SUY NIỆM
LỜI CHÚA TUẦN X TN 2018
Thứ hai:
Mt 5,1-12
Ở đời luôn có hai mặt thật và giả.
Hạnh phúc cũng vậy. Có những thứ đem đến cho con người hạnh phúc thật. Tuy
nhiên cũng có những thứ chỉ đem đến cho con người hạnh phúc giả tạo, không bền
lâu. Điều nghịch lý là ai cũng mong muốn có được hạnh phúc thật, nhưng rồi lại
thích đi tìm những thứ chỉ mang đến hạnh phúc giả tạo, chóng qua.
Xã hội ngày nay, nhiều người cho
rằng hạnh phúc là có 1,2,3,4,5: một là vợ đẹp, hai là con ngoan, ba là nhà 3
tấm, bốn là xe 4 bánh và năm là du lịch 5 châu. Thế nhưng thực tế cho thấy, khi
đạt được những điều mong ước ấy, con người vẫn không tìm thấy hạnh phúc thật. Như
thế thì tiền bạc của cải, vật chất tiện nghi, đam mê lạc thú nơi trần gian
không lấp đầy được khát vọng sâu xa nơi cỏi lòng con người và không là phương
thế đưa đến hạnh phúc thật. Vậy ta phải làm gì để có hạnh phúc thật?
Bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu
chỉ cho chúng ta biết những phương cách để đạt đến hạnh phúc đích thực thật. Đó
chính là thực thi 8 mối phúc thật. Điều đáng nói là con đường 8 mối phúc thật
mà Chúa Giêsu đề ra hình như đi ngược lại với suy nghĩ thực tế của con người
thời nay và lắm khi trở thành xa lạ ngay cả đối với người Kitô hữu chúng ta. Vì
con người thời nay vẫn còn bám víu quá nhiều vào tiền bạc, của cải, danh
vọng... nên không dám chấp nhận những phương cách mà Chúa Giêsu đề ra: là tinh
thần khó nghèo, từ bỏ, đau khổ ngay cả hy sinh vì chính đạo để phục vụ tha nhân
và nước Chúa.
Con đường 8 mối phúc không phải là
viễn vong, mơ hồ hay bất khả thi nhưng là con đường chính đạo. Bởi vì chính
Chúa Giêsu Đức Giêsu đã kinh qua bằng chính đời sống nghèo khó, hi sinh từ bỏ
và hiến thân cho tha nhân vì nước trời. Do đó muốn có hạnh phúc thật chúng ta
không thể đi theo con đường nào khác ngoài con đường Đức Giêsu đã đi và đã chỉ
dạy.
Xin Chúa
giúp chúng ta can đảm bước theo con đường mà Chúa Giêsu đã đi, bằng cách trung
thành thực thi 8 mối phúc thật mà Chúa Giêsu vạch ra, nhờ đó ta đạt được điều
mà mình khao khát là hạnh phúc thật. Amen.
LỄ THÁNH
BARNABA TÔNG ĐỒ
(Mt 10, 7-13)
Để thực hiện sứ mạng giải thoát con người khỏi những đau khổ
về thể xác và tinh thần, một mình Đức Giêsu là đủ, vì Ngài là Thiên Chúa
quyền năng. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại không dùng cách thế đó. Trái lại Chúa mời
gọi chúng ta cộng tác. Cụ thể bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chọn
gọi các tông đồ, ban quyền chữa bệnh, trừ quỷ cho các ông và sai các ông ra đi
gieo rắc Bình an của Chúa cho mọi nhà, mọi người. Sứ mạng thì to lớn,
nhưng phận người lại bé nhỏ. Thế nên, Chúa Giêsu ý thức các Tông đồ hãy cậy
trông vào Chúa.
- Cậy trông vào Chúa, nên tông đồ Barnaba đã sống tinh thần
khó nghèo. Ngài sẵn sàng bán đi thửa ruộng của mình có và đem bạc đặt dưới
chân các Tông đồ (Cv 4,36-37).
- Cậy trông vào Chúa, tông đồ Barnaba dễ dàng sống siêu thoát,
sẵn sàng ra đi bất cứ nơi nào khi Giáo hội muốn với tinh thần phó thác.
Sách Công vụ cho biết khi được mọi người cử đi An-ti-ô-khi-a
xem tình hình ở đó thực hư thế nào, Barnaba đã sẵn sàng lên đường và khi
Barnaba tới nơi thì thấy rõ đó là kết quả của “Ơn Thiên Chúa” cho nên ông không
nghi ngờ gì, trái lại còn “mừng rỡ và
khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa” ( Cv 11, 23-24).
Rồi khi nhận được bài sai từ Thánh Thần: “Hãy dành riêng
Barnaba và Saolô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm” (Cv
13, 2). Ông cùng với Phaolô đã lên đường, nhiệt thành với công việc
loan báo Tin Mừng cho lương dân, âm vang Lời Chúa lan rộng ở các cộng đoàn nhất
là ở Giêrusalem, Antiokhia ….
- Cậy trông vào Chúa, Banaba đã khiêm tốn đón nhận mọi cảnh
huống của cuộc sống, nhằm thi hành tốt sứ mạng đem Bình an của Chúa cho mọi
người. Bằng chứng là Ngài đã giúp Phaolô hoà nhập với tông đồ đoàn tại
Giêrusalem trong lần gặp mặt đầu tiên, khi mọi người chưa dám tin Phaolô là
tông đồ (x. Cv 9, 26-27); và sau đó hai bên hoà thuận với nhau, cộng
tác nhau vui vẻ (x. Cv 9, 28.30).
Cùng với Phaolô, ngài rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, khiến
họ vui mừng tôn vinh Lời Chúa… Lời Chúa lan tràn khắp vùng. (Cv 14, 48-49). Rồi
bênh vực họ trong hội nghị Giêrusalem (Cv 15, 12). Việc này góp phần làm cho
kitô hữu gốc Do thái và kitô hữu gốc lương dân hiểu nhau và sống hòa thuận với
nhau trong cùng một niềm tin. Ngay cả khi đụng độ với Phaolô về việc đem theo
Mác-cô đi truyền giáo mà Thánh Phaolô không muốn, nên họ to tiếng với nhau và
chia tay nhau, thì Barnaba cũng được thúc đẩy bởi tấm lòng khiêm tốn hòa
giải vì ngài muốn cứu vớt một kẻ đã lỡ một lần lỗi phạm (x. Cv 15, 37.39). Quả
là ý định tốt lành của Barnaba đạt kết quả tốt lành vì Mác-cô trở thành một tông
đồ nhiệt thành và tác giả quyển Tin Mừng thứ hai.
Bổn phận truyền giáo không là việc của riêng ai mà là nhiệm vụ
của mọi Kitô hữu. Mừng lễ Thánh Barnaba
Tông đồ, là dịp chúng ta kiểm xét lại chính mình, xem chúng ta đã góp được gì
cho công cuộc truyền giáo, hay chúng ta cũng chỉ là những kẻ cổ suý hô hào cho
việc truyền giảng Tin Mừng bằng môi miệng, mà cuộc sống thì lại là một phản
chứng ghê gớm đối với Tin Mừng?!
Nhờ
lời chuyển cầu của Thánh Barnaba tông đồ, xin Chúa ban cho chúng ta ý thức được
tầm quan trọng của việc truyền giáo, để chúng ta tích cực góp phần vào công
cuộc truyền giáo bằng lời cầu nguyện, bằng sức lực, tài lực và cả của cải. Nhất
là xin Chúa ban cho chúng con có tinh thần khó nghèo, siêu thoát và khiêm tốn
hầu trở nên khí cụ Bình an của Chúa trong khi thi hành sứ mạng loan báo Tin
mừng, theo mẫu gương của thánh Barnaba tông đồ.
Thứ ba: Mt 5,13-16
Bằng hai hình ảnh muối và ánh sáng, Chúa Giêsu muốn nói đến
bản chất và sứ mạng của người kitô hữu.
1. Bản chất và sứ mạng của muối:
Nếu bản chất của muối là phải mặn. Muối không mặn thì không
còn là muối nữa, chỉ còn cách quăng xuống đường cho người ta giẫm đạp lên. Cũng
vậy, bản chất của người Kitô hữu phải mang đậm chất mặn của tình yêu. Nếu ta
không có tình yêu thì không còn là Kitô hữu nữa. Bởi lẽ "Thiên Chúa là
Tình Yêu" (1Ga 4,7). Ngài đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh Ngài,
nên tự bản chất nơi ta phải mang chất tình yêu. Dĩ nhiên tình yêu ấy phải đặt
trên nền tảng Tình Yêu như Chúa. "Yêu
như Thầy đã yêu" (Ga 15,12).
