Sinh trao ban, nhưng
đây lại là nhiệm vụ đầy dẩy cam go thử thách. Để thi hành nhiệm vụ này Phaolô
và Barnaba đã phải hy sinh bằng mồ hôi, nước mắt và sức lực, ngay cả mạng sống
mình. Nhiệm vụ này không chỉ khó khăn đối với các tông đồ vào thời GH ban đầu,
nhưng ngày nay lại càng trở nên khó khăn hơn đối với GH bởi cuộc sống con người
hôm nay có quá nhiều rào cản... Nên đòi hỏi con cái GH phải nổ lực và hy sinh
thật nhiều.
Xin
cho chúng ta biết noi gương hai thánh tông đồ Phaolô và Barnaba mà góp phần
tích cực vào công cuộc truyền giáo của GH, cho dù gặp phải những chống đối, ghi
kỵ, loại trừ của thế gian, vì tin rằng Chúa luôn ở bên ta để nâng đỡ, bảo vệ,
dự liệu và ban ân sủng cho ta trong khi thi hành nhiệm vụ cao cả này. Như Lời
Chúa phán với Phaolô:“Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong
sự yếu đuối” (2Cr 12,9).
Để
dễ nắm bắt đoạn sách Cvtđ này, ta có thể chia làm 3 phần:
1.
Sự việc xảy ra tại Icôniô.
Sau
khi giũ bụi chân nhằm phản đối cách hành xử của những người gốc Do Thái tại
Antiokhia miền Pixiđia. Phaolô và Barnaba đến Icôniô. Dù đoạn tuyệt với
người Do Thái, nhưng hai ông vẫn gắn bó với hội đường. Tại đây hai ông tiếp tục
giảng dạy. Tương tự như những lần trước, tại đây bên cạnh thành công vì có rất
đông người Do Thái và Hy Lạp tin theo nhưng cũng có người không đón nhận, nên
họ mưu toan làm nhục và ném đá hai ông. Biết thế hai ông lánh sang các thành
miền Lycaonia: Lytra, Đécbê, và vùng phụ cận.
2.
Phép lạ tại Lýtra.
Tại
đây hai ông tiếp tục rao giảng và làm phép lạ chữa cho một người bại hai chân
từ lọt lòng mẹ được khỏi. Anh ta đứng dậy và đi được.
Lời
tung hô dân chúng sau phép lạ: sau khi chứng kiến phép lạ đã tung hô hai ông
như thần linh mặc lốt người phàm. Họ gọi ông Barnaba là thần Dớt (Zeus), ông
Phaolô là thần Hécme (Hermes), vì ông là người phát ngôn. Họ đã đem bò và vòng
hoa đến trước cổng thành, và cùng với đám đông, muốn dâng lễ tế.
(Zeus
và Hermes là hai thần của người Hy-lạp. Zeus được xem như vua của các thần
Hy-lạp, và quan thầy của những người làm nghề trồng cấy. Có lẽ vì lý do này mà
Phaolô muốn nói với dân thành: không phải Zeus ban mưa từ trời và mùa màng;
nhưng là chính Thiên Chúa ban. Hermes là con của Zeus với Maia; được xem là
quan thầy của những người lữ hành, tội nhân, và gái điếm. Hermes là sứ giả và
đem những sứ điệp của các thần cho con người.)
3.
Phản ứng của Phaolô và Barnaba.
-
Barnaba và Phaolô xé áo mình ra: Tỏ thái độ tức giận vì họ đã đặt mình ngang
hàng với TC và buồn phiền vì cảm thấy bản thân xúc phạm đến Thiên Chúa.
-
Sau đó hai ông giải thích cho họ hiểu rằng: “Chúng tôi đây cũng chỉ là
người phàm, cùng thân phận với các bạn”. Rồi kêu gọi họ: “hãy bỏ
những cái hão huyền này đi, mà trở lại cùng Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã tạo
thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó”.
Suy
niệm 2: Ga 14, 21-26.
Có
yêu nhau thì mới sẵn sàng lắng nghe và làm theo điều người yêu mình mong muốn.
Đứa con có yêu cha mẹ thì mới trân trọng lắng nghe lời cha mẹ khuyên dạy và vui
mừng thực hiện điều cha mẹ chỉ bảo. Cũng vậy chúng ta có yêu mến Chúa thì mới
nghe lời và sẵn lòng làm theo lời Chúa.
Không
phải bất cứ ai lãnh nhận bí tích rửa tội thì hẳn nhiên trở nên con cái đích
thực của Thiên Chúa. Nhưng để nên con cái đích thực của Chúa,
Trước
hết chúng ta phải có lòng yêu mến Chúa bằng cách đặt Chúa vào
vị trí cao nhất trong cuộc đời chúng ta. Ưu tiên chọn Chúa làm giá trị hàng đầu
trong cuộc sống.
Thứ
đến, yêu mến Chúa thì phải gắn bó với Chúa mật thiết. Định
luật tình yêu dạy ta hiểu rằng: Yêu ai thì ở gần người đó, yêu ai thì muốn ở
bên người đó và yêu ai thì muốn ở với và ở trong để trở nên một với người đó.
Cuối
cùng Chúa Giêsu cho biết dấu hiệu của những người có lòng yêu mến Chúa đích
thực đó là: tuân giữ lời Chúa. Thước đo của lòng yêu mến chúng ta
nhiều hay ít hệ tại ở việc chúng ta tuân giữ lời Chúa ít hay nhiều. Nếu chúng
ta nói chúng ta yêu mến Thiên Chúa mà chúng ta không thực hành lời Chúa dạy,
thì có khác gì đứa con “gọi dạ bảo vâng”, nhưng chỉ vâng vâng dạ dạ mà không
làm theo lời cha mẹ chỉ dạy, thì tình yêu đó chỉ là thứ tình yêu giả hình, thứ
tình yêu đầu môi trót lưỡi. Tình yêu đó chỉ là nhãn hiệu, là cái mác mà thôi.
Vì thế, Chúa Giêsu luôn nhấn mạnh đến lợi ích và giá trị của việc nghe và làm
theo lời Chúa: “ Nghe và thực hành lời Chúa giống như người khôn xây
nhà trên nền đá”; “ hãy làm theo lời Chúa chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính
mình”. Lý thuyết và thực hành phải đi đôi mới có ích lợi, vì “đức
tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 17).
Xin
Chúa cho chúng ta luôn hết lòng tuân giữ và thực hành lời Chúa bằng tình yêu
mến. Biết đặt Chúa vào vị trí quan trọng trong cuộc sống và sẵn sàng chọn Chúa
làm gia nghiệp đời ta. Làm được như thế chứng tỏ là chúng ta yêu mến Chúa và
xứng danh là con cái đích thực của Chúa.
Nhìn
lại trong suốt cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất của Phaolô và Barnaba,
chúng ta nhận thấy những điểm đáng chú ý sau:
-
Lòng nhiệt tâm truyền giáo của Phaolô và Barnaba: Hai ông miệt mài rao giảng
Tin mừng cho dân ngoại dù gặp phải biết bao nhiêu là khó khăn: Phải vượt qua
đường sá xa xôi, cách trở; kiên trì chịu đựng bao là nguy hiểm: chống đối, bắt
bớ, ghen tị, tù đày, ném đá …; luôn thao thức ra đi tìm đến những vùng đất mới
để gieo vãi hạt giống đức tin,.
-
Đến đâu rao giảng các ông cũng đều bị những người Do Thái kéo đến để chống phá.
Đoạn sách Cvtđ hôm nay là một ví dụ: "Bấy giờ có những người
Do-thái từ Antioch và Iconium đến Lystra, thuyết phục được đám đông. Họ ném đá
ông Phaolô rồi lôi ông ra ngoài thành, vì tưởng ông đã chết. Nhưng khi các môn
đệ xúm lại quanh ông, ông đứng dậy và vào thành. Hôm sau, ông trẩy đi Đécbê
cùng với ông Barnaba". Tại đây các ông tiếp tục rao giảng và giúp nhiều
người tin vào Chúa Giêsu.
-
Điều đáng nói là cứ sau một chuyến truyền giáo khi trở về Giêrusalem, Phaolô và
Barnaba đều ghé lại thăm viếng một số nơi mà các ông đã đi qua. Với mục đích là
khích lệ và củng cố đức tin cho họ; tổ chức lại cộng đoàn và chỉ định các kỳ
mục thay mặt các ông coi sóc và chăn dắt cộng đoàn; sau đó các ông cầu nguyện
và phó dâng các cộng đoàn cho Thiên Chúa.
-
Khi điểm lại hành trình truyền giáo lần thứ nhất này ta nhận thấy hai ông đã đi
qua tất cả 8 thành. (Bắt đầu từ Antiôkhia của Syria đến Xalamin và
Paphô của đảo Sýp, đến Pécghê, Antiôkhia của Pixiđia, đến Icôniô, Lýtra, Đécbê,
và theo đường cũ trở lại Pécghê, rồi từ Pécghê đến Áttalia, trở về Pécghê và
dùng thuyền trở về Antiôkhia của Xyria). Đây là cuộc hành trình ngắn
nhất trong 3 cuộc hành trình của Phaolô rao giảng Tin mừng cho dân Ngoại. Khi
trở về Antiôkhia, hai ông tập họp Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên
Chúa đã cùng làm với hai ông, và việc Người đã mở cửa cho các dân ngoại đón
nhận đức tin. Rồi hai ông ở lại một thời gian khá lâu với các môn đệ trước khi
bắt đầu cuộc hành trình thứ hai.
Tạ
ơn Chúa đã ban cho GH những nhà truyền giáo nhiệt tình, đã sẵn sàng chịu mọi
gian lao thử thách, ngay cả tính mạng, để gieo vãi hạt giống đức tin khắp mọi nơi.
Nhờ ơn Chúa mà hạt giống quý giá ấy được gieo vào lòng đất Việt Nam. Cha ông
chúng ta đã tiếp nhận, củng cố và nuôi dưỡng bằng máu nhờ thế mà hạt giống đức
tin được sinh hoa trái dồi dào. Xin cho chúng ta biết trân trọng bảo vệ, nuôi
dưỡng và gieo vãi hạt giống đức tin ấy khắp nơi và vào mọi tâm hồn, ngỏ hầu mọi
người đón nhận được niềm vui Tin mừng cứu độ của Chúa.
Suy
niệm 2: Ga 14, 27-31a.
Thiên
tai, dịch bệnh, nghèo đói, đam mê tội lỗi, hận thù ghen ghét… tất cả những mối
hiểm họa ấy như dâng tràn trong thế giới hôm nay, khiến cho lòng người đầy bất
an. Xin Chúa thương ban bình an của Chúa cho chúng con, sự bình an đích thực
trong tâm hồn như lời Chúa đã hứa.
Chưa
bao giờ con người lại phải đối diện trước những lo âu, bối rối, sợ hãi và bất
an như ngày hôm nay. Chiến tranh, thiên tai, bệnh tật… xảy ra hàng ngày. Thất
nghiệp, vật giá leo thang, trộm cắp… gia tăng đến mức báo động. Ly
dị, phá thai, bất trung, tệ nạn xã hội …không ngừng gia tăng. Vì thế hơn lúc
nào hết, con người ngày hôm nay luôn khao khát có được cuộc sống bình an. Để
chốn chạy nỗi lo sợ, buồn phiền, bất an, con người thường chỉ biết dựa vào của
cải vật chất để trấn an tâm hồn đấy bất an. Chẳng hạn như: Mua bảo
hiểm xe cộ, nhà cửa, nhân mạng, y tế…Hằng đêm mơ mộng để đánh con số đề, mua
tấm vé kiến thiết hy vọng bớt đi những lo âu về tiến bạc. Kẻ thì lao mình vào
rượu chè và những thú vui khác để tìm những phút giây thoải mái quên đi chuyện
đời. Người thì uống thuốc an thần để đi tìm giấc ngủ hy vọng quên đi những muộn
phiền. Kẻ đễ tin thì đi tìm thầy bói, thầy tướng, thầy số để kiếm tìm hậu vận
tương lai. Người giàu có thì gởi tiền vàng vào ngân hàng để được an tâm. Nhưng
tất cả việc làm ấy chỉ là giải pháp tạm thời, thiếu căn bản và không bền vững
nên không đem lại nguồn bình an đích thực cho tâm hồn. Vì thế Chúa Giêsu nói
với các tông đồ: “sự bình an của Thầy. Thầy ban
cho anh em không như thế gian ban tặng” (Ga 14, 27).
Bình
an của Ngài không phải là thứ bình an bên ngoài, giả tạo. Nhưng là bình an bên
trong, nghĩa là không giống như sự yên ổn hay hòa bình, vì yên ổn hay hòa bình
là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong.
Bình
an là tình trạng tâm hồn đang tương quan tốt với Thiên Chúa và tha nhân. Bình
an của Chúa là bình an khi có Chúa làm chủ đời sống mình, luôn tin tưởng, phó thác
và vâng theo ý Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc đời. Bình an của Chúa là có
một tâm hồn trong sạch, được giao hòa với Chúa và anh em. Bình an của Chúa ban
tặng còn được hiểu là bình an với anh em mình. Sống hoà thuận với nhau, không
thấy mình có điều gì làm phiền lòng anh em và thấy anh em không có điều gì làm
phiền lòng mình.
Chỉ
có bình an của Chúa mới làm cho chúng ta được hạnh phúc. Bởi vì bình an là
thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhờ thông hiệp mật thiết với Thiên Chúa
Cha nên Ngài luôn thấy bình an ngay khi kẻ thù đang đến gần và sắp giết chết
Ngài.
Thế
giới ngày hôm nay như đang sống trên một lò lửa. chíến tranh, khủng bố, thiên
tai, động đất, khủng hoảng kinh tế, ô nhiễm môi trường…, thế gian chưa có bình
an nên Bình An của Chúa Giêsu ban tặng vẫn còn nguyên giá trị cho nhân loại,
cho những tâm hồn đang khắc khoải tìm kiếm bình an trong cuộc sống. Mỗi người
phải có bình an của Chúa mới có thể sống an bình với mọi người. Muốn có bình an
ở bình diện lớn thì phải bắt đầu từ những bình diện nhỏ, là nơi mỗi người chúng
ta. Không ai cho cái mình không có. Sự bình an bắt đầu từ lòng mình rồi mới lan
tỏa ra xã tắc nhân quần, như cổ nhân nói: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ”.
Suy
niệm 1:
Sau
một thời gian thi hành sứ mạng loan báo tin mừng, Chúa Giêsu gây được nhiều
tiếng vang và được dân chúng đó đây rất ngưỡng mộ về giáo lý và những phép lạ
Ngài làm. Tuy nhiên, hôm nay khi trở về quê hương xứ sở để thi hành sứ vụ, thì
Chúa Giêsu lại bị những người đồng hương Nazareth khướt từ và đối xử tệ bạc.
Đâu là nguyên nhân dẫn đến thái độ khướt từ và hành xử tệ bạc ấy của dân làng
Nazareth? Xét cho cùng cũng bởi hai chữ “tại vì”.
-
Tại vì Chúa Giêsu không có bằng cử nhân, tiến sĩ trong tay nên khi hành nghề
giảng dạy thánh kinh, Giáo lý, hay giáo luật…nên đã bị làng Nazareth xem thường
và phản đối. Phải chi Chúa Giêsu giảng dạy về kỷ thuật đóng bàn ghế, cất nhà…
thì còn dễ chấp nhận.
-
Tại vì Chúa Giêsu sinh ra và lớn lên trong một gia đình quá nghèo. Con của bác
thợ mộc Giuse và cô Maria quê mùa không nghề nghiệp trong tay, không của hồi
môn nên làm sao có của dư của để. Gía như Chúa Giêsu là con của một đại gia,
thì đâu nổi bị dân làng xúc phạm.
-
Tại vì Chúa Giêsu không có bà con thân thuộc làm chức cao quyền
trọng nên làm sao được ngưỡng mộ. Bà con họ hàng của Ngài chỉ là những người
chân lấm tay bùn. Chẳng có ai giàu sang quyền quý. Gía như Chúa Giêsu là con
ông cháu cha (CÔCC), thì tiếng vỗ tay, tét đùi tán thưởng của dân làng Nazareth
sẽ vang dậy không ngừng trước những lời hay ý đẹp được thốt ra từ miệng Ngài
hôm ấy rồi!
Tắt
một lời, “tại vì” họ biết rất rõ về lý lịch trích ngang của Chúa
Giêsu, một lý lịch được xếp vào “hạng tồi”. Nên không lạ gì họ
chối từ, không tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế.
Ngày
nay Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị coi thường, hất hủi, loại trừ nơi những người
nghèo khổ, bệnh hoạn tật nguyền; nơi những người thấp cổ bé miệng, không có địa
vị gì trong xã hội, đặc biệt là trong thời đại toàn cầu hóa hôm nay. Khi mà mọi
thứ đều được đánh giá dựa trên đồng tiền, trên tiện nghi vật chất, thì Chúa
Giêsu nơi những người nghèo hèn vẫn còn bị coi rẻ.
Khi
mà người ta quá coi trọng địa vị bằng cấp, thì Chúa Giêsu nơi những người kém
cõi ít học vẫn bị khinh thường. Khi mà xã hội quá đề cao thân thế chức quyền,
thì Chúa Giêsu nơi những người cô thân cô thế vẫn còn bị hất hủi chà đạp. Đâu
là những tiêu chuẩn tôi thường dựa vào để đánh giá người khác? Tôi có thường bị
óc thành kiến, ác cảm chi phối mà đánh giá người khác một cách bất công không?
Thái độ của tôi thế nào đối với những người nghèo khổ bệnh tật bất hạnh?
Ước
gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta gạt bỏ cái nhìn hẹp hòi và trần tục, để mặc
lấy cái nhìn đức tin, cái nhìn siêu nhiên: cái nhìn giúp ta nhận ra Chúa Kitô
nơi những nghèo khổ, thấp hèn, bệnh tật, khổ đau… để biết tôn trọng và đón nhận
họ như đón nhận chính Chúa. Amen.
Suy
niệm 2:
Thái
độ khướt từ Chúa Giêsu của dân làng Nazareth xưa nhắc nhở chúng ta cần phải
duyệt xét lại thái độ sống đạo hôm nay.
Có
những anh chị em tân tòng nhưng đời sống đạo của họ rất tốt. Trái lại, có những
người vỗ ngực xưng mình là đạo dòng, thì lại có đời sống đức tin hết sức là yếu
kém. Phải chăng “sống lâu lên lão làng?”
Có
những giáo dân gần gũi nhà thờ, được dễ dàng lãnh nhận các bí tích, nhưng lại
thờ ơ. Trái lại có những giáo dân ở xa nhà thờ lại siêng năng chuyên chăm
tham dự thánh lễ và lãnh nhận các bí tích. Phải chăng “quen quá hóa nhàm?”
Có
những giáo dân miệng luôn ca ngợi việc làm của cha này, cha kia. Trong khi đó
lại xem thường những việc làm của cha sở mình, để rồi không hề góp phần cộng
tác xây dựng họ đạo nhà. Phải chăng “gần chùa gọi bụt bằng anh?”
Có
những người chỉ thích đi khấn vái nơi này nơi kia, nhưng chính nhà thờ của mình
thì chẳng bao giờ xem trọng. Vì thế ít khi thấy bén mảng tới để cầu nguyện,
khấn xin. Phải chăng “bụt nhà không thiêng?”.
Nếu
có những thái độ và những biểu hiện như thế là chúng ta lại đi vào vết xe củ
của dân làng Nazareth xưa.
Thành kiến
có thể làm cho chúng ta mù quáng không nhận định và phê phán một cách khách
quan đúng đắn được. Thành kiến làm cho chúng ta không thể đối thoại, cởi mở với
người khác và không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi anh em.
Xin
Chúa cho chúng ta biết can đảm dẹp bỏ những thành kiến để nhận ra giá trị
đích thực của cuộc sống. Nhất là nhận ra những mặt tích cực và cao đẹp nơi
những người anh em bé nhỏ. Amen
Công
cuộc truyền giáo cho dân ngoại của Phaolô và Barnaba luôn vấp phải phải những
khó khăn và sự chống đối.
-
Khó khăn trong chọn lựa: cần phải giữ những gì và nên bỏ những gì khi người dân
gốc Do Thái và dân ngoại gia nhập Kitô giáo? Cụ thể là 2 vấn đề chính: Dân
ngoại có phải cắt bì và giữ Lề Luật như người gốc Do Thái khi tin theo Kitô
Giáo không? Nếu buộc dân ngoại tuân giữ thì lại ảnh hưởng đến truyền thống văn
hóa của họ. Còn nếu chuẩn miễn thì gặp phải sự chống đối của người gốc Do Thái.
-
Chống đối bởi người Do Thái: Đọan sách Cvtđ hôm nay nói đến sự chống đối quyết
liệt của người Do Thái nhằm bảo vệ quan điểm mình. Họ từ Giuđa đã đến tận
Antiôkhia để tỏ thái độ chống đối Phaolô và Barnaba bằng cách buộc những tín
hữu gốc dân ngoại phải cắt bì: "Nếu anh em không chịu phép cắt bì
theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ". Chính vì
lý do này đã khiến cho Phaolô và Barnaba phản ứng lại mạnh mẽ với họ. Cuối
cùng, Phaolô và Barnaba cùng với một vài người khác phải về Giêrusalem gặp các
Tông đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh luận này.
Điều
này làm cho chúng ta nghĩ đến việc truyển giáo tại quê hương Việt Nam lúc đầu
cũng gặp nhiều khó khăn, nhất là trong việc thờ cúng tổ tiên. Nhưng tạ ơn Chúa
vì Giáo Hội chúng ta đã nhận ra và đã hội nhập dễ dàng nên công cuộc truyền
giáo tại Việt Nam đã lan tỏa nhanh chóng.
Là
người Việt Nam, xin cho chúng ta biết trân quý những giá trị truyền thống, văn
hóa tốt đẹp của cha ông để lại. Tuy nhiên, nếu có sự khác biệt không thể dung
hòa giữa truyền thống dân tộc và đức tin, chúng ta cần tìm đến ánh sáng Lời
Chúa soi dẫn, nhất là đến những nhà hữu trách để được hướng dẫn để chúng ta có
cách ứng xử theo đúng ý muốn của Chúa và GH.
Suy
niệm 2: Ga 15,1-8.
Chúa
Giêsu dùng hình ảnh quen thuộc là cây nho, để nói lên sự gắn kết sâu xa giữa
Ngài với Chúng ta. Vì tình yêu Chúa Giêsu ở lại với chúng ta và mong muốn chúng
ta ở lại trong Ngài để tiếp nhận sự sống dồi dào Ngài thông truyền cho chúng
ta. Nhờ thế chúng ta mới có thể trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành dâng cho Chúa
và dành cho nhau.
Tin
mừng hôm nay, Chúa Giêsu sánh ví Ngài như là cây nho được Chúa Cha trồng xuống
thế gian. Chúng ta được ví như là những cành kết hiệp trong cùng một cây nho là
Chúa Giêsu.
Mục
đích của người trồng nho là để thu hoạch hoa trái. Nên các cành của cây nho
phải sinh nhiều hoa trái thì mới làm vui lòng ông chủ. Khi sánh ví chúng ta là
cành nho thì đồng thời Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta sinh nhiều
hoa trái là các việc lành phúc đức để Thiên Chúa được vinh hiển.
Nhưng
để cành nho sinh nhiều hoa trái, cần phải có hai điều kiện:
Thứ
nhất gắn liền với thân nho. Cành nào càng gắn kết với với thân nho thì
càng tươi tốt và sinh nhiều hoa trái.
Cũng
vậy để có đời sống sung mãn và sinh nhiều hoa trái thiêng liêng tốt
lành. Chúng ta phải liên kết chặt chẻ với Chúa Giêsu bằng đời sống cầu nguyện
và năng nhận lãnh các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể.
Thứ
hai phải được chăm sóc và chịu cắt tỉa. Niềm vui của người trồng nho
là vườn nho ông trồng sinh thật nhiều hoa trái tốt. Vì thế chủ vườn nho không
ngừng chăm sóc và cắt tỉa.
Cũng
vậy, để sinh thật nhiều hoa trái tốt lành, Thiên Chúa không ngừng
chăm sóc chúng ta bằng Giáo huấn và các Bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể,
đồng thời Chúa cũng hằng cắt tỉa chúng ta bằng cách cho phép sự dữ, thử
thách, thất bại và đau khổ… xảy ra trong cuộc sống. Việc làm đó là cần thiết để
ta chiến đấu không ngừng, hầu mỗi ngày nên thanh sạch và mạnh mẻ hơn.
Xin
cho chúng ta biết sống gắn bó mật thiết với Chúa và với nhau, luôn tin tưởng
phó thác vào ơn ban của Chúa; nhất là can đảm để Chúa cắt tỉa đời mình mỗi
ngày. Nhờ thế, cuộc sống ta mới có thể sinh được nhiều hoa trái tốt lành mà
phụng sự Chúa và phục vụ ích lợi cho nhiều người.
Bài
đọc 1, sách công vụ tông đồ hôm nay đề cập đến cuộc xung đột xảy ra giữa Phaolô
và Barnaba với những tín hữu gốc Do Thái, và hướng giải quyết của Hội Thánh.
1.
Xung đột xảy xa.
Như
chúng ta biết hành trình truyền giáo lần thứ nhất của Phaolô và Barnaba gặp
phải một khó khăn lớn, phát xuất từ hai phía:
-
Từ phía dân ngoại: Họ cũng có những văn hóa truyền thống tốt đẹp của cha ông họ
cần phải tôn trọng.
-
Từ phía tín hữu gốc Do Thái giáo: Họ cũng muốn gìn giữ bảo vệ những tập tục và
luật lệ truyền thống của cha ông họ như: cắt bì, ăn thịt cúng, và luật Môsê.
Để
hội nhập vào nền văn hóa của dân ngoại, Phaolô và Barnaba đã chuẩn miễn cho
những người tin theo Chúa gốc ngoại giáo không phải cắt bì và giữ luật Môsê.
Nhưng việc này đã gây ra sự chống đối mạnh mẽ đối với tín hữu gốc Do Thái. Họ
đã đến giáo đoàn Antiôkhia tuyên truyền rằng: (1) Phaolô và Barnaba không phải
là người hợp pháp do các tông đồ từ cộng đoàn mẹ Giêrusalem gửi đến và kêu gọi
mọi người đừng nghe theo. (2) Để được cứu độ không chỉ tin vào Chúa Giêsu mà
còn phải cắt bì và giữ luật Môsê nữa. Chính vì thế mà đã xảy ra xung đột nảy
lửa giữa Phaolô, Barnaba với những người tín hữu gốc Do Thái.
2.
Cách giải quyết xung đột.
Các
tông đồ triệu tập họp công đồng chung tại Giêrusalem, để lắng nghe tiếng nói
mọi người, nhằm đưa ra những quyết định thực hành.
-
Lắng nghe:
Lời
phát biểu của Phêrô là tông đồ trưởng: ông nhắc lại kinh nghiệm mà ông có được
khi là người đầu tiên được TC mời gọi đem Tin Mừng cho dân ngoại, cụ thể là gia
đình ông Cornêliô. Rồi khuyên mọi người đừng “quàng vào cổ các môn đệ
một cái ách”. Với lời khẳng định nhờ tin vào Chúa Giêsu mà được cứu độ
chứ không phải chỉ giữ lề luật: “chính nhờ ân sủng Chúa Giêsu mà chúng
ta tin mình được cứu độ”.
Lời
phát biểu của Phaolô và Barnaba: Hai ông chỉ kể lại những biến cố mà hai ông
trãi qua trong quá trình truyền giáo. Cho thấy chính Thiên Chúa đã dùng hai ông
để rao giảng, làm dấu lạ cho dân ngoại và họ đón nhận ra sao. Tất cả như để xác
tín và củng cố cho lập trường của Phêrô.
-
Hướng giải quyết.
Tông
đồ Giacôbê, Giám mục Giêrusalem đã dung hòa bằng phán quyết: Không được gây
phiền hà cho các tín hữu gốc dân ngoại, nghĩa là không đòi buộc họ cắt bì và
giữ luật Môsê. Khuyên họ giữ một ít tập tục: kiêng thức ăn ô uế, tránh gian
dâm, kiên găn tiết hay loài vật không cắt tiết (vật chết ngạt).
Lời
đề nghị này đã làm hài lòng các tín hữu gốc dân ngoại cũng như gốc Do Thái.
Đời
sống đạo của chúng ta có lúc cũng gặp phải những khó khăn, ước gì chúng
ta cũng biết tìm đến các vị hữu trách để xin sự hướng dẫn của các ngài. Cũng
vậy nếu trong đời sống gia đình hay cộng đoàn chẳng may xảy ra xung đột, ước gì
chúng ta cũng biết bình tỉnh ngồi lại để lắng nghe và thông cảm cho nhau. Nhất
là biết dựa trên giới luật tình yêu của Chúa và giáo huấn của GH mà tìm đến lợi
ích chung trong đời sống.
Suy
niệm 2: Ga 15, 9-11.
Người
đời thường nói: “Yêu là khổ, không yêu thì lỗ, thà chịu khổ chứ không chịu lỗ”.
Nhưng cái khổ lớn nhất không phải là yêu mà là bị người mình yêu từ chối tình
yêu. Đúng vậy, yêu mà bị phản bội thì đau tê tái lòng. Chúa Giêsu đã yêu thương
chúng ta đến nỗi đã thí mạng mình vì chúng ta và mong muốn chúng ta đáp lại
tình yêu của Ngài. Nhưng nhân loại hình như đã hững hừ trước tình yêu của Chúa.
Vì thế Ngài tha thiết kêu mời chúng ta: “Anh em hãy ở lại trong tình yêu của
Thầy”, bằng cách tuân giữ giới răn của Ngài. Khi ấy ta cảm nhận được niềm vui
trọn vẹn.
Tin
mừng hôm nay Chúa Giêsu tha thiết mời gọi: “Anh em hãy ở lại trong tình
thương của Thầy”. Chúa Giêsu là tình yêu hữu hình của Chúa Cha dành
cho chúng ta những người con yêu dấu của Chúa. Chính tình yêu, Chúa Giêsu chấp
nhận sinh ra mang thân phận con người để ở giữa loài người chúng ta; chính tình
thương, Chúa Giêsu đã chấp nhận chịu đói, chịu khát… và bôn ba đi khắp các nẻo
đường đất nước Do Thái để rao giảng Tin mừng, làm phép lạ cứu chữa những ai đau
khổ; cũng chính vì yêu, Chúa Giêsu chấp nhận đi vào con đường thập giá chịu đau
khổ và sẵn sàng đón nhận cái chết đau đớn trên thập giá vì tội lỗi chúng ta.
Rồi Chúa đã phục sinh vinh hiển mang đến niềm vui sống lại cho tất cả chúng ta.
Nhưng vì muốn ở lại mãi với con người, Chúa Giêsu đã ban lời giáo huấn và giới
luật yêu thương. Chúa cũng thiết lập các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể, qua
đó ở lại mãi với chúng ta.
Tình
yêu Chúa thật quá cao vời. Sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ, hy sinh và cả tính
mạng để được “ở lại” với con người chúng ta. Vì thế, Chúa cũng mong mỏi chúng
ta đáp lại tình yêu của Ngài nên tha thiết mời gọi: Hãy ở lại trong
tình thương của Ngài”.
Ở
lại trong tình thương của Chúa được thể hiện qua việc tuân giữ giới răn của
Ngài. Bởi lẽ thánh Phao-lô trong gửi tín hữu Rôma đã nói: “Không
sống theo luật, luật mới do Thánh Linh là sống phản với Thánh Linh, mà Thánh
Linh chính là tình yêu Thiên Chúa”. Thánh Gioan cũng nói: “Ai giữ
luật Chúa thì ở lại trong Ngài và Ngài ở lại trong kẻ ấy”. Không ai có thể
nói tôi yêu mến Chúa mà không thực hiện lời Ngài.
Kinh
nghiệm cho thấy: khi tôi yêu mến ai thì bất cứ việc to, việc nhỏ, việc nặng,
việc nhẹ người ấy nhờ tôi, tôi sẵn sàng làm, có khi người ấy không nhờ tôi cũng
làm miễn sao đẹp lòng người mình yêu. Như thế muốn ở lại trong tình yêu Chúa,
chúng ta phải thực hành lời Chúa. Nghĩa là thực hiện điều Chúa truyền dạy, mà lời
dạy của Chúa là giới răn yêu thương. Trung thành sống trọn tình mến Chúa, yêu
người là ta đã ở lại trong Chúa và khi đó chúng ta sẽ được Chúa ban cho niềm
vui trọn vẹn là được sống mật thiết với Chúa ngay ở đời này và mãi đời sau.
Suy niệm 1:
Cùng GH, hôm nay chúng ta mừng kính hai
thánh tông đồ Philipphê và Giacôbê. Để tiếp nối sứ mạng loan báo tin mừng cứu
độ, Chúa Giêsu đã chọn gọi hai ông vào danh sách 12 tông đồ thân tín của Người. Sau khi xác tín được Chúa Giêsu chính“là
đường, là sự thật và là sự sống”, hai ông đã bỏ lại mọi sự mà dấn thân cho Chúa
đến cùng để làm chứng cho Tin mừng cứu độ cho dẫu phải hy sinh mạng sống mình.
Xin cho chúng ta cũng biết noi gương hai ngài luôn kiên vững trong niềm tin
và can đảm hy sinh làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày.
Dựa vào Phúc âm, chúng ta biết rất ít về lý
lịch của hai vị tông đồ này.
1. Trước hết là thánh Philipphê: Thánh
kinh cho biết ngài là người cùng quê với thánh Phêrô và Anrê sinh tại
Betsaiđê, một làng trên bờ biển Tibêriát (Ga 1, 43-44). Trước đây ngài theo
thánh Gioan Tẩy Gỉa. Sau này có lẽ được thánh Gioan Tẩy Gỉa giới thiệu với Chúa
Giêsu. Sau đó, ông đã đến với Chúa Giêsu để tìm hiểu và đã bị Chúa Giêsu hấp
dẫn nên ông đã trở thành một trong những tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu. Dựa
vào những lần Phúc âm đề cập đến ngài, ta có thể nhận ra nơi thánh Phillipphê
hai tính cách nổi bật:
- Vai trò trung gian: Thánh Philipphê có tài làm trung gian giới thiệu Chúa
cho mọi người: (1) vừa khi được Chúa kêu gọi và sau khi đã tin vào Chúa Giêsu,
ông đã tìm đến Nathanael để giới thiệu về Chúa Giêsu cho Nathanaen cũng được
diễm phúc làm môn đệ Chúa sau đó (x.Ga 1,45). (2) Khi những người Hy lạp hành hương về Giêrusalem để dự
lễ Vượt qua, họ muốn gặp Chúa Giêsu, cũng chính Philipphê cùng Andrê dẫn họ đến
gặp Chúa Giêsu (Ga
12, 20 – 33). (3) Tin mừng hôm
nay cũng cho thấy chính ngài giữ vai trò trung gian để xin Chúa Giêsu tỏ cho ngài và các Tông đồ được thấy Đức Chúa Cha và
Chúa Giêsu đã trả lời: "Ai thấy Ta là thấy Chúa Cha". (Ga 14,7-9).
- Là người rất trung thực và cụ thể: Khi giới
thiệu với Nathanaen về Chúa Giêsu mà ông đã tin nhận là Đấng Kitô. Ông không
dài dòng để thuyết phục Nathanaen nhưng rất thực tế là kêu gọi Nathanaen: "Cứ
đến mà xem!"(Ga 1,46).
Trước khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi
năm ngàn người đàn ông ăn no nê dư 12 thúng đầy, Chúa Giêsu đã hỏi riêng
Philipphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?” (Ga 6, 5). Rất thực tế Philipphê trả lời: "Thưa có mua đến 200 đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút" (Ga 6,7).
Người ta cho rằng Philípphê là con người sống
hiện thực, giống như thánh Tôma tông đồ, bởi ông cũng đòi phải được xem tận
mắt, sờ tận tay về Chúa Cha mới mãn nguyện. Hơn nữa ông còn là con người có đầu
óc tính toán rất thực tế.
Nhưng sau ngày nhận lãnh Thánh Thần, ngài đã
đem đức tin lại cho toàn thể dân thành Sitti. Sau đó, ngài đến giảng dạy ở
Hiêrapoli, xứ Rigie và chịu đóng đinh vì danh Chúa. Xác ngài được các tín hữu ở
đó mai táng, sau được đem về Rôma đặt bên mồ thánh Giacôbê.
2. Thứ hai về thánh Giacôbê: Trong
danh sách 12 tông đồ có đến 2 tông đồ tên Giacôbê. Giacôbê được mừng kính hôm
nay là Giacôêe hậu (gọi ngài như thế là để phân biệt với thánh Giacôbê
con ông Alphê). Ngài là anh em họ với Chúa Giêsu. Ngài làm
Giám Mục đầu tiên cai quản thành Giêrusalem.
Trong công đồng chung thứ nhất họp tại
Giêrusalem, Sách Cvtđ cho biết ngài đã viết bức thư kêu gọi người Do Thái đừng
đặt lên vai dân ngoại một gánh nặng nào nữa với quyết định bãi bỏ luật cắt bì
đối với dân ngoại, và kêu gọi họ giữ một số điều như: tránh gian dâm, không
được ăn tiết và đồ đã cúng. Quyết này cho thấy ngài là một con người hài hòa
biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến mọi người, biết dug hòa và rất nhạy bén
thích ứng Tin mừng cho phù hợp với thời đại.
Vì trung thành với đức tin, ngài bị bọn Biệt
Phái và một số người cứng lòng tố cáo và kết án. Ngài bị chúng xô từ trên nóc
đền thờ xuống và ném đá cho đến chết. Trước khi chết, ngài còn quỳ gối cầu
nguyện xin Chúa tha thứ cho kẻ thù của mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có được
những đức tính đáng quý của hai thánh tông đồ: Biết sống chân thành, hòa đồng,
quan tâm và cởi mở với mọi người nhằm trở nên chiếc cầu vững vàng đưa dẫn nhiều
người đến với Chúa.
Xin cho chúng ta cảm nếm được tình yêu ngọt
ngào của Chúa dành cho chúng ta. Để từ đó chúng ta tích cực hơn cho việc dấn
thân loan báo tin mừng tình thương của Chúa cho hết mọi người theo tinh thần
của hai thánh tông đồ chúng ta mừng kính hôm nay.
Suy niệm 2:
Khi xây một ngôi nhà, trước
hết trong đầu chúng ta phải có mô hình, rồi mới thể hiện mô hình đó ra bản vẽ,
sau đó chúng ta mới dựa vào bản vẽ đó mà thực hiện. Tương tự như thế, để xây
dựng người con Chúa, ta phải theo mô hình. Mô hình đó là Đức Giêsu Kitô, Con
Thiên Chúa, Ngài “là đường, là sự thật và là sự sống”.
Thánh Philipphê và Giacôbê
đã nghe lời Chúa và đã xây dựng con người mình theo mô hình Đức Giêsu Kitô nên
đã được thừa hưởng gia tài hạnh phúc nước trời. Xin cho chúng ta cũng biết xây
dựng đời mình theo mô hình Đức Giêsu Kitô theo gương hai thánh Philipphê và Giacôbê
tông đồ.
Ước nguyện được nhìn thấy Thiên
Chúa không chỉ là ước nguyện của Philipphê và các tông đồ, nhưng còn là ước
mong của mỗi chúng ta.
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu
đáp ứng mong ước đó của chúng ta bằng cách cho biết chính Người là hiện thân và
là Thiên Chúa: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”; “Thầy ở trong Chúa Cha
và Chúa Cha ở trong Thầy”. Do đó, lời Người nói là nói lời Chúa Cha; những
việc làm của Người chính là Chúa Cha làm trong Người. Nếu ai tin vào Người thì
sẽ làm được những việc Người làm và còn lớn lao hơn nữa, vì Người về cùng Chúa
Cha và sẽ ban ơn cho những ai tin vào Người.
Theo Đức Dalai-Lama có một điều
cần quan tâm trong giáo dục. Ngài nói: “trong Phật giáo, khi nói đến giáo huấn
hay giáo thuyết, chúng tôi nhìn ở hai mức độ: (1) Mức độ thứ nhất liên quan đến
các bản văn. (2) Mức độ thứ hai liên quan đến sự thể nghiệm. Liên quan đến sự
thể nghiệm, điều rất quan trọng là một người muốn dạy người khác, thì chính
mình phải có kinh nghiệm tối thiểu về điều mình giảng dạy, phải hoàn tất đoạn
đường nào đó trong sự thể nghiệm thiêng liêng. Như thế nó hoàn toàn khác với
loại hình truyền thông khác, khi người ta kể lại câu chuyện lịch sử hoặc một sử
gia tuờng thuật lại những biến cố đã qua. Trong trường hợp đó, người ta kể lại
sự kiện mà không hề sống. Còn việc giảng dạy về đời sống tâm linh, điều thiết
yếu là người giảng dạy phải có một chút thể nghiệm và kinh nghiệm bản thân”.
Chúa Giêsu không chỉ thể nghiệm
mà Người còn là mô hình là khuôn mẫu để mọi người noi theo “Thầy là
đường là sự thật và là sự sống”. Chỉ những ai tin nhận và xây dựng cuộc
sống mình trên mô hình Đức Giêsu Kitô thì mới có được sự sống đời đời.
Xin cho chúng ta biết xây
dựng đời kitô hữu mình trên khuôn mẫu là Đức Giêsu Kitô. Nghĩa là khi nói phải
nói lời của Chúa. Khi làm thì làm việc trong Chúa, như Chúa và vì Chúa. Trong
mọi sự luôn tin nhận và đi theo con đường Chúa Giêsu hướng dẫn.
Để
dễ nhớ đoạn sách Cvtđ hôm nay, ta có thể chia đoạn này làm hai phần:
-
Phần đầu: liệt kê danh sách phái đoàn được các tông đồ và kỳ mục của
Hội Thánh Giêrusalem cử đến Antiôkhia gồm có: Ngoài Phaolô và Barnaba,
còn có ông Giuđa và Xila là những người có uy tín trong Hội Thánh. Khi đến nơi,
các ông triệu tập cộng đoàn lại để công bố bức thư.
-
Phần thứ hai: nội dung của bức thư, gồm ba điểm:
1.
Lời chào thăm của các tông đồ và kỳ mục gửi đến anh em gốc dân ngoại tại
Antiokhia, tại Xyria và Kilikia. Ngay sau đó là 3 lời xác nhận chính thức: (1)
Những người Do Thái đến gây rối trước đây làm xáo trộn và gây hoang mang cho
các tín hữu là những người bất hợp pháp. (2) Phaolô và Barnaba chính là người
anh em thân mến với chúng tôi và đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giê-su
Ki-tô, Chúa chúng ta. (3) Xác nhận ông Giuđa và Xila chính là người được Hội
Thánh cử đến để trình bày trực tiếp về những quyết định của công đồng.
2.
Quyết định chính thức của Công đồng dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần như
sau: Không bắt tín hữu gốc dân ngoại cắt bì và giữ luật Môsê, nhưng khuyên giữ
vài điều cần thiết như: tránh gian dâm, không uống tiết, không ăn thịt không
cắt tiết và đồ cúng cho ngẫu tượng.
3.
Cuối cùng là lời khuyên nhủ họ cẩn thận giữ những điều mà Hội Thánh hướng dẫn
và chúc họ được an mạnh.
*
Sau khi nghe xong bức thư, họ vui mừng vì lời khích lệ đó.
Những
xung đột xảy ra trong cuộc sống là không tránh khỏi. Ngay trong cộng đoàn Họ
đạo hay gia đình cũng thường xuyên xảy ra. Vậy ta làm thế nào để giải quyết êm
đẹp những xung đột ấy? Sách Cvtđ hôm nay gợi mở cho chúng ta đường hướng tốt
nhất:
-
Trước tiên, cùng nhau ngồi lại để tìm cách giải quyết vấn đề.
-
Thứ đến, theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để tìm ra đâu là sự thật nền tảng mọi
người phải giữ, những gì có thể dung hòa, và những gì có thể chuẩn chước được.
-
Sau đó, phải khiêm nhường bỏ thói quen của mình, hy sinh chấp nhận ý kiến
chung, và giải quyết vấn đề trong tình yêu thương anh em; chứ không ra lệnh
theo thói cha ông.
Xin
Chúa cho chúng ta luôn biết khiêm tốn nghe theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để
tìm ra sự thật. Nếu mình có sai trái, lỗi lầm thì can đảm nhận lỗi mà sửa đổi.
Nếu người khác có sai trái thì hãy dùng tình thương mà sửa lỗi cho nhau theo
lời dạy của Chúa và tinh thần của Công đồng Giêrusalem.
Suy
niệm 2: Ga 15, 12-17.
Trước
khi về cùng Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã để lại cho các môn đệ cũng như cho
tất cả chúng ta lời nhắn nhử yêu thương: “Đây là điều răn của Thầy: anh em
hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Yêu
thương theo lệnh truyền của Chúa không chỉ là yêu thương người thân cận như
chính mình. Nhưng là yêu thương tất cả mọi người không phân biệt bạn hay thù
bằng một tình “yêu như Chúa yêu”. Yêu nhưng không và sẵn sàng hy
sinh ngay cả mạng sống cho người mình yêu. Xin cho chúng ta có được tình yêu
như Chúa để xứng đáng được gọi là bạn hữu của Chúa.
“Anh em
hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. (Ga
15, 12). Yêu thương nhau không thôi thì chưa đủ, Chúa Giêsu
muốn các môn đệ của Ngài, trong đó có tôi và bạn, phải yêu như Ngài yêu! “Yêu
như Chúa yêu” là biết chấp nhận tất cả những cái hay cái dở,
những tính hư nết xấu và tất cả những sự bất toàn và yếu đuối … của tha nhân.
Yêu
thương như Thầy là phải biết kiên nhẫn trước những yếu đuối lỗi lầm, trước
những giới hạn về niềm tin cũng như về mặt nhân bản của tha nhân.
Yêu
như Chúa Giêsu là biết quan tâm tới những nhu cầu cần thiết của tha
nhân. Sự quan tâm ấy không phải chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng những
hành động rất cụ thể và thiết thực.
Chính
Chúa Giêsu đã yêu chúng ta nên đã chấp nhận, kiên nhẫn trước tất cả mọi ưu
khuyết điểm: cái hay cũng như cái dở, cái đẹp cũng như cái xấu, cái giỏi cũng
như cái dở của chúng ta. Ngài đã không ngừng quan tâm và đáp ứng lại những nhu
cầu chính đáng và không ngừng mời gọi chúng ta hãy noi gương bắt chước Ngài
bằng một tình yêu như Ngài yêu ta.
Làm
thế nào để việc loan báo Tin mừng có kết quả tốt đẹp? Đoạn sách Cvtđ hôm nay sẽ
soi sáng cho chúng ta một vài gợi ý quý giá:
1.
Biết quan tâm gắn kết giáo đoàn địa phương với hội thánh.
Sau
khi chia tay với Barnaba tại Antiôkhia, Phaolô chọn Xila để trở lại thăm viếng
các giáo đoàn cũ như Đécbê và Lýtra. Tại đây ông bố về những quyết định của
công đồng Giêrusalem liên quan đến các tín hữu gốc dân ngoại như: không đòi
buộc họ phải cắt bì và giữ luật Môsê nữa, nhưng phải giữ một số tập tục
như kiêng thức ăn ô uế, tránh gian dâm và kiêng ăn tiết hay loài vật không cắt
tiết. Tại mỗi nơi các ông đến thăm viếng, điều quan trọng các ông quan tâm là
truyền lại cho họ những chỉ thị của công đồng Giêrusalem ban bố, để họ tuân giữ
và khuyên nhủ họ. Nhờ đó mà “các Hội Thánh được vững mạnh trong đức tin
và mỗi ngày thêm đông số".
2.
Tìm kiếm nhân sự để đào tạo cho cộng tác truyền giáo.
Trở
lại Lytra Phaolô đã tìm thấy Timôthê, mẹ ông là người Do-thái đã tin Chúa, còn
cha là người Hy-lạp. Ông được các anh em ở Lytra và Icônia chứng nhận là tốt.
Nên Phaolô muốn Timôthê cộng tác truyền giáo với mình. Phaolô đã đem ông đi làm
phép cắt bì.
Tại
sao phải cắt bì vì công đồng Giêrsalem đã bãi bỏ? Có nhiều lý do: (1) đã được
nói ở đây là vì nể các người Do-thái ở những nơi ấy. (2) Vì mẹ của anh ta là
người Do Thái nên con sinh ra phải giữ luật Do Thái. (3) Nhằm giúp cho Timôthê
dễ dàng hơn khi rao giảng trong các hội đường người Do Thái, như Phaolô đã nói
trong thư gửi tín hữu Corintô: “Trở nên người Do Thái để chinh phục
người Do Thái…” (1Cr 9, 19-23).
3.
Phải lắng nghe sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần .
Dự
tính ban đầu các ông là đi sang miền Phygia va Galát để rao giảng tại Asia,
nhưng Thánh Thần ngăn cản nên các ông lại tiếp tục tới sát ranh giới Myxia và
thử vào miền Bithynia, nhưng Thần Khí Đức Giêsu cũng không cho phép. Các ông
bèn đi qua miền Mysia mà xuống Troa. Tại đây “ban đêm, ông Phaolô thấy một thị
kiến: một người miền Makêđônia đứng đó, mời ông rằng: “Xin ông sang Makêđônia
giúp chúng tôi!”.“Sau khi thấy thị kiến đó, lập tức các ông tìm cách đi
Makêđônia, vì hiểu ra rằng TC kêu gọi các ông loan báo Tin Mừng cho họ”.
Qua
hai lần ngăn cản của Thánh Thần, nhất là nhìn thấy thị kiến, Phaolô đã nhận ra
ý Thiên Chúa nên ông đã lập tức tìm cách đi Makêđônia, vì hiểu ra rằng Thiên
Chúa muốn ông đem Tin Mừng của Chúa đến Âu Châu, bắt đầu với các thành phố
Hy-lạp.
Xin
cho chúng ta biết mở rộng tâm hồn để nghe theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần
trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Nhất là luôn biết gắn kết với GH để hiệp
nhất với nhau trong những đường hướng truyền giáo; cũng như tích cực quan tâm
đến việc đào tạo nhân sự kế thừa theo tinh thần của Thánh Phaolô.
Suy
niệm 2: Ga 15,18-21.
Tin
mừng hôm nay, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết cuộc sống theo Chúa sẽ
gặp những thử thách và khổ cực như Ngài. “ Nếu thế gian ghét anh em, anh em
biết rằng nó đã ghét Thầy trước”.
Xin
cho chúng ta luôn trung thành theo Chúa dù phải bị người đời ghen ghét và bách
hại, vì tin rằng mình đã thuộc về Chúa.
Không
phải ngày hôm nay, thế gian mới ghét bỏ và bách hại những kitô hữu. Nhưng ngay
từ xưa, Chúa Giêsu cũng đã bị bao người khinh bỉ, hiểu lầm. Các nhà cầm quyền
thì nghi ngờ; những Pharisêu, kinh sư, tư tế thì chống đối kịch liệt; những
người đồng hương thì xem thường, phủ nhận…tất cả những thái độ đó cuối cùng đã
đi đến chỗ độc ác là hành hạ và giết chết Chúa.
Đến
thời các tông đồ, các môn đệ Chúa cũng gặp phải những đau khổ đúng như điều mà
Chúa Giêsu đã nói. Khi thi hành sứ vụ rao giảng, các tông đồ và các môn đệ khác
luôn bị cấm đoán đe dọa, bắt bớ và hành hạ đủ mọi thứ cực hình…, cuối cùng các
ngài cũng kết thúc cuộc đời bằng cái chết bi thảm.
Nối
tiếp các tông đồ, Giáo hội ở khắp nơi đều bị các nhà cầm quyền ghét bỏ, loại
trừ, bách hại... Cụ thể ở Việt Nam trong khoảng gần 300 năm đầu
(1638-1886) đã có hàng trăm ngàn người chịu đổ máu và hiến mạng sống mình
để làm chứng cho niềm tin vào Chúa.
Hôm
nay dù trãi qua hơn 2000 năm, ấy vậy mà Giáo hội nói chung và các kitô hữu nói
riêng vẫn không ngừng bị xiết chặt, ghét bỏ, trù dập, bắt bớ và giết hại khắp
nơi trên thế giới. Khiến chúng ta những người theo Chúa không ngừng phải lo
lắng, sợ hãi và bất an…Nhưng với niền tin tưởng vào sự quan phòng đầy yêu
thương của Chúa. Chúng ta hãy an tâm phó thác vào bàn tay uy quyền của Chúa.