SUY
NIỆM LỜI CHÚA TUẦN IV PHỤC SINH
Thứ
hai
Đoạn sách Cvtđ hôm nay ghi lại cuộc đối thoại
giữa Phêrô và những người tín hữu gốc Do thái về vấn đề: có nên mở cửa để tiếp
nhận dân ngoại vào ngôi nhà Hội Thánh theo lệnh truyền của Chúa Giêsu Phục
sinh “các
con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và
Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây
Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19-20); hay
là đóng chặt cửa để bảo toàn những giá trị truyền thống?
Với những người tín hữu gốc Do Thái thì không
được vượt ra những luật lệ truyền thống như: vào nhà dân ngoại, ăn uống những
thức ăn bị xem là ô uế; nhất là phải giữ luật cắt bì. Nên nghe biết sự việc ông
Phêrô vào nhà ông Cornêliô là người ngoại ăn uống, giảng dạy giáo lý và rửa tội
cho ông và cả gia đình mà không phải giữ luật cắt bì, đã làm cho họ khó chịu.
Do đó, ngay khi Phêrô đặt chân về Giêrusalem thì họ kéo đến để phản đối việc
làm của Phêrô.
Nhưng sau khi lắng nghe Phêrô giải thích về
những gì ông làm không phải là sáng kiến của ông mà là do ý muốn của Thiên
Chúa. Bằng việc trưng dẫn hai thị kiến kỳ lạ đã xảy ra với ông và với ông
Cornêliô đã làm cho chính Phêrô đã hiểu ra rằng:“Thiên Chúa đã ban cho họ
cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta”. Sau khi lắng được lời
giải thích của Phêrô, các tín hữu ở Giêrusalem đã bị thuyết phục và họ đã thay
đổi cái nhìn về dân ngoại. Họ cũng nhận ra rằng: “Thiên Chúa cũng ban
cho dân ngoại ơn sám hối để được sự sống”.
Bế quan tỏa cảng để gìn giữ và bảo toàn hay là
mở rộng cửa nhằm tiếp nhận cái mới làm phong phú và hoàn thiện hơn? đó luôn là
vấn đề được đặt ra để bàn luận không những trên bình diện vĩ mô mà còn vấn đề
được đặt ra trên bình diện vi mô, cụ thể nơi các gia đình hôm nay, khi mà quyền
chính kiến mỗi người được tôn trọng.
Xin cho các thành viên trong gia hiểu rằng:
gìn giữ bảo vệ những giá trị truyền thống cha ông là điều đáng trân quý, nhưng
nếu vì tục lệ truyền thống mà gây bất ổn xã hội và làm tổn hại đến môi trường
thì cũng nên xét lại. Nhất là với các gia đình Công giáo khi có những bất đồng
quan điểm xảy ra thì phải biết lấy Lời Chúa và đường hướng của GH làm nền tảng
để giải quyết vấn đề. Bởi ta tin rằng Lời Chúa là chân lý và Giáo huấn GH là lẽ
khôn ngoan hướng dẫn chúng ta. Đó cũng là chọn lựa khôn ngoan của thánh Phêrô: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng
lời người phàm”(Cvtđ 5,32).
Thứ
ba
Suy niệm 1: Cv 11, 19-26.
Đoạn sách Cvtđ hôm nay gồm 2 phần:
- Phần thứ nhất: ghi lại
thành quả tốt đẹp của GH sau những ngày tháng lo sợ chạy trốn vì cuộc bách hại
xảy ra nhân sự kiện phó tế Stêphanô tử đạo tại Giêrusalem. Các môn đệ phải tản
mác đến các miền Phênixi, đảo Syp và thành Antiôkhia để trú ẩn. Tại
những nơi đây, các môn đệ chỉ rao giảng cho người Do Thái. Tuy
nhiên trong đó, có mấy người gốc Syp và Kyrênê, những người này, khi đến
Antiôkhia, đã mạnh dạn loan Tin mừng của Chúa cho người Hy-lạp nữa. Kết quả
thật bất ngờ là “một số đông đã tin và trở lại cùng Chúa”. Nhờ
đâu mà có nhiều người ngoại giáo tin theo Chúa như vậy? Thánh Luca cho biết đó
là nhờ“bàn tay Chúa ở với họ”. Nghĩa là nhờ vào sức mạnh và quyền năng
Thiên Chúa phù giúp họ. Chính tại Antiokhia mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi
là Kitô hữu.
- Phần thứ hai: Đề cao đến tình hiệp
thông trong Hội Thánh. Khi nghe biết một số đông dân ngoại tại Antiokhia tin
theo đạo, thì các vị hữu trách của Hội Thánh tại Giêrusalem cử ông Barnaba đến
để chia sẻ niềm vui và củng cố đức tin cho các tín hữu ở đây bằng cách khuyên
nhủ họ hãy bền lòng gắn bó với Chúa. Rồi ông lên đường đi Tácxô để tìm Saolô về
để cộng tác với ngài lo cho giáo đoàn tại đây. Nhờ đó, giáo đoàn Antiokhia càng
thêm lớn mạnh. Qua đây cho thấy sự quan tâm, nâng đỡ kịp thời của
Hội Thánh. Điều này làm nổi bậc lên tính phổ quát và tình hiệp thông của GH
Công giáo.
Với cái nhìn của con người thì sự kiện Hội Thánh bị bách
hại gắt gao ở Giêrusalem là nỗi đau, nhưng với Thiên Chúa thì đó lại là cơ hội
để Tin mừng đến được với dân ngoại. Nhất là trong mọi hoàn cảnh GH
luôn biết quan tâm tìm hiểu để nâng đỡ cách tốt nhất trong tình hiệp thông.
Xin cho chúng ta luôn biết phó thác vào đường lối khôn
ngoan của Chúa và tin tưởng vào đường hướng của GH. Phần ta hãy luôn biết tận
dụng mọi hoàn cảnh để làm chứng tin mừng của Chúa theo gương các tín hữu Hy Lạp
hóa theo tinh thần nhiệt tâm của thánh Barnaba và Phaolô: “Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy
lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận
tiện; hãy biện bác, hãy khiển
trách, hãy khuyên lơn, hết tình đại lượng
và dụng tâm dạy dỗ” (2 Tim 4, 2).
Nhờ bí tích rửa tội, chúng ta trở thành chiên
của Chúa. Xin cho chúng ta hết lòng tin kính, vâng lời và sẵn sàng đi theo sự
hướng dẫn của Chúa Giêsu, vị chủ chăn tốt lành chúng ta.
Dù được nghe những lời giảng dạy và chứng kiến
biết bao phép lạ Chúa làm, nhưng những người Do Thái, cách riêng Biệt Phái và
Kinh Sư vẫn không tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Do đâu mà họ không tin
nhận và nghe theo lời của Chúa Giêsu?
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho biết, vì họ
không thuộc về đoàn chiên của Ngài. Theo nghĩa phổ quát, mọi người đều là chiên
của Chúa, vì mọi người đều được Chúa yêu thương dựng nên và hy sinh đổ máu cứu
chuộc. Tuy nhiên để trở thành chiên thật thuộc về Chúa thì cần phải thỏa mãn
hai điều kiện:
1. Tin nhận Chúa và chịu phép rửa tội. Vì giáo
lý công giáo dạy: nhờ bí tích rửa tội, chúng ta được thanh tẩy mọi tội lỗi,
được làm con Chúa, được gia nhập vào đoàn chiên Chúa là Giáo Hội.
2. Phải nghe theo lời Chúa là mục tử tối cao,
cũng như tuân giữ mọi điều răn và luật lệ Chúa truyền dạy với tình yêu mến.
Nhiều người Do Thái đã không thành tâm yêu mến
Chúa, nên cho dù Chúa Giêsu ở giữa họ, có giảng dạy và làm nhiều phép lạ, họ
vẫn không tin nhận, vì họ không thuộc đoàn chiên đích thực của Chúa.