Còn nếu sứ mạng của muối là giữ cho thức ăn khỏi hư thối và
đem lại mùi vị thơm ngon cho thức ăn. Thì sứ mạng của người kitô hữu phải có
nhiệm vụ ướp đời, ướp người khỏi những băng hoại của dối trá, hận thù, ganh tị,
lường gạt, bất trung... Ngoài sứ mạng ngăn chặn cuộc sống khỏi
những băng hoại, chúng ta còn phải là tác nhân đem lại hương vị ngọt ngào cho
cuộc sống bằng những cử chỉ, lời nói, việc làm thắm đợm tình thương, nhằm mang
đến niềm vui, an bình và hạnh phúc cho tha nhân.
2.
Bản chất và sứ mạng của đèn:
Nếu bản chất của chiếc đèn là để thắp sáng, thì đức tin chính là bản chất
của người kitô hữu. Vì chúng ta được gọi là "tín hữu".
Còn nếu sứ mạng của chiếc đèn là chiếu giải ánh sáng cho mọi người nhìn
thấy, thì sứ mạng của người kitô hữu là chiếu tỏa ánh sáng đức tin ấy cho mọi
người nhìn thấy bằng những việc làm cụ thể. Vì "Đức tin không có việc làm là đức tin chết " (Gc. 2,17). Mà những việc làm cụ thể ấy
chính là những việc lành. “Ánh sáng của
anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp
anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”. Qua bí tích
rửa tội, chúng ta được Chúa trao ban cho ánh sáng Đức tin và kêu mời chúng ta
chiếu tỏ ánh sáng đó cho trần gian.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn
giữ được chất tình yêu của Chúa, để chúng ta có thể ướp mặn cho đời và cho
người; cụ thể là những thành viên trong gia đình chúng ta khỏi những băng hoại
do tội lỗi gây nên. Đồng thời xin Chúa cũng ban thêm chất Đức Tin nơi mỗi chúng
ta, hầu ta có thể can đảm thắp lên ngọn lữa đức tin ấy bằng những hành động bác
ái cụ thể cho tha nhân, qua đó mà mọi người nhận ra Chúa mà ngợi ca Danh Người.
Thứ tư: Mt 5,17-19
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho các môn đệ cũng như chúng ta
biết thêm về lý do quan trọng mà Ngài đến trần gian này là:“không phải hủy
bỏ lề luật hay các tiên tri, nhưng là để kiện toàn”.
Luật của Chúa được ban cho nhân loại xuyên qua dân tộc Do
Thái, bởi trung gian là ông Môsê. Luật đó được gìn giữ và bảo tồn qua
thời các ngôn sứ. Nhưng đến thời Chúa Giêsu, luật Chúa được trao quyền cho các
kinh sư giải thích và hướng dẫn cho dân chúng. Thay vì giúp người dân hiểu biết
rõ về luật Chúa cũng như tinh thần đúng đắn phải có khi tuân giữ luật Chúa, thì
trái lại các ông lại thêm thắc vào đó quá nhiều chi tiết từ 10 điều lên đến 613
điều khoản khiến cho dân chúng rối ren không còn phân biệt đâu là điều chính
đâu là điều phụ. Hơn nữa các ông lại quá chú trọng đến hình thức làm cho người
dân có cảm giác luật Chúa quá nặng nề bởi những ràng buộc. Nên khi rao giảng,
Chúa Giêsu đã nhiều lần đả kích lối sống vị luật của người Pharisêu; cũng như
cảnh báo về mối nguy hiểm của những gánh nặng mà dân chúng phải chịu do các
kinh sư chất chồng lên vai họ. Có lẽ vì đó mà nhiều người tưởng rằng Chúa Giêsu
muốn phá bỏ lề luật và các tiên tri. Để chỉnh sửa lại ý nghĩ sai lệch ấy, Chúa
Giêsu đã khẳng định với các môn đệ về lý do mà Ngài đến thế gian này là nhằm
mục đích để kiện toàn lề luật. Vậy Chúa muốn kiện toàn điều gì?
- Trước hết Chúa Giêsu kiện toàn về nội dung văn bản của luật:
Phải giữ nguyên trạng giới luật của Chúa, dù một chấm, một phẩy cũng không được
thay đổi hay bỏ sót.
- Thứ đến Chúa kiện toàn về hình thức thi hành luật: Nếu các
kinh sư và người Pharisêu quá chú trọng bởi hình thức bên ngoài thì Chúa Giêsu
nhấn mạnh đến trọng tâm giữ luật bên trong. Việc giữ luật chỉ có giá trị
đích thực khi nó xuất phát từ trái tim và tấm lòng.
- Cuối cùng Chúa Giêsu kiện toàn về tâm tình phải có khi giữ
luật: Việc giữ luật không phải vì lo sợ. Sợ không giữ thì bị Chúa phạt;
lo vì nếu không thi hành luật sẽ bị người đời khinh thường và lên án… nếu mang
nặng tâm tình ấy thì quả thật luật trở nên gánh nặng cho đời sống. Điều mà Chúa
Giêsu muốn là mọi người hãy tuân giữ luật với tấm lòng yêu mến. Với lòng yêu
mến Chúa chân thành sẽ giúp ta cảm thấy vui tươi thoải mái thi hành luật Chúa;
sẽ không còn sợ hãi bởi ràn buộc của luật nữa.
Xin Chúa giúp chúng ta ý thức được rằng: vì không muốn chúng
ta phải đi lạc đường nên Chúa đã ban lề luật để hướng dẫn bước đường chúng ta.
Xin cho chúng ta cảm nhận được tình thương lớn lao ấy, mà hăng hái thi hành luật
Chúa và GH chỉ dạy bằng tất cả tấm lòng yêu mến của chúng ta.
Thứ năm: Mt 5, 20-26
Giết người thì ở đâu và thời nào cũng là tội nặng, vì Chúa mới
là chủ sự sống. Đó là công lý. Lời Chúa dạy bảo trong bài Tin Mừng hôm nay còn
vượt trên công lý nữa. Công lý hay luật pháp chỉ buộc tội khi một người phạm
tội bằng hành vi cụ thể. Còn Chúa thì đi xa hơn, Chúa ngăn chặng ngay từ nguyên
nhân, nguồn gốc đưa đến tội giết người.
Vì thế, “Ai giận anh em
mình thì đáng bị tòa xét xử, ai mắng chửi anh em là đồ ngốc thì sẽ bị lên án
trước công nghị và ai mắng chửi anh em mình là khùng thì đáng lửa trầm luân”.
Đúng như Lời Chúa nói:
Giận dỗi chính là nguyên nhân đưa đến tội giết người. Vì khi
ta giận ai là ta muốn cho người đó khuất mắt ta; ta không muốn người đó hiện
diện trên cõi đời này nữa. Cho nên giận như vậy thì chẳng khác nào giết người
không dao.
Cũng thế, khi ta mắng chửi anh em là đồ ngốc là khùng thì
chẳng khác nào ta xem thường anh em mình, để rồi hạ thấp họ xuống hàng con vật,
không đáng là người nữa. Hành vi như thế là chiếm đoạt quyền phán xét của Thiên
Chúa, nên đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt.
Như vậy, để khỏi bị Thiên Chúa luận phạt và kết án, Chúng ta
phải có lòng quảng đại tha thứ. Tha thứ là điều kiện để tôn vinh Thiên Chúa một
cách xứng đáng: "Nếu ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ anh em
đang có điều bất bình với ngươi, hãy đặt của lễ trước bàn thờ, đi làm hoà với
người anh em trước, rồi hãy đến mà dâng của lễ.". Tha thứ là cách ta
hàn gắn lại những vết thương lòng của ta và cho tha nhân. Tha thứ cũng là cách
chúng ta bắt đầu lại mối tương quan tốt đẹp với anh em mình.
Xin Chúa cho chúng
con biết giữ tâm hồn và môi miệng cẩn trọng để khỏi sa vào tội giết người không
gươm.
Xin Chúa cũng
dạy chúng con biết yêu thương và tha thứ, như Chúa đã từng yêu thương và tha
thứ cho chúng con. Amen.
Thứ sáu: Mt 5, 27-32
Chúa Giêsu tiếp tục kiện toàn giới luật một vợ một chồng.
Để tránh đi tình trạng đỗ vỡ trong đời sống hôn nhân, chẳng
những Chúa Giêsu cấm không được li dị mà Chúa còn ngăn chặn ngay cả nguyên nhân
sâu xa đưa đến tình trạng bất trung trong đời sống hôn nhân nữa. “Anh
em đã nghe Luật dạy rằng: chớ ngoại tình, còn Thầy, Thầy bảo cho anh em
biết : ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn thì trong lòng đã ngoại tình với
người ấy rồi…”(Mt 5: 27-28).
Như thế là dù chỉ thèm muốn trong lòng vợ hay chồng của
người khác thì đã phạm tội ngoại tình trong tư tưởng rồi; vì trong lòng đã nuôi
dưỡng ước muốn sai trái. Từ đó sẽ dễ dẫn đến hành động phản bội tình nghĩa vợ
chồng.
Có thể nói mọi tội lỗi con người phạm, đều xuất phát từ trong
lòng. Do đó, muốn tránh tội thì phải dứt khoát từ bỏ ước muốn bất chính ngay
trong lòng. Nhưng để tránh được ước muốn bất chính trong lòng, chúng ta cần
phải giữ gìn đôi mắt. Đôi mắt là của sổ tâm hồn nên mọi điều tốt xấu muốn vào
được căn nhà tâm hồn đều phải qua cửa sổ của đôi mắt.
E-va chính vì đã không gìn giữ được đôi mắt nên đã hướng cái
nhìn về trái cấm và đã nuôi dưỡng trong lòng sự thèm muốn. Từ ước muốn ấy
bà đã cả lòng đưa tay hái trái cấm ăn, dầu biết rằng hành động ấy là phạm tội
bất trung với Chúa.
Ða-vít cũng vì không giữ được đôi mắt nên đắm đuối nhìn người
phụ nữ khỏa thân và có ước muốn khoái lạc. Từ đó đưa đến những hành
vi tội ác: ngoại tình và giết người giấu tay.
Lạy chúa xin giúp
chúng con biết gìn giữ đôi mắt luôn có cái nhìn trong sáng và can đảm dứt bỏ
những nguyên nhân làm cớ chúng con lỗi đức trong sạch, cho dù đó là một phần
của cơ thể như: là mắt, là tay... bởi vì Chúa đã phán: "thà mất một phần
thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hỏa ngục".
Thứ bảy: Mt 5, 33-37
Trong cuộc sống, ta thường nghe được những luồng thông tin
khác nhau về một sự kiện nào đó xảy ra trong xã hội, cũng như trong Giáo Hội.
Có những thông tin chính thống cần tin theo. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi,
phe nhóm và thế lực của mình cũng không ít những thông tin sai lạc, ta cần phải
dè chừng.
Hằng ngày trên báo chí, truyền thanh, truyền hình ta bắt gặp
rất nhiều thông tin quảng cáo nhằm thu hút khách hàng và lợi nhuận. Bên cạnh
những thông tin thật cũng có nhiều thông tin không thật. Sống trong một xã
hội mà phải liên tục đề phòng hàng giả, người giả, thông tin giả thật là bất
an.
Chắc chắc ai trong chúng ta cũng không muốn điều ấy xảy ra.
Nhưng rồi chính cuộc sống chúng ta cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Nhiều lần vì sợ,
vì tham, vì bị mua chuộc… ta lại chấp nhận im lặng hay từ chối làm chứng cho
chân lý. Lắm khi vì ham mê tiền bạc, chức quyền… ta cũng sẵn sàng chối bỏ niềm
tin cách dễ dàng.
Chúa Giêsu xác định:“Tôi sinh ra
và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự
thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga
18,37). Do đó để thuộc về Chúa chúng ta cần phải sống và làm chứng cho sự thật,
vì sự thật mới giải phóng chúng ta khỏi những ràn buột của gian dối và bóng tối
của sự dữ. "Sự thật sẽ giải phóng các ông" (Ga 8, 32). Vì
thế, "hể có thì nói có, không thì phải nói không. Thêm thắt điều
gì là do ác quỷ".
Xin cho chúng ta biết vâng nghe lời
Chúa, luôn can đảm nói và làm theo sự thật, để chúng ta khỏi sa vào cạm bẫy của
ma quỷ. Nhờ đó cuộc sống mới được an vui, hạnh phúc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét