Tìm kiếm Blog này

Thứ Sáu, 20 tháng 4, 2018

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN IV PHỤC SINH

Thứ hai
Suy niệm: Cv 11, 1-18
Đoạn sách Cvtđ hôm nay ghi lại cuộc đối thoại giữa Phêrô và những người tín hữu gốc Do thái về vấn đề: có nên mở cửa để tiếp nhận dân ngoại vào ngôi nhà Hội Thánh theo lệnh truyền của Chúa Giêsu Phục sinh các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19-20);  hay là đóng chặt cửa để bảo toàn những giá trị truyền thống?
Với những người tín hữu gốc Do Thái thì không được vượt ra những luật lệ truyền thống như: vào nhà dân ngoại, ăn uống những thức ăn bị xem là ô uế; nhất là phải giữ luật cắt bì. Nên nghe biết sự việc ông Phêrô vào nhà ông Cornêliô là người ngoại ăn uống, giảng dạy giáo lý và rửa tội cho ông và cả gia đình mà không phải giữ luật cắt bì, đã làm cho họ khó chịu. Do đó, ngay khi Phêrô đặt chân về Giêrusalem thì họ kéo đến để phản đối việc làm của Phêrô.
Nhưng sau khi lắng nghe Phêrô giải thích về những gì ông làm không phải là sáng kiến của ông mà là do ý muốn của Thiên Chúa. Bằng việc trưng dẫn hai thị kiến kỳ lạ đã xảy ra với ông và với ông Cornêliô đã làm cho chính Phêrô đã hiểu ra rằng:“Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta”. Sau khi lắng được lời giải thích của Phêrô, các tín hữu ở Giêrusalem đã bị thuyết phục và họ đã thay đổi cái nhìn về dân ngoại. Họ cũng nhận ra rằng: “Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn sám hối để được sự sống”.
Bế quan tỏa cảng để gìn giữ và bảo toàn hay là mở rộng cửa nhằm tiếp nhận cái mới làm phong phú và hoàn thiện hơn? đó luôn là vấn đề được đặt ra để bàn luận không những trên bình diện vĩ mô mà còn vấn đề được đặt ra trên bình diện vi mô, cụ thể nơi các gia đình hôm nay, khi mà quyền chính kiến mỗi người được tôn trọng.
Xin cho các thành viên trong gia hiểu rằng: gìn giữ bảo vệ những giá trị truyền thống cha ông là điều đáng trân quý, nhưng nếu vì tục lệ truyền thống mà gây bất ổn xã hội và làm tổn hại đến môi trường thì cũng nên xét lại. Nhất là với các gia đình Công giáo khi có những bất đồng quan điểm xảy ra thì phải biết lấy Lời Chúa và đường hướng của GH làm nền tảng để giải quyết vấn đề. Bởi ta tin rằng Lời Chúa là chân lý và Giáo huấn GH là lẽ khôn ngoan hướng dẫn chúng ta. Đó cũng là chọn lựa khôn ngoan của thánh Phêrô: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm”(Cvtđ 5,32).

Thứ ba
Suy niệm 1: Cv 11, 19-26.
Đoạn sách Cvtđ hôm nay gồm 2 phần:
Phần thứ nhất: ghi lại thành quả tốt đẹp của GH sau những ngày tháng lo sợ chạy trốn vì cuộc bách hại xảy ra nhân sự kiện phó tế Stêphanô tử đạo tại Giêrusalem. Các môn đệ phải tản mác đến các miền Phênixi, đảo Syp và thành Antiôkhia để trú ẩn.  Tại những nơi đây, các môn đệ chỉ rao giảng cho người Do Thái. Tuy nhiên trong đó, có mấy người gốc Syp và Kyrênê, những người này, khi đến Antiôkhia, đã mạnh dạn loan Tin mừng của Chúa cho người Hy-lạp nữa. Kết quả thật bất ngờ là “một số đông đã tin và trở lại cùng Chúa”. Nhờ đâu mà có nhiều người ngoại giáo tin theo Chúa như vậy? Thánh Luca cho biết đó là nhờ“bàn tay Chúa ở với họ”. Nghĩa là nhờ vào sức mạnh và quyền năng Thiên Chúa phù giúp họ. Chính tại Antiokhia mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu.
Phần thứ hai: Đề cao đến tình hiệp thông trong Hội Thánh. Khi nghe biết một số đông dân ngoại tại Antiokhia tin theo đạo, thì các vị hữu trách của Hội Thánh tại Giêrusalem cử ông Barnaba đến để chia sẻ niềm vui và củng cố đức tin cho các tín hữu ở đây bằng cách khuyên nhủ họ hãy bền lòng gắn bó với Chúa. Rồi ông lên đường đi Tácxô để tìm Saolô về để cộng tác với ngài lo cho giáo đoàn tại đây. Nhờ đó, giáo đoàn Antiokhia càng thêm lớn mạnh. Qua đây cho thấy sự quan tâm, nâng đỡ kịp thời của Hội Thánh. Điều này làm nổi bậc lên tính phổ quát và tình hiệp thông của GH Công giáo.
Với cái nhìn của con người thì sự kiện Hội Thánh bị bách hại gắt gao ở Giêrusalem là nỗi đau, nhưng với Thiên Chúa thì đó lại là cơ hội để Tin mừng đến được với dân ngoại. Nhất là trong mọi hoàn cảnh GH luôn biết quan tâm tìm hiểu để nâng đỡ cách tốt nhất trong tình hiệp thông.
Xin cho chúng ta luôn biết phó thác vào đường lối khôn ngoan của Chúa và tin tưởng vào đường hướng của GH. Phần ta hãy luôn biết tận dụng mọi hoàn cảnh để làm chứng tin mừng của Chúa theo gương các tín hữu Hy Lạp hóa theo tinh thần nhiệt tâm của thánh Barnaba và Phaolô: Hãy rao giảng Lời Chúahãy lên tiếnglúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiệnhãy biện báchãy khiển tráchhãy khuyên lơnhết tình đại lượng và dụng tâm dạy dỗ” (2 Tim 4, 2).

Suy niệm 2: Ga 10, 22-30.
Nhờ bí tích rửa tội, chúng ta trở thành chiên của Chúa. Xin cho chúng ta hết lòng tin kính, vâng lời và sẵn sàng đi theo sự hướng dẫn của Chúa Giêsu, vị chủ chăn tốt lành chúng ta.
Dù được nghe những lời giảng dạy và chứng kiến biết bao phép lạ Chúa làm, nhưng những người Do Thái, cách riêng Biệt Phái và Kinh Sư vẫn không tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Do đâu mà họ không tin nhận và nghe theo lời của Chúa Giêsu?
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho biết, vì họ không thuộc về đoàn chiên của Ngài. Theo nghĩa phổ quát, mọi người đều là chiên của Chúa, vì mọi người đều được Chúa yêu thương dựng nên và hy sinh đổ máu cứu chuộc. Tuy nhiên để trở thành chiên thật thuộc về Chúa thì cần phải thỏa mãn hai điều kiện:
1. Tin nhận Chúa và chịu phép rửa tội. Vì giáo lý công giáo dạy: nhờ bí tích rửa tội, chúng ta được thanh tẩy mọi tội lỗi, được làm con Chúa, được gia nhập vào đoàn chiên Chúa là Giáo Hội.
2. Phải nghe theo lời Chúa là mục tử tối cao, cũng như tuân giữ mọi điều răn và luật lệ Chúa truyền dạy với tình yêu mến.
Nhiều người Do Thái đã không thành tâm yêu mến Chúa, nên cho dù Chúa Giêsu ở giữa họ, có giảng dạy và làm nhiều phép lạ, họ vẫn không tin nhận, vì họ không thuộc đoàn chiên đích thực của Chúa.
Như Chúa Giêsu đã nói: chỉ những ai thuộc đoàn chiên Chúa, thì mới được Chúa gìn giữ và ban cho sự sống đời đời .
Xin cho chúng ta biết tin kính và yêu mến Chúa Giêsu, đấng chăn chiên tốt lành của chúng ta. Đồng thời cho chúng ta luôn là những con chiên ngoan hiền của Chúa. Biết lắng nghe, vâng lời và thi hành điều Chúa chỉ dạy với tình con thảo.

Thứ tư: Kính Thánh Marcô
Suy niệm: 1 Pr 5, 5b-14.
"Công cuộc truyền giáo mãi mãi là vấn đề sống còn của Hội Thánh trên đất nước chúng ta".  Đó là lời mở đầu của UB Loan Báo Tin Mừng/HĐGMVN sau 50 năm nỗ lực truyền giáo. Vì thế truyền giáo hay loan báo Tin mừng là nhiệm vụ hàng đầu của Gíao Hội. Gíao Hội có được lớn mạnh hay không tùy thuộc vào việc loan báo Tin mừng.
Công đồng Vatican II khẳng định rõ rằng: “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành là truyền giáo” (Ecclesia peregrinans natura sua missionaria est, Ad gentes 2). Nên sẽ không là Gíao hội hay là người kitô hữu nữa nếu không loan báo Tin mừng. Nhưng trên hết, truyền giáo hay loan báo Tin mừng là tâm quyết cháy bỏng của Chúa Giêsu. Nên trước khi về trời, Ngài đã di chúc lại cho các tông đồ: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án" (Mc 16, 15).
Vậy đã rõ mục đích của việc loan báo Tin mừng là để người khác tin vào Chúa Giêsu, nhận lãnh phép rửa và được cứu độ. Nhưng làm thế nào để việc loan báo Tin mừng mang lại hiệu quả?
Bài đọc I, thư thứ nhất của thánh Phêrô nói đến những điều quan trọng mà chúng ta cần phải lưu tâm để sống:
"Lấy đức khiêm nhường đối xử với nhau". Muốn đối xử khiêm nhường với nhau, trước hết phải tự khiêm hạ trước Chúa. Không khiêm hạ trước Chúa làm sao ta dễ khiêm nhường với anh em. Kiêu ngạo luôn là cám dỗ nguy hiểm đánh mất hạnh phúc thiêng đàng mà nguyên tổ Adam và Eva đã mắc phải.  
"Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em". Nghĩa là phải đặt trọn niềm tin vào sự quan phòng của Chúa đầy yêu thương và quyền năng của chúng ta.
- "Hãy sống tiết độ và tỉnh thức", là sống đúng với ơn gọi và chu toàn tốt bổn phận mà Chúa trao phó cho mình.
"Hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự".  Trong mọi hoàn cảnh, ngay cả cái chết cũng luôn trung thành làm chứng niềm tin. Vì phần thưởng mà Chúa ban tặng chính là được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường; nhất là được hưởng vinh quang đời đời trong Đức Kitô.
Xin Chúa cho chúng ta ý thức được tầm quan trọng của việc truyền giáo, để như thánh Mác-cô, ta biết tận mọi khả năng, hoàn cảnh góp phần tich cực cho việc truyền giáo. Xin cho chúng ta trở nên chứng nhân trung thành của Chúa Giêsu nhờ biết siêng năng tìm hiểu Tin Mừng, trong đó có Tin Mừng thánh Mác-cô để lại. Nhất là xin cho chúng ta luôn can đảm sống theo những giá trị Lời Chúa hướng dẫn: khiêm nhường, phó thác, tiết độ, tỉnh thức và kiên vững đức tin, dầu phải đối mặt với bao thử thách, nhờ đó mà Tin Mừng của Chúa có sức thuyết phục mạnh và ơn cứu độ của Chúa được lan tỏa rộng đến mọi người.

Thứ năm
Suy niệm 1: Cv 13, 13-25.
Sách Cvtđ hôm nay tiếp tục ghi lại cuộc hành trình truyền giáo lần thứ I của Phaolô và Barnaba nơi vùng đất dân ngoại, ngoài lãnh thổ Giêrusalem. Có lẽ cuộc hành trình truyền giáo này gặp rất nhiều vất vả, khó khăn nênmôn đệ Gioan-Márcô đã rời bỏ nhóm mà trở về Giêrusalem, chỉ còn lại Phaolô và Barnaba. Hai ông rời bỏ Paphô để vượt biển đến Antiokhia xứ Pisiđia. Tại đây, vào ngày Sabath, Phaolô cùng với Barnaba vào hội đường người Do Thái để cử hành nghi thức phụng vụ (đọc và nghe giải thích thánh kinh, học hỏi lề luật và cầu nguyện). Tận dụng cơ hội này, Phaolô đã đứng lên giảng dạy. Nội dung bài giảng của Phaolô chủ yếu là điểm lại những chặng đường lịch sử mà dân tộc Israel đã đi qua:
- Từ Aicập cho đến xuất hành khỏi cảnh nô lệ.
- Từ vượt qua hành trình 40 năm trong sa mạc cho đến vào đất hứa.
- Từ thời các thủ lãnh đến thời quân chủ
- Cuối cùng là thời Messia đã được Gioan Tẩy Giả loan báo. Đấng Messia ấy chính là Đức Giêsu-Kitô. Người đến để hoàn tất kế hoạch cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ.
Sau khi tóm tắt lại những chặng đường lịch sử mà dân tộc Israel đã đi qua, Phaolô muốn chứng minh cho khán giả thấy rằng: Thiên Chúa là Đấng luôn trung tín trong lời hứa với tổ phụ Abraham nên đã ban cho Israel Đấng Cứu Độ xuất thân từ giòng dõi vua Đavid và Đất hứa làm gia nghiệp.
Xin cho chúng ta luôn ý thức: Lời hứa rất quan trọng trong đời sống. Nếu một người biết giữ lời hứa và thực hiện lời hứa, chứng tỏ người ấy sống có trách nhiệm với bản thân và người khác, sẽ được người khác quý mến, tôn trọng và tín nhiệm. Ngược lại, nếu nói mà không làm, thường xuyên thất hứa, chứng tỏ người ấy sống thiếu trách nhiệm, không biết tôn trọng bản thân và người khác, chắc chắn sẽ không được tôn trọng. Nên trước khi hứa với ai điều gì ta nên cẩn trọng xem mình có khả năng thực hiện được không? Và nếu một khi đã hứa, hãy cố gắng thực hiện!
Trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, ta (hay cha mẹ thay ta) đã hứa với Chúa và GH là từ bỏ tà thần và tuyên xưng đức tin, trung thành sống với Chúa trong tình con thảo. Xin cho mỗi chúng ta luôn ý thức sống trung thành với lời đã thề hứa ấy.
Nhất là xin cho các đôi vợ chồng trẻ luôn biết tôn trọng và tuân giữ lời mình đã tự nguyện thề hứa trước mặt Thiên Chúa và cộng đoàn trong ngày cử hành bí tích hôn phối mà trung thành với nhau trong đời vợ chồng, cho dẫu phải đối mặt với những nghịch cảnh trong đời sống.

Suy niệm 2: Ga 13, 16-20.
Các nhà xã hội học định nghĩa con người là con vật có xã hội tính. Thật vậy “không ai là một hòn đảo”. Con người sống là sống với, sống cùng, sống cho và sống nhờ… người khác. Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mở lòng đón tiếp những sứ giả Chúa với tấm lòng yêu mến và hy sinh phục vụ. Yêu mến phục vụ các ngài chính là yêu mến và phục vụ Chúa.
“Tôi tớ không lớn hơn chủa nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi” (Ga 13, 16). Các tông đồ là môn đệ Chúa nên các ông không thể bằng Chúa. Nhưng các ngài diễm phúc được Chúa Giêsu đặt ngang hàng với Người. “Ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy”. Như thế, Chúa mời gọi chúng ta phải lưu tâm đón tiếp và phục vụ những sứ giả của Chúa sai đến là các tông đồ. Tiếp nối các tông đồ là các Linh mục. Các ngài cũng là những Chúa Kitô thứ hai. Do đó đón tiếp các ngài là đón tiếp chính Chúa.
Trong Thánh Kinh chúng ta thấy còn ghi lại một vài nét đẹp của sự tiếp đón đáng cho chúng ta bắt chước. Những gương sáng này vẫn luôn giữ được tính cách thời sự của nó.
1.  Ông Abraham.
Ông là một con người hiếu khách và quảng đại. Khi thấy ba khách lạ đang đi trong sa mạc nắng cháy, không những ông mời mà còn năn nỉ họ vào nhà nghỉ và ân cần săn sóc họ một cách chu đáo. Ba người khách lạ đó là ai ? Đó là ba sứ giả của Thiên Chúa. Đáp lại tấm thịnh tình và lòng quảng đại của ông, ba sứ giả ban cho vợ chồng hiến muộn này một đứa con trai đầu lòng. Đó là cậu Isáac.
2.  Một gia đình ở Su-nêm.
Khi tiên tri Elia qua Su-nêm, một bà giầu có rất hiếu khách đã mời Elia vào nhà dùng bữa với sự săn sóc tỉ mỉ. Bà còn dọn cho tiên tri một phòng trên gác đầy tiện nghi để tiên tri có thể lui tới tự do. Đáp lại tấm lòng quảng đại của bà, Elia cũng hứa ban cho bà một đứa con vì bà son sẻ: ‘Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng”
3.  Gia đình ba chị em ở Bêtania.
Chúa Giêsu rất thương ba chị em này, mỗi khi đi qua Bêtania, Chúa và các môn đệ thuờng ghé thăm chị em và nghỉ ngơi. Chị cả Matta rất hiếu khách, dọn cho Chúa những bữa ăn ngon. Còn cô em Maria  đón tiếp Chúa bằng cách ngồi dưới chân Chúa mà nghe Ngài dạy dỗ, cách đón tiếp này cũng làm cho Chúa rất hài lòng. Còn Lagiarô là đàn ông thì tiếp theo kiểu đàn ông là ăn uống và chuyện trò với Chúa. Đáp lại sự đón tiếp ân cần và thành thực của ba chị em, Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô sống lại sau khi chết bốn ngày.
Khi tiếp đón các tông đồ của Chúa, dĩ nhiên chúng ta phải mất mát : mất thì giờ, mất tiền của, mất công... Nhưng tất cả sẽ được Chúa thưởng công cho ở đời này hay đời sau. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa, đã tiên liệu cho chúng ta có những người kế tiếp Chúa, là các Linh mục, để đem Chúa đến cho chúng ta và dạy bảo chúng ta về đời sống đạo.
 Chúng ta cầu xin cho các linh mục biết sống và thể hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trước mặt Chúa cho xứng đáng, để mọi người nhận ra khuôn mặt Đức Kitô qua đời sống linh mục.

Thứ sáu
Suy niệm 1: Cv 13, 26-33.
Sau khi nhắc lại những chặng đường lịch sử mà dân Israel đã trãi qua dưới sự dẫn dắt đầy khôn ngoan của TC, Phaolô tiếp tục dùng khung bài giảng Kerygma (bài giảng truyền giáo) để khái quát về cuộc đời của Đức Giêsu nơi trần thế và khẳng định mọi điều Thiên Chúa hứa ban nay đã được thành toàn nơi Đức Kitô qua cái chết và sự Phục Sinh vinh hiển của Người.
- Về sự phục sinh của Đức Giêsu: Phaolô khẳng định chính Đức Kitô đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ: "Trong nhiều ngày, Đức Giêsu đã hiện ra với những kẻ từng theo Người từ Galilê lên Giêrusalem. Giờ đây chính họ làm chứng cho Người trước mặt dân". Và Phaolô và Barnaba chính là chứng nhân cho tin mừng ấy: "Còn chúng tôi, chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: Điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Đức Giêsu sống lại, đúng như lời đã chép trong Thánh vịnh 2: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2, 7).
- Về cái chết của Đứcc Giêsu: Phaolô nhấn mạnh cái chết của Đức Giêsu là do "dân cư thành Giêrusalem và các thủ lãnh của họ” gây nên. Nhưng cũng như Phêrô, ngài cho biết sở dĩ họ giết Đức Giêsu là vì họ không nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ.
+ Từ đó, Phaolô hướng mọi người nhìn về cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu là kế hoạch cứu độ đầy khôn ngoan của TC, vì đã ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã nói về Người Tôi Trung của TC. Và ông kêu gọi mọi người sám hối, tin nhận Đức Giêsu để đón nhận ơn cứu độ.
Với cái nhìn đức tin, Phaolô cho thấy: dù con người có từ chối và đóng đinh Chúa Giêsu trên Thập Giá, họ cũng không tài nào vô hiệu hóa được kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, để từ nay, không những dân Israel mà mọi người đều có thể nhận được ơn cứu độ.
Xin cho chúng ta biết phó thác đời mình cho kế hoạch đầy khôn ngoan và giàu lòng yêu thương của TC.
Để cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu vẫn phải chấp nhận ngang qua con đường thập giá. Vì thế thập giá chính là con đường mà chúng ta phải bước theo nếu muốn được cứu độ. Xin cho chúng ta luôn can đảm sống tinh thần của thánh Phaolô để sẵn sàng "cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống lại như Người".

Suy niệm 2: Ga 14, 1-6.
Ngày xưa chưa có đường. Nhưng do đi lại nên trở thành đường mà thôi. Muốn đi và đạt đến đỉnh hạnh phúc vinh quang ta cần có con đường để đi. Con đường ấy chính là Đức Giêsu Kitô, Ngài đi từ trời xuống và từ đất lên và trở nên đường đưa dẫn chúng ta về trời sum họp cùng với Ngài trong nhà Cha. Xin cho chúng ta biết đi trên con đường mà chính Chúa đã vạch ra hầu chúng ta đạt tới quê trời vinh phúc.
Sau một thời gian rời bỏ Việt Nam để tìm cho mình cuộc sống tự do nơi quê hương xứ sở mới. Nay cuộc sống của hầu hết Việt Kiều ở nước ngoài đều ổn định và sung túc. Trong khi đó những người thân của họ ở lại thì phải sống trong cảnh khó khăn, vất vã. Với chính sách đoàn tụ gia đình, những năm gần đây, nhiều việt kiều đã về nước để bảo lãnh người thân của mình sang để sum họp gia đình và hưởng được cuộc sống tiện nghi thoải mái. Tuy nhiên để được đoàn tụ với người thân bên nước ngoài, công dân việt nam phải thoả mãn nhiều điều kiện....
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho các tông đồ biết : Ngài sẽ ra đi để dọn chỗ cho các ông, rồi một ngày nào đó, Chúa sẽ trở lại, đem các ông lên ở với Chúa trên nhà Cha trên trời, để hưởng vinh phúc đời đời. Tuy nhiên để được đoàn tụ với Chúa Giêsu trên quê hương thiêng đường, Chúa cũng đòi hỏi chúng ta phải thoả mãn các điều kiện mà Chúa đưa ra. Đó là đi đúng con đường của Chúa đã đi, tuân giữ chân lý mà Chúa đã truyền và hiệp thông trong sự sống của Chúa.
Con đường mà Chúa Giêsu đi là con đường hẹp, con đường thập giá. Chấp nhận hy sinh, gian khổ để thi hành những giời răn mà Chúa đã chỉ dạy. Biết khiêm tốn, hạ mình chấp nhận thiệt thòi để phục vụ tha nhân với tình yêu mến.
Cố gắng sống theo chân lý mà Chúa đã dạy. Chân lý ấy là sống yêu thương. Yêu không chỉ những người thân cận, không phải những kẻ yêu mình mà tình yêu phải quy chiếu vào tình yêu của Chúa Giêsu: “Yêu như Chúa yêu”, tình yêu ấy phải dành cho hết mọi người, không phân biệt một ai, ngay cả kẻ thù.
Ý thức nổ lực sống hiệp thông với Chúa, bằng việc lắng nghe và thi hành Lời Chúa cũng như tha thiết kết hiệp với Chúa qua việc kính yêu và năng đón nhận Mình Thánh Chúa. Nhờ thế sự sống và sức mạnh Chúa tuôn chảy trong ta. Như nhựa cây cần thiết để nuôi sống cây nho và cành nho thế nào thì linh hồn chúng ta cũng cần đến Lời Chúa và Mình Thánh Chúa như thế.
 Mục đích một đời sống đạo là hạnh phúc thiêng đàng. Nhưng để đạt được điều mong đó, không gì khác hơn là chúng ta phải đi theo đường Chúa đã đi, sống theo chân lý mà Chúa đã sống và chỉ dạy, nhất là phải luôn sống bằng sức sống của Chúa qua việc thi hành Lời Chúa và năng kết hiệp với Chúa nơi bàn tiệc Thánh Thể.

Thứ bảy
Suy niệm 1: Cv 13, 44-52.
Với chủ đích ban đầu của các môn đệ là loan báo Tin mừng Cứu độ chủ yếu cho người Do Thái nên Phaolô và Barnaba luôn tận dụng Hội đường để rao giảng. Lần này cũng vậy, Phaolô và Barnaba đến Hội đường vào ngày Sabath để rao giảng theo lời mời của một số người Do Thái. Tuy nhiên lần này hai ông lại bị chống đối quyết liệt bởi những người Do Thái quá khích.
Hai lý do họ chống đối Phaolô và Barnaba là:
- Thứ nhất vì ghen tương: Họ không muốn Phaolô và Barnaba có ảnh hưởng trên đám đông; vì nếu đám đông nghe theo Phaolo va Barnaba thì họ sẽ không còn ảnh hưởng trên dân chúng nữa. Họ không muốn thấy ai được phép bằng họ.
- Thứ hai vì quan niệm hẹp hòi: Truyền thống Do Thái quan niệm chỉ có họ mới là con Thiên Chúa và có đặt quyền nghe lời của Thiên Chúa. Giờ đây cả dân ngoại cũng được làm con Thiên Chúa và được nghe lời Thiên Chúa thì họ đâu còn chi đặc biệt nữa. Nên khi “thấy đám đông dân chúng, thì đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy”.
Cách giải quyết của Phaolô và Barnaba trước sự chống đối:
1.  Bình tĩnh can đảm giải thích: Lẽ ra "Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân Ngoại".
2. Dùng Lời Chúa để minh chứng: Phaolô và Barnaba đã trích lại lời Thiên Chúa trong sách Isaia để cho thấy việc rao giảng Lời của Chúa cho dân ngoại chính là lệnh truyền của Thiên Chúa: “Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dânđể ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất." (Is 49, 6).
Nhưng khi nghe những lời đó, họ càng phẩn nộ, đã xách động và xúi dục nhóm phụ nữ thượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong thành, ngược đãi ông Phaolô và ông Barnaba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ.
Trước thái độ cố chấp của họ, cuối cùng hai ông đành phải cắt đứt liên hệ với họ qua cử chỉ“giũ bụi chân phản đối họ và đi tới Icôniô”, theo như lời Chúa Giêsu đã dạy:“Nếu người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi thành ấy, anh em hãy giũ bụi chân lại” (Mt 10,14). Chính nhờ đó mà Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy và dân ngoại được hân hoan ca tụng Lời Chúa.
Xin cho chúng ta biết noi gương hai thánh tông đồ Phaolô và Barnaba luôn nhiệt tâm rao giảng Tin mừng cho mọi người dù gặp phải nhiều gian nan thử thách. Nhất là cho mỗi người Kitô hữu chúng ta biết tích cực góp phần cho công cuộc truyền giáo với hết khả năng của mình. Đừng vì tính ích kỷ, ghen tị, tự mãn… hay bất cứ lý do nào làm ngăn cản cho sứ vụ loan báo Tin Mừng.

Suy niệm 2: Ga 14, 7-14.
 "Xin cho chúng con thấy Chúa Cha" (Ga 14,8). Đó không chỉ là khao khát của tông đồ philipphê mà là mỗi chúng ta, những người tin Chúa. Khao khát đó sẽ được Đức Giêsu làm thoả mãn qua sứ điệp của lời Chúa hôm nay.
 Tin Mừng hôm nay, Philipphê xin với Chúa Giêsu: "Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện" (Ga.14:8). Khao khát của Philipphê, cũng là khao khát mỗi chúng ta.
Thiên Chúa đã đáp lại khát vọng đó qua việc cho Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử Giêsu” (Dt 1, 1- 20). Nơi Đức Giêsu Kitô, chúng ta gặp được Thiên Chúa, dễ gần, dễ thấy, dễ quen.
Thiên Chúa đâu chỉ ở nơi cao thẳm ngàn trùng, Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Giữa Ngài và Thiên Chúa Cha có một gắn bó lạ lùng đến nỗi Đức Giêsu dám nói: "Ai biết Thầy là biết Cha" (Ga 14, 7). "Ai thấy Thầy là thấy Cha" (Ga 14, 9) vì "Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy"(Ga 14, 10).
Lời nói và việc làm của Đức Giêsu chính là lời nói và việc làm của Thiên Chúa (x. Ga 14, 10). Toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu được Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt, phản chiếu khuôn mặt và trái tim Thiên Chúa, đầy nhân ái và bao dung với hết mọi người. Kitô hữu là người có Chúa Kitô nên được mời gọi trở nên giống Chúa Giêsu để có thể nói rằng: Ai biết tôi là biết Đức Kitô, ai thấy tôi là thấy Đức Kitô.
Lạy Chúa Giêsu! Ðã bao lần con làm cho khuôn mặt Chúa trở méo mó, biến dạng và có thể là rất khó thương vì đời sống không tốt đẹp của con. Xin cho con biết nhìn lên Chúa như một khuôn mẫu tuyệt vời để tu tập thành con người mới, con người có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và tình yêu thương, để nhờ đó con trở thành hình ảnh trung thực về Chúa cho thế giới hôm nay. Amen





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XIV THƯỜNG NIÊN Lm. Nguyệt Giang CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN B Ed 2,2-5; 2Cr 12,7-10; Mc 6,1-6 Suy niệm 1: ...