SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN II PHỤC SINH
Lm. Seoka
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH NĂM B
Hôm nay
Chúa nhật II Phục sinh, Giáo Hội cử hành thánh lễ tôn kính Lòng Thương Xót
Chúa. Tin Mừng hôm nay trình thuật lại sự kiện Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với
các tông đồ, nhất là đối với Tôma để bày tỏ lòng thương xót của Người qua các
vết thương mà Người mang lấy vì tội lỗi nhân loại. Với lòng thương xót, Chúa đã
trao chúc bình an, trao ban Thánh Thần để củng cố niềm tin cho các tông đồ rồi
sai các ông ra đi làm chứng lòng thương xót của Chúa cho hết mọi người ở khắp
nơi.
Xin Chúa
củng cố niềm tin, trao ban bình an và CTT cho mỗi người chúng ta, để chúng ta
cũng can đảm thực thi sứ mạng lòng thương xót Chúa cho mọi người, nhờ đó mà mọi
người có thể đón nhận được lời chúc phúc của Chúa: “phúc cho những ai
không thấy mà tin”.
Theo
như lịch phụng vụ, thì cứ vào Chúa nhật II Phục sinh hàng năm, GH tôn kính lòng
thương xót Chúa. Vậy lý do nào mà GH lại chọn Chúa nhật hôm nay mà không phải
những ngày khác trong năm để kính lòng thương xót Chúa?
- Thứ nhất
là do chính Chúa Giêsu mạc khải cho nữ tu Faustina.
Ngày
22/02/1931, Chúa Giêsu đã hiện ra và mặc khải cho nữ tu Faustina, thuộc dòng
Đức Mẹ Từ Bi ở Balan, lòng thương xót của Chúa và dạy chị phải rao truyền lòng
thương xót đó qua bức ảnh thánh cũng như chọn ngày Chúa nhật II Phục sinh là
ngày lễ kính lòng thương xót của Chúa. Chúa Giêsu nói với chị Faustina
rằng: Hãy vẽ bức ảnh như con nhìn thấy đây với hàng chữ: “Lạy Chúa
Giêsu, con tín thác vào Chúa”. Ta hứa, nếu ai tôn kính ảnh này sẽ
không bị hư mất. Ta cũng hứa sẽ giúp linh hồn đó toàn thắng các kẻ thù trong
cuộc sống, nhất là trong giờ lâm tử. Ta sẽ bảo vệ, gìn giữ linh hồn nó. Ta mong
muốn tấm ảnh này được tôn kính trên toàn thế giới. Theo lệnh của cha linh
hướng, chị Faustina có hỏi Chúa về ý nghĩa hai màu sắc của hai luồng sáng đó,
thì Chúa trả lời: Hai luồng sáng đó biểu thị cho máu và nước, luồng trắng chỉ
nước, nó làm cho linh hồn nên công chính. Luồng đỏ chỉ máu, đó là sự sống của
linh hồn. Hai luồng sáng này được ban ra do lòng thương xót vô bờ của trái tim
Ta, mà người lính đã lấy đòng đâm thâu khi Ta bị treo trên Thập giá. Phúc thay
những linh hồn nào luôn biết nương náu trong nơi trú ẩn này, vì cánh tay công
thẳng của Thiên Chúa sẽ không đánh phạt họ.
- Thứ hai
là do chính Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thiết lập.
Ngày
30/04/2000, Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phong hiển thánh cho nữ tu
Faustina, tông đồ của lòng thương xót và đã lập lễ kính lòng thương xót của
Chúa trên toàn Giáo hội vào chúa Nhật II Phục sinh, đúng như ước muốn của Chúa
nói với chị Faustina: “Ta ao ước là lễ kính lòng thương xót của Ta phải được cử
hành vào Chúa nhật 2 Phục sinh”. Như vậy là Hội Thánh, qua Đức Giáo Hoàng đã
chính thức công nhận việc tôn sùng lòng nhân từ thương xót của Chúa, để mọi
người, đặc biệt là các tội nhân biết tin tưởng mau mắn chạy đến với tình yêu
đầy lòng nhân ái của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu đã nói với thánh nữ Faustina
rằng: “không một linh hồn nào phải sợ sệt khi đến gần Ta, dù tội lỗi của nó có
đỏ như máu đi nữa...”.
- Thứ ba
do phụng vụ lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến lòng thương xót Chúa.
1. Tin
mừng hôm nay cho biết cả hai lần hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu phục sinh
đều trao chúc bình an cho các ông. Bình an phải là món quà quý giá
nhất mà các tông đồ đang cần trong lúc hoang mang, sợ hãi vì những người Do
Thái đang tìm cách giết hại. Với lòng thương xót, Chúa Giêsu thấu hiểu điều ấy
nên Người đã hiện ra chấn an các ông và trao ban ơn bình an, để củng cố niềm
tin cho các ông.
2. Cũng vì
lòng thương xót, Chúa đã không hề chấp nhất thái độ thách thức của Tôma. Trái
lại, Người cảm thông tha thứ cho Tôma và còn đã chiều ý Tôma mà hiện ra lần hai
để nhằm củng cố thêm đức tin cho ông.
3. Mỗi lần
hiện ra Chúa đều mời gọi tông đồ nhìn vào những vết đinh nơi tay và vết giáo
nơi cạnh sườn Người. Chính những vết thương ấy là dấu chứng hùng hồn của một vị
TC giàu lòng thương xót, đã sẵn sàng ôm lấy hết những vết thương do tội lỗi con
người gây nên vào thân thể Người để đóng đinh nó vào thập giá. Và sẵn sàng đổ
đến giọt máu cuối cùng từ trái tim nhằm tẩy xóa vết nhơ tội lỗi con người cũng
như tuôn tràn đến giọt nước cuối cùng từ cạnh sườn, để khơi nguồn cho sự sống
mới qua các bí tích.
4. Lòng
thương xót Chúa không chỉ dừng lại nơi các tông đồ mà Người còn muốn trao ban
cho hết mọi người nên sau khi trao ban bình an và củng cố đức tin cho các tông
đồ, Chúa phục sinh tiếp tục trao ban Thánh Thần và năng quyền tha tội cho các
tông đồ, để qua các tông đồ, nhờ sự tác động của Thánh Thần, Chúa sẵn sàng ban
ơn tha thứ cho kẻ có tội thật lòng ăn năn. “Bởi tha thứ chính là đỉnh cao của
lòng thương xót”.
Xin Chúa
cho chúng ta cũng biết luôn tin tưởng vào Chúa trong mọi hoàn cảnh, biết sống
yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho nhau; nhất là biết luôn nghĩ đến mưu cầu lợi
ích cho tha nhân mà tận tình hy sinh phục vụ với niềm tín thác vào lòng thương xót Chúa.
BÀN TAY CỦA
YÊU THƯƠNG
Truyện kể:
Trong một
tiết dạy vẽ, cô giáo bảo các em học sinh lớp một vẽ điều gì đã làm các em thích
nhất trong đời. Cô thầm nghĩ: “ chắc rồi các em cũng lại vẽ những gói quà,
những ly kem hoặc những món đồ chơi, quyển chuyện tranh…”. Thế nhưng cô đã hoàn
toàn ngạc nhiên trước một bức tranh lạ của em học sinh tên là Douglas: Bức
tranh vẽ một bàn tay!
Nhưng đây
là bàn tay của ai? Cả lớp bị cuốn hút bởi hình ảnh đầy biểu tượng này. Một em
đoán: “ Đó là bàn tay bác nông dân”. Một em khác cho rằng: “ Bàn tay thon thả
thế này phải là bàn tay của một bác sĩ giải phẩu…”. Cô giáo đợi cả lớp bớt xôn
xao dần rồi mới hỏi tác giả. Douglas cười ngượng ngịu: “Thưa cô, đó
là bàn tay của cô ạ!”.
Cô giáo
ngẫn ngơ. Cô nhớ lại những phút ra chơi, cô thường dùng bàn tay để dắt Douglas
bước ra sân, bởi em là một cô bé tật nguyền, khuôn mặt không được xinh xắn như
các bạn trẻ khác, gia cảnh từ lâu lâm cảnh ngặt nghèo. Cô chợt hiểu ra, tuy cô
vẫn làm điều tương tự với các em khác, nhưng hóa ra đối với Douglas, bàn
tay cô lại mang một ý nghĩa sâu xa, một biểu tượng của tình yêu thương.
Nếu bàn
tay cô giáo là hình ảnh đẹp nhất trong tâm hồn em bé khuyết tật Douglas,
thì Bàn Tay Chúa Giêsu phải là hình ảnh tuyệt vời nhất đối với nhân loại. Bởi
lẽ bàn tay ấy mang đầy những dấu vết của lòng yêu thương. Vì thế mỗi
lần hiện ra với các tông đồ, đặc biệt với Tôma qua đoạn tin mừng hôm nay, Chúa
đều mời gọi các tông đồ xem đôi bàn tay của Người.
Bàn tay mang
dấu vết tình yêu đối với Chúa Cha.
Chúa Giêsu
luôn hướng về Chúa Cha bằng một tình yêu mật thiết, được thể hiện qua đôi bàn
tay của cầu nguyện.
Đôi bàn
tay hướng về Cha trong tư thế cầu nguyện mỗi khi bắt đầu ngày sống, xin Cha
hướng dẫn và ban ơn giúp sức để những việc làm trong ngày sống được hoàn thành
tốt đẹp theo ý Cha. Đôi bàn tay hướng về Cha suốt đêm dài, mỗi khi quyết
định những việc làm quan trọng. Xin Cha ban ơn sáng suốt để chọn lựa điều tốt
nhất, theo ý muốn của Cha. Đôi bàn tay từng cầm bánh và rượu đưa lên cao
hướng về Chúa Cha để chúc tụng, tạ ơn. Xin Cha chúc lành cho những lương thực
hưởng dùng. Đôi bàn tay đưa cao hướng lên trời, kêu xin sự sống cho
La-da-rô. Bàn tay chấp lại trong lo sợ, thiết tha khẩn cầu xin Cha cất
khỏi chén đắng trong tinh thần phó thác.Bàn tay dang rộng trên thập giá đau đớn
vang xin Chúa Cha tha thứ cho những người giết hại mình.
Bàn tay mang
dấu vết yêu thương con người.
Đôi bàn
tay Chúa Giêsu luôn hướng đến con người để cảm thông chia sẻ và giúp đỡ bằng
tình yêu hy sinh.
Bắt đầu
bằng đời sống lao động vất vả nơi gia đình Nazarét. Bàn tay từng cầm cưa, búa,
đục để làm mộc cùng với thánh Giuse lo của ăn cho gia đình.
Bàn tay
sẵn sàng mở ra ban ơn tha thứ biết bao tội nhân biết ăn năn sám hối như Maria
Macdala, cho ngưuời phụ nữ ngoại tình, cho Giakêu…, đã chữa lành biết bao người
đau ốm, bằng cách đặt tay trên mắt người mù bẩm sinh, trên tai và lưỡi của người
câm điếc, trên thịt da lỡ lóet của người mắc bệnh hủi, trên trán giá lạnh của
con gái Giai-rô, trên tay nóng sốt của bà nhạc mẫu Phêrô….
Bàn tay
quyền thế đã truyền khiến giông tố và sóng gió yên lặng, đã cầm roi xua đuổi
những kẻ buôn bán ra khỏi đến thờ, đã xua trừ ma quỷ, đã chúc dữ cho những
người biệt phái.
Bàn tay bị
đâm thủng, nơi ấy vẫn còn lỗ đinh được ghi lại tình yêu Chúa dành muôn thế
hệ. Bàn tay bị nộp cho lý hình, bị đóng đinh vào thập giá và phải mang lấy
thân xác nặng nề đau xé suốt ba giờ liền trên thập giá. Tất cả chỉ vì tình yêu
con người.
Khi mời
gọi các tông đồ nhìn xem tay Chúa vừa để chứng thực chính Người là Thiên Chúa
Tình Yêu; vừa để mời gọi các ông học lấy bài học yêu thương “như Người
đã yêu”.
Khi mời
gọi các tông đồ nhìn vào đôi bàn tay của Chúa là để nhắc nhở các ông không chỉ
thi hành mệnh lệnh loan báo tin mừng trên môi miệng mà còn phải thực hiện lời
rao giảng trên đôi tay mở ra để giúp đỡ những người bé nhỏ, nghèo nàn, yếu đau.
An ủi những ai đau khổ, bất hạnh và vỗ về những ai cô đơn, tội lỗi. Hàn gắn
những gia đình bị rạng nứt và đổ vỡ.
Nhìn bàn
tay Chúa để các tông đồ hiểu rằng việc truyền giáo sẽ không bao giờ đạt kết quả,
nếu thiếu đời sống cầu nguyện, vì Chúa Giêsu dạy: “Hãy xin với chủ
ruộng” .
Đôi bàn
tay giơ cao hướng về Chúa để xin ơn. Xin Chúa ban ơn soi sáng, lòng nhiệt thành
và sức mạnh cho những nhà truyền giáo. Xin Chúa đánh đọng lòng người tiếp nhận
tin mừng. Xin Chúa chúc lành cho công cuộc truyền giáo.
Đôi bàn
tay dang rộng hướng về tha nhân, bằng cách chấp nhận chịu đâm thủng của những
dấu đinh vất vả, hy sinh, đau khổ vì tình yêu.
Bàn tay
yêu thương đó được minh chứng nơi cộng đoàn tín hữu đầu tiên.
Họ đồng
tâm hướng đôi bàn tay về Chúa bằng đời sống cầu nguyện, bằng lắng nghe Lời Chúa
và lời giảng dạy của các tông đồ, cùng hiệp nhau trong nghi lễ bẻ bánh.
Họ cũng
dùng bàn tay hướng về anh em để chia sẻ trong tình bác ái. Tự nguyện dùng tài
sản riêng làm của chung. Chấp nhận bán hết tài sản để trợ giúp cho người túng
thiếu. Họ cư xử với nhau như anh em một nhà. Chính đời sống ấy lôi cuốn biết
bao người xin gia nhập Kitô giáo.
Sứ mạng
loan báo tin mừng tình thuơng được Chúa phục sinh trao ban cho các tông đồ, qua
các tông đồ cho các kitô hữu đầu tiên và hôm nay sứ mạng ấy Chúa trao lại cho
mỗi người chúng ta!
Lạy Chúa
trong cuộc sống thường ngày, xin cho chúng ta biết xử dụng đôi bàn tay của
mình. Một bàn tay nắm chặt bàn tay Chúa bằng đời sống cầu nguyện. Bàn tay kia
nắm chặt lấy tay tha nhân bằng những hành động bác ái yêu thương, để rồi chúng
con đặt bàn tay của nhau vào bàn tay Chúa nhờ thế tình yêu Chúa được đơm bông
kết trái khắp nơi.
Thứ hai:
Ga 3,1-8.
Tin mừng
hôm nay thuật lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Nicôđêmô. Qua cuộc đối
thoại này, Chúa giải thích cho ông Nicôđêmô hiểu được ý nghĩa của việc “tái
sinh”; đồng thời Chúa Giêsu cũng cho ông ta biết giá trị và mục đích của việc
“tái sinh” là được làm con Chúa và được vào nước trời.
Xin cho
chúng ta biết quý trọng những ơn ích Chúa ban trong ngày lãnh nhận bí
tích rửa tội. Cho chúng ta biết từ bỏ tội lỗi, tính hư nết xấu, gìn gữ tâm hồn
trong trắng, sống xứng đáng là con Chúa.
Nicôđêmô,
thủ lãnh người Do Thái, có địa vị, có học thức cao và là thành
phần trong công nghị, được mọi người kính nể. Nghe những lời giảng dạy và
chứng kiến những phép lạ Chúa Giêsu làm, ông cảm phục, tin nhận Chúa Giêsu
là tôn sư đến từ Thiên Chúa. Tuy nhiên vì có nhiều điều làm ông thắc mắc nên
không ngại đêm khuya, kín đáo tìm đến Chúa Giêsu, trong khiêm tốn xin Chúa giải
đáp.
Nghe những
lời giảng hay, chứng kiến nhiều phép lạ nếu để vui tai, thích mắt thì chẳng ích
lợi gì nếu bản thân chúng ta không thay đổi trở nên tốt hơn. Giảng dạy và
phép lạ chỉ là phương tiện, nước trời mới là đích điểm.
Nhưng làm
thế nào để đạt được nước trời?
Trong cuộc
đàm đạo với Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã chỉ cho ông cách thức rất cụ thể để vào
nước trời đó là phải “tái sinh”. Nicôđimô, chỉ hiểu tái sinh theo nghĩa
xác thịt, theo cách thức tự nhiên nên ngây ngô thốt lên: “Một người đã già rồi,
làm sao có thể sinh ra được? chẳng lẽ người đó có thể trở vào lòng mẹ lần thứ
hai để sinh ra sao?”. Chứng tỏ ông không hiểu việc tái sinh theo nghĩa siêu
nhiên mà Chúa Giêsu đề cập đến : “Tái sinh
bởi nước và Thần Khí”.
Để là
người, chúng ta phải được sinh ra bởi cha mẹ. Các ngài đã truyền cho chúng ta
sự sống tự nhiên. Để trở nên người, chúng ta phải được hướng dẫn giáo dục
nhờ gia đình và xã hội. Nhưng để trở thành người con Chúa, chúng ta phải
được sinh lại trong Chúa Thánh Thần nhờ bí tích rửa tội. Qua bí tích rửa tội
Chúng ta được Chúa ban cho sự sống siêu nhiên.
Như thế,
để làm người và nên người, chúng ta phải được sinh ra theo lối tự nhiên bởi cha
mẹ. Nhưng để là người con Chúa, chúng ta phải được sinh ra theo lối siêu nhiên
bởi nước và Thánh Thần qua bí tích rửa tội. Nhờ tái sinh qua bí tích rửa
tội, chúng ta được Chúa tha thứ tội lỗi, được làm Con Chúa, được gia nhập vào
Hội Thánh, được trở nên tạo vật mới mặc lấy Đức Kitô và được kêu mời trở nên
ánh sáng giữa trần đời.
Chúa Giêsu
đã chết để tiêu diệt sự chết và sống lại để phục hồi sự sống cho chúng ta. Vì
thế chúng ta được Chúa kêu mời chết đi cho con người cũ bất tòan, tội lỗi để
sống con người mới hoàn hảo nhờ được tái sinh trong Chúa.
Xin cho
chúng ta biết ý thức gìn giữ và phát huy ơn trọng đại làm con Chúa trong
ngày lãnh nhận bí tích rửa tội. Biết chừa bỏ tội lỗi, tính hư nết
xấu mà sống con người mới thánh thiện tốt lành, trở nên ánh sáng tin mừng phục
sinh soi chiếu vào trần đời còn nhiều bóng tối, hầu xứng đáng được vào
Nước Chúa.
Thứ ba:
Ga 3,7b-15.
Suy
niệm 1:
Xây dựng
Họ đạo trở thành một cộng đoàn hiệp thông là một trong những tiêu chí mà GH
luôn hướng đến. Điều này đã được HĐGM VN nhấn mạnh đến trong thư mục vụ năm
2015, “Tân phúc âm đời sống Giáo xứ”.
Nhưng làm
thế nào để xây dựng Họ Đạo trở thành một cộng đoàn hiệp thông?
Thư mục vụ
2015 mời gọi chúng ta hãy chiêm ngắm và noi gương đời sống cộng đoàn tín hữu
thời GH ban đầu được sách CVTĐ hôm nói đến. Đó là một cộng đoàn tín hữu không
những hiệp thông bên ngoài: “…đối với họ, mọi sự đều là của chung”,
nhưng trên hết là bên trong “một lòng một ý”. Qủa là cộng đoàn
tín hữu tuyệt đẹp, đáng mơ ước!
Vậy nhờ
vào đâu mà cộng đoàn GH non trẻ làm được điều kỳ diệu ấy?
Có phải
nhờ tài năng lãnh đạo của các tông đồ không? Chắc chắn là không. Vì các tông đồ
đa phần là những người bình dân học vụ, kiến thức và kinh nghiệm lãnh đạo non
nớt.
Có phải
nhờ vào tình trạng dân trí cao và hiểu biết giáo lý sâu rộng không? Chắn chắn
là trình độ hiểu biết về giáo lý, kinh thánh cũng như kiến thức khoa học của
các kitô hữu bấy không sánh được như ngày nay…
Có phải
nhờ vào nền kinh tế phát triển phồn vinh và đời sống vật chất dân chúng bấy giờ
dư đầy không? Chắn chắn là không!
Vậy nhờ
đâu?
Thưa nhờ
sức mạnh của đức tin.
Tin vào
quyền năng của Thiên Chúa nên họ không ngại từ bỏ ý riêng để cùng tùng phục ý
Chúa.
Tin vào
cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô do các tông đồ làm chứng nên họ đã vượt
lên những ích lợi vật chất đời này mà mưu tìm giá trị vĩnh cửu mai sau.
Tin vào uy
tín và thế giá của các tông đồ nên họ sẵn sàng gom góp của cải mình có đem đến
đặt dưới chân các tông đồ làm của chung.
Trên hết
là vì họ tin vào tình yêu chân thành của nhau và xem nhau như là anh em một
nhà nên mong muốn “không ai phải thiếu thốn điều gì”.
Đã có thời
nhiều quốc gia, nhiều triết thuyết muốn xây dựng xã hội thành một cộng đoàn
hiệp thông như cộng đoàn của các Kitô hữu đầu tiên, nhưng đều thất bại. Bởi lẽ
sự hiệp thông ấy không đến từ sức mạnh con người, nhưng đến từ sức mạnh bởi ơn
trên. Chính vì thế mà trong bài Tin mừng hôm qua Chúa Giêsu xác quyết mạnh mẽ
với Nicôđêmô: “…không ai có thể thấy nước Thiên Chúa , nếu không được sinh
ra một lần nữa bởi ơn trên”.(Ga 3, 3). Chính nhờ ơn ban của Thiên Chúa và
sức mạnh biến đổi của Chúa Thánh Thần, con người mới có thể tin nhận vào Chúa
Giêsu, Đấng từ trời xuống, nhờ đó mà được sống muôn đời như lời Chúa Giêsu nói
với Nicôđêmô trong bài Tin mừng hôm nay .
Như thế để
xây dựng Họ đạo thành một cộng đoàn hiệp thông theo mô hình của các kitô hữu
ban đầu, cần phải có đức tin: Tin vào Thiên Chúa quyền năng, tin vào uy tín và
thế giá của GH cũng như tin vào sự chân thành của nhau. Mà đức tin là một ân
ban từ trên cao và từ bên trong. Vì thế chúng ta tha thiết xin
Chúa củng cố niềm tin nơi mỗi người chúng ta. Nhờ đó chúng ta mới có thể
xây dựng Họ đạo trở thành một cộng đoàn hiệp thông như cộng đoàn các tín hữu
ban đầu.
Suy niệm
2:
Qua cuộc
đàm đạo với Ni-cô-đê-mô trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác nhận cho
biết về nguồn gốc và vai trò của Người trong việc cứu độ con người.
- Trước
hết Chúa Giêsu minh chứng về nguồn gốc của Người.
Nguồn gốc
của Người đến từ trời cao, nên Người biết và thấy hết những điều kiện cần thiết
để được sự sống đời đời. Điều kiện cần thiết ấy chính là “phải được sinh lại
bởi ơn trên”. Bởi vậy trước khi lên
trời, Chúa Giêsu đã truyền dạy các tông đồ đi loan báoTin Mừng và rửa tội cho
muôn dân: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin
Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép Rửa, sẽ được cứu độ; còn ai
không tin sẽ bị kết án…” (Mc 16, 15-16).
- Tiếp đến
Chúa Giêsu cho biết vai trò của Người trong việc cứu độ.
Với
hình ảnh con rắn đồng được treo trong sa mạc thời Mô-sê đã cứu chữa những người
bị rắn lữa cắn khỏi chết, nhờ tin nhận và nhìn lên rắn đồng, Chúa Giêsu mời gọi
Nicôđêmô hãytin vào Ngài để được cứu độ.
Nếu xưa
kia nguyên tổ đã nghe lời cám dỗ của ma quỷ, đưa tay hái trái cấm trên cây mà
ăn để rồi nhận lấy án tử, thì nay với cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu,
Thánh Giá trở thành cây quả phúc, Chúa Giêsu trở nên trái chín
thơm lành, mang lại sự sống trường sinh cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài và
can đảm ăn lấy Ngài.
Tin
tưởng nhìn lên Ngài và ăn lấy Ngài, đồng nghĩa với việc chấp nhận đồng thân,
đồng phận, và đồng tử với Chúa Giêsu trên con đường khổ giá.
Như thế
để được sự sống đời đời ngoài điều kiện được sinh lại bởi ơn trên nhờ tác động
của Chúa Thánh Thần, chúng ta còn phải can đảm dấn bước theo Chúa Giêsu trên
con đường thập giá, qua việc chấp nhận những thử thách, gian nan, khốn khó
ở đời này với lòng tin tưởng vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa
Giêsu.
Xin
Chúa cho mỗi người chúng ta trong mùa phục sinh này, biết ý thức sống trọn
vẹn ơn tái sinh làm con Chúa, dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần; nhất là
luôn can đảm chấp nhận vác thập giá mình, bước theo Chúa Giêsu
trong niềm xác tín: “Nếu
chúng ta cùng chết với Ðức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người…” (Rm 6,8).
Thứ tư: Ga
3, 16-21.
Suy
niệm 1.
Cùng với
GH chúng ta đang sống trong năm thánh của lòng thương xót Chúa.
Lòng
thương xót của Thiên Chúa thể hiện qua suốt chiều dài lịch sử và rộng khắp mọi
nơi, mọi thời. Lòng thương xót của Chúa cũng thể hiện qua muôn vàn cách thế với
nhiều hình thức khác nhau. Cụ thể phụng vụ lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhận
ra một vài cách thế của lòng thương xót Chúa.
Bài
đọc I cho biết: lòng thương xót Chúa được thể hiện qua sự quan phòng kỳ diệu
bằng việc giải thoát các tông đồ ra khỏi ngục tù trong đêm tối, nhờ vào sự
hướng dẫn của vị Thiên Sứ Chúa sai đến; cũng như qua sức mạnh hỗ trợ của dân
chúng, khiến cho các thượng tế phải dè chừng trước những hành động sai trái của
họ.
Còn bài
tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho Nicôđêmô biết về lòng thương xót vô bờ bến của
Thiên Chúa qua việc trao ban chính Người Con yêu dấu của Ngài “Thiên
Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi dã ban chính người con của Ngài là đức
kitô. Để ai tin vào người con ấy thì không phải chết nhưng sẽ được sống đời
đời”.
Lòng
thương xót của Chúa thật vô biên. Đáng lẽ vì phạm tội con người phải nhận lấy
đau khổ và án chết đời đời, nhưng vì lòng thương xót, Thiên Chúa đã hy sinh
chính con mình là Đức Giêsu. Để nhờ và qua Người Con ấy, con người được cứu độ.
Thánh
Gioan xác quyết: Đức Kitô chính là Ánh Sáng. Chúa đã đến thế gian nhằm xua tan
bóng tối của tội lỗi và sự chết. Vì thế từ nay ai tin nhận và bước theo Ánh
Sáng ấy soi dẫn thì sẽ không chết trong bóng đêm tội lỗi, nhưng sẽ được sự sống
đời đời trong ánh sáng vinh quang.
Nhưng khốn
thay thế gian lại sợ ánh sáng và thích bóng tối, bởi vì ánh sáng phơi bày tội
ác xấu xa của họ. Vì thế mỗi chúng ta hãy can đảm bước vào vùng sáng chân lý,
hãy mạnh dạn khướt từ bóng tối của đam mê dục vọng và sự dữ, nhờ đó ánh sáng
của lòng thương xót Chúa mới được lan tỏa đến mọi người và mọi nơi.
Xin ánh
sáng Chúa Kitô phục sinh được thắp lên trong lòng của mỗi chúng ta để ta lan
tỏa ánh sáng lòng thương xót Chúa đến những nơi còn sống trong bóng tối tử
thần với hy vọng mọi người tin nhận ánh sáng của lòng thương xót Chúa mà được
cứu độ..
Suy
niệm 2.
Ánh sáng
và bóng tối, sống và chết luôn tồn tại nơi trần gian và trong mỗi người chúng
ta. Muốn bước đi trong ánh sáng để được sự sống đời đời, chúng ta cần phải
đến cùng Đức Giêsu, nguồn ánh sáng và là Đấng ban sự sống.
Tin mừng
hôm nay, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh Ánh Sáng để chỉ về Người.
Ánh sáng
là thứ quan trọng và gần gũi với con người. Ánh sáng rất cần thiết cho sự sống.
Không có ánh sáng thì không có sự sống. Thảo mộc , súc vật và con người nếu
không có ánh sáng thì sẽ chết.
Ánh sáng
giúp cho con người thấy nhau, thấy được vẽ đẹp vũ trụ vạn vật, phân biệt được
màu sắc và cảnh vật.
Trong lãnh
vực siêu nhiên, Chúa Giêsu muốn nói đến sự cần thiết của Ngài như ánh sáng
không thể thiếu. Không có Người thì tạo vật không được tạo thành. Không có
Người không có ơn cứu rỗi. Không có Người không có sự sống đích thực nơi con
người.
Nhưng con
người chúng ta lại sợ ánh sáng và ngại đến cùng ánh sáng vì ánh sáng phơi bày
tội lỗi chúng ta trước mặt Chúa và mọi người, nên chúng ta yêu bóng tối hơn ánh
sáng.
Xin Chúa
giúp chúng ta biết can đảm đẩy lui những bóng tối của gian dối, bất
công, chia rẽ hận thù và sự chết ra khỏi tâm hồn và môi trường sống của
ta.
Xin cho
chúng ta luôn yêu thích tắm dội ánh sáng chân lý, tình thương và sự sống
của Chúa Giêsu vào cuộc đời ta.
Suy
niệm 3.
Sống trong
xã hội vàng thau lẫn lộn, con người không còn khả năng phân biệt đúng sai, tốt
xấu, thật giả…vì thế, hơn bao giờ hết con người ngày hôm nay cần có ánh sáng
thật soi đường, chỉ lối.
Chúa Kitô,
ánh sáng thật, đến trần gian để soi đường chỉ lối. Xin cho chúng ta tin nhận và
sống theo sự hướng dẫn của Ngài.
Ánh sáng
là chủ đề tài nổi bậc trong tin mừng:
Ngay những
trang đầu của tin mừng, thánh Gioan đã cho biết Chúa Giêsu chính là “ánh
sáng, ánh sáng thật, ánh sáng đến trần gian và chiếu soi mọi người”.
Tin mừng
hôm nay, Chúa Giêsu tự xưng là ánh sáng thế gian và Ngài mời gọi con người đi
trong ánh sáng của Ngài.
Từ hai
ngàn năm qua, Ngôi Lời Thiên Chúa đã chiếu ánh sáng Thiên Chúa vào trần gian.
Người mang lửa xuống trần gian. Người mong ước cho ngọn lửa ấy cháy bừng lên,
lan rộng ra. Nhưng nhìn vào tình hình thế giới hôm nay, ta thấy bóng tối vẫn
còn vây phủ con người.
Bóng
tối chết chóc của chiến tranh, hận thù, của ô nhiễm môi trường, của đói nghèo,
áp bức, phân biệt chủng tộc, của nền văn hóa sự chết giết hại cả những mầm mống
sự sống.
Bóng tối
tội lỗi. Tội lỗi vẫn tiếp tục lan tràn. Sự dữ nổi lên dưới nhiều hình thức khác
nhau. Nguy hiểm nhất là người ta đánh mất cảm thức về tội lỗi, thản nhiên sống
trong tội, sống chung với tội lỗi.
Bóng tối
của hận thù ghen ghét. Trong thế giới văn minh mà con người hô hào hôm nay, vẫn
còn có những người say máu giết hại đồng bào của mình, gây nên tội ác diệt
chủng. Vẫn có những thế lực đen tối ngấm ngầm gây chia rẽ giữa các quốc gia,
dân tộc, giữa các cộng đoàn, hội thánh...
Sống trong
xã hội tràn ngập bóng tối của sự chết, của tội lỗi và hận thù…như thế, Chúa
Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta phải chiếu giãi trước mặt mọi người.
“Các con
là ánh sáng thế gian”. Ngày nhận lãnh bí tích rửa tội, Giáo Hội trao cho ta cây
nến sáng để nhắc nhớ chúng ta hãy gìn giữ ngọn nến ấy luôn cháy sáng mãi trong
suốt cuộc đời.
Cây nến
phục sinh mà người kitô hữu chúng ta thắp lên trong đêm lễ phục sinh nhắc nhở
chúng ta nhiệm vụ mang ánh sáng Chúa Kitô chia sẻ cho mọi người chung quanh.
Xin Chúa
giúp chúng ta tẩy sạch mọi bóng tối tội lỗi, để thực sự được sinh lại cùng với
Đức Giê-su. Trở nên con cái sự sáng bằng đời sống tươi vui, an hoà, khiêm
nhường, nhịn nhục, yêu thương, đoàn kết đến cho anh em.
Thứ năm:
Ga 3, 31-36.
Suy niệm
1.
Cuộc
sống là một chuỗi những lựa chọn. Chọn đúng làm cho cuộc sống trở hạnh phúc.
Chọn lựa sai sẽ làm cho ta bất hạnh. Chọn lựa là quyền tự do căn bản của con
người. Chính quyền ấy đã được Thiên Chúa ban tặng và luôn tôn trọng. Vì thế
chúng ta phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn ấy.
Phụng
vụ lời chúa hôm nay đặt ra cho các tông đồ và Nicôđêmô những lựa chọn.
Bài đọc
I đặt ra cho các tông đồ đứng trước giữa hai chọn lựa:
Chọn
nghe theo lời các thượng tế im lặng trước sự thật về sự kiện phục sinh của Chúa
Giêsu thì được an phận. Còn nếu lên tiếng rao giảng và làm chứng cho sự thật ấy
thì sẽ nguy hại đến bản thân. Nhưng nhờ ơn sức mạnh của Chúa Thánh Thần thúc
đẩy, các ngài đã mạnh mẽ chọn đứng về sự thật: “Vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm”.
Còn bài
tin mừng hôm nay thì Chúa Giêsu lại đặt ra cho Nicôđêmô về hai chọn lựa: tin
hay không tin vào Ngài. Chúa Giêsu nói:“Ngài chính là Đấng được Thiên
Chúa sai đến, Ngài nói những lời của Thiên Chúa… ai tin vào Ngài thì có sự sống
đời đời. Còn ai không tin vào Ngài, thì sẽ không được thấy sự sống, nhưng cơn
thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy”. Ta không biết sau đó ông đã
chọn lựa thế nào, bởi tin mừng bỏ ngỏ. Điều này khiến chúng ta lại phải nghĩ
đến quyết định lựa chọn của mỗi người chúng ta.
Đúng
vậy, chọn lựa luôn gắn liền với đời sống chúng ta. Nhìn lại cuộc sống thường
ngày, chúng ta thấy mình thích chọn lựa những gì xem ra nhẹ nhàn, dễ dãi, không
thích chọn gian khổ hy sinh; chúng ta thích chọn nghe những lời ngon ngọt, a
dua, ngợi khen chúc tụng hơn là những lời chân thật, bởi lời thật thì đắng
lòng. Cũng thế chúng ta thường thích nói những lời của con người hơn là nói
những Lời của Chúa. Chúng ta thích chọn lựa đứng về lợi ích nhóm hơn là đứng
về những ai cô thế cô thân. Chúng thường hay chọn im lặng trước dối trá hơn là
bên vực cho công lý... Nhất là chúng ta hay chọn an phận hơn là làm chứng nhân
cho Chúa.
Xin
Chúa Giêsu Phục sinh ban dồi dào ơn khôn ngoan và sức mạnh của Chúa
Thánh Thần trên chúng ta, để chúng ta biết chọn lựa sao cho đúng ý Chúa và
can đảm sống theo sự lựa chọn ấy cho dẫu phải hy sinh và thiệt thòi vì
biết rằng mình đã làm đẹp lòng Chúa như các tông đồ xưa. Có như vậy
ta mới xứng đáng đón nhận ơn cứu độ do Chúa Giêsu phục sinh đem đến.
Suy niệm
2.
Bằng những
hình ảnh đối lập: Cao- thấp, trời-đất, Chúa Giêsu muốn xác định thiên tính của
Ngài và mời gọi chúng ta dấn bước theo Ngài để được sự sống đời dời.
Chúa Giêsu
xác định:
Ngài đến
từ trên cao nên cao trọng hơn hết mọi người.
Ngài được
Thiên Chúa sai đi nên Ngài là Người của Thiên Chúa.
Ngài được
Thiên Chúa yêu thương trao ban thần khí vô ngần vô hạn cũng như Chúa Cha trao
ban mọi sự trong tay Ngài, điều này xác nhận Ngài chính là Con Thiên Chúa và là
Thiên Chúa.
Vì ngài
đến từ trời cao, là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa làm người, nên Ngài thấy
hết, biết hết các việc trên trời. Đo đó lời chứng của Ngài là chân thật, để ai
tin vào Ngài thì được sự sống đời đời, kẻ nào không tin thì sẽ bị luận phạt.
Là Thiên
Chúa làm người và đã trãi qua kiếp người bằng cái chết đau thương để rồi phục
sinh vinh hiển trở về cùng Thiên Chúa, nên ai tin theo con đường Ngài đã đi thì
sẽ không sợ lạc đường về quê trời.
Chúa
Giêsu không chỉ vạch ra cho ta con đường đạt đến sự sống đời đời, mà
Ngài còn dấn thân tiến bước trên con đường ấy. Vì thế chúng ta hãy vững tin
tiến bước theo Ngài. Đường dẫn về quê trời đã có, người dẫn đường đã sẵn sàng,
điều quan trọng là tùy thuộc nơi mỗi chúng ta có dám dấn thân bước theo hay
không? Chúa không thể bắt ép ta bước đi trên con đường ấy, nếu như ta
không muốn.
Xin cho
chúng ta biết ngước vọng về trời cao và hướng lòng trí về quê trời vĩnh cửu mà
xin cho lòng được ái mộ những sự trên trời. Nhờ đó ta sẵn sàng dấn thân bước
theo con đường mà Chúa Giêsu đã vạch ra mà thoát khỏi cơn thịnh nộ của Thiên
Chúa để được Chúa thương ban cho chúng ta sự sống đời đời.
Thứ sáu:
Ga 6, 1-15.
Suy
niệm 1.
“Hãy
tín thác vào lòng thương xót Chúa”, đó là sứ điệp mà Chúa Giêsu gửi đến nhân
loại qua thánh nữ Faustina. Sứ điệp ấy càng được xác tín qua phụng vụ lời Chúa
hôm nay.
Bài đọc
I hôm nay cho biết: trong lúc mà các giới chức lãnh đạo tôn giáo triệu tập họp
hội đồng Do Thái để tìm cách tiêu diệt các tông đồ nhằm dập tắt đạo Giêsu. Thì
Chúa lại quan phòng cho một người Pharisêu tên là Gamaliên đứng ra giữa hội
đồng để phân tích thiệt hơn nếu ra tay giết hại các tông đồ.
Sau khi
ông nhắc lại các phong trào mang tính nhân loại thuần túy nổi lên trước đây
nhưng đến nay tất cả đều bị tan rã. Thì ngay sau đó ông xác tín rằng:“Còn
quả thật là do Thiên Chúa thì không thể nào phá hủy được, không khéo lại quý vị
lại thành những kẻ chống Thiên Chúa”. Nghe những lời đó nên họ chùng bước, chỉ quyết định đem các tông
đồ ra đánh đòn và cấm không cho nói đến danh Đức Giêsu nữa, rồi thả đi. Dẫu bị
đánh đập nhưng các tông đồ cảm thấy “lòng hân hoan bởi được coi là
xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu và tiếp tục rao giảng và loan báo tin
mừng tại tư gia và trong đền thờ”.
Còn bài
tin mừng thì tường thuật lại những hoạt động của Chúa Giêsu bên kia biển hồ
Ga-li-lê. Chiêm ngắm về tất cả những lời nói, cử chỉ, việc làm của Chúa Giêsu
được thể hiện trong bài tin mừng hôm nay, ta nhận thấy Chúa Giêsu không chỉ
quan tâm đến nhu cầu tâm linh mà còn cả nhu cầu vật chất của dân chúng nữa.
Với lòng thương xót trước sự bơ vơ và đói khát của đám đông dân
chúng theo Ngài nên Ngài đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi sống họ.
Như thế
lời Chúa hôm nay giúp chúng ta hiểu rằng một khi can đảm tín thác vào lòng
thương xót Chúa qua việc dấn bước theo và nghe Lời giảng dạy của Ngài
(bài tin mừng), cũng như hy sinh làm chứng cho tin mừng phục sinh của Ngài
(bài đọc I) thì Chúa không bỏ rơi bao giờ.
Xin cho
chúng ta luôn biết tín thác mạnh mẽ vào lòng thương xót của Chúa để can đảm
loan truyền tình thương của Ngài cho mọi nơi dẫu phải gặp nhiều thử
thách với niềm tin rằng: “có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại
chúng ta?”.
Suy niệm
2.
Tin mừng
hôm nay, Đức Giêsu đã làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám đông. Cho
thấy Ngài quan tâm đến nhu cầu của thân xác của con người. Nhưng Ngài
không dừng lại ở việc thỏa mãn nhu cầu cơ bản là “đói cho ăn, khát cho uống”.
Cơm bánh chỉ là thứ lương thực mau qua dành cho thân xác, chứ không phải là thứ
lương thực đem lại sự sống đời đời. Do đó Ngài muốn ban cho con người thứ lương
thực trường tồn đem lại sự sống vĩnh cửu.
Để có được
của ăn mau qua, nuôi dưỡng thân xác, con người phải ra công làm việc vất vã “đổ
mồ hôi sót con mắt ”, cũng như biết nhường cơm xẻ áo cho nhau.
Để
có của ăn vĩnh cửu, nuôi dưỡng tinh thần và tâm linh, con người chỉ cần làm hai
việc: Đến với Chúa Giêsu và Tin vào Ngài.
Cái đói
của thân xác không cồn cào bằng cái đói tinh thần.
Con người
đói công bằng và hạnh phúc, đói yêu thương và kính trọng.
Con người
khát niềm vui và bình an, cảm thông và sự thật.
Trong nơi
sâu thẳm, con người đói khát Ai đó để mình yêu mến tôn thờ.
Đức Giêsu
mời ta hãy tin vào Ngài là Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Hãy đến
với Giêsu để bắt đầu được nếm thử tấm bánh của Ngài, vì chính Ngài là Tình yêu,
Sự thật và Bình an.
Xin cho
chúng ta biết siêng năng đến với Chúa Giêsu với niềm tin yêu, để chúng ta được
chính Chúa nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Bánh Thánh, là thứ lương thực không hư
nát và đem lại sự sống đời đời cho chúng ta.
Ngày 03/05: Kính Thánh Philipphê Và Giacôbê Tông Đồ
Ga 14,6-14
Khi xây
một ngôi nhà, trước hết trong đầu chúng ta phải có mô hình, rồi mới thể hiện mô
hình đó ra bản vẽ, sau đó chúng ta mới dựa vào bản vẽ đó mà thực hiện. Tương tự
như thế, để xây dựng người con Chúa, ta phải theo mô hình. Mô hình đó là Đức
Giêsu Kitô “Con Chúa” và “là đường, là sự thật và là sự sống”. Thánh
Philipphê và Giacôbê đã nghe lời Chúa và đã xây dựng con người mình theo mô
hình Đức Giêsu Kitô nên được thừa hưởng gia tài hạnh phúc nước trời. Xin cho
chúng ta biết xây dựng đời mình theo mô hình Đức Giêsu Kitô theo gương hai
thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ.
Ước nguyện
được nhìn thấy Thiên Chúa không chỉ là ước nguyện của Philipphê và các tông đồ
nhưng còn là ước mong của mỗi chúng ta.
Tin mừng
hôm nay, Chúa Giêsu đáp ứng mong ước đó của chúng ta bằng cách cho biết chính
Người là hiện thân và là Thiên Chúa : “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”,
“ Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy”.
Do đó lời
Người nói là nói lời Chúa Cha. Những việc làm của Người chính là Chúa Cha làm
trong Người. Nếu ai tin vào Người thì sẽ làm được những việc Người làm và còn
lớn lao hơn nữa, vì Người về cùng Chúa Cha và sẽ ban ơn cho những ai tin vào
Người.
Theo Đức
Dalai-Lama có một điều cần quan tâm trong giáo dục. Ngài nói: “trong Phật giáo,
khi nói đến giáo huấn hay giáo thuyết, chúng tôi nhìn ở hai mức độ:
- Mức
độ thứ nhất liên quan đến các bản văn.
- Mức
độ thứ hai liên quan đến sự thể nghiệm.
Liên quan
đến sự thể nghiệm, điều rất quan trọng là một người muốn dạy người khác, thì
chính mình phải có kinh nghiệm tối thiểu về điều mình giảng dạy, phải hoàn tất
đoạn đường nào đó trong sự thể nghiệm thiêng liêng. Như thế nó hoàn toàn khác
với loại hình truyền thông khác, khi người ta kể lại câu chuyện lịch sử hoặc
một sử gia tuờng thuật lại những biến cố đã qua. Trong trường hợp đó, người ta
kể lại sự kiện mà không hề sống. Còn việc giảng dạy về đời sống tâm linh, điều
thiết yếu là người giảng dạy phải có một chút thể nghiệm và kinh nghiệm bản
thân”.
Chúa Giêsu
không chỉ thể nghiệm mà Người còn chính là mô hình là khuôn mẫu để mọi người
noi theo “ Thầy là đường là sự thật và là sự sống”. Chỉ những ai
tin nhận và xây dựng cuộc sống mình trên mô hình Đức Giêsu Kitô thì mới có được
sự sống đời đời.
Xin cho
chúng ta biết xây dựng đời kitô hữu mình trên khuôn mẫu là Đức Giêsu Kitô.
Nghĩa là khi nói phải nói lời của Chúa. Khi làm thì làm việc trong Chúa và vì
Chúa. Trong mọi sự luôn tin nhận và đi theo con đường Chúa Giêsu hướng dẫn.
Lễ kính
thánh Philipphê và Giacôbê, tông đồ (St)
Thánh
Philipphê thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy
Chúa Cha, như thế chúng con mãn nguyện”(Ga 14,8). Ước muốn của Thánh
Philipphê cũng chính là niềm khát khao của con người mọi thời vì: “chỉ
trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 62,1).
Thế nên, dọc dài thời gian, xuất hiện rất nhiều bậc hiền nhân đưa ra những
phương cách, lời hay ý đẹp để giúp con người thấu đạt Thượng Đế. Nhưng không
một ai đưa con người đến được với Thiên Chúa; ngoại trừ Chúa Giêsu, Đấng là
Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúa Giêsu xuất phát từ Thiên Chúa, là dung
nhan lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Chúa biết cách nói về Thiên Chúa, dạy
cho con người chân lý yêu thương đích thực. Hơn hết, Chúa Giêsu chính là Con
Đường để con người bước vào sự sống của Thiên Chúa.
Con Đường
Giêsu đã được khẳng định rõ nét qua lời nói và hành động của Chúa trong những
tháng năm trên trần thế.
Người đời
cho rằng của cải đời này là sự đảm bảo cho cuộc sống thì Chúa Giêsu nói với
chúng ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì
những gì ngươi sắm sẵn sẽ về tay ai?” (Lc 12, 20).
Con người
cứ lo kiếm tìm danh lợi thú trần gian, Chúa Giêsu lại đến trần không một nơi
gối đầu để phục vụ và hy sinh mạng sống vì đàn chiên.
Con người
đối xử với nhau bội bạc, vô tình, tàn nhẫn; Chúa Giêsu đến với mọi người bằng
tình yêu và chân thành: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi
dào” (Ga 10, 10).
Con người
những tưởng đã tha thứ đủ khi tha đến bảy lần thì Chúa Giêsu dạy phải tha thứ
đến bảy mươi lần bảy.
Con người
vô ơn quên tình yêu Thiên Chúa, bất tuân lệnh Thiên Chúa; Chúa Giêsu vâng lời
Chúa Cha và thực thi mọi phán quyết của Thiên Chúa: “Này con đây, con
đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10, 9).
Chúa Giêsu
là Đường Hoàn Hảo mà Chúa Cha gửi đến cho con người với tất cả lòng thương xót.
Chúa đã chết trên thập giá để cứu độ con người: “Khi các ông giương cao
Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,12). Và
Chúa Giêsu đã Phục Sinh để minh chứng lời Chúa nói là chân thật: “Có
lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi
chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân” (Lc 24,
46-47).
Lạy Chúa
Phục Sinh, đường đời trăm phương ngàn lối, tất cả đều dẫn chúng con đi vào sự
diệt vong. Chỉ duy Chúa là Đường đích thực đưa chúng con đến sự sống nơi cung
lòng Chúa Cha vì Chúa là Thiên Chúa, là Đấng giàu lòng thương xót đã chết và
phục sinh sự sống cho chúng con. Amen.
Lễ kính
thánh Philipphê và Giacôbê, tông Đồ. (St)
Khao khát
được biết Thiên Chúa Cha là khát vọng chính đáng của con người, và cùng đích
của con người chính là được đời đời chiêm ngưỡng thánh nhan Cha. Chính vì
thế mà sau khi Chúa Giêsu nói về Thiên Chúa Cha, thánh Philípphê đã không ngần
ngại thưa với Chúa Giêsu rằng: “Xin Thầy tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như
thế là chúng con đã mãn nguyện”.
Thấy Thiên
Chúa Cha ư? Con mắt phàm tục không thể nhìn thấy Thiên Chúa. Đó là điều được
nói đến trong Cựu Ước, rằng không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa mà còn sống:
Môsê phải che mặt khi đối diện, Êlia chỉ được nhìn thấy phía sau, các tổ phụ,
thẩm phán và ngôn sứ chỉ được thấy Chúa qua các thiên sứ hoặc các biến cố như
mây, lửa… Và chính Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Không ai thấy Thiên
Chúa bao giờ, nhưng phải nhờ Chúa Con mặc khải cho”.
Mở đầu bài
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Không ai đến được với Cha mà không
qua Thầy”.
Như thế,
chỉ có Chúa Giêsu là mặc khải tròn đầy về Thiên Chúa Cha. Câu trả lời cho
Philípphê hôm nay chứng minh điều đó, đồng thời mạc khải chắc chắn về mầu nhiệm
Một Chúa Ba Ngôi: Ba Ngôi vừa hiện hữu tại thân vừa hiện hữu hướng về đến duy
nhất, như Chúa Giêsu nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha, Thầy ở trong Cha
và Cha ở trong Thầy”.
Vì thế Tin
Mừng hôm nay giúp chúng ta hiểu rằng:
- Không
phàm nhân nào nhìn thấy Thiên Chúa mà còn sống.
- Không ai
thấy Thiên Chúa bao giờ, trừ khi Chúa Con mặc khải cho.
- Không ai
đến được với Cha mà không qua Thầy.
- Chúa
Giêsu là mặc khải tròn đầy về Chúa Cha, nên tất cả mọi mặc khải khác đều phải
quy về Chúa Giêsu và vâng phục Giáo Hội.
- Chúa
Giêsu làm tất cả những gì mọi người cầu xin với Chúa Cha nhân danh Chúa Giêsu.
Đó là tất
cả những gì được nói tới trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu là đường, là sự
thật và là sự sống. Đó là đức tin tông truyền của Giáo Hội, vì thế không có con
đường chui nào khác mà không qua Chúa Kitô là Đấng Trung Gian duy nhất.
Những linh
đạo qua Đức Mẹ và các thánh đều quy hướng về Chúa Kitô. Mọi điều lớn lao mà các
Kitô hữu làm được không phải do công chính mình, mà là do niềm tin vào Đức
Kitô.
Vì Chúa
Giêsu ngự bên hữu Chúa Cha để ban ơn và chuyển cầu, nên những ai tin vào Người
còn làm được những việc lớn lao hơn. Cụ thể là như các tông đồ, chỉ trong một
bài giảng của Phêrô mà có tới 5000 người trở lại, thậm chí có những lần khi
thánh Phêrô đi qua cái bóng của ngài cũng làm cho bệnh nhân khỏi bệnh…
Lạy Chúa
Giêsu, với niềm khao khát như thánh Philípphê chúng con mừng kính hôm nay, xin
cho chúng con được nhìn thấy Thiên Chúa Cha hiện hữu trong mọi nơi mọi lúc, đặc
biệt trong mọi biến cố cuộc đời, để chúng con sống trọn niềm thảo hiếu với
Người. Amen.
Thứ
bảy: Ga 6,16-21
Suy niệm
1.
Các nhà xã
hội học định nghĩa: con người là con vật có xã hội tính. Do đó không ai là một
hòn đảo. Chúng ta sống là sống với, sống cùng, sống cho, sống vì và sống nhờ
nhau. Nhờ đời sống chung mà con người được phát triển và tốt đẹp hơn nhờ vào
sự tương trợ nhau. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng vì đời sống chung mà ta gặp
phải không ít khó khăn và thử thách:
- Bài đọc
I hôm nay cho thấy một vấn đề khó khăn nổi lên trong đời sống của cộng đoàn sơ
khai. Đó là sự ghen tỵ phân bì xảy ra, bởi lẽ vì những bà góa Do Thái gốc Hy
Lạp chịu thiệt thòi do bị các tông đồ quên lãng. Điều này có nguy cơ đưa đến
sự chia rẻ, hận thù và trở thành gương mù. Nhận ra nguy hại ấy, các tông đồ
đã tìm cách giải quyết. Thay vì có thể dùng quyền bính mình để răn đe
khống chế, hay loại trừ họ ra khỏi cộng đoàn thì trái lại các tông đồ
khiêm tốn nhận ra sự thiếu xót của mình vì đã không quan tâm đủ để chăm lo cho
mọi người. Để đáp ứng nhu cầu chính đáng ấy, các tông đồ đã đề nghị bầu chọn
thêm 7 phó tế phụ tiếp với các ngài chăm lo phục vụ các bà góa, dù thành phần
này không được xã hội đề cao bấy giờ. Nhờ đó mà đời sống của cộng đoàn trở nên
êm ấm.
- Bài Tin
mừng hôm nay thì nêu lên những sóng gió mà các tông đồ gặp phải khi xuống
thuyền sang bờ bên kia biển hồ trong đêm tối. Trong bóng đêm ngoài việc phải
vất vả chống chọi với sóng to gió lớn, các ông còn phải đối mặt với sự
sợ hãi kinh hồn khi thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với họ, vì tưởng là
ma. Nhưng nhờ lời trấn an của Chúa Giêsu: “Thầy đây mà, đừng sợ!”,
khi ấy các ông mới tìm lại bình an và đưa con thuyền cập bến an toàn.
- Cuộc đời
ta của chúng ta có lúc yên bình nhưng cũng có lúc sóng gió nổi lên khiến ta sợ
hãi bất an. Xin Chúa phục sinh luôn ở bên để che chở, chấn an và
giúp ta biết chọn lựa hướng sống tốt đẹp theo thánh ý Người, nhờ
đó con thuyền đời ta dễ dàng vượt qua sóng gió hiễm nguy của biển
đời trần gian mà đạt đến bến bờ của an vui và hạnh phúc nhờ
ơn ban của Chúa.
Suy niệm
2.
Suy niệm
về bài tin mừng hôm nay, ta nhận ra rằng:
- Các môn đệ
chính là mỗi người chúng ta.
- Con thuyền
là hình ảnh của Giáo Hội.
- Biển Hồ là
hình ảnh trần gian.
- Đêm tối,
bảo tố, gió mạnh là những thử thách do ma quỷ gây nên.
- Bờ bên kia
là hạnh phúc nước trời mà con người cần vươn tới.
Cũng
như các môn đệ xưa, chúng ta đã bước vào con thuyền của Giáo Hội khi lãnh
nhận bí tích thánh tẩy. Cùng với con thuyền Giáo hội, chúng ta đang tiến bước
trên biển đời trần gian.
Giống
như con thuyền của các môn đệ bị những cơn sóng to, gió lớn đánh dữ dội, thì ở
mọi thời, mọi nơi Giáo Hội cách chung, cách riêng mỗi chúng ta cũng
đương đầu với những chống đối, những vu khống, bôi nhọ và loại trừ do thế lực
ma quỷ gây ra.
Có khi
những bóng tối, những vết đen đáng tiếc xảy ra trong Giáo Hội cách chung hay
những đau khổ, những thất bại và những bất hạnh xảy
đến cho bản thân, làm cho ta dao động, mất hướng sống. Khi đó là
lúc thuyền đời của ta đang đi trong đêm tối đức tin, đến
nỗi ta muốn buông xuôi tất cả.
Quan
trọng là Chúa Giêsu phục sinh không bỏ rơi chúng ta khi gặp gian nan thử thách.
Chính lúc đó, Chúa sẽ ra tay cứu giúp chúng ta, không để cho
sóng gió nhận chìm chúng ta vì “Ơn Ta đủ cho
con”. Ngài vẫn ở bên Giáo Hội. Ngài luôn đồng hành và hiện diện bên
mỗi người chúng ta. Ngài ban Chúa Thánh Thần hướng dẫn Giáo Hội và ban ơn
trợ giúp chúng tađủ sức lướt thắng mọi sóng to gió lớn và
dìu bước chúng tacập bến bình an, nếu chúng ta tin tưởng cậy trông
phó thác vào Ngài.
Xin
Chúa phục sinh ban thêm lòng tin kiên vững nơi chúng con, để dù trong bất
cứ hoàn cảnh thử thách nào, ngay cả những lúc bước đi trong đêm
tối của đức tin, chúng con vẫn an tâm tiến bước trên biển đời. Xin Chúa luôn
hiện diện và đồng hành với chúng con, để đưa dẫn chúng con đạt tới bến bờ bình
an.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét