Tìm kiếm Blog này

Chủ Nhật, 29 tháng 4, 2018

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN V PHỤC SINH B

                                                                               Lm Seoka
Thứ hai
Suy niệm 1: Cv 14, 5-18.
Tuần này, phụng vụ Lời Chúa Bài đọc 1 tiếp tục mời gọi chúng ta đồng hành với Phaolô và Barnaba trên những nẻo đường truyền giáo cho dân ngoại lần thứ nhất. Đoạn sách Cvtđ hôm nay nói đến những buồn vui, sướng khổ khi thi hành sứ mạng truyền giáo.
Vui vì được nhiều người dân ngoại đón nhận Tin mừng của Chúa.
Sướng vì những khả năng làm phép lạ do Chúa ban để củng cố niềm tin cho tín hữu và góp phần thuận lợi cho việc loan báo Tin mừng.
Nhưng bên cạnh đó cũng gặp rất nhiều đau khổ.
Khổ vì bị hiểu lầm bởi dân ngoại, bị ghi kỵ, làm nhục và chống đối liên tục của những người gốc Do Thái.
Đau vì ném đá, bị bắt và bị đánh đập đến nữa sống nữa chết và bị trục xuất ra khỏi thành của họ.
Nhưng cho dù sướng hay khổ, vui hay buồn, thành công hay thất bại vẫn không làm sờn lòng nản chí của tông đồ Phaolô và Barnaba. Bởi hai ông luôn ý thức truyền giáo chính là lệnh truyền tâm quyết của Chúa Giêsu phục sinh trao ban cho các môn đệ trước khi về trời: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dânlàm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần" (Mt 28,19). Loan báo Tin mừng còn mang một giá trị cao quý gắn liền với đời sống của Phaolô, nếu không thi hành sẽ rất là đau khổ: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”(1 Cr 9,16).

Làm chứng nhân cho Chúa là một vinh dự cao quý do Chúa Phục Sinh trao ban, nhưng đây lại là nhiệm vụ đầy dẩy cam go thử thách. Để thi hành nhiệm vụ này Phaolô và Barnaba đã phải hy sinh bằng mồ hôi, nước mắt và sức lực, ngay cả mạng sống mình. Nhiệm vụ này không chỉ khó khăn đối với các tông đồ vào thời GH ban đầu, nhưng ngày nay lại càng trở nên khó khăn hơn đối với GH bởi cuộc sống con người hôm nay có quá nhiều rào cản... Nên đòi hỏi con cái GH phải nổ lực và hy sinh thật nhiều.
Xin cho chúng ta biết noi gương hai thánh tông đồ Phaolô và Barnaba mà góp phần tích cực vào công cuộc truyền giáo của GH, cho dù gặp phải những chống đối, ghi kỵ, loại trừ của thế gian, vì tin rằng Chúa luôn ở bên ta để nâng đỡ, bảo vệ, dự liệu và ban ân sủng cho ta trong khi thi hành nhiệm vụ cao cả này. Như Lời Chúa phán với Phaolô:“Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối” (2Cr 12,9).

Để dễ nắm bắt đoạn sách Cvtđ này, ta có thể chia làm 3 phần:
1.  Sự việc xảy ra tại Icôniô.
Sau khi giũ bụi chân nhằm phản đối cách hành xử của những người gốc Do Thái tại Antiokhia miền Pixiđia. Phaolô và Barnaba đến Icôniô. Dù  đoạn tuyệt với người Do Thái, nhưng hai ông vẫn gắn bó với hội đường. Tại đây hai ông tiếp tục giảng dạy. Tương tự như những lần trước, tại đây bên cạnh thành công vì có rất đông người Do Thái và Hy Lạp tin theo nhưng cũng có người không đón nhận, nên họ mưu toan làm nhục và ném đá hai ông. Biết thế hai ông lánh sang các thành miền Lycaonia: Lytra, Đécbê, và vùng phụ cận.
2. Phép lạ tại Lýtra.
Tại đây hai ông tiếp tục rao giảng và làm phép lạ chữa cho một người bại hai chân từ lọt lòng mẹ được khỏi. Anh ta đứng dậy và đi được.
Lời tung hô dân chúng sau phép lạ: sau khi chứng kiến phép lạ đã tung hô hai ông như thần linh mặc lốt người phàm. Họ gọi ông Barnaba là thần Dớt (Zeus), ông Phaolô là thần Hécme (Hermes), vì ông là người phát ngôn. Họ đã đem bò và vòng hoa đến trước cổng thành, và cùng với đám đông, muốn dâng lễ tế.
(Zeus và Hermes là hai thần của người Hy-lạp. Zeus được xem như vua của các thần Hy-lạp, và quan thầy của những người làm nghề trồng cấy. Có lẽ vì lý do này mà Phaolô muốn nói với dân thành: không phải Zeus ban mưa từ trời và mùa màng; nhưng là chính Thiên Chúa ban. Hermes là con của Zeus với Maia; được xem là quan thầy của những người lữ hành, tội nhân, và gái điếm. Hermes là sứ giả và đem những sứ điệp của các thần cho con người.)
3. Phản ứng của Phaolô và Barnaba.
- Barnaba và Phaolô xé áo mình ra: Tỏ thái độ tức giận vì họ đã đặt mình ngang hàng với TC và buồn phiền vì cảm thấy bản thân xúc phạm đến Thiên Chúa.
- Sau đó hai ông giải thích cho họ hiểu rằng: “Chúng tôi đây cũng chỉ là người phàm, cùng thân phận với các bạn”. Rồi kêu gọi họ: “hãy bỏ những cái hão huyền này đi, mà trở lại cùng Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã tạo thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó”.

Suy niệm 2: Ga 14, 21-26.
Có yêu nhau thì mới sẵn sàng lắng nghe và làm theo điều người yêu mình mong muốn. Đứa con có yêu cha mẹ thì mới trân trọng lắng nghe lời cha mẹ khuyên dạy và vui mừng thực hiện điều cha mẹ chỉ bảo. Cũng vậy chúng ta có yêu mến Chúa thì mới nghe lời và sẵn lòng làm theo lời Chúa.

Không phải bất cứ ai lãnh nhận bí tích rửa tội thì hẳn nhiên trở nên con cái đích thực của Thiên Chúa. Nhưng để nên con cái đích thực của Chúa,
Trước hết chúng ta phải có lòng yêu mến Chúa bằng cách đặt Chúa vào vị trí cao nhất trong cuộc đời chúng ta. Ưu tiên chọn Chúa làm giá trị hàng đầu trong cuộc sống.
Thứ đến, yêu mến Chúa thì phải gắn bó với Chúa mật thiết. Định luật tình yêu dạy ta hiểu rằng: Yêu ai thì ở gần người đó, yêu ai thì muốn ở bên người đó và yêu ai thì muốn ở với và ở trong để trở nên một với người đó.
Cuối cùng Chúa Giêsu cho biết dấu hiệu của những người có lòng yêu mến Chúa đích thực đó là: tuân giữ lời Chúa. Thước đo của lòng yêu mến chúng ta nhiều hay ít hệ tại ở việc chúng ta tuân giữ lời Chúa ít hay nhiều. Nếu chúng ta nói chúng ta yêu mến Thiên Chúa mà chúng ta không thực hành lời Chúa dạy, thì có khác gì đứa con “gọi dạ bảo vâng”, nhưng chỉ vâng vâng dạ dạ mà không làm theo lời cha mẹ chỉ dạy, thì tình yêu đó chỉ là thứ tình yêu giả hình, thứ tình yêu đầu môi trót lưỡi. Tình yêu đó chỉ là nhãn hiệu, là cái mác mà thôi. Vì thế, Chúa Giêsu luôn nhấn mạnh đến lợi ích và giá trị của việc nghe và làm theo lời Chúa: “ Nghe và thực hành lời Chúa giống như người khôn xây nhà trên nền đá”; “ hãy làm theo lời Chúa chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình”. Lý thuyết và thực hành phải đi đôi mới có ích lợi, vì “đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 17).
Xin Chúa cho chúng ta luôn hết lòng tuân giữ và thực hành lời Chúa bằng tình yêu mến. Biết đặt Chúa vào vị trí quan trọng trong cuộc sống và sẵn sàng chọn Chúa làm gia nghiệp đời ta. Làm được như thế chứng tỏ là chúng ta yêu mến Chúa và xứng danh là con cái đích thực của Chúa.

Thứ ba
Suy niệm 1: Cv 14, 19-28.
Nhìn lại trong suốt cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất của Phaolô và Barnaba, chúng ta nhận thấy những điểm đáng chú ý sau:
- Lòng nhiệt tâm truyền giáo của Phaolô và Barnaba: Hai ông miệt mài rao giảng Tin mừng cho dân ngoại dù gặp phải biết bao nhiêu là khó khăn: Phải vượt qua đường sá xa xôi, cách trở; kiên trì chịu đựng bao là nguy hiểm: chống đối, bắt bớ, ghen tị, tù đày, ném đá …; luôn thao thức ra đi tìm đến những vùng đất mới để gieo vãi hạt giống đức tin,.
- Đến đâu rao giảng các ông cũng đều bị những người Do Thái kéo đến để chống phá. Đoạn sách Cvtđ hôm nay là một ví dụ: "Bấy giờ có những người Do-thái từ Antioch và Iconium đến Lystra, thuyết phục được đám đông. Họ ném đá ông Phaolô rồi lôi ông ra ngoài thành, vì tưởng ông đã chết. Nhưng khi các môn đệ xúm lại quanh ông, ông đứng dậy và vào thành. Hôm sau, ông trẩy đi Đécbê cùng với ông Barnaba". Tại đây các ông tiếp tục rao giảng và giúp nhiều người tin vào Chúa Giêsu.
- Điều đáng nói là cứ sau một chuyến truyền giáo khi trở về Giêrusalem, Phaolô và Barnaba đều ghé lại thăm viếng một số nơi mà các ông đã đi qua. Với mục đích là khích lệ và củng cố đức tin cho họ; tổ chức lại cộng đoàn và chỉ định các kỳ mục thay mặt các ông coi sóc và chăn dắt cộng đoàn; sau đó các ông cầu nguyện và phó dâng các cộng đoàn cho Thiên Chúa.
- Khi điểm lại hành trình truyền giáo lần thứ nhất này ta nhận thấy hai ông đã đi qua tất cả 8 thành. (Bắt đầu từ Antiôkhia của Syria đến Xalamin và Paphô của đảo Sýp, đến Pécghê, Antiôkhia của Pixiđia, đến Icôniô, Lýtra, Đécbê, và theo đường cũ trở lại Pécghê, rồi từ Pécghê đến Áttalia, trở về Pécghê và dùng thuyền trở về Antiôkhia của Xyria). Đây là cuộc hành trình ngắn nhất trong 3 cuộc hành trình của Phaolô rao giảng Tin mừng cho dân Ngoại. Khi trở về Antiôkhia, hai ông tập họp Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông, và việc Người đã mở cửa cho các dân ngoại đón nhận đức tin. Rồi hai ông ở lại một thời gian khá lâu với các môn đệ trước khi bắt đầu cuộc hành trình thứ hai.
Tạ ơn Chúa đã ban cho GH những nhà truyền giáo nhiệt tình, đã sẵn sàng chịu mọi gian lao thử thách, ngay cả tính mạng, để gieo vãi hạt giống đức tin khắp mọi nơi. Nhờ ơn Chúa mà hạt giống quý giá ấy được gieo vào lòng đất Việt Nam. Cha ông chúng ta đã tiếp nhận, củng cố và nuôi dưỡng bằng máu nhờ thế mà hạt giống đức tin được sinh hoa trái dồi dào. Xin cho chúng ta biết trân trọng bảo vệ, nuôi dưỡng và gieo vãi hạt giống đức tin ấy khắp nơi và vào mọi tâm hồn, ngỏ hầu mọi người đón nhận được niềm vui Tin mừng cứu độ của Chúa.

Suy niệm 2: Ga 14, 27-31a.
Thiên tai, dịch bệnh, nghèo đói, đam mê tội lỗi, hận thù ghen ghét… tất cả những mối hiểm họa ấy như dâng tràn trong thế giới hôm nay, khiến cho lòng người đầy bất an. Xin Chúa thương ban bình an của Chúa cho chúng con, sự bình an đích thực trong tâm hồn như lời Chúa đã hứa.
Chưa bao giờ con người lại phải đối diện trước những lo âu, bối rối, sợ hãi và bất an như ngày hôm nay. Chiến tranh, thiên tai, bệnh tật… xảy ra hàng ngày. Thất nghiệp, vật giá leo thang, trộm cắp… gia tăng đến mức báo động.  Ly dị, phá thai, bất trung, tệ nạn xã hội …không ngừng gia tăng. Vì thế hơn lúc nào hết, con người ngày hôm nay luôn khao khát có được cuộc sống bình an. Để chốn chạy nỗi lo sợ, buồn phiền, bất an, con người thường chỉ biết dựa vào của cải vật chất để trấn an tâm hồn đấy bất an. Chẳng hạn như:  Mua bảo hiểm xe cộ, nhà cửa, nhân mạng, y tế…Hằng đêm mơ mộng để đánh con số đề, mua tấm vé kiến thiết hy vọng bớt đi những lo âu về tiến bạc. Kẻ thì lao mình vào rượu chè và những thú vui khác để tìm những phút giây thoải mái quên đi chuyện đời. Người thì uống thuốc an thần để đi tìm giấc ngủ hy vọng quên đi những muộn phiền. Kẻ đễ tin thì đi tìm thầy bói, thầy tướng, thầy số để kiếm tìm hậu vận tương lai. Người giàu có thì gởi tiền vàng vào ngân hàng để được an tâm. Nhưng tất cả việc làm ấy chỉ là giải pháp tạm thời, thiếu căn bản và không bền vững nên không đem lại nguồn bình an đích thực cho tâm hồn. Vì thế Chúa Giêsu nói với các tông đồ: “sự bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng” (Ga 14, 27).
Bình an của Ngài không phải là thứ bình an bên ngoài, giả tạo. Nhưng là bình an bên trong, nghĩa là không giống như sự yên ổn hay hòa bình, vì yên ổn hay hòa bình là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong.
Bình an là tình trạng tâm hồn đang tương quan tốt với Thiên Chúa và tha nhân. Bình an của Chúa là bình an khi có Chúa làm chủ đời sống mình, luôn tin tưởng, phó thác và vâng theo ý Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc đời. Bình an của Chúa là có một tâm hồn trong sạch, được giao hòa với Chúa và anh em. Bình an của Chúa ban tặng còn được hiểu là bình an với anh em mình. Sống hoà thuận với nhau, không thấy mình có điều gì làm phiền lòng anh em và thấy anh em không có điều gì làm phiền lòng mình.
Chỉ có bình an của Chúa mới làm cho chúng ta được hạnh phúc. Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhờ thông hiệp mật thiết với Thiên Chúa Cha nên Ngài luôn thấy bình an ngay khi kẻ thù đang đến gần và sắp giết chết Ngài.
Thế giới ngày hôm nay như đang sống trên một lò lửa. chíến tranh, khủng bố, thiên tai, động đất, khủng hoảng kinh tế, ô nhiễm môi trường…, thế gian chưa có bình an nên Bình An của Chúa Giêsu ban tặng vẫn còn nguyên giá trị cho nhân loại, cho những tâm hồn đang khắc khoải tìm kiếm bình an trong cuộc sống. Mỗi người phải có bình an của Chúa mới có thể sống an bình với mọi người. Muốn có bình an ở bình diện lớn thì phải bắt đầu từ những bình diện nhỏ, là nơi mỗi người chúng ta. Không ai cho cái mình không có. Sự bình an bắt đầu từ lòng mình rồi mới lan tỏa ra xã tắc nhân quần, như cổ nhân nói: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.

Kính Thánh Giuse Thợ: Mt 13,54-58
Suy niệm 1:
Sau một thời gian thi hành sứ mạng loan báo tin mừng, Chúa Giêsu gây được nhiều tiếng vang và được dân chúng đó đây rất ngưỡng mộ về giáo lý và những phép lạ Ngài làm. Tuy nhiên, hôm nay khi trở về quê hương xứ sở để thi hành sứ vụ, thì Chúa Giêsu lại bị những người đồng hương Nazareth khướt từ và đối xử tệ bạc. Đâu là nguyên nhân dẫn đến thái độ khướt từ và hành xử tệ bạc ấy của dân làng Nazareth? Xét cho cùng cũng bởi hai chữ “tại vì”.
-  Tại vì Chúa Giêsu không có bằng cử nhân, tiến sĩ trong tay nên khi hành nghề giảng dạy thánh kinh, Giáo lý, hay giáo luật…nên đã bị làng Nazareth xem thường và phản đối. Phải chi Chúa Giêsu giảng dạy về kỷ thuật đóng bàn ghế, cất nhà… thì còn dễ chấp nhận.
- Tại vì Chúa Giêsu sinh ra và lớn lên trong một gia đình quá nghèo. Con của bác thợ mộc Giuse và cô Maria quê mùa không nghề nghiệp trong tay, không của hồi môn nên làm sao có của dư của để. Gía như Chúa Giêsu là con của một đại gia, thì đâu nổi bị dân làng xúc phạm.
- Tại vì Chúa Giêsu không có bà con thân thuộc làm chức cao quyền trọng nên làm sao được ngưỡng mộ. Bà con họ hàng của Ngài chỉ là những người chân lấm tay bùn. Chẳng có ai giàu sang quyền quý. Gía như Chúa Giêsu là con ông cháu cha (CÔCC), thì tiếng vỗ tay, tét đùi tán thưởng của dân làng Nazareth sẽ vang dậy không ngừng trước những lời hay ý đẹp được thốt ra từ miệng Ngài hôm ấy rồi!
Tắt một lời, “tại vì” họ biết rất rõ về lý lịch trích ngang của Chúa Giêsu, một lý lịch được xếp vào “hạng tồi”.  Nên không lạ gì họ chối từ, không tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế.
Ngày nay Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị coi thường, hất hủi, loại trừ nơi những người nghèo khổ, bệnh hoạn tật nguyền; nơi những người thấp cổ bé miệng, không có địa vị gì trong xã hội, đặc biệt là trong thời đại toàn cầu hóa hôm nay. Khi mà mọi thứ đều được đánh giá dựa trên đồng tiền, trên tiện nghi vật chất, thì Chúa Giêsu nơi những người nghèo hèn vẫn còn bị coi rẻ.
Khi mà người ta quá coi trọng địa vị bằng cấp, thì Chúa Giêsu nơi những người kém cõi ít học vẫn bị khinh thường. Khi mà xã hội quá đề cao thân thế chức quyền, thì Chúa Giêsu nơi những người cô thân cô thế vẫn còn bị hất hủi chà đạp. Đâu là những tiêu chuẩn tôi thường dựa vào để đánh giá người khác? Tôi có thường bị óc thành kiến, ác cảm chi phối mà đánh giá người khác một cách bất công không? Thái độ của tôi thế nào đối với những người nghèo khổ bệnh tật bất hạnh?
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta gạt bỏ cái nhìn hẹp hòi và trần tục, để mặc lấy cái nhìn đức tin, cái nhìn siêu nhiên: cái nhìn giúp ta nhận ra Chúa Kitô nơi những nghèo khổ, thấp hèn, bệnh tật, khổ đau… để biết tôn trọng và đón nhận họ như đón nhận chính Chúa. Amen.

Suy niệm 2:
Thái độ khướt từ Chúa Giêsu của dân làng Nazareth xưa nhắc nhở chúng ta cần phải duyệt xét lại thái độ sống đạo hôm nay.
Có những anh chị em tân tòng nhưng đời sống đạo của họ rất tốt. Trái lại, có những người vỗ ngực xưng mình là đạo dòng, thì lại có đời sống đức tin hết sức là yếu kém. Phải chăng “sống lâu lên lão làng?”
Có những giáo dân gần gũi nhà thờ, được dễ dàng lãnh nhận các bí tích, nhưng lại thờ ơ.  Trái lại có những giáo dân ở xa nhà thờ lại siêng năng chuyên chăm tham dự thánh lễ và lãnh nhận các bí tích. Phải chăng “quen quá hóa nhàm?”
Có những giáo dân miệng luôn ca ngợi việc làm của cha này, cha kia. Trong khi đó lại xem thường những việc làm của cha sở mình, để rồi không hề góp phần cộng tác xây dựng họ đạo nhà. Phải chăng “gần chùa gọi bụt bằng anh?”
Có những người chỉ thích đi khấn vái nơi này nơi kia, nhưng chính nhà thờ của mình thì chẳng bao giờ xem trọng. Vì thế ít khi thấy bén mảng tới để cầu nguyện, khấn xin. Phải chăng “bụt nhà không thiêng?”.
Nếu có những thái độ và những biểu hiện như thế là chúng ta lại đi vào vết xe củ của dân làng Nazareth xưa.
Thành kiến có thể làm cho chúng ta mù quáng không nhận định và phê phán một cách khách quan đúng đắn được. Thành kiến làm cho chúng ta không thể đối thoại, cởi mở với người khác và không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi anh em. 
Xin Chúa cho chúng ta biết can đảm dẹp bỏ những thành kiến để nhận ra giá trị đích thực của cuộc sống. Nhất là nhận ra những mặt tích cực và cao đẹp nơi những người anh em bé nhỏ. Amen


Suy niệm 1: Cv 15, 1-6.
Công cuộc truyền giáo cho dân ngoại của Phaolô và Barnaba luôn vấp phải phải những khó khăn và sự chống đối.
- Khó khăn trong chọn lựa: cần phải giữ những gì và nên bỏ những gì khi người dân gốc Do Thái và dân ngoại gia nhập Kitô giáo? Cụ thể là 2 vấn đề chính: Dân ngoại có phải cắt bì và giữ Lề Luật như người gốc Do Thái khi tin theo Kitô Giáo không? Nếu buộc dân ngoại tuân giữ thì lại ảnh hưởng đến truyền thống văn hóa của họ. Còn nếu chuẩn miễn thì gặp phải sự chống đối của người gốc Do Thái.
- Chống đối bởi người Do Thái: Đọan sách Cvtđ hôm nay nói đến sự chống đối quyết liệt của người Do Thái nhằm bảo vệ quan điểm mình. Họ từ Giuđa đã đến tận Antiôkhia để tỏ thái độ chống đối Phaolô và Barnaba bằng cách buộc những tín hữu gốc dân ngoại phải cắt bì: "Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ". Chính vì  lý do này đã khiến cho Phaolô và Barnaba phản ứng lại mạnh mẽ với họ. Cuối cùng, Phaolô và Barnaba cùng với một vài người khác phải về Giêrusalem gặp các Tông đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh luận này.
Điều này làm cho chúng ta nghĩ đến việc truyển giáo tại quê hương Việt Nam lúc đầu cũng gặp nhiều khó khăn, nhất là trong việc thờ cúng tổ tiên. Nhưng tạ ơn Chúa vì Giáo Hội chúng ta đã nhận ra và đã hội nhập dễ dàng nên công cuộc truyền giáo tại Việt Nam đã lan tỏa nhanh chóng.
Là người Việt Nam, xin cho chúng ta biết trân quý những giá trị truyền thống, văn hóa tốt đẹp của cha ông để lại. Tuy nhiên, nếu có sự khác biệt không thể dung hòa giữa truyền thống dân tộc và đức tin, chúng ta cần tìm đến ánh sáng Lời Chúa soi dẫn, nhất là đến những nhà hữu trách để được hướng dẫn để chúng ta có cách ứng xử theo đúng ý muốn của Chúa và GH.

Suy niệm 2: Ga 15,1-8.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh quen thuộc là cây nho, để nói lên sự gắn kết sâu xa giữa Ngài với Chúng ta. Vì tình yêu Chúa Giêsu ở lại với chúng ta và mong muốn chúng ta ở lại trong Ngài để tiếp nhận sự sống dồi dào Ngài thông truyền cho chúng ta. Nhờ thế chúng ta mới có thể trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành dâng cho Chúa và dành cho nhau.
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu sánh ví Ngài như là cây nho được Chúa Cha trồng xuống thế gian. Chúng ta được ví như là những cành kết hiệp trong cùng một cây nho là Chúa Giêsu.
Mục đích của người trồng nho là để thu hoạch hoa trái. Nên các cành của cây nho phải sinh nhiều hoa trái thì mới làm vui lòng ông chủ. Khi sánh ví chúng ta là cành nho thì đồng thời Chúa Giêsu cũng mời gọi  chúng ta sinh nhiều hoa trái là các việc lành phúc đức để Thiên Chúa được vinh hiển.
Nhưng để cành nho sinh nhiều hoa trái, cần phải có hai điều kiện:
Thứ nhất gắn liền với thân nho. Cành nào càng gắn kết với với thân nho thì càng tươi tốt và sinh nhiều hoa trái.
Cũng vậy để có đời sống sung mãn và sinh  nhiều hoa trái thiêng liêng tốt lành. Chúng ta phải liên kết chặt chẻ với Chúa Giêsu bằng đời sống cầu nguyện và năng nhận lãnh các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể.
Thứ hai phải được chăm sóc và chịu cắt tỉa. Niềm vui của người trồng nho là vườn nho ông trồng sinh thật nhiều hoa trái tốt. Vì thế chủ vườn nho không ngừng chăm sóc và cắt tỉa.
 Cũng vậy, để  sinh thật nhiều hoa trái tốt lành, Thiên Chúa không ngừng chăm sóc chúng ta bằng Giáo huấn và các Bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể,  đồng thời Chúa cũng hằng cắt tỉa chúng ta bằng cách cho phép sự dữ, thử thách, thất bại và đau khổ… xảy ra trong cuộc sống. Việc làm đó là cần thiết để ta chiến đấu không ngừng, hầu mỗi ngày nên thanh sạch và mạnh mẻ hơn.
Xin cho chúng ta biết sống gắn bó mật thiết với Chúa và với nhau, luôn tin tưởng phó thác vào ơn ban của Chúa; nhất là can đảm để Chúa cắt tỉa đời mình mỗi ngày. Nhờ thế, cuộc sống ta mới có thể sinh được nhiều hoa trái tốt lành mà phụng sự Chúa và phục vụ ích lợi cho nhiều người.

Thứ năm
Suy niệm 1: Cv 15, 7-21.
Bài đọc 1, sách công vụ tông đồ hôm nay đề cập đến cuộc xung đột xảy ra giữa Phaolô và Barnaba với những tín hữu gốc Do Thái, và hướng giải quyết của Hội Thánh.
1. Xung đột xảy xa.
Như chúng ta biết hành trình truyền giáo lần thứ nhất của Phaolô và Barnaba gặp phải một khó khăn lớn, phát xuất từ hai phía:
- Từ phía dân ngoại: Họ cũng có những văn hóa truyền thống tốt đẹp của cha ông họ cần phải tôn trọng.
- Từ phía tín hữu gốc Do Thái giáo: Họ cũng muốn gìn giữ bảo vệ những tập tục và luật lệ truyền thống của cha ông họ như: cắt bì, ăn thịt cúng, và luật Môsê.
Để hội nhập vào nền văn hóa của dân ngoại, Phaolô và Barnaba đã chuẩn miễn cho những người tin theo Chúa gốc ngoại giáo không phải cắt bì và giữ luật Môsê. Nhưng việc này đã gây ra sự chống đối mạnh mẽ đối với tín hữu gốc Do Thái. Họ đã đến giáo đoàn Antiôkhia tuyên truyền rằng: (1) Phaolô và Barnaba không phải là người hợp pháp do các tông đồ từ cộng đoàn mẹ Giêrusalem gửi đến và kêu gọi mọi người đừng nghe theo. (2) Để được cứu độ không chỉ tin vào Chúa Giêsu mà còn phải cắt bì và giữ luật Môsê nữa. Chính vì thế mà đã xảy ra xung đột nảy lửa giữa Phaolô, Barnaba với những người tín hữu gốc Do Thái.
2. Cách giải quyết xung đột.
Các tông đồ triệu tập họp công đồng chung tại Giêrusalem, để lắng nghe tiếng nói mọi người, nhằm đưa ra những quyết định thực hành.
- Lắng nghe:
 Lời phát biểu của Phêrô là tông đồ trưởng: ông nhắc lại kinh nghiệm mà ông có được khi là người đầu tiên được TC mời gọi đem Tin Mừng cho dân ngoại, cụ thể là gia đình ông Cornêliô. Rồi khuyên mọi người đừng “quàng vào cổ các môn đệ một cái ách”. Với lời khẳng định nhờ tin vào Chúa Giêsu mà được cứu độ chứ không phải chỉ giữ lề luật: “chính nhờ ân sủng Chúa Giêsu mà chúng ta tin mình được cứu độ”.
Lời phát biểu của Phaolô và Barnaba: Hai ông chỉ kể lại những biến cố mà hai ông trãi qua trong quá trình truyền giáo. Cho thấy chính Thiên Chúa đã dùng hai ông để rao giảng, làm dấu lạ cho dân ngoại và họ đón nhận ra sao. Tất cả như để xác tín và củng cố cho lập trường của Phêrô.
- Hướng giải quyết.
Tông đồ Giacôbê, Giám mục Giêrusalem đã dung hòa bằng phán quyết: Không được gây phiền hà cho các tín hữu gốc dân ngoại, nghĩa là không đòi buộc họ cắt bì và giữ luật Môsê. Khuyên họ giữ một ít tập tục: kiêng thức ăn ô uế, tránh gian dâm, kiên găn tiết hay loài vật không cắt tiết (vật chết ngạt).
Lời đề nghị này đã làm hài lòng các tín hữu gốc dân ngoại cũng như gốc Do Thái.
Đời sống đạo của chúng ta có lúc cũng gặp phải những khó khăn,  ước gì chúng ta cũng biết tìm đến các vị hữu trách để xin sự hướng dẫn của các ngài. Cũng vậy nếu trong đời sống gia đình hay cộng đoàn chẳng may xảy ra xung đột, ước gì chúng ta cũng biết bình tỉnh ngồi lại để lắng nghe và thông cảm cho nhau. Nhất là biết dựa trên giới luật tình yêu của Chúa và giáo huấn của GH mà tìm đến lợi ích chung trong đời sống.

Suy niệm 2: Ga 15, 9-11.
Người đời thường nói: “Yêu là khổ, không yêu thì lỗ, thà chịu khổ chứ không chịu lỗ”. Nhưng cái khổ lớn nhất không phải là yêu mà là bị người mình yêu từ chối tình yêu. Đúng vậy, yêu mà bị phản bội thì đau tê tái lòng. Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta đến nỗi đã thí mạng mình vì chúng ta và mong muốn chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài. Nhưng nhân loại hình như đã hững hừ trước tình yêu của Chúa. Vì thế Ngài tha thiết kêu mời chúng ta: “Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”, bằng cách tuân giữ giới răn của Ngài. Khi ấy ta cảm nhận được niềm vui trọn vẹn.

Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu tha thiết mời gọi: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”. Chúa Giêsu là tình yêu hữu hình của Chúa Cha dành cho chúng ta những người con yêu dấu của Chúa. Chính tình yêu, Chúa Giêsu chấp nhận sinh ra mang thân phận con người để ở giữa loài người chúng ta; chính tình thương, Chúa Giêsu đã chấp nhận chịu đói, chịu khát… và bôn ba đi khắp các nẻo đường đất nước Do Thái để rao giảng Tin mừng, làm phép lạ cứu chữa những ai đau khổ; cũng chính vì yêu, Chúa Giêsu chấp nhận đi vào con đường thập giá chịu đau khổ và sẵn sàng đón nhận cái chết đau đớn trên thập giá vì tội lỗi chúng ta. Rồi Chúa đã phục sinh vinh hiển mang đến niềm vui sống lại cho tất cả chúng ta. Nhưng vì muốn ở lại mãi với con người, Chúa Giêsu đã ban lời giáo huấn và giới luật yêu thương. Chúa cũng thiết lập các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể, qua đó ở lại mãi với chúng ta.
Tình yêu Chúa thật quá cao vời. Sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ, hy sinh và cả tính mạng để được “ở lại” với con người chúng ta. Vì thế, Chúa cũng mong mỏi chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài nên tha thiết mời gọi: Hãy ở lại trong tình thương của Ngài”.
Ở lại trong tình thương của Chúa được thể hiện qua việc tuân giữ giới răn của Ngài. Bởi lẽ  thánh Phao-lô trong gửi tín hữu Rôma đã nói: “Không sống theo luật, luật mới do Thánh Linh là sống phản với Thánh Linh, mà Thánh Linh chính là tình yêu Thiên Chúa”. Thánh Gioan cũng nói: “Ai giữ luật Chúa thì ở lại trong Ngài và Ngài ở lại trong kẻ ấy”. Không ai có thể nói tôi yêu mến Chúa mà không thực hiện lời Ngài.
Kinh nghiệm cho thấy: khi tôi yêu mến ai thì bất cứ việc to, việc nhỏ, việc nặng, việc nhẹ người ấy nhờ tôi, tôi sẵn sàng làm, có khi người ấy không nhờ tôi cũng làm miễn sao đẹp lòng người mình yêu. Như thế muốn ở lại trong tình yêu Chúa, chúng ta phải thực hành lời Chúa. Nghĩa là thực hiện điều Chúa truyền dạy, mà lời dạy của Chúa là giới răn yêu thương. Trung thành sống trọn tình mến Chúa, yêu người là ta đã ở lại trong Chúa và khi đó chúng ta sẽ được Chúa ban cho niềm vui trọn vẹn là được sống mật thiết với Chúa ngay ở đời này và mãi đời sau.

Kính Thánh Philipphê Và Thánh Giacôbê Tông Đồ
(Ga 14, 6-14)
Suy niệm 1:
 Cùng GH, hôm nay chúng ta mừng kính hai thánh tông đồ Philipphê và Giacôbê. Để tiếp nối sứ mạng loan báo tin mừng cứu độ, Chúa Giêsu đã chọn gọi hai ông vào danh sách 12 tông đồ thân tín của Người. Sau khi xác tín được Chúa Giêsu chính“là đường, là sự thật và là sự sống”, hai ông đã bỏ lại mọi sự mà dấn thân cho Chúa đến cùng để làm chứng cho Tin mừng cứu độ cho dẫu phải hy sinh mạng sống mình. Xin cho chúng ta cũng biết noi gương hai ngài luôn kiên vững trong niềm tin và can đảm hy sinh làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. 
Dựa vào Phúc âm, chúng ta biết rất ít về lý lịch của hai vị tông đồ này. 
1. Trước hết là thánh Philipphê: Thánh kinh cho biết ngài là người cùng quê với thánh Phêrô và Anrê sinh tại Betsaiđê, một làng trên bờ biển Tibêriát (Ga 1, 43-44). Trước đây ngài theo thánh Gioan Tẩy Gỉa. Sau này có lẽ được thánh Gioan Tẩy Gỉa giới thiệu với Chúa Giêsu. Sau đó, ông đã đến với Chúa Giêsu để tìm hiểu và đã bị Chúa Giêsu hấp dẫn nên ông đã trở thành một trong những tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu. Dựa vào những lần Phúc âm đề cập đến ngài, ta có thể nhận ra nơi thánh Phillipphê hai tính cách nổi bật:
Vai trò trung gian: Thánh Philipphê có tài làm trung gian giới thiệu Chúa cho mọi người: (1) vừa khi được Chúa kêu gọi và sau khi đã tin vào Chúa Giêsu, ông đã tìm đến Nathanael để giới thiệu về Chúa Giêsu cho Nathanaen cũng được diễm phúc làm môn đệ Chúa sau đó (x.Ga 1,45). (2) Khi những người Hy lạp hành hương về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, họ muốn gặp Chúa Giêsu, cũng chính Philipphê cùng Andrê dẫn họ đến gặp Chúa Giêsu (Ga 12, 20 – 33). (3) Tin mừng hôm nay cũng cho thấy chính ngài giữ vai trò trung gian để xin Chúa Giêsu tỏ cho ngài và các Tông đồ được thấy Đức Chúa Cha và Chúa Giêsu đã trả lời: "Ai thấy Ta là thấy Chúa Cha". (Ga 14,7-9).
- Là người rất trung thực và cụ thể: Khi giới thiệu với Nathanaen về Chúa Giêsu mà ông đã tin nhận là Đấng Kitô. Ông không dài dòng để thuyết phục Nathanaen nhưng rất thực tế là kêu gọi Nathanaen: "Cứ đến mà xem!"(Ga 1,46).
Trước khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi năm ngàn người đàn ông ăn no nê dư 12 thúng đầy, Chúa Giêsu đã hỏi riêng Philipphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?” (Ga 6, 5). Rất thực tế Philipphê trả lời: "Thưa có mua đến 200 đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút" (Ga 6,7).  
Người ta cho rằng Philípphê là con người sống hiện thực, giống như thánh Tôma tông đồ, bởi ông cũng đòi phải được xem tận mắt, sờ tận tay về Chúa Cha mới mãn nguyện. Hơn nữa ông còn là con người có đầu óc tính toán rất thực tế.
Nhưng sau ngày nhận lãnh Thánh Thần, ngài đã đem đức tin lại cho toàn thể dân thành Sitti. Sau đó, ngài đến giảng dạy ở Hiêrapoli, xứ Rigie và chịu đóng đinh vì danh Chúa. Xác ngài được các tín hữu ở đó mai táng, sau được đem về Rôma đặt bên mồ thánh Giacôbê.
2. Thứ hai về thánh Giacôbê: Trong danh sách 12 tông đồ có đến 2 tông đồ tên Giacôbê. Giacôbê được mừng kính hôm nay là Giacôêe hậu (gọi ngài như thế là để phân biệt với thánh Giacôbê con ông Alphê). Ngài là anh em họ với Chúa Giêsu. Ngài làm Giám Mục đầu tiên cai quản thành Giêrusalem.
Trong công đồng chung thứ nhất họp tại Giêrusalem, Sách Cvtđ cho biết ngài đã viết bức thư kêu gọi người Do Thái đừng đặt lên vai dân ngoại một gánh nặng nào nữa với quyết định bãi bỏ luật cắt bì đối với dân ngoại, và kêu gọi họ giữ một số điều như: tránh gian dâm, không được ăn tiết và đồ đã cúng. Quyết này cho thấy ngài là một con người hài hòa biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến mọi người, biết dug hòa và rất nhạy bén thích ứng Tin mừng cho phù hợp với thời đại.
Vì trung thành với đức tin, ngài bị bọn Biệt Phái và một số người cứng lòng tố cáo và kết án. Ngài bị chúng xô từ trên nóc đền thờ xuống và ném đá cho đến chết. Trước khi chết, ngài còn quỳ gối cầu nguyện xin Chúa tha thứ cho kẻ thù của mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có được những đức tính đáng quý của hai thánh tông đồ: Biết sống chân thành, hòa đồng, quan tâm và cởi mở với mọi người nhằm trở nên chiếc cầu vững vàng đưa dẫn nhiều người đến với Chúa.
Xin cho chúng ta cảm nếm được tình yêu ngọt ngào của Chúa dành cho chúng ta. Để từ đó chúng ta tích cực hơn cho việc dấn thân loan báo tin mừng tình thương của Chúa cho hết mọi người theo tinh thần của hai thánh tông đồ chúng ta mừng kính hôm nay.
Suy niệm 2:
Khi xây một ngôi nhà, trước hết trong đầu chúng ta phải có mô hình, rồi mới thể hiện mô hình đó ra bản vẽ, sau đó chúng ta mới dựa vào bản vẽ đó mà thực hiện. Tương tự như thế, để xây dựng người con Chúa, ta phải theo mô hình. Mô hình đó là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Ngài “là đường, là sự thật và là sự sống”.
Thánh Philipphê và Giacôbê đã nghe lời Chúa và đã xây dựng con người mình theo mô hình Đức Giêsu Kitô nên đã được thừa hưởng gia tài hạnh phúc nước trời. Xin cho chúng ta cũng biết xây dựng đời mình theo mô hình Đức Giêsu Kitô theo gương hai thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ. 
Ước nguyện được nhìn thấy Thiên Chúa không chỉ là ước nguyện của Philipphê và các tông đồ, nhưng còn là ước mong của mỗi chúng ta.
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đáp ứng mong ước đó của chúng ta bằng cách cho biết chính Người là hiện thân và là Thiên Chúa: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”; “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy”. Do đó, lời Người nói là nói lời Chúa Cha; những việc làm của Người chính là Chúa Cha làm trong Người. Nếu ai tin vào Người thì sẽ làm được những việc Người làm và còn lớn lao hơn nữa, vì Người về cùng Chúa Cha và sẽ ban ơn cho những ai tin vào Người.
Theo Đức Dalai-Lama có một điều cần quan tâm trong giáo dục. Ngài nói: “trong Phật giáo, khi nói đến giáo huấn hay giáo thuyết, chúng tôi nhìn ở hai mức độ: (1) Mức độ thứ nhất liên quan đến các bản văn. (2) Mức độ thứ hai liên quan đến sự thể nghiệm. Liên quan đến sự thể nghiệm, điều rất quan trọng là một người muốn dạy người khác, thì chính mình phải có kinh nghiệm tối thiểu về điều mình giảng dạy, phải hoàn tất đoạn đường nào đó trong sự thể nghiệm thiêng liêng. Như thế nó hoàn toàn khác với loại hình truyền thông khác, khi người ta kể lại câu chuyện lịch sử hoặc một sử gia tuờng thuật lại những biến cố đã qua. Trong trường hợp đó, người ta kể lại sự kiện mà không hề sống. Còn việc giảng dạy về đời sống tâm linh, điều thiết yếu là người giảng dạy phải có một chút thể nghiệm và kinh nghiệm bản thân”.
Chúa Giêsu không chỉ thể nghiệm mà Người còn là mô hình là khuôn mẫu để mọi người noi theo “Thầy là đường là sự thật và là sự sống”. Chỉ những ai tin nhận và xây dựng cuộc sống mình trên mô hình Đức Giêsu Kitô thì mới có được sự sống đời đời.
Xin cho chúng ta biết xây dựng đời kitô hữu mình trên khuôn mẫu là Đức Giêsu Kitô. Nghĩa là khi nói phải nói lời của Chúa. Khi làm thì làm việc trong Chúa, như Chúa và vì Chúa. Trong mọi sự luôn tin nhận và đi theo con đường Chúa Giêsu hướng dẫn.


Thứ sáu
Suy niệm 1: Cv 15, 22-31
Để dễ nhớ đoạn sách Cvtđ hôm nay, ta có thể chia đoạn này làm hai phần:
- Phần đầu: liệt kê danh sách phái đoàn được các tông đồ và kỳ mục của Hội Thánh Giêrusalem cử đến Antiôkhia gồm có: Ngoài Phaolô và Barnaba,  còn có ông Giuđa và Xila là những người có uy tín trong Hội Thánh. Khi đến nơi, các ông triệu tập cộng đoàn lại để công bố bức thư.
- Phần thứ hai: nội dung của bức thư, gồm ba điểm:
1. Lời chào thăm của các tông đồ và kỳ mục gửi đến anh em gốc dân ngoại tại Antiokhia, tại Xyria và Kilikia. Ngay sau đó là 3 lời xác nhận chính thức: (1) Những người Do Thái đến gây rối trước đây làm xáo trộn và gây hoang mang cho các tín hữu là những người bất hợp pháp. (2) Phaolô và Barnaba chính là người anh em thân mến với chúng tôi và đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. (3) Xác nhận ông Giuđa và Xila chính là người được Hội Thánh cử đến để trình bày trực tiếp về những quyết định của công đồng.
2. Quyết định chính thức của Công đồng dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần như sau: Không bắt tín hữu gốc dân ngoại cắt bì và giữ luật Môsê, nhưng khuyên giữ vài điều cần thiết như: tránh gian dâm, không uống tiết, không ăn thịt không cắt tiết và đồ cúng cho ngẫu tượng.
3. Cuối cùng là lời khuyên nhủ họ cẩn thận giữ những điều mà Hội Thánh hướng dẫn và chúc họ được an mạnh.
* Sau khi nghe xong bức thư, họ vui mừng vì lời khích lệ đó.
Những xung đột xảy ra trong cuộc sống là không tránh khỏi. Ngay trong cộng đoàn Họ đạo hay gia đình cũng thường xuyên xảy ra. Vậy ta làm thế nào để giải quyết êm đẹp những xung đột ấy? Sách Cvtđ hôm nay gợi mở cho chúng ta đường hướng tốt nhất:
- Trước tiên, cùng nhau ngồi lại để tìm cách giải quyết vấn đề.
- Thứ đến, theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để tìm ra đâu là sự thật nền tảng mọi người phải giữ, những gì có thể dung hòa, và những gì có thể chuẩn chước được.
- Sau đó, phải khiêm nhường bỏ thói quen của mình, hy sinh chấp nhận ý kiến chung, và giải quyết vấn đề trong tình yêu thương anh em; chứ không ra lệnh theo thói cha ông. 
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết khiêm tốn nghe theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để tìm ra sự thật. Nếu mình có sai trái, lỗi lầm thì can đảm nhận lỗi mà sửa đổi. Nếu người khác có sai trái thì hãy dùng tình thương mà sửa lỗi cho nhau theo lời dạy của Chúa và tinh thần của Công đồng Giêrusalem.

 Suy niệm 2: Ga 15, 12-17.
Trước khi về cùng Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã để lại cho các môn đệ cũng như cho tất cả chúng ta lời nhắn nhử yêu thương: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Yêu thương theo lệnh truyền của Chúa không chỉ là yêu thương người thân cận như chính mình. Nhưng là yêu thương tất cả mọi người không phân biệt bạn hay thù bằng một tình “yêu như Chúa yêu”.  Yêu nhưng không và sẵn sàng hy sinh ngay cả mạng sống cho người mình yêu. Xin cho chúng ta có được tình yêu như Chúa để xứng đáng được gọi là bạn hữu của Chúa.

“Anh  em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. (Ga 15, 12).  Yêu thương nhau không thôi thì chưa đủ, Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài, trong đó có tôi và bạn, phải yêu như Ngài yêu! “Yêu như Chúa yêu”  là biết chấp nhận tất cả những cái hay cái dở, những tính hư nết xấu và tất cả những sự bất toàn và yếu đuối … của tha nhân.
Yêu thương như Thầy là phải biết kiên nhẫn trước những yếu đuối lỗi lầm, trước những giới hạn về niềm tin cũng như về mặt nhân bản của tha nhân.
Yêu như Chúa Giêsu là biết quan tâm tới những nhu cầu cần thiết của tha nhân. Sự quan tâm ấy không phải chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng những hành động rất cụ thể và thiết thực.
Chính Chúa Giêsu đã yêu chúng ta nên đã chấp nhận, kiên nhẫn trước tất cả mọi ưu khuyết điểm: cái hay cũng như cái dở, cái đẹp cũng như cái xấu, cái giỏi cũng như cái dở của chúng ta. Ngài đã không ngừng quan tâm và đáp ứng lại những nhu cầu chính đáng và không ngừng mời gọi chúng ta hãy noi gương bắt chước Ngài bằng một tình yêu như Ngài yêu ta.

Thứ bảy
Suy niệm 1: Cv 16, 1-10.
Làm thế nào để việc loan báo Tin mừng có kết quả tốt đẹp? Đoạn sách Cvtđ hôm nay sẽ soi sáng cho chúng ta một vài gợi ý quý giá:
1. Biết quan tâm gắn kết giáo đoàn địa phương với hội thánh.
Sau khi chia tay với Barnaba tại Antiôkhia, Phaolô chọn Xila để trở lại thăm viếng các giáo đoàn cũ như Đécbê và Lýtra. Tại đây ông bố về những quyết định của công đồng Giêrusalem liên quan đến các tín hữu gốc dân ngoại như: không đòi buộc họ phải cắt bì và giữ luật Môsê nữa, nhưng  phải giữ một số tập tục như kiêng thức ăn ô uế, tránh gian dâm và kiêng ăn tiết hay loài vật không cắt tiết. Tại mỗi nơi các ông đến thăm viếng, điều quan trọng các ông quan tâm là truyền lại cho họ những chỉ thị của công đồng Giêrusalem ban bố, để họ tuân giữ và khuyên nhủ họ. Nhờ đó mà “các Hội Thánh được vững mạnh trong đức tin và mỗi ngày thêm đông số".
2. Tìm kiếm nhân sự để đào tạo cho cộng tác truyền giáo.
Trở lại Lytra Phaolô đã tìm thấy Timôthê, mẹ ông là người Do-thái đã tin Chúa, còn cha là người Hy-lạp. Ông được các anh em ở Lytra và Icônia chứng nhận là tốt. Nên Phaolô muốn Timôthê cộng tác truyền giáo với mình. Phaolô đã đem ông đi làm phép cắt bì.
Tại sao phải cắt bì vì công đồng Giêrsalem đã bãi bỏ? Có nhiều lý do: (1) đã được nói ở đây là vì nể các người Do-thái ở những nơi ấy. (2) Vì mẹ của anh ta là người Do Thái nên con sinh ra phải giữ luật Do Thái. (3) Nhằm giúp cho Timôthê dễ dàng hơn khi rao giảng trong các hội đường người Do Thái, như Phaolô đã nói trong thư gửi tín hữu Corintô: “Trở nên người Do Thái để chinh phục người Do Thái…” (1Cr 9, 19-23).
3. Phải lắng nghe sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần .
Dự tính ban đầu các ông là đi sang miền Phygia va Galát để rao giảng tại Asia, nhưng Thánh Thần ngăn cản nên các ông lại tiếp tục tới sát ranh giới Myxia và thử vào miền Bithynia, nhưng Thần Khí Đức Giêsu cũng không cho phép. Các ông bèn đi qua miền Mysia mà xuống Troa. Tại đây “ban đêm, ông Phaolô thấy một thị kiến: một người miền Makêđônia đứng đó, mời ông rằng: “Xin ông sang Makêđônia giúp chúng tôi!”.“Sau khi thấy thị kiến đó, lập tức các ông tìm cách đi Makêđônia, vì hiểu ra rằng TC kêu gọi các ông loan báo Tin Mừng cho họ”.
Qua hai lần ngăn cản của Thánh Thần, nhất là nhìn thấy thị kiến, Phaolô đã nhận ra ý Thiên Chúa nên ông đã lập tức tìm cách đi Makêđônia, vì hiểu ra rằng Thiên Chúa muốn ông đem Tin Mừng của Chúa đến Âu Châu, bắt đầu với các thành phố Hy-lạp.
Xin cho chúng ta biết mở rộng tâm hồn để nghe theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Nhất là luôn biết gắn kết với GH để hiệp nhất với nhau trong những đường hướng truyền giáo; cũng như tích cực quan tâm đến việc đào tạo nhân sự kế thừa theo tinh thần của Thánh Phaolô.

Suy niệm 2: Ga 15,18-21.
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết cuộc sống theo Chúa sẽ gặp những thử thách và khổ cực như Ngài. “ Nếu thế gian ghét anh em, anh em biết rằng nó đã ghét Thầy trước”.
Xin cho chúng ta luôn trung thành theo Chúa dù phải bị người đời ghen ghét và bách hại, vì tin rằng mình đã thuộc về Chúa.

Không phải ngày hôm nay, thế gian mới ghét bỏ và bách hại những kitô hữu. Nhưng ngay từ xưa, Chúa Giêsu cũng đã bị bao người khinh bỉ, hiểu lầm. Các nhà cầm quyền thì nghi ngờ; những Pharisêu, kinh sư, tư tế thì chống đối kịch liệt; những người đồng hương thì xem thường, phủ nhận…tất cả những thái độ đó cuối cùng đã đi đến chỗ độc ác là hành hạ và giết chết Chúa.
Đến thời các tông đồ, các môn đệ Chúa cũng gặp phải những đau khổ đúng như điều mà Chúa Giêsu đã nói. Khi thi hành sứ vụ rao giảng, các tông đồ và các môn đệ khác luôn bị cấm đoán đe dọa, bắt bớ và hành hạ đủ mọi thứ cực hình…, cuối cùng các ngài cũng kết thúc cuộc đời bằng cái chết bi thảm.
Nối tiếp các tông đồ, Giáo hội ở khắp nơi đều bị các nhà cầm quyền ghét bỏ, loại trừ, bách hại... Cụ thể ở Việt Nam trong khoảng gần 300 năm đầu (1638-1886) đã có hàng trăm ngàn người chịu đổ máu và hiến mạng sống mình để làm chứng cho niềm tin vào Chúa.
Hôm nay dù trãi qua hơn 2000 năm, ấy vậy mà Giáo hội nói chung và các kitô hữu nói riêng vẫn không ngừng bị xiết chặt, ghét bỏ, trù dập, bắt bớ và giết hại khắp nơi trên thế giới. Khiến chúng ta những người theo Chúa không ngừng phải lo lắng, sợ hãi và bất an…Nhưng với niền tin tưởng vào sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa. Chúng ta hãy an tâm phó thác vào bàn tay uy quyền của Chúa.




SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XIII THƯỜNG NIÊN CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN-NĂM B Kn 1,13-15; 2,23-24; 2Cr 8,7.9.13-15; Mc 5,21-43 Suy niệm 1: ...