Như Chúa Giêsu đã nói: chỉ những ai thuộc đoàn
chiên Chúa, thì mới được Chúa gìn giữ và ban cho sự sống đời đời .
Xin cho chúng ta biết tin kính và yêu mến Chúa Giêsu, đấng chăn
chiên tốt lành của chúng ta. Đồng thời cho chúng ta luôn là những con chiên
ngoan hiền của Chúa. Biết lắng nghe, vâng lời và thi hành điều Chúa chỉ dạy với
tình con thảo.
Thứ
tư: Kính Thánh Marcô
Suy
niệm: 1 Pr 5, 5b-14.
"Công cuộc truyền giáo mãi mãi là vấn đề
sống còn của Hội Thánh trên đất nước chúng ta". Đó là lời mở đầu của
UB Loan Báo Tin Mừng/HĐGMVN sau 50 năm nỗ lực truyền giáo. Vì thế truyền giáo hay
loan báo Tin mừng là nhiệm vụ hàng đầu của Gíao Hội. Gíao Hội có được lớn mạnh
hay không tùy thuộc vào việc loan báo Tin mừng.
Công đồng Vatican II khẳng định rõ rằng: “Tự
bản tính, Giáo hội lữ hành là truyền giáo” (Ecclesia peregrinans natura sua
missionaria est, Ad gentes 2). Nên sẽ không là Gíao hội hay là người kitô hữu
nữa nếu không loan báo Tin mừng. Nhưng trên hết, truyền giáo hay loan báo Tin
mừng là tâm quyết cháy bỏng của Chúa Giêsu. Nên trước khi về trời, Ngài đã di
chúc lại cho các tông đồ: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ,
loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu
độ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án" (Mc 16, 15).
Vậy đã rõ mục đích của việc loan báo Tin mừng
là để người khác tin vào Chúa Giêsu, nhận lãnh phép rửa và được cứu độ. Nhưng
làm thế nào để việc loan báo Tin mừng mang lại hiệu quả?
Bài đọc I, thư thứ nhất của thánh Phêrô nói
đến những điều quan trọng mà chúng ta cần phải lưu tâm để sống:
- "Lấy đức khiêm nhường đối xử
với nhau". Muốn đối xử khiêm nhường với nhau, trước hết phải tự khiêm
hạ trước Chúa. Không khiêm hạ trước Chúa làm sao ta dễ khiêm nhường với anh em.
Kiêu ngạo luôn là cám dỗ nguy hiểm đánh mất hạnh phúc thiêng đàng mà nguyên tổ
Adam và Eva đã mắc phải.
- "Mọi âu lo, hãy trút cả cho
Người, vì Người chăm sóc anh em". Nghĩa là phải đặt trọn niềm tin
vào sự quan phòng của Chúa đầy yêu thương và quyền năng của chúng ta.
- "Hãy sống tiết độ và tỉnh
thức", là sống đúng với ơn gọi và chu toàn tốt bổn phận mà Chúa trao
phó cho mình.
- "Hãy đứng vững trong đức tin mà
chống cự". Trong mọi hoàn cảnh, ngay cả cái chết cũng luôn trung
thành làm chứng niềm tin. Vì phần thưởng mà Chúa ban tặng chính là được
nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường; nhất là được hưởng vinh quang
đời đời trong Đức Kitô.
Xin Chúa cho chúng ta ý thức được tầm
quan trọng của việc truyền giáo, để như thánh Mác-cô, ta biết tận mọi khả năng,
hoàn cảnh góp phần tich cực cho việc truyền giáo. Xin cho chúng ta trở nên chứng nhân
trung thành của Chúa Giêsu nhờ biết siêng năng tìm hiểu Tin Mừng, trong đó có
Tin Mừng thánh Mác-cô để lại. Nhất là xin cho chúng ta luôn can đảm
sống theo những giá trị Lời Chúa hướng dẫn: khiêm nhường, phó thác, tiết độ,
tỉnh thức và kiên vững đức tin, dầu phải đối mặt với bao thử thách, nhờ đó mà
Tin Mừng của Chúa có sức thuyết phục mạnh và ơn cứu độ của Chúa được lan tỏa
rộng đến mọi người.
Thứ
năm
Suy niệm 1: Cv 13, 13-25.
Sách Cvtđ hôm nay tiếp tục ghi lại cuộc hành
trình truyền giáo lần thứ I của Phaolô và Barnaba nơi vùng đất dân ngoại, ngoài
lãnh thổ Giêrusalem. Có lẽ cuộc hành trình truyền giáo này gặp rất nhiều vất
vả, khó khăn nênmôn đệ Gioan-Márcô đã rời bỏ nhóm mà trở về Giêrusalem, chỉ còn
lại Phaolô và Barnaba. Hai ông rời bỏ Paphô để vượt biển đến Antiokhia xứ
Pisiđia. Tại đây, vào ngày Sabath, Phaolô cùng với Barnaba vào hội đường người
Do Thái để cử hành nghi thức phụng vụ (đọc và nghe giải thích thánh kinh, học
hỏi lề luật và cầu nguyện). Tận dụng cơ hội này, Phaolô đã đứng lên giảng
dạy. Nội dung bài giảng của Phaolô chủ yếu là điểm lại những chặng đường lịch sử mà dân tộc Israel đã đi qua:
- Từ Aicập cho đến xuất hành khỏi cảnh nô lệ.
- Từ vượt qua hành trình 40 năm trong sa mạc cho đến vào
đất hứa.
- Từ thời các thủ lãnh đến thời quân chủ
- Cuối cùng là thời Messia đã được Gioan Tẩy Giả loan
báo. Đấng Messia ấy chính là Đức Giêsu-Kitô. Người đến để hoàn tất kế hoạch cứu
độ mà Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ.
Sau khi tóm tắt lại những chặng đường lịch sử mà dân tộc
Israel đã đi qua, Phaolô muốn chứng minh cho khán giả thấy rằng: Thiên Chúa là
Đấng luôn trung tín trong lời hứa với tổ phụ Abraham nên đã ban cho
Israel Đấng Cứu Độ xuất thân từ giòng dõi vua Đavid và Đất hứa làm gia
nghiệp.
Xin cho chúng ta luôn ý thức: Lời hứa rất quan trọng
trong đời sống. Nếu một người biết giữ lời hứa và thực hiện lời hứa, chứng tỏ
người ấy sống có trách nhiệm với bản thân và người khác, sẽ được người khác quý
mến, tôn trọng và tín nhiệm. Ngược lại, nếu nói mà không làm, thường xuyên thất
hứa, chứng tỏ người ấy sống thiếu trách nhiệm, không biết tôn trọng bản thân và
người khác, chắc chắn sẽ không được tôn trọng. Nên trước khi hứa với ai điều gì
ta nên cẩn trọng xem mình có khả năng thực hiện được không? Và nếu một khi đã
hứa, hãy cố gắng thực hiện!
Trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, ta (hay cha mẹ thay
ta) đã hứa với Chúa và GH là từ bỏ tà thần và tuyên xưng đức tin, trung thành
sống với Chúa trong tình con thảo. Xin cho mỗi chúng ta luôn ý thức sống trung
thành với lời đã thề hứa ấy.
Nhất là xin cho các đôi vợ chồng trẻ luôn biết tôn trọng
và tuân giữ lời mình đã tự nguyện thề hứa trước mặt Thiên Chúa và cộng đoàn
trong ngày cử hành bí tích hôn phối mà trung thành với nhau trong đời vợ chồng,
cho dẫu phải đối mặt với những nghịch cảnh trong đời sống.
Các nhà xã hội học định nghĩa con người là con
vật có xã hội tính. Thật vậy “không ai là một hòn đảo”. Con người sống là sống
với, sống cùng, sống cho và sống nhờ… người khác. Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu
mời gọi chúng ta mở lòng đón tiếp những sứ giả Chúa với tấm lòng yêu mến và hy
sinh phục vụ. Yêu mến phục vụ các ngài chính là yêu mến và phục vụ
Chúa.
“Tôi tớ không lớn hơn chủa nhà, kẻ được sai đi
không lớn hơn người sai đi” (Ga
13, 16). Các tông đồ là môn đệ Chúa nên các ông không thể bằng Chúa. Nhưng các
ngài diễm phúc được Chúa Giêsu đặt ngang hàng với Người. “Ai đón tiếp
người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy”. Như thế, Chúa mời gọi chúng
ta phải lưu tâm đón tiếp và phục vụ những sứ giả của Chúa sai đến là các
tông đồ. Tiếp nối các tông đồ là các Linh mục. Các ngài cũng là những Chúa Kitô
thứ hai. Do đó đón tiếp các ngài là đón tiếp chính Chúa.
Trong Thánh Kinh chúng ta thấy còn ghi lại một
vài nét đẹp của sự tiếp đón đáng cho chúng ta bắt chước. Những gương sáng này
vẫn luôn giữ được tính cách thời sự của nó.
1. Ông Abraham.
Ông là một con người hiếu khách và quảng đại.
Khi thấy ba khách lạ đang đi trong sa mạc nắng cháy, không những ông mời mà còn
năn nỉ họ vào nhà nghỉ và ân cần săn sóc họ một cách chu đáo. Ba người
khách lạ đó là ai ? Đó là ba sứ giả của Thiên Chúa. Đáp lại tấm thịnh tình và
lòng quảng đại của ông, ba sứ giả ban cho vợ chồng hiến muộn này một đứa con
trai đầu lòng. Đó là cậu Isáac.
2. Một gia đình ở Su-nêm.
Khi tiên tri Elia qua Su-nêm, một bà giầu có
rất hiếu khách đã mời Elia vào nhà dùng bữa với sự săn sóc tỉ mỉ. Bà còn dọn
cho tiên tri một phòng trên gác đầy tiện nghi để tiên tri có thể lui tới tự do.
Đáp lại tấm lòng quảng đại của bà, Elia cũng hứa ban cho bà một đứa con vì bà
son sẻ: ‘Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng”
3. Gia đình ba chị em ở Bêtania.
Chúa Giêsu rất thương ba chị em này, mỗi khi
đi qua Bêtania, Chúa và các môn đệ thuờng ghé thăm chị em và nghỉ ngơi. Chị cả
Matta rất hiếu khách, dọn cho Chúa những bữa ăn ngon. Còn cô em
Maria đón tiếp Chúa bằng cách ngồi dưới chân Chúa mà nghe Ngài dạy
dỗ, cách đón tiếp này cũng làm cho Chúa rất hài lòng. Còn Lagiarô là đàn ông
thì tiếp theo kiểu đàn ông là ăn uống và chuyện trò với Chúa. Đáp lại sự đón
tiếp ân cần và thành thực của ba chị em, Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô sống lại
sau khi chết bốn ngày.
Khi tiếp đón các tông đồ của Chúa, dĩ nhiên
chúng ta phải mất mát : mất thì giờ, mất tiền của, mất công... Nhưng tất cả sẽ
được Chúa thưởng công cho ở đời này hay đời sau. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa, đã
tiên liệu cho chúng ta có những người kế tiếp Chúa, là các Linh mục, để đem
Chúa đến cho chúng ta và dạy bảo chúng ta về đời sống đạo.
Chúng ta cầu xin cho các linh mục biết sống và thể hiện đầy
đủ trách nhiệm của mình trước mặt Chúa cho xứng đáng, để mọi người nhận ra
khuôn mặt Đức Kitô qua đời sống linh mục.
Thứ
sáu
Suy niệm 1: Cv 13, 26-33.
Sau khi nhắc lại những chặng đường lịch sử mà dân Israel
đã trãi qua dưới sự dẫn dắt đầy khôn ngoan của TC, Phaolô tiếp tục dùng khung
bài giảng Kerygma (bài giảng truyền giáo) để khái quát về cuộc đời của Đức
Giêsu nơi trần thế và khẳng định mọi điều Thiên Chúa hứa ban nay đã được
thành toàn nơi Đức Kitô qua cái chết và sự Phục Sinh vinh hiển của Người.
- Về sự phục sinh của Đức Giêsu: Phaolô khẳng định chính
Đức Kitô đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ: "Trong nhiều ngày,
Đức Giêsu đã hiện ra với những kẻ từng theo Người từ Galilê lên Giêrusalem. Giờ
đây chính họ làm chứng cho Người trước mặt dân". Và Phaolô và
Barnaba chính là chứng nhân cho tin mừng ấy: "Còn chúng tôi, chúng
tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: Điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng
ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Đức Giêsu
sống lại, đúng như lời đã chép trong Thánh vịnh 2: Con là Con của Cha, ngày hôm
nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2, 7).
- Về cái chết của Đứcc Giêsu: Phaolô nhấn mạnh cái chết
của Đức Giêsu là do "dân cư thành Giêrusalem và các thủ lãnh của
họ” gây nên. Nhưng cũng như Phêrô, ngài cho biết sở dĩ họ giết Đức
Giêsu là vì họ không nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ.
+ Từ đó, Phaolô hướng mọi người nhìn về cái chết và sự
phục sinh của Đức Giêsu là kế hoạch cứu độ đầy khôn ngoan của TC, vì đã ứng
nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã nói về Người Tôi Trung của TC. Và ông kêu gọi
mọi người sám hối, tin nhận Đức Giêsu để đón nhận ơn cứu độ.
Với cái nhìn đức tin, Phaolô cho thấy: dù con người có từ
chối và đóng đinh Chúa Giêsu trên Thập Giá, họ cũng không tài nào vô hiệu hóa
được kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, để từ nay, không những dân Israel mà mọi
người đều có thể nhận được ơn cứu độ.
Xin cho chúng ta biết phó thác đời mình cho kế hoạch đầy
khôn ngoan và giàu lòng yêu thương của TC.
Để cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu vẫn phải chấp nhận ngang
qua con đường thập giá. Vì thế thập giá chính là con đường mà chúng ta phải
bước theo nếu muốn được cứu độ. Xin cho chúng ta luôn can đảm sống tinh thần
của thánh Phaolô để sẵn sàng "cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng
sống lại như Người".
Ngày xưa chưa có đường. Nhưng do đi lại nên
trở thành đường mà thôi. Muốn đi và đạt đến đỉnh hạnh phúc vinh quang ta cần có
con đường để đi. Con đường ấy chính là Đức Giêsu Kitô, Ngài đi từ trời xuống và
từ đất lên và trở nên đường đưa dẫn chúng ta về trời sum họp cùng với Ngài
trong nhà Cha. Xin cho chúng ta biết đi trên con đường mà chính Chúa đã vạch ra
hầu chúng ta đạt tới quê trời vinh phúc.
Sau một thời gian rời bỏ Việt Nam để tìm cho
mình cuộc sống tự do nơi quê hương xứ sở mới. Nay cuộc sống của hầu hết Việt
Kiều ở nước ngoài đều ổn định và sung túc. Trong khi đó những người thân của họ
ở lại thì phải sống trong cảnh khó khăn, vất vã. Với chính sách đoàn tụ gia
đình, những năm gần đây, nhiều việt kiều đã về nước để bảo lãnh người thân của
mình sang để sum họp gia đình và hưởng được cuộc sống tiện nghi thoải mái. Tuy
nhiên để được đoàn tụ với người thân bên nước ngoài, công dân việt nam phải thoả
mãn nhiều điều kiện....
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho các tông đồ
biết : Ngài sẽ ra đi để dọn chỗ cho các ông, rồi một ngày nào đó, Chúa sẽ
trở lại, đem các ông lên ở với Chúa trên nhà Cha trên trời, để hưởng vinh phúc
đời đời. Tuy nhiên để được đoàn tụ với Chúa Giêsu trên quê hương thiêng đường,
Chúa cũng đòi hỏi chúng ta phải thoả mãn các điều kiện mà Chúa đưa ra. Đó là đi
đúng con đường của Chúa đã đi, tuân giữ chân lý mà Chúa đã truyền và hiệp thông
trong sự sống của Chúa.
Con đường mà Chúa Giêsu đi là con đường hẹp,
con đường thập giá. Chấp nhận hy sinh, gian khổ để thi hành những giời răn mà
Chúa đã chỉ dạy. Biết khiêm tốn, hạ mình chấp nhận thiệt thòi để phục vụ tha
nhân với tình yêu mến.
Cố gắng sống theo chân lý mà Chúa đã dạy. Chân
lý ấy là sống yêu thương. Yêu không chỉ những người thân cận, không phải những
kẻ yêu mình mà tình yêu phải quy chiếu vào tình yêu của Chúa Giêsu: “Yêu
như Chúa yêu”, tình yêu ấy phải dành cho hết mọi người, không phân biệt một
ai, ngay cả kẻ thù.
Ý thức nổ lực sống hiệp thông với Chúa, bằng
việc lắng nghe và thi hành Lời Chúa cũng như tha thiết kết hiệp với Chúa qua
việc kính yêu và năng đón nhận Mình Thánh Chúa. Nhờ thế sự sống và sức mạnh
Chúa tuôn chảy trong ta. Như nhựa cây cần thiết để nuôi sống cây nho và cành
nho thế nào thì linh hồn chúng ta cũng cần đến Lời Chúa và Mình Thánh Chúa như
thế.
Mục đích một đời sống đạo là hạnh phúc
thiêng đàng. Nhưng để đạt được điều mong đó, không gì khác hơn là chúng ta phải
đi theo đường Chúa đã đi, sống theo chân lý mà Chúa đã sống và chỉ dạy, nhất là
phải luôn sống bằng sức sống của Chúa qua việc thi hành Lời Chúa và năng kết
hiệp với Chúa nơi bàn tiệc Thánh Thể.
Thứ
bảy
Suy niệm 1: Cv 13, 44-52.
Với chủ đích ban đầu của các môn đệ là loan báo Tin mừng
Cứu độ chủ yếu cho người Do Thái nên Phaolô và Barnaba luôn tận dụng Hội đường
để rao giảng. Lần này cũng vậy, Phaolô và Barnaba đến Hội đường vào ngày Sabath
để rao giảng theo lời mời của một số người Do Thái. Tuy nhiên lần này hai ông
lại bị chống đối quyết liệt bởi những người Do Thái quá khích.
Hai lý do họ chống đối Phaolô và Barnaba là:
- Thứ nhất vì ghen tương: Họ không muốn Phaolô và Barnaba
có ảnh hưởng trên đám đông; vì nếu đám đông nghe theo Phaolo va Barnaba thì họ
sẽ không còn ảnh hưởng trên dân chúng nữa. Họ không muốn thấy ai được phép bằng
họ.
- Thứ hai vì quan niệm hẹp hòi: Truyền thống Do Thái quan
niệm chỉ có họ mới là con Thiên Chúa và có đặt quyền nghe lời của Thiên Chúa.
Giờ đây cả dân ngoại cũng được làm con Thiên Chúa và được nghe lời Thiên Chúa
thì họ đâu còn chi đặc biệt nữa. Nên khi “thấy đám đông dân chúng, thì
đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy”.
Cách giải quyết của Phaolô và Barnaba trước sự chống đối:
1. Bình tĩnh can đảm giải thích: Lẽ ra "Anh em phải là những
người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời
ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi
quay về phía dân Ngoại".
2. Dùng Lời Chúa để minh chứng: Phaolô và Barnaba đã
trích lại lời Thiên Chúa trong sách Isaia để cho thấy việc rao giảng Lời của
Chúa cho dân ngoại chính là lệnh truyền của Thiên Chúa: “Ta đặt ngươi làm
ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta
đến tận cùng cõi đất." (Is 49, 6).
Nhưng khi nghe những lời đó, họ càng phẩn nộ, đã xách
động và xúi dục nhóm phụ nữ thượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào
trong thành, ngược đãi ông Phaolô và ông Barnaba, và trục xuất hai ông ra khỏi
lãnh thổ của họ.
Trước thái độ cố chấp của họ, cuối cùng hai ông đành phải
cắt đứt liên hệ với họ qua cử chỉ“giũ bụi chân phản đối họ và đi tới Icôniô”,
theo như lời Chúa Giêsu đã dạy:“Nếu người ta không đón tiếp và nghe lời anh
em, thì khi ra khỏi thành ấy, anh em hãy giũ bụi chân lại” (Mt 10,14).
Chính nhờ đó mà Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy và dân ngoại được hân hoan ca
tụng Lời Chúa.
Xin cho chúng ta biết noi gương hai thánh tông đồ Phaolô
và Barnaba luôn nhiệt tâm rao giảng Tin mừng cho mọi người dù gặp phải nhiều
gian nan thử thách. Nhất là cho mỗi người Kitô hữu chúng ta biết tích cực góp
phần cho công cuộc truyền giáo với hết khả năng của mình. Đừng vì tính ích kỷ,
ghen tị, tự mãn… hay bất cứ lý do nào làm ngăn cản cho sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Suy niệm 2: Ga 14, 7-14.
"Xin cho chúng con thấy Chúa Cha" (Ga 14,8). Đó không
chỉ là khao khát của tông đồ philipphê mà là mỗi chúng ta, những người tin
Chúa. Khao khát đó sẽ được Đức Giêsu làm thoả mãn qua sứ điệp của lời Chúa hôm
nay.
Tin Mừng hôm nay, Philipphê xin với Chúa
Giêsu: "Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn
nguyện" (Ga.14:8). Khao khát của Philipphê, cũng là khao khát mỗi chúng
ta.
Thiên Chúa đã đáp lại khát vọng đó qua việc
cho Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách,
Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết
này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử Giêsu” (Dt 1, 1-
20). Nơi Đức Giêsu Kitô, chúng ta gặp được Thiên Chúa, dễ gần, dễ thấy, dễ
quen.
Thiên Chúa đâu chỉ ở nơi cao thẳm ngàn trùng,
Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Giữa Ngài và Thiên Chúa
Cha có một gắn bó lạ lùng đến nỗi Đức Giêsu dám nói: "Ai biết Thầy
là biết Cha" (Ga 14, 7). "Ai thấy Thầy là thấy
Cha" (Ga 14, 9) vì "Thầy ở trong Cha và Cha ở trong
Thầy"(Ga 14, 10).
Lời nói và việc làm của Đức Giêsu chính là lời
nói và việc làm của Thiên Chúa (x. Ga 14, 10). Toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu được
Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt, phản chiếu khuôn mặt và trái tim Thiên
Chúa, đầy nhân ái và bao dung với hết mọi người. Kitô hữu là người có Chúa Kitô
nên được mời gọi trở nên giống Chúa Giêsu để có thể nói rằng: Ai biết tôi là
biết Đức Kitô, ai thấy tôi là thấy Đức Kitô.
Lạy Chúa Giêsu! Ðã bao lần con làm cho khuôn
mặt Chúa trở méo mó, biến dạng và có thể là rất khó thương vì đời sống không
tốt đẹp của con. Xin
cho con biết nhìn lên Chúa như một khuôn mẫu tuyệt vời để tu tập thành con
người mới, con người có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và tình yêu thương, để
nhờ đó con trở thành hình ảnh trung thực về Chúa cho thế giới hôm nay. Amen
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét