SUY NIỆM LỜI CHÚA
TUẦN XXV THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN-A
Is 55,6-9; Pl 1,20c-24.27a; Mt 20,1-16a
I. THIÊN CHÚA CÔNG
BẰNG VÀ GIÀU LÒNG XÓT THƯƠNG
Tin mừng hôm nay
trình bày cho chúng ta biết Thiên Chúa chúng ta tôn thờ là một Đấng rất công
bằng nhưng cũng thật giàu lòng thương xót. Xin cho chúng ta hiểu được đường lối
và cung cách ứng xử tuyệt vời của Chúa mà thêm lòng mộ mến, tin tưởng và vâng
theo đường lối của Người.
Chủ đề chính của
phụng vụ lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến một vị Thiên Chúa thật công bằng và
giàu lòng thương xót.
- Bài đọc 1, tiên tri Isaia
trình bày chúng ta thấy một vị Thiên Chúa rất nhân từ và bao dung. Tư tưởng và
đường lối của Người khác hẳn với tư tưởng và đường lối của người phàm chúng
ta: "Như trời cao hơn đất thế nào, đường lối Ta vượt
trên các đường lối các ngươi thế ấy." (Is 55,9) Ngài không
phải là một vị Thiên Chúa hay trừng phạt thích giết chết; trái lại Người là một
vị Thiên Chúa hay tha thứ và cứu sống. Vì thế mà tiên tri Isaia mời gọi những
ai tội lỗi đừng sợ hãi trốn tránh Người, nhưng hãy mạnh dạn đến với Người, vì
Người rất bao dung và giàu lòng thương xót.
- Tin mừng hôm nay thì nói đến
dụ ngôn những người làm vườn nho cho ông chủ với thời gian không đồng nhất, kẻ
trước người sau. Nhưng cuối ngày, ông chủ lại trả tiền công như nhau, mỗi người
1 đồng. Cách trả lương của ông chủ xem ra là bất bình thường nên có sự phiền
trách nhẹ của những người làm nhiều giờ hơn. Tuy nhiên điều xem ra bất thường
ấy lại làm nổi bậc lên tấm lòng nhân từ của Thiên Chúa.
Những người làm công
từ sáng sớm cứ ngỡ ông chủ sẽ trả tiền công cho mình nhiều hơn những người chỉ
làm một giờ cuối ngày. Nhưng thật bất ngờ, dù làm từ sáng sớm hay chiều tàn,
tất cả đều chỉ lãnh 1 đồng như nhau. Điều này đã khiến cho một số người làm nhiều
giờ hơn kêu trách ông chủ là đối xử không công bằng. Tuy nhiên sau khi nghe lời
giải thích của ông chủ, họ mới ngộ ra được cách hành xử hết sức công bằng của
ông chủ, vì ông đã trả đầy đủ số tiền theo như sự thỏa thuận với họ ngay từ ban
đầu. Còn việc ông trả 1 đồng cho những người làm ít giờ giống như những người
làm nhiều giờ, đó là quyền tự do của ông. Như vậy sự trách phiền của họ là sai
lầm do mắt họ bị che phủ bởi một màn đen của ghen tỵ.
Nhìn vào cách phản
ứng khó chịu của những người làm vườn nho từ sáng sớm trong bài tin mừng hôm
nay, chúng ta cũng cảm thấy mình hình như cũng đứng vào hàng ngũ, phe nhóm của
họ. Bởi rất nhiều lần chúng ta cũng ghen tị, cũng so đo tính toán và không hài
lòng khi ai đó được ưu ái và mai mắn hơn mình. Nên trong thư gửi tín hữu
Philipphê, thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta phải biết quy hướng suy nghĩ và
cái nhìn của mình về Đức Giêsu. Thánh Phao-lô đã nêu gương cho chúng ta về bài
học cao quý đó, bởi lẽ trong bất cứ hoàn cảnh nào xảy ra, thì ngài cũng đều
mong muốn làm vinh danh Chúa Kitô. Ngay cả đang lúc bị tù đày, ngài vẫn mạnh mẽ
xác quyết rằng: “nếu được thả ra tự do thì ngài sẽ tiếp tục rao giảng
Tin mừng để làm vinh danh Chúa Kitô. Còn ngược lại nếu phải chịu chết thì ngài
cũng vui mừng bởi được chết vì danh Chúa Kitô.”
Như thế, khi quy
hướng tất cả cuộc sống mình về danh Chúa Kitô và với mong muốn làm vinh danh
Người theo gương thánh Phaolô, ta sẽ loại trừ được ghen ghét, hận thù, so đo
thiệt hơn với nhau vì mọi ước muốn của ta chỉ còn tập trung vào việc duy nhất
là làm thế nào để vinh danh Chúa mà thôi! Và khi biết quy hướng cuộc sống mình
vào Chúa Kitô, chúng ta sẽ học được bài học của lòng thương xót Chúa nơi Đức
Giêsu Kitô: “Dung mạo lòng thương xót
của Chúa Cha chính là Đức Giêsu Kitô” (Tông Sắc "Misericordiae
vultus" số 1).
Xin Chúa cho chúng
ta biết can đảm loại trừ tính ích kỷ và cái nhìn ghen tị ra khỏi lòng mình mà
mặc lấy tâm tình từ bi, ôn hòa, nhẫn nại… của Chúa nhờ sự kết hợp mật thiết với
Chúa Kitô mà sẵn sàng sống cho vinh danh Người trong mọi nơi, mọi lúc.
II. CÔNG BẰNG VÀ TÌNH
THƯƠNG
Trong
cuộc sống đời thường, người ta hay nói đến công bằng như một lý tưởng phấn đấu
và là một điều kiện căn bản để xây dựng một xã hội phồn vinh hạnh phúc. Tuy
vậy, ở đời này không bao giờ có công bằng tuyệt đối. Bởi lẽ ngay khái niệm công
bằng cũng được hiểu rất khác nhau, tuỳ theo quan điểm chính trị, văn hoá và xã
hội của con người.
Thiên
Chúa là Đấng công bằng. Giáo huấn của Kinh Thánh khẳng định với chúng ta như
thế. Tác giả Thánh vịnh đã viết: “Quả thật Chúa là Đấng công
bằng, ưa thích điều chính trực; những kẻ sống ngay lành được chiêm ngưỡng Thánh
Nhan” (Tv 10,7). Không chỉ công bằng, nơi Chúa còn
có tình thương và lòng nhân hậu. Ở đời này, hiếm thấy công bằng và tình thương
đi đôi với nhau. Dân gian ta thường nói: “Thương em anh để trong lòng, việc
quan anh cứ phép công anh làm”. Điều đó cho thấy đã công bằng thì không (hoặc
rất khó) mà có tình thương và không có sự nể nang tình nghĩa. Đây cũng là điều
cần thiết bởi nếu không xã hội sẽ rối loạn như giao thông không có đèn hiệu.
Dụ ngôn ông
chủ vườn nho hôm nay chứng minh cho thấy: Thiên Chúa vừa công bằng và tràn đầy
tình thương. Thiên Chúa không hành động nhỏ nhen như con
người. Chúng ta thường có thói quen “suy bụng ra bụng của Thiên Chúa”, có nghĩa
là chúng ta thường gán cho Thiên Chúa những cách xử sự nơi thế giới nhân loại,
cũng hận thù và tiểu nhân. Từ đó, chúng ta phàn nàn kêu trách Chúa khi đau khổ
thiếu thốn. Tệ hơn, nhiều lúc chúng ta phê phán Chúa vì Ngài tốt bụng với người
khác. Qua ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã khẳng định: “Tư tưởng của Ta
không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải đường
lối của Ta… Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường
lối các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy” (Bài
đọc I). Những lời này dạy chúng ta phải có cái nhìn rộng lượng hơn trong
cách đối xử với tha nhân, như Thiên Chúa là Đấng bao dung và quảng đại.
Chúa
Giêsu đến trần gian để mạc khải cho con người tình thương bao la của Chúa Cha.
Ngài thương hết mọi người và từng người, nhất là những tội nhân và những kẻ bé
mọn. Trong khi đó, nhiều người Do Thái, nhất là người Biệt phái và các luật sĩ
lại ghen tỵ vì Chúa Giêsu. Họ phê phán Chúa vì Người gần gũi những người tội
lỗi và những kẻ bần cùng. Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” nhằm diễn tả lòng bao dung
của Thiên Chúa và sự ích kỷ của con người. Nếu Thiên Chúa là Đấng rộng rãi bao
dung, thì con người lại quá nhỏ nhen ích kỷ. Những người thợ đã làm từ đầu ngày
ghen tương trước lòng tốt của ông chủ, trong khi đó, ông chủ vẫn làm đúng điều
ông đã cam kết. Ông không hề làm cho họ bị thiệt hại. Họ ghen tương và phàn nàn
bất mãn chỉ vì ông chủ tốt với người khác. Thái độ của những người này làm
chúng ta liên tưởng đến người con cả trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu” được
Chúa nói trong Tin Mừng Thánh Luca (x. Lc 15,25-32). Anh ghen tương và phẫn nộ
vì cha mình xử tốt với đứa em khi nó đi hoang trở về. Đó cũng là thái độ của
chúng ta, khi muốn Chúa phải xử theo ý muốn hẹp hòi của mình.
Đối
lại với lời phàn nàn trách móc, ông chủ đã đặt ra hai câu hỏi: “Chẳng lẽ tôi
lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi
tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?” Qua hai câu hỏi này, ông chủ muốn phê phán
những người thợ tự cho mình là đáng giá hơn người khác, để dựa vào đó mà phản
đối lòng tốt của ông chủ. Người chủ vườn là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng bao
dung nhân hậu. Ngài sai Con Một là Đức Giêsu đến trần gian để sống gần với họ.
Điều này làm những người tự coi là “công chính” không hài lòng. Bởi lẽ, theo
suy nghĩ của họ, chỉ có họ là được Chúa yêu thương. Việc Chúa Giêsu gần gũi
những người thu thuế và những người tội lỗi được họ coi như một thiệt thòi đối
với họ, vì thế mà họ nổi loạn và trách móc phàn nàn. Họ giống như một số người
có thái độ “ghen ngược” trong xã hội hôm nay, kêu ca phàn nàn trách móc trong
khi mình không có quyền gì để làm những điều đó. Thiên Chúa yêu thương và cứu
vớt những người bị đẩy ra bên lề cuộc đời. Họ là những người không ai thuê, mặc
dù vào giờ thứ mười một, tức là đã xế chiều. “Không ai mướn chúng tôi!”.
Lời này đã diễn tả tình trạng bi đát và khốn cùng của họ. Không ai mướn, tức là
ngày đó không có lương, và như thế, cả vợ con và gia đình họ cũng không có gì
sống. Ông chủ vườn nho là người thấu hiểu điều đó. Vì vậy, ông trả lương cho họ
giống như những người đã làm từ sáng. Đó là đồng lương của lòng nhân hậu.
Ngày
hôm nay, Thiên Chúa vẫn luôn tỏ lòng nhân hậu đối với con người, không phân
biệt sang giàu hay đẳng cấp xã hội. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn
lương tâm: “Đâu là thái độ của tôi đối với anh chị em đồng loại?”. Vì Thiên
Chúa nhân hậu bao dung, nên Ngài mời gọi chúng ta hãy sám hối và bỏ đường tà,
đoạn tuyệt với quá khứ, thay đổi con tim và canh tân cuộc sống: “Hãy trở về với
Chúa – và Ngài sẽ xót thương, về với Thiên Chúa chúng ta vì Ngài rộng lòng tha
thứ” (Bài đọc I).
Những
lo toan bận tâm thường ngày không thể cản trở chúng ta tìm kiếm Nước Trời. “Chỉ
có một điều là anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức
Kitô” – Thánh Phaolô khuyên chúng ta như vậy. Đối với thánh nhân, sự
sống hay sự chết chẳng là một điều bận tâm, vì đối với những ai yêu mến Chúa
thực sự thì họ chắc chắn được lãnh nhận phần thưởng Nước Trời. Lòng mến Chúa
yêu người sẽ thôi thúc chúng ta thực hiện những gì Chúa muốn: “Kẻ gan
ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo. Người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang
có mà trở về với Đức Chúa – và Người sẽ xót thương” (Bài đọc I).
Chúa
là chủ vườn nho bao dung nhân hậu. Tuy vậy, chúng ta không dựa vào lòng nhân
hậu của Chúa mà trễ nải khi được mời gọi vào vườn nho của Ngài. Những người thợ
được nêu trong Tin Mừng, khi được mời, đều sẵn sàng nhận lời. Vì vậy mà họ đáng
được thưởng công. Vườn nho của Chúa là Giáo Hội, nơi mỗi người tìm thấy bầu khí
gia đình thân thương. Vườn nho của Chúa chính là cuộc đời, nơi chúng ta được
sai đến để làm chứng cho lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Ý thức được điều này,
chúng ta sẽ nhận ra giá trị của cuộc sống, nhất là niềm vinh hạnh vì được làm
con cái Chúa.
+TGM Giuse Vũ Văn Thiên
III. CHÚA KÊU GỌI MỌI NGƯỜI CỘNG TÁC VỚI NGƯỜI
Sau khi nghe
bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, chắc ai trong chúng ta cũng thấy ông chủ làm
vườn nho đối xử không công bằng với những người làm thuê: người làm ít cũng như
người làm nhiều đều nhận tiền lương như nhau. Bình thường ở ngoài đời, nếu ông
chủ hành động như vậy, thế nào công nhân cũng sẽ biểu tình hoặc đình công để
phản đối vì sự bất công này!
Nhưng ngay
từ đầu, Chúa Giêsu đã xác định đây chỉ là một dụ ngôn: “Nước Trời giống
như chuyện gia chủ kia…”. Dụ ngôn này nói về Chúa và về Nước Trời chứ không
phải là một bài diễn thuyết xã hội để xác định tiền lương hoặc để giải quyết
các xung đột xã hội trong các xí nghiệp.
Dụ ngôn cũng
nói về sự khác biệt giữa Thiên Chúa và con người. Trong bài đọc I, Chúa phán: “Tư
tưởng của Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không
phải là đường lối của Ta.”
Ðiểm chính
yếu của dụ ngôn đó là: Thiên Chúa tốt lành, và lòng quảng đại không tính toán
của Người vượt xa trí tưởng tượng của con người. Người tốt lành ngay cả với
những người không xứng đáng lãnh nhận sự tốt lành đó. Ðiều đó có nghĩa là chúng
ta phải từ bỏ lối suy nghĩ hợp lý theo kiểu: tôi cố gắng làm việc lành, ăn ở
phúc đức, chấp nhận hy sinh, chịu đau khổ… thì đương nhiên Chúa phải yêu thương
tôi, sẽ trả công cho tôi và cho tôi vào Nước Trời.
Những người
thợ làm việc ngay từ sáng sớm cằn nhằn vì họ cũng chỉ lãnh được mỗi người một
quan tiền, là mức lương đã được thỏa thuận của một ngày làm việc. Những người
thợ này tượng trưng cho những người tự cho mình có quyền được ưu tiên, được
hưởng nhiều quyền lợi trước mặt Chúa vì những cố gắng của họ. Vì thế họ ngạc
nhiên và bất mãn trước thái độ ưu ái mà Chúa Giêsu dành cho những người tội
lỗi, như thể ơn cứu độ chỉ dành cho những người đạo đức, thánh thiện như họ.
Khi kể lại
dụ ngôn của Chúa Giêsu, có lẽ thánh Mát-thêu muốn ám chỉ Giáo Hội vào thời đại
của ngài: “những kẻ đứng đầu” là những người Do Thái, là dân được Chúa tuyển
chọn; còn “những kẻ đứng chót” là những người ngoại giáo mới được gia nhập vào
dân Chúa.
Nhưng dù là
dân tuyển chọn hay dân ngoại, họ đều được kêu gọi để trở nên dân của Chúa. Vì
thế, dụ ngôn này không có ý hạ bệ “những kẻ đứng đầu” xuống thành “những kẻ
đứng chót”, nhưng nhấn mạnh sự tốt lành vô biên của Thiên Chúa dành cho hết mọi
người.
Dụ ngôn kể
chuyện ông chủ vườn nho ra ngoài chợ bốn lần trong ngày để mướn thợ làm việc.
Ông chủ vườn nho chính là Thiên Chúa. Trong suốt dòng lịch sử con người, qua
mọi thời đại, Thiên Chúa luôn ra đi tìm kiếm con người thuộc mọi tầng lớp, mọi
lứa tuổi và trong mỗi giờ phút của cuộc sống. Người mời gọi mọi người vào làm
việc trong vườn nho của Người, nghĩa là tham gia vào dân Chúa.
Tuy nhiên,
không phải tất cả đều đáp lại lời mời gọi của Chúa cùng một lúc hoặc cùng một
cách thức như nhau. Một số người đã lãnh nhận đức tin ngay từ lúc lọt lòng mẹ
và được lớn lên trong môi trường tôn giáo thuận lợi, họ là những người “đạo
dòng”, “đạo gốc”. Những người này được xem như những người thợ của giờ đầu
tiên. Họ sẽ lãnh phần lương của mình như lời Chúa hứa.
Những người
thợ được chủ vườn nho gọi vào giờ sau chót, đó là những người ngoại giáo đáp
lại lời mời gọi của Chúa, và họ cũng sẽ lãnh nhận phần lương của mình như những
người thợ của giờ đầu tiên. Sự rộng rãi của ông chủ vượt quá sức tưởng tượng
của họ, và họ biết mình bất xứng trước những gì được lãnh nhận. Nhưng còn những
người của giờ thứ nhất, những người “đạo dòng”, “đạo gốc”, liệu họ có biết rằng
những gì họ được lãnh nhận không phải do công trạng của họ mà hoàn toàn do tình
yêu nhưng không của Chúa hay không?
Vẫn còn
nhiều người chưa khám phá ra tình yêu của Chúa, nhưng họ cũng luôn được Chúa
kêu mời, dù suy nghĩ và hoàn cảnh của họ có như thế nào đi nữa. Vì thế, chúng
ta đừng bao giờ tuyệt vọng về sự cứu rỗi của chúng ta cũng như của những người
mà chúng ta có trách nhiệm. Chúa mời gọi mỗi người theo cách của Người, điều mà
chúng ta không thể hiểu thấu được.
Tháng chín,
sau kỳ nghỉ hè, đối với nhiều giáo xứ, nhiều cộng đoàn, nhiều hội đoàn, nhiều
nhóm, là thời kỳ bắt đầu sinh hoạt lại. Chúa vẫn tiếp tục đi ra và mời gọi.
Chúa đi trước chúng ta. Chúa tìm kiếm chúng ta. Người kêu mời mọi lứa tuổi. Vì
thế, không bao giờ trễ khi đáp lại lời mời gọi của Chúa.
“Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!”. Chúa vẫn luôn mời gọi mỗi
người chúng ta vào làm vườn nho của Chúa. Chung quanh chúng ta có biết bao việc
đang chờ sự dấn thân của chúng ta: trong gia đình, trong giáo xứ, trong cộng
đoàn, trong các hoạt động xã hội và nơi làm việc của chúng ta. Chúa biết những
khả năng và giới hạn của mỗi người chúng ta, nhưng Chúa cần một chút thiện chí
của chúng ta để cộng tác với Người. Ðừng quên rằng Chúa luôn ở với chúng ta.
Người sẽ ban ơn, thêm sức và ban niềm vui cho chúng ta trong việc phục vụ anh
chị em của mình.
Xin cho mỗi người chúng ta hôm nay nghe được
lời mời gọi một cách rất riêng tư của Chúa: “cả con nữa, hãy vào làm vườn nho
của ta”. Và ước gì chúng ta cũng sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Chúa một cách
thật quảng đại. Amen. (St)
IV. BẰNG LÒNG VỚI KHÁ NĂNG CHÚA BAN
Linh mục Inhaxio
Trần Ngà
Khi những người làm
thuê được gọi vào làm vườn nho từ sáng sớm, thấy những người khác vào làm muộn
hơn cũng được lãnh tiền công bằng mình thì đâm ra ganh tị, phàn nàn, tức tối…
Ganh tị là căn bệnh
trầm kha phát sinh từ thời kỳ đồ đá và sẽ tồn tại mãi cho tới ngày tận
thế. Ngay khi loài người có mặt trên địa cầu là bắt đầu có ganh tị. Sau
khi hai anh em Ca-in, A-ben dâng lễ vật cho Thiên Chúa, Ca-in nổi cơn ganh tị
vì lễ vật của A-ben được Chúa vui nhận còn lễ vật của mình thì không. Lòng ganh
tị bùng lên mãnh liệt trong lòng đã xui khiến Ca-in giết chết người em vô tội
của mình.
Trong xã hội hôm
nay, lòng ganh tị cũng đang nhen nhúm trong tâm hồn khi người ta thấy người
khác đẹp hơn, giàu có hơn, sang trọng hơn, thành công hơn, nổi bật hơn mình…
Ganh tị sinh ra ganh
ghét, ganh ghét sinh ra chia rẽ, hận thù, bất hòa, bất thuận.
Diệt trừ lòng ganh
tị
Ganh tị là căn bệnh
trầm kha, rất khó diệt trừ. Tuy nhiên, bệnh nào cũng có thuốc chữa. Vậy chúng
ta thử xem có phương thế nào có thể hạn chế hoặc ngăn ngừa chứng bệnh này
không.
Nguyên nhân sinh ra
ganh tị là vì thấy mình thua kém người khác. Vậy thì cách tốt nhất để xóa bỏ
ganh tị là nhận biết rằng dù ta thua kém bạn về mặt nầy, nhưng có thể ta hơn
bạn về mặt khác.
Mỗi người được sinh
ra trên đời là một nhân vật độc đáo, độc nhất vô nhị; mỗi người một vẻ, không
ai giống ai; mỗi người đều có tính cách riêng, sứ mạng riêng, trách nhiệm
riêng…
Trong khu vườn có
trăm hoa đua nhau khoe sắc. Mỗi cụm hoa đều có nét đẹp riêng, hương sắc riêng.
Hoa Cúc không nên ganh tị với hoa Hồng vì không tỏa hương thơm ngát như Hồng,
nhưng hãy bằng lòng với những nét đẹp đặc thù của mình mà hoa Hồng không có.
Tương tự như thế,
mỗi người chúng ta sống trong xã hội như một cánh hoa trong khu vườn rộng lớn
có trăm hoa đua nở. Mỗi người có một số khả năng riêng, một tính cách riêng,
không ai giống ai. Một thi sĩ có thể sáng tác những vần thơ tuyệt tác nhưng lại
bó tay trước những bài toán khó; trong khi những người giải được bài toán khó
lại không biết làm thơ. Ta có thể thua kém người khác về lĩnh vực nầy nhưng có
thể giỏi hơn họ trong lĩnh vực khác.
Vì thế, hãy bằng
lòng với khả năng Chúa ban cho mình, trau dồi thêm khả năng đó để phục vụ tốt
hơn.
Lạy Chúa
Giê-su, Chúa ban cho mỗi người có một số khả năng riêng, cũng giống như
cho mỗi thứ hoa một hương sắc đặc thù. Xin cho chúng con bằng lòng với ân
huệ Chúa ban và phát huy khả năng Chúa ban cho mình để tôn vinh Chúa và phục vụ
tha nhân. Amen.
V. CHÚA KHÔNG
CÔNG BẰNG
Lm. Xuân Trường
Thoáng nghe cứ tưởng
là sai lệch, là lạc đạo, nhưng dụ ngôn về cách trả công lạ lùng cho thợ làm
vườn nho cho thấy rất rõ Chúa không công bằng. Tư tưởng, đường lối Chúa không
dựa trên công bằng, mà dựa trên yêu thương.
1. TỨC. Một niềm vui
chính đáng trong đời là vui khi được lãnh lương, được hưởng thành quả lao động
của mình. Thế thì lẽ ra người thợ khi được ông chủ trả lương đầy đủ như đã thỏa
thuận thì phải vui sướng chứ, nhưng anh ta lại cằn nhằn khó chịu với ông chủ.
Sao vậy? Phúc Âm nói rõ lý do là anh ta “ghen tức” vì thấy ông chủ không công
bằng, trả lương cho người làm 1 giờ cũng giống như người làm vất cả cả ngày.
Tức thật. Người ta dễ tức tối khi chỉ nghĩ đến cái tôi nên kém miếng là khó
chịu. Chỉ vì ghen ăn tức ở mà hạnh phúc nhiều khi lại biến thành đau khổ!
2. TỐT. Cách trả
lương tưởng không công bằng ấy lại cho thấy ông chủ bày tỏ hình ảnh một Thiên
Chúa tốt bụng. Vì lòng yêu thương nên ông chủ thưởng công cho mọi người, chứ
ông không trả tiền lương theo công thợ giờ làm. Nhờ Chúa đối xử bằng tình
thương chứ không phải công bằng, chúng ta mới mong hưởng công ơn Chúa, chứ còn
công lao, công trạng của mình có đáng chi. Thiên Chúa tốt lành nên đối xử với
con người không dựa trên liên hệ chủ-thợ, mà dựa trên tình nghĩa cha-con
trong nhà. Chỉ trong tình nghĩa cha mẹ - con cái, người ta mới có thể trả
tiền không theo công việc làm, mà theo tình nghĩa công ơn. Tốt thật.
Có những khi chúng
ta kêu trách Chúa không công bằng. Ồ, may mà Chúa không công bằng. Chứ cứ công
bằng sòng phẳng mà Chúa chấp tội, nào ai rỗi được. Chúa không công bằng là một
Tin Mừng vĩ đại, nhờ đó, không phải công lao của con người làm ít làm nhiều, mà
là lòng thương của Chúa quyết định phần thưởng Nước Trời. Công ơn Chúa chứ
không phải công lao mình làm nên ơn cứu độ. Amen.
VI. GHEN TỊ
Dụ ngôn hôm nay, giúp
tôi nhớ đến câu chuyện sau:
Có một vị vua kia thuê
nhiều người làm công để phục vụ cho mình. Trong số đó có một người làm việc
tích cực hơn. Vua nhìn thấy liền đưa anh ta đi đi lại lại để dạo chơi và chuyện
trò với ngài. Đến chiều, khi trả tiền công, anh này cũng được trả số tiền cũng
bằng với những người làm việc vất vả từ sáng tới chiều. Thấy vậy họ phàn nàn:
chúng tôi mệt mỏi suốt ngày, còn anh này chỉ làm có hai giờ mà cũng được trả
công như chúng tôi sao?
Vua đáp : Đó là vì trong
hai giờ làm việc của anh ta, công việc đã hoàn tất còn nhiều hơn công việc mà
các anh đã làm cả ngày.
Câu chuyện mà trên có
phần nào giống với dụ ngôn mà Chúa Giêsu nói đến trong bài tin mừng hôm nay.
Nhưng nếu xét kỹ thì cũng có điểm khác nhau:
- Nét giống nhau là về
việc trả lương bằng nhau: người làm hai giờ cũng bằng với những người làm cả
ngày. Dụ ngôn Chúa nói cũng như thế.
- Nhưng cái khác ở đây
là ở chỗ lý do trả công:
+ Ở câu chuyện trên thì:
nhà vua dựa vào năng suất làm việc của chàng thanh niên kia. Có thể hiệu quả
việc làm của anh ta bằng và có khi hơn hẳn những người làm cả ngày. Nghĩa là
ông vua dự vào lẽ công bằng.
+ Ở dụ ngôn những người
làm vườn nho: ông chủ trả cho người làm một giờ bằng với những người làm
7 giờ và 9 giờ sáng, 12 giờ trưa, 3 giờ và 5 giờ chiều tất cả đều một đồng
ngoài việc dựa vào lẽ công bằng đã thoả thuận, ông chủ vườn nho còn dựa vào
tình thương. Đó là quyền tự do của ông chủ. Cho nên trước những thắc mắc và
phàn nàn của những người vất vả làm việc cả ngày, ông chủ muốn chấp vấn lại
tương tưởng và cái nhìn của họ: “Tôi không có quyền sao?” Và sấu hơn là: “hay bạn ghen tị vì tôi nhân
lành chăng?”
Như vậy vấn đề ở đây là
vì họ ghen tị vì thấy ông chủ nhân lành. Chúng ta không nói đến phía công bằng
và nhân từ của ông chủ nhưng chúng ta hãy để ý đến vấn đề "ghen
tị".
1. Ghen tị là gì?
Tự điển "sách"
hay tự điển "sống" (tức là quan sát cuộc đời), đều cho biết: ghen tị
là "khó chịu, so bì với ai đó vì họ HƠN ta". Như vậy ghen tị là vì ai
đó hơn ta. Chẳng ai ghen với người thua mình cả.
Kinh nghiệm trong tình
trường chúng ta biết: ghen là khi ta cân đo, đong đếm mà thấy mình thua kém
tình địch một cái gì đó. Ví dụ mặt con nhỏ đó sáng hơn, miệng nó nói chuyện có
duyên hơn, gia cảnh nó giàu hơn, đầu óc thông minh hơn (nên chồng ta mới mê
nó). Còn nếu nhìn nó xấu người, xấu nết hơn ta, nghèo hơn ta, dốt hơn ta thì
chắc ta chẳng thèm ghen bao giờ! Ta cứ để vậy để cho chồng ta nếm mùi cay đắng,
rồi cũng sẽ ân hận mà quay về với ta thôi. Do đó, ghen tị là nhìn ra những
điều mà người khác mình, và rồi tìm cách tiêu diệt cái hơn đó. Khi nào ai
đó không còn hơn ta, thì lúc ấy ta mới hết ghen.
Trong thánh kinh Cựu ước
cũng nói đến những trường hợp ghen tị: Sách sáng thế nói đến câu chuyện của
Ca-in ghen với Abel vì cái hơn của Abel là Chúa nhận lễ vật của nó, còn của
mình thì không, nên Cain đã giết Abel.
Anh em Giuse ghen với
Giuse vì cái hơn của Giuse là được cha cưng hơn, nên đã bàn với nhau bán quách nó
đi cho lái buôn.
Mấy ngày nay toà án Tp
HCM xét xử vụ án mạng bà Nguyễn Phương Hằng và những người liên quan cũng phát
xuất từ lòng ghen ăn tức ở, so bì, hơn thua từng chút với nhau mà làm bất an
tâm hồn và bất ổn cộng đồng xã hội.
Dụ ngôn Chúa nói trong
Tin mừng hôm nay một phần cũng nhấn mạnh đến lòng ghen tị của con người đối với
nhau, họ đã bất bình và trách móc cả Thiên Chúa, Đấng quyền năng, công bằng và
giàu lòng xót thương khi thấy người làm công vào giờ chót cũng hưởng tiền công
bằng với họ là 1 đồng.
2. Nhưng làm sao để giảm
bớt ghen tị?
Như ta đã xác định
rõ ở trên, ghen tị là vì ai đó hơn ta. Vậy muốn bớt. Vậy thì cách tốt nhất
để giảm bớt tính ganh tị là cần phải nhận thức được: dù ta thua kém người khác
về mặt nầy, nhưng ta lại có thể giỏi hơn người khác về mặt khác. Mỗi người được
sinh ra trên đời là một nhân vật độc đáo, độc nhất vô nhị; mỗi người một vẻ,
không ai giống ai; mỗi người đều có tính cách riêng, sứ mạng riêng, trách nhiệm
riêng…Tựa như trong khu vườn có trăm hoa khoe sắc. Mỗi loại hoa đều có nét đẹp,
hương sắc rất riêng. Hoa Cúc không nên ganh tị với hoa Hồng vì không tỏa hương
thơm ngát như Hồng, nhưng hãy bằng lòng với những nét đẹp đặc thù của mình mà
hoa Hồng không có. Cũng thế mỗi cơ phận trong thân thể ta đều có những chức năng
riêng nên không thể so bì được. Tất cả hãy nhân ra đặc sủng của mình mà hoàn
thành tốt nhiệm vụ được trao ban.
Tương tự như thế,
mỗi người chúng ta sống trong xã hội như một cánh hoa trong khu vườn rộng lớn
có trăm hoa đua nở hay như một cơ phận cần thiết trong cơ thể. Mỗi người có một
số khả năng Chúa ban tặng riêng, cùng với tính cách riêng, không ai giống ai.
Một thi sĩ có thể sáng tác những vần thơ tuyệt tác nhưng lại bó tay trước những
bài toán khó; trong khi những người giải được bài toán khó lại không biết làm
thơ. Ta có thể thua kém người khác về lĩnh vực nầy nhưng có thể giỏi hơn
họ trong lĩnh vực khác. Vì thế, hãy bằng lòng với khả năng Chúa ban cho mình,
trau dồi thêm khả năng đó để phục vụ tốt hơn.
Cảm tạ và biết ơn
Chúa vì đã ban cho mỗi người chúng ta có những đặc sủng và khả năng riêng. Xin
cho chúng ta bằng lòng với ân huệ Chúa ban mà tích cực phát huy khả năng ấy, để
nhằm tôn vinh Chúa và phục vụ ích lợi cho mình và cho tha nhân. Amen. (St)
Thứ hai: Lc 8,16-18
Hãy nhớ: Thổi tắt
nến của người khác không làm bạn sáng hơn
Suy niệm 1: Tin mừng hôm nay
Chúa Giêsu nhắc chúng ta về bản chất và sứ mạng đích thực của người Kitô hữu.
Ta hãy lắng nghe Lời Chúa chỉ dạy để chấn chỉnh lại đời sống của mình cho phù
hợp với bản chất và sứ vụ mà Chúa muốn.
- Nếu bản chất của chiếc
đèn là để thắp sáng, thì đức tin chính là bản chất của người Kitô hữu. Vì chúng
ta được gọi là "tín hữu".
- Còn nếu sứ mạng của chiếc
đèn là chiếu giải ánh sáng cho mọi người nhìn thấy, thì sứ mạng của người kitô
hữu là chiếu tỏa ánh sáng đức tin ấy cho mọi người nhìn thấy bằng những việc
làm cụ thể. Vì "Đức tin không có việc làm là đức tin chết. "
(Gc
2,17). Mà những việc làm cụ thể ấy chính là những việc lành, “Ánh
sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc
tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.” (Mt
5,16).
Qua bí tích rửa tội, chúng
ta được Chúa trao ban cho ánh sáng Đức tin và kêu mời chúng ta chiếu tỏ ánh
sáng đó cho trần gian. Nhờ ánh sáng của những việc làm vì đức
tin ta mới có thể đẩy lui được những bóng tối của gian dối, ghen ghét, hận thù,
tranh chấp, chia rẽ, đau khổ và sự chết ta khỏi cuộc sống để nhường lại cho ánh
sáng của yêu thương, tha thứ, bác ái, niềm vui và sự sống…
Nếu mỗi chúng ta
tích cực thắp lên ánh sáng của đức tin thì bóng tối của sự dữ sẽ tan biến.
Ngược lại nếu ta ích kỷ chỉ giữ lại ánh sáng cho riêng mình hay che đậy nó lại
thỉ sẽ nguy hại cho ta và cho người nên Chúa Giêsu khuyến cáo chúng ta : “vì
ai có, sẽ được cho thêm, và ai không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất” (Mc
4, 25)
Xin Chúa củng cố Đức
Tin nơi mỗi chúng con để chúng con can đảm thắp lên ngọn lửa đức tin bằng những
hành động bác ái cụ thể cho tha nhân, nhờ đó mà mọi người nhận ra danh thánh
Chúa và ngợi ca Danh Người.
Suy niệm 2: VẪN CHÁY
SÁNG
“Để những ai đi vào thì
nhìn thấy ánh sáng!”.
Trong “Fan the Flame”,
tạm dịch “Thổi Cho Nó Bùng Lên!”, Joseph Stowell nhận xét, “Trong thế vận hội
Olympic, người Hy Lạp có một cuộc đua có thể nói là duy nhất. Kẻ chiến thắng
không phải là người về đích đầu tiên, nhưng là tất cả những ai về đích với ngọn
đuốc trên tay ‘vẫn cháy sáng’. Như vậy, bất cứ ai cũng có thể là người chiến
thắng!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Qua Tin Mừng hôm nay,
Chúa Giêsu mời gọi bạn và tôi ‘thổi cho nó bùng lên’ ngọn lửa đức tin của mình
trong thế giới, một thế giới xem ra ‘rất tối’. Là Kitô hữu, chúng ta khác nào
vận động viên chạy cho hết đường đua của mình mà đuốc trên tay ‘vẫn cháy
sáng!’.
Thật là lợi thế khi
trong bóng tối, mỗi người có một đuốc sáng. Ai vây quanh đuốc sáng sẽ không
lãng phí thời gian để dò dẫm hay tần ngần; thay vào đó, tất cả có thể nhanh
chóng đến nơi họ cần. Có đuốc sáng, mọi người cảm thấy nhẹ nhõm, kể cả bản thân
người cầm đuốc. Đây là giá trị đức tin của mỗi Kitô hữu trong thế giới ngày
nay. Qua bài đọc Esdra, vua Kyrô xứ Ba Tư khác nào người cầm đuốc; nhờ ông, dân
Chúa đã đồng tâm, đồng lực, xây một đền thờ Chúa ở Giêrusalem hầu danh Ngài
rạng sáng.
Chúa Giêsu còn khẳng
định, “Vì chẳng có gì bí ẩn mà lại không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che
giấu mà người ta lại không biết”. Thật hấp dẫn! Khi không được người khác khen
ngợi, chúng ta có thể buồn hoặc cảm thấy như bị lãng quên; vậy mà đây là lúc
chúng ta cần giữ cho lửa bùng lên trong ‘thế giới rất đen’ đó. Vì lẽ, mọi bí ẩn
sẽ được hiển hiện vào ‘Ngày của Chúa’. Nhiệm vụ của chúng ta giờ đây không phải
là hô hoán, mà là giấu chúng đi; đợi ngày đến đích, nơi có phần thưởng vĩnh
cửu. Đó là sự khôn ngoan của người cầm đuốc! Miễn sao, kết thúc hành trình,
đuốc ‘vẫn cháy sáng’.
Chúa Giêsu còn nói, “Ai
đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái họ tưởng là có, cũng sẽ
bị lấy mất!”. Khi nói “Ai đã có”, Ngài ám chỉ những ai cầm đuốc đã dẫn dắt
thành công nhóm đồng hành; người ấy sẽ được giao phó nhiều hơn. “Ai không có”,
ám chỉ người không giữ được lửa; người ấy sẽ bị loại, đuốc trên tay cũng bị
tước đi. Giữ cho đức tin ‘vẫn cháy sáng’, hay để cho đuốc tắt là trách nhiệm
của mỗi người!
Anh Chị em,
“Để những ai đi vào thì
nhìn thấy ánh sáng!”. Chúa Giêsu muốn chúng ta ‘thổi cho nó bùng lên’ ánh lửa
đức tin; nó phải rực sáng, luôn hiện hữu và tồn tại. Hơn bao giờ hết, thế giới
đang cần ánh đuốc đức tin của bạn và tôi một cách cấp thiết. Chúng ta đang ở
trong một sân vận động bão táp, chiến tranh và nghèo đói. Hãy cầu xin Chúa
Thánh Thần thổi bùng ngọn lửa đức tin trong trong linh hồn mình, giữ cho nó
khỏi tắt, hầu có thể chiếu sáng và tiếp lửa cho những ánh đuốc đang lụi tàn vì
gió bão của anh chị em mình. Nhờ đó, mọi người có thể về đích với đuốc ‘vẫn
cháy sáng’. Để rồi, cùng họ, chúng ta có thể reo lên “Việc Chúa làm cho ta ôi
vĩ đại!” như tâm tình của Thánh Vịnh đáp ca.
Chúng ta có thể cầu
nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con
thoả mãn với những ‘đích ngắn’ thế gian; sợ rằng, con không về ‘đích đời đời’
là chính Ngài khi đuốc trên tay rơi mất hồi nào mà không hay!”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp.
Huế)
Thứ ba: Lc 8,19-21
Nhớ thánh Cót-ma và
thánh Đa-mi-a-nô, tử đạo.
Tin mừng hôm nay
Chúa Giêsu đưa ra những điều kiện cần thiết để xứng đáng trở nên thành viên
trong gia đình của Người. Chúng ta hãy lắng nghe lời Chúa dạy và tích cực thực
hiện những điều kiện ấy để xứng đáng trở nên thành viên trong gia đình thiêng
liêng của Chúa.
Nhờ tích tích rửa tội chúng
ta trở thành con Chúa và là thành viên trong GH. Nên ngoài gia đình tự nhiên
được liên hệ bằng huyết thống, chúng ta còn có một gia đình thiêng liêng, nhờ
được sinh ra trong đức tin.
Vì thế, Tin mừng hôm nay,
Chúa Giêsu khẳng định thành viên trong gia đình của Chúa chính là những người
biết “lắng nghe và thực hành Lời Chúa”.
Nếu để trở thành người con
ngoan trong gia đình tự nhiên theo huyết thống, ta phải lắng nghe và thi hành
điều mà cha mẹ và anh chị hướng dẫn, chỉ bảo. Cũng vậy, để trở thành con
ngoan của Chúa và anh chị em thật sự với nhau trong gia đình thiêng liêng của
đức tin, ta cần phải lắng nghe và thực hành Lời Chúa dưới sự hướng dẫn của GH.
Hơn ai hết, Đức Maria là
người luôn để tâm lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa trong suốt cuộc
đời mình. Nên Đức Maria trở nên kiểu mẫu cho đời sống đức tin cho chúng ta.
Khi khám phá những giọt máu
trong chiếc khăn liệm thành Turin, các nhà khoa học đã chứng minh cho biết đó
là loại máu B: Bái ái, bao dung và bình an.
Xin cho chúng ta
mang lấy dòng máu của Chúa Giêsu để ta cũng biết sống bác ái, bao dung và bình
an với mọi người, nhất là với những ai gặp đau khổ trong cuộc sống, qua việc
chúng ta biết lắng nghe và thực thi lời dạy Chúa dạy. Nhờ đó ta xứng đáng trở
thành người thân của Chúa và là thành viên trong gia đình đức tin của GH.
Suy niệm 2: MONG GẶP
“Có mẹ và anh em Thầy
đang đứng ngoài kia, muốn gặp Thầy!”.
G. K. Chesterton nói,
“Địa ngục là lời khen tặng tuyệt vời của Thiên Chúa đối với ‘thực tế tự do’ của
con người!”. Với câu nói đó, Leighton Ford nhận xét, “Chết tiệt, đó là một lời
khen?”. Vâng, bởi lẽ Chúa đang nói, “Bạn thật quan trọng. Tôi coi trọng bạn,
Tôi mong gặp bạn. Hãy chọn từ chối Tôi, hãy chọn địa ngục nếu bạn muốn. Tôi sẽ
để bạn đi!”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Tôi coi trọng bạn, Tôi
mong gặp bạn!”. Lời Chúa hôm nay cho thấy không chỉ Thiên Chúa ‘mong gặp’ con
người; nhưng con người mọi thời, cách đây hơn hai ngàn năm cũng như ngày nay,
bạn và tôi, ai cũng đều ‘mong gặp’ Ngài, mong gặp Giêsu!
Toàn bộ Tin Mừng cho
thấy, qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đi tìm con người! Và ngược lại, rất nhiều
người muốn tìm gặp Ngài với nhiều lý do riêng! Một số cần được chữa lành như
anh mù Bartimê, người đã la hét và đuổi theo Ngài cho đến khi được Ngài xót
thương; một số vì tò mò như Giakêu trèo lên cây để có thể thấy Ngài; số khác
được nghe lời Ngài như đám đông chen lấn bên hồ Gênêzareth; một số vì yêu
thương, muốn chăm sóc Ngài như Đức Maria hoặc Maria Mađalêna. Vậy tại sao bạn
và tôi ‘mong gặp’ Ngài?
Chinh phục Chúa Giêsu,
một điều không dễ! “Vì dân chúng quá đông”. Dẫu tìm Ngài với những ý định trong
sáng nhất, nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng dễ đạt được mục tiêu. Chắc
chắn sẽ có những trở ngại và bạn phải chuẩn bị cho chúng! Satan luôn cố tách
bạn xa Ngài qua tội lỗi, thậm chí gieo vào lòng chúng ta nỗi sợ đi xưng tội
khiến ân sủng chữa lành của Ngài tắc nghẽn. Thế giới cũng tìm cách giữ bạn xa
Chúa, nó chào mời hàng vạn thú vui khiến bạn rời xa việc cầu nguyện, suy tư và
hoán cải. Và tất nhiên, bản thân bạn và tôi rất ít có khuynh hướng đạo đức,
phục vụ người khác và sống đức hạnh. Sự lười biếng và nuông chiều thân xác có
thể vượt thắng cả những người giỏi nhất. Vì thế, điều cần làm là hãy cho Chúa
Giêsu biết bạn và tôi ‘mong gặp’ Ngài!
Nhưng tại sao Chúa Giêsu
lại có vẻ như từ chối những ai ‘mong gặp’ Ngài? Không đâu! Điều đáng kể đối với
Ngài là những “Ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”; và điều này không
miễn trừ cho cả mẹ Ngài và những người thân yêu của Ngài. Chúa Giêsu không hạ
thấp họ, nhưng nâng họ, nâng chúng ta lên một mức độ thân mật hơn cả thân mật
của quan hệ huyết thống. Đây là vẻ đẹp của tình yêu Thiên Chúa!
Anh Chị em,
“Vẻ đẹp của tình yêu
Thiên Chúa!”. Vẻ đẹp đó còn phản ánh một điều đáng kinh ngạc hơn! Rằng, Thiên
Chúa ‘mong gặp’ con người! Ngài khao khát quan hệ mật thiết với mỗi người từ
trái tim, khối óc và tinh thần; bởi lẽ, Ngài là tác giả và cội nguồn của tình
yêu - một tình yêu không bao giờ thất bại, không bao giờ lãng quên, không bao
giờ thoả hiệp, không bao giờ dối trá, không bao giờ khiến ai thất vọng. Tình
yêu Ngài không lay chuyển, vô điều kiện, không ngừng nghỉ, không thể cản ngăn
và không có kết thúc. Không gì có thể khiến Ngài rời bỏ chúng ta, hoặc rút lại
tình yêu và sự chăm sóc. Ngài yêu chúng ta, ‘mong gặp’ chúng ta, dù chúng ta
thế nào. Bản chất của Ngài là yêu. Đó là lý do tại sao Ngài tạo dựng chúng ta -
để được kết hợp và chia sẻ tình yêu của Ngài!
Chúng ta có thể cầu
nguyện,
“Lạy Chúa, con thật quan
trọng đối với Chúa. Cho con biết chọn Chúa, ‘mong gặp’ Chúa từng giây phút.
Đừng để con chọn ‘tự do’ địa ngục và thế gian mời mọc mỗi ngày!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
Ngày 26/09: THÁNH
COSMA VÀ THÁNH ĐAMIANÔ
Người ta thường ví
vườn hoa không có hoa nở, không phải là vườn hoa. Trong nhà, không có
tiếng khóc của trẻ con, nhà đó không vui nhộn. Lồng chim, không
có chim là lồng chim chết. Giáo Hội được kết tinh, nở rộ bằng nhiều thành phần
dân Chúa. Hội Thánh vì là thánh nên mọi người đều được mời gọi nên
thánh. Bầu trời Giáo Hội xinh đẹp, lộng lẫy là do có nhiều
vị thánh tô điểm, bồi đắp nên Thánh....đã góp phần tô điểm cho vườn
hoa Giáo hội thêm mầu, thêm sắc và thêm hương cho vườn hoa GH.
Theo truyền thuyết
thánh Cos-ma và Đa-mi-a-nô là hai anh em sinh đôi. Sinh tại Ả rập. Các ngài sớm
mồ côi cha. Mẹ các ngài là một góa phụ nhân đức, đã không tiếc gì để giáo dục
con cái về trí thức và đạo đức. Bà gửi hai con theo học ở Sy-ri-a. Tại đây
Cos-ma và Đa-mi-a-nô nổi tiếng là lương thiện, vô vị lợi và trong trắng. Nhiệt
thành với đức tin, các ngài dự tính học nghề thuốc. Khoa này vào thời ấy bị coi
rẻ. Nhưng các ngài tin rằng khi chữa lành thể xác con người các ngài có thể góp
phần vào việc chữa trị tật bệnh linh hồn.
Thiên Chúa đã chúc
lành cho dự tính của các ngài và ban cho các ngài được thông thạo về nghề
thuốc. Chữa bệnh hoàn toàn miễn phí, các ngài càng ngày càng trở nên danh tiếng
vì những cuộc chữa lành nhờ lời cầu nguyện. Những cuộc chữa lành lạ lùng này
lôi cuốn được nhiều người, kể cả các lương dân đến với các ngài. Tuy nhiên,
chính vì tiếng tăm lừng lẫy này đã đưa tới cái chết vì đạo của các ngài.
Các hoàng đế
Đi-ôc-lê-ti-a-nô và Ma-xi-mi-a-nô quyết tận diệt Kitô giáo, đã sai tổng trấn
Lysias đến Ege để ép buộc các Kitô hữu phải dâng hương tế thần. Ai không tuân
lệnh sẽ bị sát hại.
Các lương dân tố cáo
với quan tổng trấn rằng có hai người rất thạo nghề thuốc nhưng lại là thù địch
chí tử của các thần minh. Nếu họ tiếp tục hành nghề các đền thờ sẽ trống vắng
và cả nước sẽ theo Kitô giáo hết. Nghe tin này quan tổng trấn truyền bắt giam
hai ngài. Sau khi bắt các ngài phải dâng hương tế thần mà không được, ông ra
lệnh hành hạ các ngài. Nhờ ơn Chúa, hai thánh Cos-ma và Đa-mi-a-nô đã nhẫn nại
chịu đựng, lại còn tỏ ra hân hoan nữa. Quan lính trói các ngài rồi bỏ xuống
biển, nhưng các thiên thần đã đến tháo cởi xiềng xích và cứu các ngài bình an
vô sự.
Nghe tin này, quan
tổng trấn truyền lập giàn thiêu. Nhưng giữa ngọn lửa cháy bừng, hai thánh nhân
vẫn không hề hấn gì. Cuối cùng quan tổng trấn ra lệnh xử trảm. Hai thánh Cos-ma
và Đa-mi-a-nô khẩn khoản nài xin Chúa thương nhận lễ dâng của các ngài. Lần này
các ngài được nhận lời. Sau những nhát chém đầu tiên, đầu các ngài lìa xác và
nhận phúc tử đạo.
Danh tiếng của hai
thánh Cos-ma và Đa-mi-a-nô lan tràn khắp Giáo hội vì những cuộc chữa lành bệnh
tật do các ngài thực hiện. Hoàng đế Jus-ti-nô I khuyến khích lòng sùng kính hai
thánh nhân. Một nguyện đường được xây dựng ở Aege miền Cilicia để ghi nhớ nơi
các ngài chịu chết vì đạo. Tại Rôma, Đức Sym-ma-chô (498 - 514) xây nguyện
đường. Đức Felix IV (526 - 530) xây một đại giáo đường kính các ngài. Cùng
với thánh Luca, hai thánh Cos-ma và Đa-mi-a-nô được đặt làm thánh bổn mạng các
y sĩ và các nhà giải phẫu.
Trích: Theo Vết Chân
Người, Lm. Phaolô Phạm Quốc Túy
Thứ tư: Lc 9,1-6
Nhớ Thánh Vinh-sơn
Phao-lô, linh mục
Sứ mạng quan trọng
nhất khi Chúa Giêsu đến trần gian này là loan báo Tin mừng, mang ơn cứu độ đến
cho nhân loại. Sứ mạng ấy Chúa trao cho các tông đồ xưa và nay cho chúng ta.
Xin cho chúng ta ý thức sứ mạng quan trọng ấy để nỗ lực thi hành cho thật tốt.
Để thực hiện sứ mạng
giải thoát con người khỏi những đau khổ về thể xác và tinh thần do trói buộc
bởi ma quỷ, một mình Đức Giêsu là đủ, vì Ngài là Thiên Chúa quyền năng. Tuy
nhiên, Chúa Giêsu lại không dùng cách thế đó. Trái lại, Chúa mời gọi chúng ta
cộng tác.
Cụ thể bài tin mừng
hôm nay, Chúa Giêsu chọn gọi 12 Tông Đồ, ban quyền trừ quỷ và chữa bệnh cho các
ông và sai các ông đi rao giảng Tin mừng.
Khi lãnh nhận bí
tích rửa tội và thêm sức là chúng ta đã lãnh nhận quyền năng của Chúa và được
mời gọi để chia sẻ sứ mạng loan báo Tin mừng..
Cánh đồng truyền
giáo thật mênh mông bát ngát. Chúa đã nhìn thấy lúa vàng đã chín rộ, nhưng ma
quỷ lại đang phá hoại bằng biết bao phương cách, từ bên trong (tham, sân, si),
cũng như bên ngoài (những trò chơi đồi trụy, sách báo, phim ảnh xấu) đã len lỏi
và thấm nhập cách tinh vi vào tâm hồn chúng ta những tư tưởng xấu xa, tội lỗi.
Xin cho chúng ta
biết canh tân đời sống bản thân, làm lành mạnh hóa đời sống tâm hồn; đồng thời
cũng biết canh tân đổi mới những người chung quanh. Cụ thể là những người sống
gần gũi: trong gia đình, trong xóm làng và nơi họ đạo chúng ta.
Xin Chúa ban cho
Giáo hội nhiều tông đồ nhiệt thành để đẩy lùi sự dữ và khử trừ sự ô uế ra khỏi
môi trường chúng ta đang sống.
Lạy Chúa, Chúa biết
chúng con là những phận hèn sức yếu. Vì thế, Chúa không đòi hỏi chúng phải ra
đi loan báo tin mừng ở những nơi xa xôi. Nhưng Chúa muốn chúng con biết tích
cực gieo vãi yêu thương và bình an cho những người gần gủi chúng con. Xin cho
chúng con ý thức và tích cực thực thi lời Chúa dạy. Amen.
Suy niệm 2: BẤT LỰC VÀ
QUYỀN NĂNG
“Ngài ban cho các ông
năng lực và quyền phép!”.
Một buổi chiều năm
1865, Lincoln mặt vùi vào tay, nói với nội các, “Thưa các ngài, chẳng bao lâu
nữa, sẽ có tin quan trọng! Đêm qua, tôi mơ thấy mình đơn độc trên một chiếc
thuyền, không chèo, không lái… bất lực trong một đại dương vô tận!”. Im lặng
vần vũ! “Nhiều lần, tôi đã mơ như thế; mỗi lần, là một trận chiến lớn. Vâng, có
lẽ ngày mai, hoặc vài giờ nữa!”. Năm giờ sau, ông bị ám sát. Vậy mà, vị tổng
thống luôn cảm nhận bất lực và yếu hèn đó lại trở nên ‘một huyền thoại can
trường’ nhờ niềm tin vào Chúa của mình!
Kính thưa Anh Chị em,
Như người dân Hoa Kỳ
đã nhìn thấy sự ‘bất lực và can trường’ nơi vị tổng thống huyền thoại của họ,
trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta khám phá điều tương tự nơi các môn đệ của Chúa
Giêsu. Ngài sai họ đi trong yếu hèn và mạnh mẽ, ‘bất lực và quyền năng!’.
Sai các môn đệ lên
đường, Chúa Giêsu thông chia cho họ những gì Ngài có, “Ngài ban cho các ông
năng lực và quyền phép!”. Thế nhưng, cùng lúc, Ngài buộc họ ra đi trong yếu
đuối và khó nghèo; Ngài thu nhỏ vali của họ, gần như không còn gì, “Đừng
mang gì đi đường!”. Ngài muốn nói, hành trang của họ là Ngài và chỉ
một mình Ngài. Ngài hạn chế tối đa tư trang hành lý, để họ biết rằng, khiên
thuẫn của họ nằm ở tình yêu họ dành cho Ngài, chứ không ở đâu khác; ở bất cứ ai
khác, bất cứ tài sản hay tài năng nào.
Qua đó, rõ ràng, Chúa
Giêsu đang xung trận cùng các môn đệ ‘từ một khoảng cách kín đáo’; Ngài muốn
quyền năng của Ngài bộc lộ trong sự mỏng giòn của kẻ được sai. Vì lẽ, Thiên
Chúa thường hoạt động mạnh mẽ qua những trải nghiệm bất lực của con người.
Chính trong tình trạng dễ bị tổn thương này, bạn và tôi sẽ chỉ cậy trông vào
một mình Ngài, vốn là ‘lá chắn’, thay cho sự cậy mình hay cậy vào một quyền lực
thế gian nào!
Esdra, qua bài đọc hôm
nay, một con người lấy Thiên Chúa làm lá chắn, “Tôi quỳ gối xuống, giơ
tay lên Chúa là Thiên Chúa của tôi”. Trong bất lực, ông van xin, “Tội
chúng con đã quá nhiều!”, và nhận ra quyền năng của Chúa khi Ngài đổi lòng
vua Ba Tư để vua xót thương dân, cho dân được định cư và có thể xây đền thờ;
nhờ đó, họ có thể hát mừng “Chúc tụng Thiên Chúa, Đấng muôn đời hằng
sống!” như tâm tình của Thánh Vịnh đáp ca. Esdra trải nghiệm thế nào
là ‘bất lực và quyền năng’ qua những gì Chúa đã làm.
Anh Chị em,
‘Bất lực và quyền
năng!’. Chúa Giêsu đã sống sự tương phản và mâu thuẫn này. Sinh ra trong lạnh
lẽo; chết đi trong tủi nhục! Vậy mà chính trong sự bất lực tột cùng đó, sức
mạnh và quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện. Như đã sai các môn đệ, Chúa
Giêsu đang sai chúng ta đi, thông chia sức mạnh và quyền năng của Ngài cho mỗi
người. Bao lâu không còn bám víu vào bất cứ điều gì khác ngoài Ngài, bạn và tôi
luôn đủ sức để chiến đấu. Ngài đang nâng đỡ chúng ta ‘từ một khoảng cách kín
đáo’; Ngài đang đợi mỗi người từng giây phút trong các nhà chầu để bổ sức và
tạo niềm cảm hứng hầu bạn và tôi mạnh mẽ ra khơi. Nhất là những khi thuyền đời
chúng ta gặp bão, khi “không chèo, không lái… bất lực trong một đại dương vô
tận!”.
Chúng ta có thể cầu
nguyện,
“Lạy Chúa là dũng lực
con, con yêu mến Ngài! Con tạ ơn Chúa, vì con xác tín rằng, Chúa luôn bang trợ
con ‘từ một khoảng cách kín đáo!’”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)
* Ngày 27 tháng
9: THÁNH VINH SƠN ĐỆ PHAOLÔ
Thánh Au-gus-ti-no
từng nói: "Tình yêu có đôi chân đi đến với người nghèo. Tình yêu có đôi
mắt để thấy bất hạnh và thiếu thốn. Tình yêu có đôi tai để nghe được tiếng than
thở của tha nhân". Điều này đã được thánh Vinh Sơn Phao-lô minh chứng rõ nét
qua những việc làm bác ái cụ thể trong đời sống của ngài.
1. Đôi dòng tiểu sử
Vinh Sơn đệ Phao-lô sinh
ngày 24 tháng 4 năm 1580, là một vị thánh của Giáo Hội Công Giáo
Rô-ma. Ngài sinh tại Pouy, Landess, Gascony, nước Pháp trong
một gia đình nông dân nghèo khó. Lễ kính ngài trước đây là ngày 19 tháng 07
nhưng hiện nay được cử hành vào ngày giỗ của ngài 27 tháng 9 hàng năm.
Vinh Sơn thụ phong
linh mục năm 1600 và lưu trú tại Toulouse cho đến khi đi Marseille để
nhận thừa kế. Trên đường về từ Marseille, ngài bị người Turk cướp và bắt cóc
đưa đi Tunis và bị bán làm nô lệ. Sau khi cảm hoá người chủ để trở thành một
Kitô hữu, linh mục Vinh Sơn được trả tự do vào năm 1607.
Sau đó, ngài quay trở lại
Pháp và nhận nhiệm sở tại một giáo xứ gần Pa-ris. Ngài đã thành lập các
dòng từ thiện như Tu Hội Nữ Tử Bác Ái, với sự cộng tác của bà Louise de
Marillac, và Tu hội Truyền giáo hay còn được gọi là La-za-rist.
Khi được vua Louis XIII bổ
nhiệm làm Tổng Tuyên úy của những tù nhân khổ sai chèo thuyền chiến, ngài có cơ
hội để cải thiện đời sống những tù nhân ở Pháp.
Thánh Vinh Sơn Phaolô qua
đời ngày 27 tháng 9 năm 1660 tại Pa-ris thọ 80 tuổi.
Vào năm 1705 tu viện trưởng
Tu hội Truyền giáo La-za-rists đề nghị tiến hành hồ sơ phong thánh cho đấng
sáng lập. Vào ngày 13 thánh 8 năm 1739, Vinh Sơn Phao-lô đã được Đức Giáo
Bê-nê-đic-tô XIII phong chân phước, và ngày 16 tháng 6 năm 1737 ngài
được Đức Giáo Hoàng Clêmentê XII phong ngài lên hàng hiển thánh. Năm 1885
Đức Giáo Hoàng Lê-ô XIII đặt ngài làm bổn mạng hội Nữ tu sĩ Bác ái. Đồng thời ngài
cũng trở thành thánh bổn mạng của hội Nam tu sĩ Bác ái.
2. Những nét nổi bật
trong đời sống
+ Đầu tiên là
việc phục vụ cho những người nghèo khó: Cuộc đời của Ngài, ngay từ hồi
còn thơ ấu đã nổi rõ nét là một con người đầy vị tha, bác ái và hay thương xót
những kẻ nghèo khó. Chính vì thế, Thánh Vinh Sơn Phao-lô đã luôn rao giảng lòng
thương xót của Chúa và sống chứng nhân tình yêu của Chúa trong mọi hoàn cảnh
của cuộc đời.
Dù với bất cứ chức vụ nào:
Bề trên Dòng Thăm Viếng, Bề Trên Tu Hội triều hay trong cương vị của một mục
tử, thánh Vinh Sơn Phaolô đã luôn chu toàn trách vụ cách hết sức khôn ngoan.
Ngài yêu thương các người nghèo khó, những kẻ đau khổ, những kẻ lao động vất
vả, đặc biệt Ngài lưu tâm đến việc giáo dục các thiếu nữ. Lời Chúa trong bài giảng
tám mối phúc thật (x. Mt chương 5), đã được Ngài thực hiện cách tận căn: đi và
dậy người ta bước đi trên con đường hiến chương nước trời. Ngài đã sống tận
cùng lời Chúa: "cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn
mặc, thăm viếng kẻ bị tù đầy v.v..." (x. Mt chương 25).
Chúa đã dậy mọi người bài
học yêu thương. Yêu thương tận cùng và yêu thương không ngừng. Chính Chúa đã
sống tận cùng sự yêu thương bằng cái chết trên thập hình. Chết mới nói lên lời.
Trên thập giá, Chúa đã nói lên tất cả: yêu thương và tha thứ. Chúa đã trở nên
nghèo, để sống với người nghèo. Thánh Vinh Sơn Phaolô đã yêu thương người
nghèo, những kẻ bơ vơ vất vưởng, đầu đường xó chợ, không nhà không cửa. Theo
gương Chúa, Thánh Vinh Sơn Phao-lô đã luôn cứu giúp người nghèo, sống như người
nghèo trong việc phục vụ, lao động để gần gũi với Chúa. Phục vụ người nghèo là
phục vụ Chúa. Sống như người nghèo là sống như Chúa. Gặp gỡ người nghèo là gặp
gỡ Chúa.
+ Thứ đến là
lo cho những người nghèo khó có các mục tử coi sóc: Năm 1625, ngài đã
sáng lập Tu hội “Linh mục thừa sai” để giúp đào tạo các giáo
sỹ theo tinh thần công đồng Trente, và nâng đỡ những người nghèo, đặc biệt là
những người nghèo ở vùng quê. Như vậy, công việc giúp đỡ người nghèo của thánh
nhân đã hội tụ được những nguồn lực có tính quyết định cho cả lộ trình đồng
hành với người nghèo của ngài. Việc phục vụ những người nghèo khó theo tinh
thần Tin Mừng đã trở thành một linh đạo sống cho những ai muốn hiến thân phục
vụ người nghèo trong Chúa Kitô.
Theo Ngài, con đường nên
thánh phải được khởi đi từ việc nhận ra hiện thân của Con Thiên Chúa, Đấng
đã muốn là người nghèo: “… Chính chúng ta phải cảm nghiệm được điều đó,
cũng như phải xử sự như Đức Kitô là quan tâm đến những người nghèo túng, an ủi,
giúp đỡ và bảo lãnh cho họ… Quả thật, Đức Kitô đã muốn sinh ra là người nghèo,
đã kết nạp những người nghèo làm môn đệ. Người đã trở thành kẻ phục vụ người
nghèo, nên đã chia sẻ thân phận của họ…”
Việc phục vụ người nghèo
đối với Thánh nhân, không phải theo một vài hình thức ban ơn phô trương, mà
phải được xuất phát từ chính con tim biết hiểu hoàn cảnh của họ mà thông
cảm với họ. Sao cho tâm hồn chúng ta cũng rung động như Thánh Phao-lô tông đồ,
khi Người nói: "Tôi trở nên tất cả cho mọi người…”
Đức ái với những người
nghèo trong linh đạo của thánh Vinh Sơn Phaolô còn hệ tại ở việc hành động
phục vụ và nhận biết những nhu cầu cấp thiết nơi những người nghèo: “phải
ưu tiên phục vụ người nghèo, không được trì hoãn… Vậy khi chị em bỏ đọc kinh
nguyện để giúp đỡ người nghèo thì hãy nhớ rằng, đó là chị em phục vụ Thiên
Chúa” (Kinh Sách, Các bài đọc).
Cám ơn Chúa đã ban cho
chúng ta một tấm gương sáng trong việc phục vụ những người nghèo khó mà Chúa
luôn yêu thương họ.
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Thứ năm: Lc 9,7-9
Suy niệm 1:
Theo khuynh hướng tự
nhiên mỗi khi mong muốn gặp ai đó là vì nhớ thương, kính mến hoặc muốn học hỏi
những điều tốt đẹp nơi người ấy. Nhưng khao khát gặp gỡ Chúa Giêsu của vua
Hêrôđê mà tin mừng hôm nay trình thuật không phải thế mà chỉ là vì hiếu kỳ. Do đó
ước muốn của ông bất thành. Đó cũng chính là điều mà Chúa muốn cảnh tỉnh
chúng ta hôm nay.
Tin mừng hôm nay cho
biết danh tiếng Chúa Giêsu được nhiều người biết đến, bởi những lời giảng dạy
khôn ngoan và những phép lạ lớn lao Người đã thực hiện. Do đó dân chúng rất
ngưỡng mộ và kính trọng Người. Biết những điều đó nên vua Hêrôđê cũng mong muốn
một lần diện kiến Chúa để xác định xem Đức Giêsu là Người thế nào mà được dân
chúng đồn thổi và ngưỡng mộ đến thế! Do bởi ước muốn gặp gỡ của Vua Hêrôđê
không phải là vì thiện chí để lắng nghe và tìm hiểu chân thành mà chỉ để thỏa
mãn tham vọng bất chính như:
- Vì lo sợ, ông muốn
xác định xem Đức Giêsu có phải là Gioan Tẩy Giả mà ông đã nhẫn tâm giết chết
không?
- Vì hiếu kỳ, ông
muốn xem Đức Giêsu có thực sự tài năng xuất chúng như dân chúng đồn đoán không?
- Vì muốn chấn an
lương tâm bất ổn bởi ông đã phạm quá nhiều tội ác như:
. Giết các hài nhi
từ 2 tuổi trở xuống ở Bêlem và các vùng phụ cận, khi Chúa Giêsu giáng sinh.
Biến cố ấy đã gây chấn động đất nước và đã khiến cho biết bao nước mắt của các
bà mẹ phải tuôn chảy vì khóc thương cho con mình. Tiếng thét ai oán
của bà Rakhen không ngưng nghỉ vì con bà đã bị giết chết,
đến nỗi không ai có thể khuyên can được bà.
. Cướp lấy người vợ
của anh mình là bà Hêrôđia.
. Nhẫn tâm ra lệnh
chém đầu Gioan Tẩy Giả chỉ vì lời hứa lúc cao hứng trong men say, nhân ngày
sinh nhật của ông.
. Xem thường và lên
án tử cách vô tội cho Chúa Giêsu sau này.
Chính do ý muốn gặp
gỡ của ông phát xuất từ tâm địa bất chính nên mãi sau này khi Chúa Giêsu bị bắt
bởi những người Do Thái và giới lãnh đạo tôn giáo, rồi đem đến trình diện để
ông xử án, khi đó ông mới gặp gỡ được Chúa. Nhưng trong cuộc gặp gỡ ấy, ông
cũng không đón nhận được bất cứ điều gì thiện hảo từ nơi Chúa Giêsu. Bởi lẽ
ngay từ đầu cuộc gặp gỡ này đã không vì chủ đích tốt lành.
Cuộc đời của vua
Hêrôđê đã gây ra quá nhiều tội ác đã làm cho tâm hồn của ông trở nên chai đá,
không còn khả năng để sám hối và thay đổi đời sống nữa. Cho nên dù ông có gặp
gỡ Chúa Giêsu đi chăng nữa thì ông cũng không thể đón nhận được bất kỳ ân phúc
từ nơi Chúa ban.
Xin cho chúng ta
luôn biết tìm đến Chúa bằng một tấm lòng chân thành khiêm tốn với ước muốn được
đón nhận ơn tha thứ và lời chỉ dạy khôn ngoan của Người. Nhờ đó ta mới có thể
đón nhận được những ơn lành cần thiết Chúa ban mà biến đổi đời sống nên tốt đẹp
hơn.
Suy niệm 2: ĐỀN TÂM
HỒN
“Hãy lên núi, đưa gỗ
về tái thiết Đền Thờ cho Ta!”.
Đền Taj Mahal, Ấn Độ,
một kiệt tác được UNESCO công nhận; tuy nhiên, một điều gì đó khá ‘mỉa mai’ với
khởi đầu của nó. Năm 1629, người vợ yêu quý của Shah Jahan qua đời, vua ra lệnh
xây một ngôi đền tráng lệ để tưởng nhớ hoàng hậu. Vua đặt quan tài của bà ở
giữa một khu đất và việc xây dựng ngôi đền, đúng theo nghĩa đen, bắt đầu chung
quanh nó. Ngày nọ, đi khảo sát, vua tình cờ gặp một ‘thùng gỗ’; người ta đã ném
nó ra từ lâu. Đó là chiếc quan tài! “Tưởng nhớ” nhường chỗ cho đam mê “nghệ
thuật!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Sẽ khá bất ngờ khi Lời
Chúa hôm nay cũng nói đến một đền thờ mà Thiên Chúa hằng mong mỏi ở giữa dân
Ngài; để từ đó, Ngài hy vọng thiết lập những ‘đền tâm hồn’. Qua miệng Khacgai,
Chúa nói với dân, “Hãy lên núi, đưa gỗ về tái thiết Đền Thờ cho Ta!”.
Thánh Vịnh đáp ca tiết
lộ lý do, “Chúa mến chuộng dân Người”. Vì mến chuộng dân, Thiên Chúa không ngần
ngại tỏ lộ ước muốn có một đền thờ giữa họ, nhắc nhở họ về sự hiện diện của
Ngài; nhờ đó, Ngài có thể chiếm cứ các tâm hồn. Cũng thế, trên bước đường rao
giảng, Chúa Giêsu không xây một nhà thờ hay một đền thờ nào; điều Ngài trăn trở
là những ‘đền tâm hồn’. Và một điều chắc chắn, Ngài cũng khát khao cả tâm hồn
vua Hêrôđê, người đã giết Gioan, một nhân vật mà Tin Mừng hôm nay gợi lại.
Tin Mừng nói đến những
phân vân của vua Hê-rô-đê về Chúa Giêsu, Ngài là ai? Sau đó, kết thúc, “Vua
tìm cách gặp Ngài”. Hêrôđê có thể đến với Chúa Giêsu bất cứ lúc nào; nhưng
điều này đã không xảy ra. Nếu gặp được Ngài và thực sự lắng nghe Ngài, hẳn
Hêrôđê đã nhận được một quà tặng lớn nhất, quà tặng đức tin, quà tặng hoán cải;
bấy giờ, tâm hồn ông hẳn đã được Chúa Giêsu chiếm ngự và ông đã bước đi trên
con đường cứu rỗi. Phải chăng, tự thâm tâm, Hêrôđê sợ gặp Ngài, sợ nghe Ngài;
nghĩa là phải thay đổi! Rõ ràng, “thay đổi”, một điều ông không muốn. Vì thế,
Hêrôđê liên tục trì hoãn!
Phần chúng ta, nói
rằng, tin nhận Chúa Giêsu là Chúa, là Đấng Cứu Rỗi và tôi đã được “sinh lại” là
chưa đủ! Chúng ta phải bắt đầu sống cuộc sống “sinh lại” đó, đổi mới những lựa
chọn của mình đối với Chúa Kitô mỗi ngày. Nói với Ngài rằng, “Hôm nay, con muốn
hoán cải từ những yếu đuối, lầm lỗi của bản thân. Con muốn đến gần Ngài hơn!”.
Anh Chị em,
“Con muốn đến gần Ngài
hơn!”. Việc lặp đi lặp lại lời nguyện tắt này sẽ nhen lên trong chúng ta một
khát khao mãnh liệt muốn được gần Chúa Giêsu. Thế nhưng, như Hêrôđê, bạn và tôi
dễ dàng gạt bỏ những lời mời lúc này lúc khác của Ngài; bởi lẽ, tự thâm tâm,
chúng ta không muốn thay đổi, chúng ta sợ thay đổi! Vậy mà, Chúa Giêsu vẫn đang
kiên trì ngỏ lời mỗi ngày; Ngài không ngừng gửi đến những thông điệp rõ ràng
rằng, Ngài muốn xây bên trong mỗi người một ‘đền tâm hồn’ dành riêng cho Ngài.
Ấy thế, bao lần, chúng ta đã cố ý hay vô tình lờ đi! Vậy, để có thể nghe được
điều Ngài muốn, hôm nay, bạn và tôi hãy mở cửa cho Chúa Giêsu, chào đón Ngài,
lắng nghe Ngài và thay đổi hoàn toàn theo cách Ngài muốn bạn và tôi thay đổi!
Chúng ta có thể cầu
nguyện,
“Lạy Chúa, xin lấp đầy
trái tim con bằng chính Chúa; không được như thế, việc ‘tôn thờ Chúa’ trong
‘đền tâm hồn’ con nhất định sẽ nhường chỗ cho việc ‘thờ ngẫu tượng!’”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)
Thứ sáu: Đn
7,9-10.13-14; Ga 1,47-51
Kính Các Tổng Lãnh
Thiên Thần Mi-ca-en, Gap-ri-en Và Ra-pha-en
(Tết Trung Thu)
Suy niệm 1: Hiệp hành cùng Giáo
Hội, hôm nay chúng ta hân hoan cử hành thánh lễ mừng kính các tổng lãnh Thiên
Thần: Micaen, Gabrien và Raphaen. Các ngài là tạo vật cao quý nhất do Thiên
Chúa tạo dựng. Nhưng vì mang tính thiêng liêng nên ta không thấy được. Các ngài
được diễm phúc túc trực ngay bên tòa Thiên Chúa để ca khen, chúc tụng và tôn
vinh TC. Đồng thời các ngài cũng chính là sứ giả được Thiên Chúa sai đến với
con người nhằm thông truyền những ý định của Thiên Chúa, cũng như cứu giúp con
người chống lại sức mạnh của ma quỷ.
Xin cho chúng ta
luôn yêu mến và năng tưởng nhớ đến các Tổng Lãnh Thiên Thần và liên kết mật
thiết với các ngài để chống lại những cám dỗ do ma quỷ gây ra.
Dựa vào nền tảng
Thánh Kinh, GH dạy cho ta biết: TC tạo dựng vũ trụ này gồm 2 thế giới. Thế giới
hữu hình vật chất và một thế giới vô hình thiêng liêng. Và tạo vật quan trọng
nhất được TC dựng nên trong thế giới hữu hình là con người. Còn tạo vật cao quý
nhất được TC tạo nên trong thế giới vô hình là các Thiên Thần.
Thánh Kinh cũng mạc
khải cho biết có vô số các Thiên Thần, trong đó gồm có thần lành là các Thiên
Thần và thần dữ là Luxiphe. Luxiphe cũng là tổng lãnh Thiên Thần nhưng vì đã
bất tuân và chống lại Thiên Chúa nên gọi là Satan.
Các Thiên Thần chính
là những sứ giả thần linh phục vụ Thiên Chúa và giúp đỡ con người.
Trong Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giêsu xác quyết với Nathanael về sự hiện hữu và hoạt động của các
Thiên Thần trong thế giới, trong GH và trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Khi
nói: “Thật, Ta nói thật với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và
các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người.”
Có vô số các Thiên
Thần nhưng Thánh Kinh chỉ nhấn mạnh đến tên ba vị Tổng Lãnh Thiên Thần là
Micael, Gabriel và Raphael. Cả 3 tổng lãnh đều có âm cuối là “el”. Trong tiếng
Do Thái là “El” có nghĩa là Thiên Chúa.
- Tổng lãnh thiên
thần Micael. Tiếng Do Thái có nghĩa “ai bằng Thiên
Chúa”. Vì thế, sứ mạng của ngài là chiến đấu chống lại Satan, kẻ có tham
vọng muốn trở nên như Thiên Chúa, và xúi dục con người chúng ta hướng chiều về
ham muốn ấy như nó (x. St 3); Vì thế Satan luôn cám dỗ con người đứng dưới cờ nó
để tranh giành quyền ảnh hưởng thay cho Thiên Chúa.
Sách Khải Huyền
tường thuật cuộc chiến thắng khải hoàn của ngài và của các thiên thần trong
cuộc chiến đấu chống lại Luxiphe (x. Kh 12, 7-12a). Chính vì thế, ảnh tượng của
ngài luôn là vị tổng lãnh Thiên Thần uy dũng, tay cầm gươm, chân đạp đầu con
rắn, vốn là hình ảnh của Satan.
Trong truyền thống
GH còn tin rằng ngài là vị đặc biệt bảo vệ Mình Thánh Chúa, bảo vệ Đức Giáo
Hoàng và GH. Ngài cũng luôn hiện diện với những người đang hấp hối để giúp họ
chiến đấu trong trận chiến cuối cùng chống lại thần dữ và dẫn đưa các linh hồn
qua đời đến trước tòa Thiên Chúa.
- Tổng lãnh thiên
thần Gabriel. Tiếng Do Thái có nghĩa là “sức
mạnh của Thiên Chúa”. Ngài được biết đến nhiều nhất, vì chính ngài, với tư
cách là sứ giả truyền đạt tin vui của Thiên Chúa cho nhân loại. Trong chương 8
của sách ngôn sứ Đa-ni-en, cho biết điều đó. Trong tân ước ngài mang đến cho
con người những sứ điệp của niềm vui trọng đại qua việc truyền tin cho cho ông
Dacaria, cho thánh Giuse và cho Đức Mẹ Maria.
- Tổng lãnh Thiên
Thần Raphael. Tiếng Do Thái có nghĩa là “Thiên
Chúa chữa trị”. Bởi vì, ngài có sứ vụ, thay mặt Thiên Chúa chữa lành tất
các bệnh hoạn tật nguyền của loài người. Trong sách Tôbia (Tb 12,15), Ngài là
bạn đồng với Tôbia con và đã chữa mù mắt cho Tôbia cha được sáng. Truyền thống
của Giáo Hội hiểu đoạn Tin Mừng sau đây: “Thỉnh thoảng có thiên thần
Chúa xuống khuấy nước lên; khi nước khuấy lên, ai xuống trước, thì dù mắc bệnh
gì đi nữa, cũng được khỏi” (Ga 5,1-4) là hoạt động của Tổng Lãnh Thiên
Thần Raphael.
Như thế TC dựng nên
các Thiên Thần để phụng sự Chúa; đồng thời cũng là để giúp đỡ con người. Vì thế
chúng ta hãy luôn biết kết hiệp mật thiết với các Tổng Lãnh Thiên Thần để dâng
lên TC tâm tình ngợi khen, chúc tụng, tạ ơn không ngừng. Đồng thời xin cho
chúng ta cũng biết năng tưởng và cầu xin với các Tổng Lãnh Thiên Thần luôn ở
bên gìn giữ, che chở và cứu giúp chúng ta khỏi những cơn gian nan khốn khó.
Suy niệm 2: THIÊN
LINH HUYỀN NHIỆM
“Ngàn ngàn hầu hạ Ngài,
vạn vạn túc trực Ngài”.
William. J. Bryan nói,
“Quả dưa hấu có sức hút từ mặt đất gấp 200.000 lần so với trọng lượng của nó.
Nó lấy vật liệu từ đâu để tô màu cho mình; rồi sau đó, hình thành một tầng
trắng, một tầng đỏ, và dát dày bằng những hạt đen! Nếu bạn có thể giải thích
cho tôi bí ẩn của quả dưa hấu, tôi sẽ giải thích cho bạn bí ẩn của Thiên Chúa,
mà giữa Ngài với chúng ta, dày đặc các ‘thiên linh huyền nhiệm!’”.
Kính thưa Anh Chị em,
Thật thú vị, ý tưởng
‘quả dưa’ của Bryan được gặp lại trong Lời Chúa ngày lễ các Tổng Lãnh Thiên
Thần. Qua đó, một nguyên tắc thần học được nhắc lại! Rằng, sự cứu rỗi luôn mang
tính trung gian! Người không thể tự mình đến với Chúa; Chúa không tự mình đến
với người! Trên hết, phải có Đức Kitô, Trung Gian Thiên Linh Huyền Nhiệm Tối
Cao; và cùng Ngài, muôn vàn thần thánh và các trung gian khác. Vì khoảng cách
giữa Chúa và người thì vô cùng, nên với vô vàn ‘thiên linh huyền nhiệm’, Thiên
Chúa lấp đặc nó!
Bài đọc Đaniel mô tả sự
dày đặc đó, “Từ trước nhan Ngài, một sông lửa cuồn cuộn chảy, ngàn ngàn
hầu hạ Ngài, vạn vạn túc trực Ngài”. Đó là các ‘thiên linh huyền nhiệm’
Thiên Chúa đã tạo dựng; ngoài ra, còn có ‘các lớp’, ‘các tầng’ trung gian khác!
Tin Mừng hôm nay nói các thiên thần “lên xuống” trên Con Người, mà giấc mơ
Giacóp là hình ảnh tiền trưng, báo trước việc các ngài phục vụ Thiên Chúa,
nhưng họ phục vụ Ngài vì chúng ta.
Đức Phanxicô nói, “Chiến
đấu là một thực tế diễn ra hàng ngày trong đời sống Kitô hữu từ trong trái tim,
trong cuộc sống, trong gia đình, trong Giáo Hội... Nếu không chiến đấu, chúng
ta sẽ bị đánh bại! May thay, Chúa đã giao nhiệm vụ này chủ yếu cho các thiên
thần, để chiến đấu và chiến thắng!”. Các thiên thần đã hiện diện từ buổi tạo
dựng và suốt lịch sử cứu độ, loan báo ơn cứu độ dù xa hay gần và phục vụ việc
hoàn thành kế hoạch của Thiên Chúa, dẫn dắt dân Chúa; loan báo các cuộc giáng
sinh và các ơn gọi. Cuối cùng, Gabriel loan báo sự ra đời của Gioan Tiền Hô và
chính Chúa Giêsu. Thánh Vịnh đáp ca thật ý nghĩa, “Lạy Chúa, giữa chư vị thiên
thần, này con xin đàn ca kính Chúa!”.
Tin Mừng hôm nay minh
hoạ vai trò trung gian của Philipphê khi ông dẫn Nathanael đến với Chúa Giêsu.
Trong cái nhìn đức tin, Philipphê là một ‘thiên linh huyền nhiệm’, người đã dẫn
Nathanael đến với Con Thiên Chúa, ‘Thiên Linh Huyền Nhiệm Tối Cao’. Và Chúa
Giêsu đã mặc khải một cách cụ thể không dè giữ về các ngài, “Các anh sẽ thấy trời
rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người”.
Anh Chị em,
“Ngàn ngàn hầu hạ Ngài,
vạn vạn túc trực Ngài”. Trong cuộc sống, biết bao ‘thiên linh huyền nhiệm’ Chúa
quan phòng đã chuẩn bị xa gần để bạn và tôi có thể nhận biết, yêu mến và phụng
sự Ngài. Trước hết, cả triều thần thánh trên trời; tiếp đến là Mẹ Giáo Hội,
trong đó, bao tâm hồn đạo đức; và này, ông bà, cha mẹ và bao con người, bao
phương tiện. Như vậy, bên cạnh một triều thần vô hình, các thiên thần có cánh,
còn có vô vàn các ‘thiên thần không cánh’. Họ là ‘các lớp’, ‘các tầng’ dày đặc
phục vụ trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa vì mỗi người chúng ta. Hãy
cảm tạ Thiên Chúa và biết ơn các ngài. Đến lượt chúng ta, bạn và tôi cũng hãy
trở nên những ‘thiên linh huyền nhiệm!’.
Chúng ta có thể cầu
nguyện,
“Lạy Chúa, cho con luôn
trở nên một ‘thiên linh huyền nhiệm’ cho anh chị em con!”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)
* TẾT TRUNG THU: Hc 42,
15-16; 43,1-2.6-10; Mc 10, 13-16.
Dẫn 1: Kính thưa cộng đoàn
phụng vụ, đặc biệt các con thiếu nhi quý mến!
Hôm nay rằm tháng 8 âm lịch, Tết Trung
Thu và là ngày hội của Thiếu nhi. Thật là chính đáng và phải đạo
khi chúng ta qui tụ bên nhau để tạ ơn và dâng lên Chúa lời
chúc tụng tôn vinh, vì Ngài đã tạo dựng đất trời cho chúng ta, trong đó có
vầng trăng tuyệt mỹ nên chúng ta có thêm đêm hội trông trăng hàng năm.
Nguyện xin Thiên Chúa quyền năng và tình
thương ban xuống trên tất cả mọi người, đặc biệt là các
em thiếu nhi trong Họ đạo Sóc Trăng chúng ta có được tâm
hồn trong trắng, đơn sơ, hồn nhiên, ngoan ngoãn. Xin cho các em thêm tuổi
thêm khôn ngoan và nhân đức trước mặt Thiên Chúa và người đời theo gương Chúa
Giêsu tuổi thơ
Xin Chúa cũng ban
muôn vàn phúc lành trên quí Cha, quí Dì, Cha mẹ, Quí Thầy
cô, anh chị GLV, quý Ân nhân và tất cả những ai đã góp phần cho niềm vui Trung
Thu hôm nay của các em được nên trọn.
Dẫn 2: Cộng đoàn phụng vụ
và các con Thiếu Nhi thân mến,
Hôm nay là Tết Trung thu, ngày hội của Thiếu
nhi khắp mọi miền đất nước. Chúng ta có dịp quy tụ bên nhau để cùng tạ ơn Thiên
Chúa, Đấng đã tạo dựng nên những công trình tuyệt mỹ, nhờ đó chúng ta mới
có được ngày hội trăng rằm.
Xin cho tất cả các thiếu nhi trên toàn thế
giới, đặc biệt là các em thiếu nhi Thánh Thể trong Họ đạo chúng ta, luôn giữ
được tâm hồn trong trắng, đơn sơ, hồn nhiên của tuổi thơ với sự thật thà, hiền
hoà và tín thác vào Tình Yêu của Thiên Chúa.
Xin Chúa ban muôn phúc lành cho Quí Cha, Quí Dì,
Cha Mẹ, Quí Thầy Cô, các anh chị GLV, cách đặc biệt cho quý vị Ân Nhân và tất
cả những ai đã hy sinh giúp cho niềm vui Trung Thu năm nay được trọn vẹn.
Để được vào Nước
Trời, cần phải có điều kiện như thế nào? Đó là điều mà Chúa Giêsu sẽ hướng
dẫn chúng ta qua bài Tin mừng hôm nay.
Điều kiện ấy chính
là phải trở nên như trẻ nhỏ. Không phải chúng ta hóa kiếp trở lại làm trẻ nhỏ,
nhưng Chúa muốn chúng ta phải có tinh thần trẻ nhỏ.
- Vì trẻ nhỏ luôn
nói thật, đơn sơ, trong trắng. Chúa muốn chúng ta cũng hãy đơn sơ, luôn nói sự
thật, đừng mưu mô, lọc lừa, mặc dù đôi lúc vì sự thật mà chúng ta phải chịu
thiệt thòi, hay bị người khác hiểu lầm.
- Vì trẻ nhỏ luôn
cảm thấy mình yếu đuối nên luôn tin tưởng phó thác cậy dựa vào cha mẹ. Chúa
cũng muốn chúng ta luôn tin tưởng tín thác và cậy trông vào Chúa, cho dù cuộc
sống có gặp nhiều gian lao vất vả.
- Vì trẻ nhỏ luôn
khiêm nhường biết mình có giới hạn nên không ngừng cố gắng học hỏi những điều
hay lẽ phải từ cha mẹ, người lớn. Chúa cũng muốn chúng ta phải biết luôn lắng
nghe lời Chúa.
Chúng ta có thể lắng
nghe tiếng Chúa trong sự thinh lặng trong tâm hồn, biết được thánh ý Chúa
qua việc lắng nghe, đọc và suy niệm Lời Chúa. Chúng ta cũng có thể
biết được thánh ý Chúa qua những biến cố của cuộc đời hay những lời chỉ bảo
khuyên răn chân tình của tha nhân.
Nói tóm lại, Chúa
muốn chúng ta hãy sống tinh thần trẻ thơ, mặc dù chúng ta mang thân xác của
người lớn. Ai sống được tinh thần như thế, mới được vào Nước Trời và là kẻ lớn
nhất trong Nước Trời.
Đây cũng là con
đường mà thánh Têrêxa Hài Đồng Giê-su đã trải qua, đã sống. Thánh Têrêxa là một
vị thánh rất trẻ, cuộc đời của ngài chỉ vọn vẹn 24 tuổi thanh xuân. Ngài đã
chọn cho mình con đường nên thánh, con đường để được vào Nước Trời là con đường
thơ ấu. Ngài yêu Chúa như một đứa con thơ yêu mến cha mẹ. Ngài làm những việc
rất ư là tầm thường nhưng với tấm lòng phi thường. Thân xác ngài mỏng manh yếu
đuối nhiều bệnh tật nhưng lòng mến ngài dành cho Chúa, cho những ai chưa tin
nhận Chúa và những linh hồn trong luyện ngục thật nồng nàn chan chứa.
Noi gương thánh nữ,
chúng ta cũng hãy trở nên bé nhỏ, để luôn tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa;
nhận ra sự giới hạn yếu đuối của mình để biết lắng nghe tiếng Chúa dạy bảo và
hướng dẫn; hãy yêu mến hết khả năng, sức lực, trí khôn như một đứa bé luôn yêu
mến cha mẹ, luôn tìm mọi cách làm vui lòng cha mẹ của nó.
Lạy Chúa, xin cho
chúng con luôn nhớ rằng trước mặt Chúa, chúng con chỉ là những người con bé
nhỏ. Không có Chúa chúng con chẳng làm được chuyện gì và nếu chúng con có làm
được chuyện gì đi nữa, tất cả cũng là ơn Chúa ban. Xin cho chúng con
luôn biết phó thác cả cuộc đời chúng con cho Chúa, như đứa bé đặt trọn niềm tin
vào cha mẹ để sau cuộc đời dương thế này, chúng con sẽ quây quần bên Chúa,
hưởng sự hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa.
* LỜI KHAI MẠC ĐÊM
VĂN NGHỆ TẾT TRUNG THU
1. Kính thưa
quý Cha, quý Soeurs, quý HĐMVGX, quý ân nhân và tất cả quý ông bà anh chị em…
Hoà chung không khí
tưng bừng của ngày hội trăng rằm, tối hôm nay chúng ta quy tụ về đây để cùng
chung chia niềm vui cùng với các em thiếu nhi và hiệp dâng lên Thiên Chúa lời
tri ân cảm tạ, vì Chúa đã dựng nên đất trời và ban tặng cho ta; trong đó có tứ
thời bát tiết, có ánh trăng tuyệt mỹ. Nhờ đó mà chúng ta và các em mới có được
một ngày hội vui trung thu hôm nay.
Là những người con
Chúa, Tết trung thu không chỉ là ngày hội mà còn là ngày lễ. Vì thế trong dịp
này, ngoài việc tận hưởng niềm vui và gửi đến nhau những lời chúc mừng ý nghĩa,
chúng ta không quên cảm tạ ơn Chúa và cầu nguyện cho các em thiếu nhi
luôn có được tâm hồn trong trắng, đơn sơ, hồn nhiên của tuổi thơ, cho dẫu mai
đây các em khôn lớn, chắp cánh tung bay vào đời, các em vẫn lưu giữ mãi những
kỷ niệm tuyệt đẹp của tuổi thơ.
Chúng ta cũng không
quên cám ơn tình thương của bao người hằng bao bọc, chở che, đỡ nâng các em,
trong đó có các bậc làm cha mẹ, ông bà; quý cha, quý Soeurs, HĐMVGX, quý thầy
cô, các anh chị GLV huynh trưởng, cũng như tất cả các vị ân nhân, thân nhân xa
gần . . . đã tích cực hiệp hành cùng với các em trong mọi bước đường ơn gọi làm
người và làm con Chúa.
Nguyện xin Chúa ban
muôn phúc lành trên những ai đã đang và sẽ quảng đại hy sinh làm cho đời các em
tươi sáng tựa như ánh trăng rằm đêm nay.
Thay lời cho ban tổ
chức, tôi xin chúc mọi người đặc biệt các em thiếu nhi có được một đêm lễ hội
Trung thu tràn ngập tiếng cười, niềm vui và bình an trong Chúa Giêsu tình
thương.
Với những ý nghĩa và
tâm tình đó, giờ đây tôi xin tuyên bố khai mạc đêm hội trăng rằm Tết Trung Thu
2023 với chủ đề: “VẦNG TRĂNG YÊU THƯƠNG-GIÊSU”.
Xin trân trọng cám
ơn!
2. Kính thưa quý ông bà
và anh chị em, đặc biệt các em thiếu nhi yêu quý!
Hòa trong không khí vui tươi, phấn khởi
nhân ngày hội trăng rằm của thiếu nhi cả nước, thay lời cho ban tổ chức tôi xin
gửi đến quý ông bà và anh chị em lời chào yêu thương và quý mến.
Thưa quý vị và các em thiếu nhi thân mến!
Đến hẹn lại lên, cứ đến ngày rằm tháng 8,
Họ đạo Sóc Trăng chúng ta lại tổ chức nhiều sinh hoạt mục vụ phong phú và đầy ý
nghĩa…, với mong muốn giúp các em thêm niềm vui, tạo mối hiệp thông, liên kết
tình bác ái yêu thương và giúp các em hoà nhập vào đời sống cộng đồng. Thông
qua những hình thức vui chơi giải trí, nghệ thuật, văn hoá văn nghệ… hy vọng sẽ
giúp cho các em sớm bộc lộ được những tài năng tiềm ẩn Chúa ban mà phát huy
đúng cách và trúng hướng. Cho nên những hoạt động vui chơi giải trí lành mạnh
trong đêm Trung Thu luôn là dự hướng không thể bỏ qua trong chương trình mục vụ
của Họ đạo chúng ta.
Với ý nghĩa và mong muốn đó, tôi hy vọng
quý vị phụ huynh, thầy cô và mọi tổ chức đoàn thể tích cực quan tâm, nâng đỡ và
hướng dẫn các em, là thế hệ tương lai của xã hội và GH có thêm tin yêu cuộc
sống, nỗ lực rèn luyện bản thân, chuyên chăm học tập và phấn đấu trở thành
những người hữu ích và là con ngoan của Chúa trong lòng GH.
Thay lời cho ban tổ chức, tôi xin kính
chúc quý vị phụ huynh, thầy cô, anh chị huynh trưởng và mọi người luôn mạnh
khỏe, an vui và hạnh phúc trong cuộc sống. Chúc các con thiếu
nhi một đêm trăng rằm thật vui, ấm áp và tràn đầy
hạnh phúc bên bạn bè và gia đình!
Các riêng với người
Công Giáo chúng ta, có thể nói rằng không có niềm vui nào mà không khởi đi từ
Thiên Chúa. Bởi Ngài là Đấng sáng tạo đất trời, muôn vật muôn loài và đã ban
tặng tất cả cho chúng ta, trong đó có ánh trăng sáng ngời. Nên trong ngày hội
trăng rằm đêm hôm nay, chúng ta không quên dâng lên Thiên Chúa lời chúc tụng,
ngợi khen và tạ ơn về những điều thật kì diệu do Thiên Chúa ban tặng cho chúng
ta.
Cuối lời, Cha cầu chúc
các con Thiếu nhi luôn sống an vui, ngoan hiền, gìn giữ tâm hồn trong
sáng như ánh trăng rằm, ngỏ hầu xứng danh là người kitô hữu và là người con yêu dấu
của Chúa. Nguyện xin Chúa Giêsu luôn là người bạn đồng hành, yêu
thương, gìn giữ, ban ơn và chúc lành cho tất cả các con.
Với những tâm tình đó,
giờ đây tôi xin long trọng nói lên lời khai mạc đêm Trung Thu 2023, với chủ
đề: “Vầng Trăng Yêu Thương-Giêsu”
3. Kính thưa cộng đoàn,
Trong không khí
rộn ràng khắp mọi miền đất nước chào đón Tết Trung Thu 2023, trước hết
tôi xin gửi lời chào thân thương và quý mến đến tất cả quý ông bà và anh chị
em, đặc biệt là các em thiếu nhi!
Trung thu được gọi là Tết của Thiếu nhi. Mỗi dịp
Trung thu về, các em lại
được quây quần bên gia đình và người thân để phá cỗ trông trăng; đây cũng là cơ hội để các em sum họp
vui chơi múa hát thoả thích cùng với bạn bè, là dịp các em cảm nhận sâu sắc hơn về giá trị tình thân; nhờ đó tâm hồn các em
được nuôi dưỡng thêm về những cảm xúc trong sáng của tuổi thơ.
Tết
trung thu cũng là dịp để các em
quan tâm biểu tỏ tình thương chia
sẻ với nhau, và cũng là dịp nhắc nhở người lớn chúng ta về
trách nhiệm quan trọng đối các em thiếu
nhi, đặc biệt là những em có hoàn cảnh khó khăn, mồ côi cha mẹ, bệnh tật và thiếu thốn... bằng những
hành động thiết thực, mong sao tất cả các em đều có cuộc sống đủ đầy
và vui hưởng một cái Tết Trung Thu nên trọn vẹn và ý nghĩa.
Cha rất tự hào vì thời gian qua các con Thiếu nhi Họ đạo có nhiều tiến bộ, các con biết vâng lời và
sống hiếu thảo với ông
bà, cha mẹ, thầy cô…, biết siêng năng học tập, biết làm việc giúp đỡ bạn bè, trợ giúp cha
mẹ, nhất là biết tiết kiệm nuôi heo đất để hiệp thông vào sứ mạng chung tay xây
dựng Họ đạo. Vui nhất là mỗi ngày nhìn thấy các con chăm ngoan, tích cực học
giáo lý và siêng năng tham dự Thánh lễ.
Cha rất mong các con luôn biết nuôi dưỡng những ước mơ đẹp, biết yêu thương gia đình, biết lễ phép với người
lớn, lưu tâm trao dồi đời sống
đạo đức, tích cực chung tay gìn giữ môi trường sao cho: sáng, xanh, sạch, đẹp;
lưu giữ mãi được tâm hồn trong trắng, hồn nhiên, đơn sơ và hiền hoà tựa ánh
trăm rằm sáng tươi.
Tôi cũng không
quên cám ơn tình thương của bao người đã bao bọc, chở che, đỡ nâng các em trên
mọi chặng đường cuộc sống. Trong đó có các bậc phụ huynh, quý Cha, quý Soeurs,
HĐMVGX, quý thầy cô GLV, anh chị Huynh trưởng, và tất cả quý vị ân nhân xa gần
. . . đã hiệp hành: hiệp thông-tham gia vào sứ vụ cao quý là hướng dẫn và trợ
giúp các em trên con đường nên thánh. Xin Chúa chúc lành và tuôn ban muôn vàn
ơn phúc xuống trên quý vị.
Một lần nữa, thay
lời cho ban tổ chức, tôi chúc mọi người, đặc biệt là các con Thiếu
nhi một đêm lễ hội trăng rằm tràn ngập tiếng cười, niềm vui, bình an và hạnh
phúc trong Chúa và Mẹ Maria!
Với những ý nghĩa và
tâm tình đó, giờ đây tôi xin tuyên bố khai mạc đêm hội trăng rằm Tết Trung Thu
2023, với chủ đề: “VẦNG TRĂNG YÊU THƯƠNG-GIÊSU”.
Xin trân trọng cám
ơn!
* Suy niệm mùa thường niên: Lc
9,18-22
Hôm nay thứ sáu, GH
có thói quen tưởng nhớ mầu nhiệm tình yêu thập giá. Nơi thập giá ấy thánh
tâm CG bị đâm thâu, máu và nước tuôn chảy đến giọt cuối cùng vì yêu nhân loại
chúng ta. Máu và nước thánh của Chúa trào tuôn để tẩy gột tội lỗi chúng ta và
trào tràn ân sủng qua các bí tích cứu độ chúng ta.
Xin cho chúng ta
biết đặt trọn niềm tin vào Đức Giêsu Kitô là Chúa của tình yêu và sẵn
sàng bước theo Ngài trên con đường tự hiến trong yêu thương và phục vụ nhằm
thánh hóa bản thân và đem lại ích lợi cho tha nhân.
Đức Giêsu là ai? và
con đường thực thi sứ mạng của Ngài là gì? Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn nói
với các môn đệ và với chúng ta qua đoạn Tin mừng hôm nay.
Sau một thời gian
rao giảng thi hành sứ vụ đó đây, hôm nay Chúa Giêsu muốn làm một cuộc thăm dò
có tính cách xã hội học. Nên Ngài phỏng vấn các môn đệ xem dư luận người ta bảo
Thầy là ai?
Theo nghe ngóng đây
đó, các môn đệ thấy có 3 luồng đánh giá về Thầy Giêsu.
Số người thì cho là
Gioan Tẩy Giả, bởi lẽ Chúa Giêsu cũng có đời sống khắc khổ chay tịnh và mạnh mẽ
lên án lối sống giả hình của người Pharisêu cũng như rao giảng về sự sám hối
gần giống như Gioan Tẩy Gỉa. Một số người khác thì cho rằng là Êlia, bởi Chúa
Giêsu cũng đã từng làm phép lạ tựa như Êlia xưa kia. Cũng có một số người xem
Chúa Giêsu là một vị tiên tri vì cách chung họ cũng thấy Chúa cũng nói lời Chúa
và tiên báo về những vấn đề tương lai như các tiên tri.
Nhưng có lẽ điều
quan tâm nhất đối với Chúa Giêsu là các môn đệ hiểu về Ngài như thế nào? May
mắn thay, Phêrô đã thay mặt anh em tuyên xưng đúng như Ngài là: “Thầy
là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại ngăn cấm các
ông không được nói điều ấy với bất cứ ai cả và rồi Người mạc khải về con
đường thương khó mà Người phải đi, để hoàn thành sứ mạng cứu độ theo thánh ý
Chúa Cha. Qua lời loan báo này, Chúa Giêsu rất muốn các môn đệ và dân chúng
phải hiểu đúng về vai trò đích thực “Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Đó
là một Đấng Kitô cứu độ con người bằng con đường yêu thương:
- Chính vì yêu
thương thế gian nên Chúa Giêsu đã chấp nhận từ bỏ vinh quang và quyền thế
của một vị Thiên Chúa tối cao để nhập thể làm người, ngoại trừ tội lỗi; đến nỗi
những người Do Thái sống cùng thời với Người không nhận ra Thiên Tính đích thực
của Người.
- Cũng vì quá yêu
con người tội lỗi chúng ta, Chúa Giêsu đã chấp nhận đi vào con đường khổ nạn,
đón nhận cái chết đau thương trên thập giá để cứu độ chúng ta theo thánh ý của
Chúa Cha.
Xin cho chúng ta cảm
nhận được tình thương lớn lao của Chúa, để ta biết nỗ lực sống xứng đáng với
tình yêu ấy, cho dẫu phải đối mặt với bao gian nan thử thách trong cuộc
sống hàng ngày.
Thứ bảy: Lc 9, 43b-45
Nhớ Thánh Giê-rô-ni-mô, Linh Mục, Tiến Sĩ Hội Thánh
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm nay, Chúa
Giêsu loan báo lần thứ 2 về cuộc khổ nạn của Người. Nhưng các tông đồ không
hiểu hay không muốn hiểu vì những lời loan báo của Chúa Giêsu đi ngược lại với
những gì các ông mong ước. Xin cho chúng ta hiểu rằng muốn
đạt đến vinh quang phải trải qua con đường thập giá.
Kinh nghiệm cho thấy, mỗi
người có những sở thích hay “gu” khác nhau về: ăn mặc, giải trí, nghề nghiệp,
bạn bè và lý tưởng…
Có thể nói “gu” của các
tông đồ là được sung sướng, được ca tụng, được vinh dự… Do đó không lạ gì khi
Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài “Con người sẽ bị nộp vào tay
người đời...”, các tông đồ đều không thích nên không hiểu hay không
muốn hiểu vì không phải là “gu” mà các ông mong muốn.
“Gu” các tông đồ muốn là
được làm lớn, lãnh đạo và đứng đầu nên có lần các ông đã tranh cải với nhau xem
ai là người lớn nhất. “Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước
Trời?” (Mt 18,1).
“Gu” mà các tông đồ là mong
muốn tận hưởng được một cuộc sống giàu sang, sung sướng, quyền thế nên sau khi
Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn lần thứ nhất, tông đồ Phêrô can ngăn và đã
bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời: "Hỡi Satan, hãy lui ra
đàng sau Thầy, con làm cớ cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những gì
thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người." (Mt
16,22).
“Gu các tông đồ là muốn
thống trị và buộc mọi người phải tùng phục mình, nên có lần ông Giacôbê và
Gioan đã xin Chúa Giêsu sai lửa trời xuống để thiêu hủy làng Samaria vì không
đón tiếp thầy trò các ông.“Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ
trời xuống thiêu hủy chúng nó không?”. (Lc 9,54).
“Gu” các tông đồ là muốn
chiếm hữu độc quyền về đặc sủng của Chúa nên không muốn cho bất cứ ai được làm
phép lạ như Thầy mình. “Ông Gioan nói với Đức Giêsu: "Thưa
Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn
cản, vì người ấy không theo chúng ta." (Mc 9, 38).
Tóm lại “gu” của các tông
đồ khi theo Chúa Giêsu là vì quyền lực, thống trị và tận hưởng vinh quang phú
quý. Vì thế những gì đi ngược lại “gu” ấy đều nằm ngoài tai của các ông.
Rất có thể “Gu” của các
tông đồ cũng là “gu” của chúng ta. Nhưng chúng ta phải hiểu rằng: Nước
mắt và nụ cười, đau khổ và hạnh phúc luôn đan xen vào nhau, dệt nên tấm thảm
cuộc đời. Chính Chúa Giêsu đã chấp nhận đi vào trần gian và sống kiếp người như
chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Người sẵn sàng vâng phục thánh ý của Chúa Cha để
bước đi trên con đường thập giá để cứu độ nhân loại. Nên những ai muốn đạt đến
đỉnh vinh quang và hạnh phúc đích thực thì không thể đi con đường nào khác
ngoài con đường mang tên Giêsu theo như lời mời gọi của Người: “Ai muốn
theo Thầy, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16,24).
Xin cho chúng ta biết từ bỏ “gu” của ta để đón nhận theo “gu” Chúa bằng cách yêu mến đón nhận vác thập giá mình đi theo Chúa, nhờ đó mới xứng đáng trở thành môn đệ của Người. Đức Maria đã chấp nhận đi vào con đường “xin vâng”, sẵn sàng đón nhận thập giá cùng với con mình là Đức Giêsu. Nhờ đó mẹ đã được Chúa ân thưởng vinh quang rực rở trên trời và được người thế chúc tụng tôn vinh muôn thế hệ.
Suy niệm 2: NGƯỠNG MỘ
“Con Người sắp bị nộp vào tay người đời!”.
“Bạn không thể trải qua một ngày cách thành kính trừ
khi bạn coi đó là ngày cuối đời của mình! Thật đáng ngưỡng mộ với một người
luôn nghĩ về cái chết mỗi ngày. Ai cống hiến hết mình cho nó hàng giờ chắc chắn
sẽ là một vị thánh! Một người từng nghe bản án tử hình của mình sẽ không lo lắng
về cách vận hành của các rạp hát!” - John Climacus.
Kính thưa Anh Chị em,
Thật thú vị, Tin Mừng hôm nay chỉ ra vị thánh mà John
Climacus phác hoạ, Chúa Giêsu! Bởi lẽ, đang khi mọi người tỏ ra ‘ngưỡng mộ’
Ngài thì một lần nữa, Chúa Giêsu lạnh lùng tuyên bố cuộc khổ nạn của mình, “Con
Người sắp bị nộp vào tay người đời!”.
Bối cảnh Phúc Âm xảy ra sau cuộc Biến Hình trên núi; và
vừa xuống núi, Chúa Giêsu chữa lành một em bé động kinh. Luca ghi nhận, “Mọi
người còn bỡ ngỡ về tất cả các việc Ngài làm”; tuy nhiên, Chúa Giêsu biết, sự
‘ngưỡng mộ’ đó sẽ không kéo dài, vì Ngài sắp lên Giêrusalem, nơi Ngài chịu khổ
hình. Vì thế, Ngài nói, “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời!”. Và “Các môn
đệ không hiểu lời đó, vì đối với các ông, lời đó còn bí ẩn”.
Nếu Chúa Giêsu nói, ‘Ngày mai Thầy sẽ đăng quang làm
vua’; họ sẽ hiểu ngay! Vậy tại sao họ không hiểu? Trước hết, vì lòng trí họ
đang bận tâm về lợi lộc trần thế; điều Ngài nói quá nghịch thường với những gì
họ kỳ vọng. Thứ đến, họ quá ‘ngưỡng mộ’ Ngài về mặt tình cảm - dẫu là tốt - và
sự ‘ngưỡng mộ’ này đã lấn át lý trí, khiến họ không hiểu kế hoạch tiềm ẩn của
Chúa Cha trên Thầy mình. Tình cảm phải được hướng dẫn bởi Thánh Thần. Họ không
hiểu, cũng ‘không dám hỏi’ vì sự ‘ngưỡng mộ’ đã nên vật cản, ngăn họ thấu hiểu
ý nhiệm lớn lao của Chúa Cha, Ngài dâng mạng sống cho công trình cứu độ!
Rõ ràng, Chúa Giêsu không bị thúc đẩy bởi nhu cầu được
‘ngưỡng mộ’ từ phía con người. Ngài được thúc đẩy bởi sự ‘ngưỡng mộ’ của Cha.
Và Ngài chỉ ước muốn làm theo ý Cha, hoàn thành công việc của Cha. Đó là lý do
tại sao Ngài phải lên Giêrusalem, dù nơi đó không hứa hẹn một điều gì khác
ngoài cái chết và cuộc khổ nạn.
Bài đọc Zacharia hôm nay cho thấy điều tương tự. Niềm tự
hào thực sự về Giêrusalem không phải vì nó “Rộng bao nhiêu, dài bao nhiêu”,
nhưng vì nó “Được Thiên Chúa ở cùng!”. Qua miệng Zacharia, Thiên Chúa phán, “Ta
sẽ cư ngụ ở giữa chúng!”. Thánh Vịnh đáp ca lặp lại một lý do, “Chúa canh giữ
chúng ta, như mục tử canh giữ đàn chiên!”.
Anh Chị em,
“Con Người sắp bị nộp vào tay người đời!”. Số phận cuối
cùng của Chúa Giêsu mời gọi bạn và tôi tự hỏi, “Điều gì thúc đẩy tôi làm điều
này, điều kia?”. Đó là nhu cầu được con người chấp nhận hay là một điều gì đó
sâu sắc hơn? Chúng ta được kêu gọi biến ước muốn và ưu tiên của Chúa Giêsu
thành của riêng mình! Làm công việc Cha trao, tiếp tục làm theo ý muốn của Cha
sao cho phù hợp với ân sủng trong đấng bậc mình ‘ở đây, lúc này’. Chính lúc đó,
bạn và tôi cảm nhận không chỉ niềm vui bên ngoài khi được con người chấp nhận
mà còn cả niềm vui bên trong khi chúng ta “cống hiến hết mình hàng giờ” mà động
cơ đến từ việc sống phù hợp với mục đích Chúa Cha dành cho cuộc đời mỗi người.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con lang thang rày đây mai đó ăn mày
sự ‘ngưỡng mộ’ của thế gian. Cho con một chỉ tìm sự ‘ngưỡng mộ’ của Chúa, ‘ngưỡng
mộ’ của thiên đàng!”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)
Ngày
30/09: THÁNH GIÊRÔNIMÔ, LINH MỤC,TIẾN SĨ HỘI THÁNH
Nói về thánh Giêrônimô,
không Kitô hữu nào không nhớ câu nói nổi tiếng của Ngài: “Không
biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”. Và để mừng kỷ
niệm 1600 năm ngày mất của Thánh Gieronimo ( 340- 390 ) Linh mục, tiến sĩ Hội
Thánh, Đức Thánh Cha Phanxico ban hành Tông Thư Scripturae Sacrat Affectus
(Lòng Yêu Mến Kinh Thánh) gửi đến mọi Kitô hữu, nhất là những Kitô hữu giáo dân
Việt Nam vì rất ít giáo dân VN quan tâm đến việc tìm hiểu, học hỏi và truyền bá
Lời Chúa chứa đựng trong kho tàng Thánh Kinh.
Vậy nhân ngày kính
vị thánh đặc biệt này, chúng ta tìm hiểu đôi chút về ngài qua nguồn
tgpsaigon.net:
A. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ
Giêrônimô sinh vào
khoảng 347 trong xứ Dalmatia.
Lớn lên Giêrônimô du
học ở Roma, học chuyên về sử và triết lý.
Giêrônimô có công
tìm kiếm và mua sắm nhiều sách rất quí giá.
Lúc học ở Roma,
Giêrônimô sống hơi buông thả một chút những lúc nào cũng giữ được lòng kính sợ
Thiên Chúa.
Chính Đức Giáo Hoàng
Liberrio rửa tội cho ngài.
Sau khi học xong,
Giêrônimô có đi một vòng qua nước Pháp đến thành Trèves.
Cuối cùng thì Giêrônimô
sang và ở luôn tại Antioche trong xứ Syria. Thời gian ở đây đánh dấu một bước
ngoặt rất quan trọng trong việc hình thành ơn gọi nơi ngài. Ngài đã được chịu
chức linh mục tại đây. Một đêm kia người mơ thấy Chúa hiện ra với mình.
Chúa hỏi:
- Giêrônimô, con là
ai vậy?
Ngài trả lời:
- Con là con của
Chúa, con là người có đạo.
Chúa trả lời lại:
- Nói láo! Phải nói
con là của Cicêrô mới đúng.
Giêrônimô hiểu là ý
Chúa muốn trách mình quá say mê Cicêrô - Cicêrô vừa là một nhà văn vừa là một
nhà hùng biện rất nổi tiếng ở Roma - nên Giêrônimô quyết tâm sửa mình lại.
Ngay sau đó
Giêrônimô bắt đầu học tiếng Hy lạp và Do thái với một mục đích duy nhất để có
đủ khả năng dịch sách Kinh Thánh từ tiếng Hy Lạp ra tiếng Latinh.
Trong thời gian này
Giêrônimô được Đức Thánh cha Damsus gọi Ngài về Roma một thời gian để làm thư
ký riêng cho Ngài. Và cũng chính ở đây mà Ngài đã bắt đầu một công trình có một
tầm vóc hết sức quan trọng cho Giáo hội: Ngài bắt đầu dịch Kinh Thánh bằng
tiếng Hy Lạp sang tiếng Latinh.
Ở Roma được một thời
gian, có lẽ vì cảm thấy Roma không phải là chỗ thích hợp cho công việc quá đặc
biệt này cho nên Ngài đã trở lại xứ Palestine, vào sống một cuộc đời thầm lặng
trong một tu viện ở Belem. Ngài sống tại đây suốt 34 năm trời...vừa tiếp tục
học hỏi, tra cứu thêm để phục vụ Chúa trong các tác phẩm chống lạc giáo và nhất
là để hoàn thành việc chuyển ngữ toàn bộ bộ Kinh Thánh sang tiếng Latinh.
Sau này chính Công
Đồng Triđentinô đã tu sửa bản dịch này và đến nay vẫn được coi là văn bản chính
thức của Giáo hội Công giáo Rôma.
Ngài là bạn rất thân
của thánh Augustino. Chính thánh Augustinô cũng đã có nhiều lần nhắc đến Ngài
như một người bạn và như một bậc thầy.
Theo cuốn niên sử
ông Prosper thì thánh Giêrônimô qua đời quãng năm 420, hưởng thọ 92 tuổi
tại Bethlehem.
Mặc dầu qua đời ở
Palestina vào thời hỗn chiến, thánh Giêrônimô đã được toàn thể thế giới công
giáo tôn sùng ngay từ mấy năm sau khi ngài tạ thế. Ở Rôma, người ta kính thánh
nhân đặc biệt tại Đại Giáo Đường Đức Bà Cả. Dưới đời Đức Giáo Hoàng Bônifaciô
VIII (1294-1303), thánh nhân được suy tôn bậc tiến sĩ ngang hàng với thánh
Grêgôriô cả, thánh Âu Tinh và thánh Ambrôsiô, tức bốn vị giáo phụ ở Tây phương.
B. BÀI HỌC.
1. Dám hy sinh vì
Chúa.
Bỏ cả sở thích riêng
của mình. Khi được Chúa “cảnh cáo” dù chỉ là trong một giấc mơ, Giêrônimô đã
sửa lại lỗi lầm của mình ngay. Đây là một điều rất khó nhưng Giêrônimô đã làm
được.
Hy sinh cả cuộc đời
cho Lời của Chúa. Chúng ta hãy cứ tưởng tượng xem một công trình lớn - là công
trình chuyển ngữ Kinh Thánh tử tiếng Hy Lạp sang tiếng La tinh- như vậy mà hầu
như chỉ có một mình ngài thực hiện thì thời giờ và công sức phải bỏ ra lớn đến
mức độ như thế nào.
Để có một chút so
sánh thì chúng ta hãy nhìn vào Giáo hội Việt Nam của chúng ta. Giáo hội công
giáo Việt Nam đã tạm gọi là đã có hơn 4 thế kỷ nay. Vậy mà chỉ mới đây chúng ta
mới có một tin vui là nhóm Phụng Vụ Giờ Kinh cho ra đời trọn bộ Kinh Thánh bằng
tiếng Việt đầu tiên. Trước đây đã có một số bản những bản này có quá nhiều hạn
chế và thiếu sai sót.
Phải đợi nhiều năm
trời Giáo Hội Việt Nam mới có được bộ Kinh Thánh có tầm cỡ và xứng đáng như
thế.
Vậy mà một
mình Thánh Giêrônimô đã làm được công việc vĩ đại đó. Giáo hội
dùng bản dịch của Ngài suốt từ thời đó cho đến nay. Điều đó đã tự khẳng định về
tầm quan trọng và chỗ đứng của nó trong lịch sử Giáo hội.
2. Tiếp đến Thánh
Giêrônimô đã biết chọn thật đúng nhu cầu của Giáo hội và đã làm hết sức mình để
đáp ứng lại nhu cầu đó.
Vào hoàn cảnh lúc
bấy giờ, người ta đã thấy thời đại của văn hóa Hy lạp đang suy tàn và thời đại
văn minh Tây phương đi lên.
Phải nói Giêrônimô
là một con người rất thức thời. Hiểu được những nhu cầu của
Giáo hội và đáp ứng lại một cách hết sức tốt đẹp. Đây là bài học chung cho cả
Giáo hội. Công đồng Vaticanô khi cho chuyển ngữ các bàn văn Phụng vụ bằng tiếng
Latinh sang tiếng địa phương cũng nhắm chiều hướng này.
Hơn nữa ngày từ năm
1933 dưới triều Đức Giáo Hoàng Piô XI mà thánh Giêrônimô đã nghĩ đến việc phát
động phong trào nghiên cứu và tìm hiểu Kinh thánh thì phải coi đây là sáng kiến
và công việc hết sức mới mẻ mà mãi về sau Giáo Hội mới thấy sự sức cần thiết
của công việc này. Bởi vậy, khi nhắc đến huân công và thiên tài dịch bộ Kinh
Thánh của ngài, giáo sư M.J. Lagrange, một nhà nghiên cứu và chú giải Thánh
kinh nổi tiếng của Giáo Hội hôm nay đã viết rằng: “Đó là một trong
những sự nghiệp đáng thán phục nhất của trí óc nhân loại”
Chúng ta hãy xin
Chúa cho chúng ta biết yêu mến Lời Chúa với tất cả tấm lòng của chúng ta .
Xin được kết thúc
bằng lời chú giải của thánh Ép-rem, phó tế, về sách Tin Mừng tổng hợp.”Lạy
Chúa, ai nào hiểu nổi dù chỉ một lời trong các lời Chúa phán. Như những kẻ khát
nước uống nơi mạch suối, chúng con bỏ đi nhiều hơn là thu vào, bởi lẽ lời Chúa
có muôn màu muôn vẻ, tuỳ theo nhận thức khác nhau của những người học hỏi. Chúa
tô điểm cho lời Người bằng nhiều màu sắc, để ai học hỏi đều tìm thấy ở đó điều
mình ưa thích. Người thiết lập nhiều kho tàng châu báu trong lời của mình, để
ai trong chúng ta khai thác ở đâu thì nên giàu ở đó.
Lời Chúa là cây sự
sống cung cấp cho bạn quả phúc từ mọi phần cây, tựa như tảng đá xưa trong sa
mạc đã nứt ra để ban nước thiêng cho mọi thành phần dân Chúa, như thánh Phao-lô
tông đồ nói : Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, cùng uống một
thức uống linh thiêng. Vậy ai lãnh được phần nào trong kho tàng của Chúa
thì đừng tưởng trong lời Chúa chỉ có bấy nhiêu thôi, nhưng phải nghĩ rằng mình
chỉ thấy được có một trong nhiều điều chứa chất ở đó. Cũng đừng vì chỉ gặp được
và lãnh nhận có một phần đó thôi mà coi nhẹ và bảo rằng lời Chúa nghèo nàn và
cằn cỗi, nhưng bởi không thể lãnh hội hết nên hãy cảm tạ vì sự phong phú của
lời Chúa.
Bạn hãy thưởng thức
món bạn ăn và đừng buồn vì bạn không ăn hết được. Kẻ khát thì vui khi được uống
và chẳng buồn vì không uống cạn được suối. Hãy để suối làm cho bạn đã khát, chứ
đừng để cơn khát của bạn uống cạn suối, vì nếu bạn hết khát mà suối không cạn
thì khi bạn lại khát, bạn có thể uống nữa. Còn nếu như bạn hết khát mà suối
cũng cạn luôn thì việc bạn uống cạn suối sẽ trở nên tai hoạ cho bạn.
Hãy cảm tạ vì những
gì bạn đã nhận được và đừng buồn vì phần còn lại quá nhiều. Cái bạn đã lãnh và
đã tìm được là phần của bạn; ngoài ra cái còn lại là gia nghiệp bạn sẽ được
hưởng. Điều mà trong một giờ bạn không lãnh được vì bạn yếu đuối thì bạn vẫn có
thể lãnh nhận trong những giờ khác, nếu bạn kiên trì. Đừng vì tà ý mà cố gắng
uống một hơi cho cạn cái không thể uống cạn một hơi, cũng đừng vì ngu dốt mà
không uống cái bạn có thể uống từ từ. Amen.
Lạy thánh Giêrônimô,
xin mở miệng chúng con để chúng con luôn ca ngợi và nói lời Chúa vì chỉ lời
Chúa mới làm cho chúng con đi đúng đường và hạnh phúc.
Lm.Giuse Đinh Tất Quý
* Không biết
Kinh Thánh là không biết Đức Ki-tô
Trích lời tựa sách chú giải ngôn sứ I-sai-a của thánh Giê-rô-ni-mô, linh
mục.
Vâng lệnh Đức Ki-tô truyền : Hãy
nghiên cứu Kinh Thánh và cứ tìm
thì sẽ thấy, giờ đây tôi trả món nợ tôi mắc, kẻo phải cùng với người
Do-thái nghe lời sau đây : Các ông lầm
vì không biết Kinh Thánh cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. Quả vậy,
nếu Đức Ki-tô là quyền năng và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa như thánh
Phao-lô tông đồ nói, thì ai không biết Kinh Thánh là không biết Đức Ki-tô.
Bởi thế, tôi sẽ bắt chước chủ nhà
kia lấy ra từ kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ và bắt chước vị
hôn thê nói trong sách Diễm ca : Từ đầu
mùa cho đến cuối mùa, em dành hết cho anh, hỡi người em yêu dấu. Vậy tôi
trình bày sách I-sai-a để cho thấy tác giả không chỉ là ngôn sứ nhưng còn là
người loan báo tin mừng và là tông đồ nữa. Quả thật, chính ông đã nói về mình
và về các sứ giả khác cũng loan báo tin mừng : Đẹp
thay bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an. Thiên Chúa cũng
nói với ông như nói với một vị tông đồ : Ta
sẽ sai ai đây ? Ai sẽ đi đến với dân này ? Và ông thưa : Dạ, con đây, xin sai con đi.
Xin đừng ai nghĩ rằng tôi muốn tóm gọn nội dung cuốn sách này trong một
bài giảng ngắn, vì cuốn Sách Thánh này chứa toàn bộ những điều bí nhiệm về
Chúa. Sách tiên báo Đấng Em-ma-nu-en sinh bởi Đức Trinh Nữ, Đấng làm những việc
lẫy lừng và những dấu lạ, Đấng đã chết, được mai táng và đã từ âm phủ trỗi dậy
: Người là Đấng cứu độ muôn dân. Tôi nói gì được về môn vật lý, luân lý và luận
lý ? Tất cả những gì thuộc Sách Thánh, những gì miệng con người có thể nói ra,
giác quan có thể cảm nhận, đều được chứa trong sách ấy. Về những mầu nhiệm
trong sách đó, thì chính tác giả làm chứng như sau : Đối
với các ngươi, thị kiến toàn là những lời ghi trong sách niêm phong. Người ta
trao sách cho kẻ biết đọc và bảo : “Đọc đi !” Nhưng hắn nói : “Đọc sao được,
sách đã niêm phong rồi !” Lại đưa sách cho kẻ không biết đọc và nói : “Đọc đi
!” Hắn liền bảo : “Tôi nào đâu biết chữ !”
Nếu ai thấy điều nói trên là chưa đủ thì hãy nghe thánh Phao-lô tông đồ
nói : Về các ngôn sứ, chỉ nên có hai
hoặc ba người lên tiếng thôi, còn những người khác thì phân định. Nếu có ai
ngồi đó được ơn mặc khải, thì người đang nói phải im đi. Vì lý do gì họ có
thể im được, bởi lẽ nói hay im là việc của Thánh Thần nói qua các ngôn sứ ?
Vậy, nếu họ hiểu được những điều họ nói, thì tất cả những điều đó đều là khôn
ngoan và hợp lý ; không phải là tiếng nói chuyển qua không khí đập vào tai họ,
nhưng là tiếng Thiên Chúa nói trong tâm hồn các ngôn sứ, theo lời một ngôn sứ
khác như sau : Thần sứ đang nói với tôi và Chúng ta được kêu lên trong lòng “Áp-ba, Cha ơi”,
lại nữa Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa
phán.
(PVGK-GIỜ KINH
SÁCH)
LỜI KHAI MẠC THÁNG MÂN CÔI
(St)
I. Mỗi dịp tháng 10 về, GH nhắc
nhớ chúng ta về tầm quan trọng của Kinh Mân Côi trong đời sống Đức tin.
Theo truyền
thống, kinh Mân Côi thường
được cho là do chính Đức Mẹ truyền dạy cho thánh Đa-minh để truyền bá cho nhân loại. Thực ra, việc đọc kinh Mân
Côi đã bắt đầu hình thành từ những thế kỷ đầu tiên của lịch sử Kitô giáo. Có
thể nói, thánh Đa-minh đã giúp phổ
biến rộng rãi kinh Mân Côi trong Giáo hội qua lời kêu gọi cầu nguyện chống lại lạc giáo Albigeois.
Hình thức 150 kinh Mân Côi hay Kính Mừng cùng với việc suy gẫm 15 mầu nhiệm trong công
trình cứu chuộc của Đức Kitô, được cắp xếp
thành 3 phần gọi là năm sự Vui, năm sự Thương và năm sự Mừng đã
từ có rất lâu trong Giáo Hội. Năm 2002, Thánh Giáo hoàng
Gioan Phaolô II đã suy gẫm thêm Năm Sự Sáng như hiện nay.
Đức Mẹ nói trong các kinh nguyện chúng con dâng lên Mẹ thì không có lời nào đẹp
lòng Mẹ cho bằng kinh Mân Côi. Chính vì vậy Mẹ mà đã ban cho những ai siêng năng lần chuỗi Mân Côi được nhiều ơn ích thiêng liêng theo ý nguyện.
Có thể nói hầu hết người tín hữu
Công giáo chúng ta đều có một tràng chuỗi Mân Côi. Tuy nhiên không phải ai trong chúng ta cũng luôn mang tràng chuỗi bên mình để lần hạt mỗi ngày; cũng như không phải ai cũng hiểu rõ được ý nghĩa thâm sâu ẩn chứa bên trong kinh Mân Côi. Chuỗi
Mân Côi không chỉ là một chuỗi hạt để lần đếm kinh, mà còn là một tràng hoa lòng dâng kính Đức Mẹ, là
phương thức để chúng ta suy ngắm lại những mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Cứu Thế và của Mẹ Maria thông qua suy gẫm các
mầu nhiệm: năm sự Vui-năm sự Sáng-năm sự Thương-năm sự Mừng; và trở nên như những “cửa sổ” để ân sủng của Chúa Giêsu chiếu dọi thông qua mầu nhiệm năm sự sáng do Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II đề ra.
Thánh Giáo hoàng
Phaolô VI cũng từng quả quyết: “Tràng Kinh Mân côi là tràng xích cứu rỗi, rơi
từ đôi tay chí thánh của Đức Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ con người và của Đức Mẹ Maria, Hiền Mẫu Ngài.
Tràng Chuỗi Mân Côi tuôn đổ xuống trên chúng ta muôn vạn ơn lành. Và cũng từ
Tràng Chuỗi Mân Côi, chúng ta dâng lên các Ngài mọi ước muốn
cùng trọn niềm hy vọng của chúng ta.” Bởi thế mà chuỗi Mân Côi khởi đầu
và kết thúc bằng việc hôn tượng Chúa cứu chuộc, nghĩa là ta tin nhận và tôn kính tình yêu sáng tạo, cứu chuộc và thánh hoá
của Ba Ngôi Thiên Chúa dành cho nhân loại chúng ta. Khởi đầu và kết thúc bằng chính tình yêu ấy. Vậy nên hi vọng
mỗi người chúng ta cũng sẽ dùng tình yêu mà đáp lại tình yêu thông qua việc năng lần hạt Mân Côi.
Chúa đã phán: “Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì
Thầy ở giữa những người ấy.” (Mt 18,20) Nên trong Tháng Mân Côi này, mong muốn mỗi người mỗi người, mỗi gia đình trong Họ đạo chúng ta thường xuyên lần chuỗi Mân Côi hơn. Hi vọng mỗi người chúng ta biết hy sinh bớt chút thời gian cá nhân để tham gia tích cực vào các giờ kinh sáng tối gia đình, cũng như giờ kinh lễ chung của Họ đạo, với mong muốn lời kinh của ta được hòa chung
với lời nguyện của cộng đoàn, cùng hiệp thông và tham gia với nhau trở thành một tràng hoa to lớn nhiều màu sắc và ngào ngạt hương
thơm dâng kính Đức Maria là người
Mẹ kính yêu của chúng ta. Tin rằng với lời chuyển cầu thế giá của Đức Mẹ bên toà uy linh
Thiên Chúa, Chúa sẽ đến, ngự giữa và chúc lành cho tất cả mọi
người chúng ta.
II. Lịch
sử GH ghi nhận những lần Đức Mẹ hiện ra với 3 trẻ Lucia, Giaxinta và Phanxicô,
tại làng Fatima, thuộc đất nước Bồ Đào Nha, từ ngày 13/05/1917 đến 13/10/1917.
Trong những lần hiện ra đó, Đức Mẹ đã nói với ba trẻ về nhiều điều khác nhau, nhưng có thể gom tóm lại trong
ba mệnh lệnh quan trọng và được coi là phương thế tối hảo nhất để cứu vãn hoà
bình thế giới, đó là: Hãy cải thiện đời sống; Hãy lần hạt Mân Côi; Hãy
tôn sùng Trái tim Mẹ.
+ Hãy cải thiện đời sống:
Cải thiện đời sống hay
thống hối ăn năn sám hối là cụm từ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Kinh
Thánh, từ Cựu Ước sang Tân Ước. Đó là chủ đề chính mà Thánh Gioan Tẩy Giả và
Chúa Giêsu rao giảng. Bởi vì, để được tha tội, để được cứu rỗi cần phải có
lòng thống hối. Nên mỗi lần hiện ra ở Fatima, Đức Mẹ luôn nhắc đi nhắc lại với ba trẻ Lucia, Giaxinta và Phanxicô về việc sám hối và cải thiện đời sống.
- Lần hiện ra ngày 13 tháng 06 năm 1917, chị Lucia xin Đức
Mẹ chữa lành cho một bệnh nhân. Đức Mẹ trả lời: “Nếu anh
ấy ăn năn trở lại, thì trong năm nay anh sẽ được chữa lành”.
- Lần hiện ra ngày 13 tháng 10 năm 1917, chị Lucia cũng
muốn xin ơn cho một số người, Đức Mẹ nói: “Mẹ sẽ ban cho một số, còn một
số thì không. Nhưng họ phải cải thiện và xin ơn tha thứ lỗi lầm của
họ. Đừng xúc phạm đến Thiên Chúa nữa, vì Ngài đã bị xúc phạm quá nhiều
rồi”.
- Năm 1858, khi hiện ra tại Lộ Đức, Đức Mẹ lặp đi lặp lại
ba lần với Thánh nữ Bernadette: “Hãy sám hối, hãy sám hối, hãy
sám hối”.
Vậy, để được tha thứ tội
lỗi, để thực hiện lời Mẹ nhắn nhủ, mỗi người chúng ta hãy quyết tâm cải thiện
đời sống của mình bằng cách sám hối ăn năn và lãnh nhận Bí tích Giao Hoà.
+ Siêng năng lần hạt Mân
Côi:
- Năm 1208, Đức Mẹ đã thân hành hiện ra và dạy thánh Đa
Minh truyền bá việc lần hạt Mân côi.
- Năm 1858, khi hiện ra tại Lộ Đức, Đức Mẹ cũng mang tràng
hạt theo và cùng lần hạt với Ber-na-dette.
- Đặc biệt, ở Fatima, Đức Mẹ tự xưng mình là Nữ Vương
Rất Thánh Mân Côi. Ngài
muốn chúng ta tỏ lòng tôn sùng Ngài trong phép lần hạt Mân Côi. Ngài khẩn khoản
xin các em lần hạt, và cổ động cho người ta lần hạt, và đó cũng là một trong ba
điều kiện để có hòa bình. Nhiều người nhờ ba trẻ xin Đức Mẹ ơn nọ ơn kia, Đức
Mẹ thường trả lời: “Hãy bảo người ta lần hạt Mân Côi”. Chính
trẻ Phanxicô lúc đầu không được trông thấy Đức Mẹ hiện ra, nhưng sau đó nghe
lời chị Lucia, Phanxicô lần hạt và được thấy Đức Mẹ.
Vậy, lâu nay chúng ta đã
siêng năng lần hạt chưa? Hãy quyết tâm lần hạt, lần hạt mỗi ngày, lần hạt
chung, lần hạt riêng và lần hạt một cách sốt sắng. Làm vậy là chúng ta không
chỉ thực hiện lời Mẹ dạy mà còn đem lại lợi ích hồn xác cho chúng ta và cầu
nguyện cho hoà bình thế giới và đem lại bình an cho gia đình.
+ Tôn sùng Trái Tim Mẹ:
Mẹ Maria vừa là Mẹ Thiên
Chúa vừa là Mẹ của chúng ta. Mẹ là Đấng trung gian, là máng thông ơn Thiên
Chúa. Bổn phận của chúng ta là phải tôn sùng Mẹ. Hơn nữa, chính Mẹ đã đích thân
khuyên nhủ mọi người hãy tôn sùng Trái Tim Mẹ, Trái Tim đã bị đâm thâu vì tội
lỗi của loài người. Mẹ khuyên nhủ chúng ta hãy yên ủi Trái Tim Mẹ, hãy ẩn mình
trong Trái Tim ấy để chúng ta làm mọi việc với Mẹ, trong Mẹ, vì Mẹ và cho Mẹ.
Vậy, chúng ta đã làm những gì để thể hiện lòng tôn sùng Mẹ? Có nhiều cách để chúng
ta thể hiện lòng tôn sùng Đức Mẹ:
- Tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ
bằng cách mang ảnh Mẹ trong mình, trang hoàng bàn thờ Đức Mẹ trong gia đình,
tôn kính ảnh tượng Mẹ tại các nơi công cộng.
- Tôn sùng Trái Tim Mẹ
bằng cách quy tụ bên nhau lần hạt Mân Côi sáng tối trong
gia đình.
- Tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ
bằng cách đọc kinh cầu Đức Bà, đọc kinh Truyền Tin, tham dự thánh lễ hàng ngày,
nhất là vào mỗi thứ bảy hàng tuần, hiệp thông lần chuỗi Mân côi trước đài Đức
Mẹ.
- Đặc biệt, tôn sùng Trái
Tim Đức Mẹ bằng cách tận hiến và phó thác đời mình cho Mẹ.
Sứ điệp của Mẹ Fatima
luôn mang tính thời sự.
Ngày hôm nay, nhiều nơi trên thế giới vẫn đang còn chiến tranh. Tội lỗi, gương
xấu vẫn lan tràn khắp nơi. Đất nước Việt Nam chúng ta lúc nào cũng bị đe doạ về
vấn đề toàn vẹn lãnh thổ, môi trường, dịch bệnh, đạo đức luân lý xuống cấp, tai nạn giao thông luôn trực chờ, quốc nạn tham ô tham nhũng tràn lan…Để cứu vãn thế giới và đất nước ta thoát khỏi các đại nạn ấy, để mỗi người được hưởng ơn cứu độ, chúng ta hãy đến với
Đức Mẹ, thực hành những sứ điệp do Mẹ trao ban
là: Cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt, tôn sùng trái tim Mẹ.
Chúng ta nghe lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Phanxicô trong
buổi tiếp kiến chung ngày thứ tư 11/5/2016, ngài nói: “Đức Mẹ Fatima mời gọi
chúng ta một lần nữa hướng lòng cầu nguyện, ăn năn và hoán cải. Mẹ muốn chúng
ta đừng bao giờ làm phiền lòng Chúa nữa. Mẹ báo trước cho toàn nhân loại về
việc cần bỏ mình theo Chúa, nguồn cội của yêu thương và thương xót. Hãy theo
gương thánh Gioan Phaolô II, một người sùng kính Đức Mẹ Fatima, hãy để tâm lắng
nghe Mẹ Thiên Chúa và xin hòa bình cho thế giới. Chúc tụng Chúa Giêsu Kitô!”.
Cho nên khởi
đầu tháng Mân Côi này, chúng ta hãy xin Mẹ luôn đồng hành với nhân loại
chúng ta, nhất là trong những lúc khó khăn. Xin Mẹ tiếp tục
hướng dẫn và chỉ dạy chúng ta đi đúng đường lối của Chúa. Nhất
là xin cho mỗi người chúng ta biết cải thiện đời sống, siêng năng
lần hạt, sùng kính Trái Tim Mẹ để thế giới và đất nước Việt Nam thân
yêu của chúng ta
có được
hoà bình thịnh vượng, gia đình và tâm hồn chúng ta có được niềm
vui và bình
an trong Chúa, nhờ Mẹ Maria. Amen.
* SUY
NIỆM LỄ MÂN CÔI
CẦU NGUYỆN NHIỀU ĐỂ ĐƯỢC GÌ?
Có một
người ngoại đạo từng hỏi cha thánh Pio rằng :
- Bạn “được”
gì khi ngày nào cũng kiên trì cầu nguyện với Chúa như thế?
Ngài đã
trả lời:
- Thường thì
tôi chẳng giành được gì cả, mà thực ra “mất” đi nhiều thứ:
Tôi mất đi
lòng tự cao
Tôi mất đi
tính kiêu căng
Tôi mất đi
sự tham lam
Tôi mất đi
thói gian dối
Tôi mất đi
tính nóng giận
Tôi mất đi
tật xét đoán
Tôi mất đi
sự hấp tấp
Tôi mất đi
mong muốn phạm tội
Tôi mất đi
lòng ghen ghét, hờn giận
Tôi mất đi
sự chán nản, thất vọng và hèn nhát…
Như vậy,
cầu nguyện không hẳn là để được điều này hay điều kia. Cầu nguyện có khi là để
mất đi những thứ cản trở ơn Chúa đến với chúng ta. Ta càng cúi thấp
xuống thì Chúa lại càng dốc cạn ân sủng vào trong tâm hồn chúng ta. Giống như
mảnh ruộng càng trũng thì nước càng đầy và sẽ đảm bảo cho mảnh ruộng ấy thêm
màu mỡ phì nhiêu.
Đối với cha
thánh Pio thì phương thế cầu nguyện hiệu quả nhất chính là lần chuỗi Mân
côi. Ngài cho rằng việc Đức Mẹ hiện ra ở mọi nơi kêu mời người ta đọc kinh
Mân Côi là điều xác tín mạnh mẽ khiến ta phải chuyên cần đọc Kinh Mân Côi mỗi
ngày để được ơn lành của Chúa, qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria.
Ngài còn
nói: “Còn kinh nguyện nào đẹp hơn Kinh Mân Côi, bởi đó là kinh chính Mẹ
dạy ta. Hãy luôn lần chuỗi Mân Côi”.
Hai ngày
trước khi qua đời ngài còn nói: “Hãy yêu Đức Mẹ và làm cho Đức Mẹ được
yêu. Hãy lần chuỗi Mân Côi và lần luôn luôn, lần càng nhiều càng tốt”.
Đức Mẹ
cũng từng nói với thánh mữ Mec-tin-đa rằng: “Khi sống con đọc
bao nhiêu kinh Kính mừng, khi chết con được bấy nhiêu ơn”.
Nhìn lại
những ơn ích từ kinh Mân côi, ta có thể kết luận rằng: Lần chuỗi Kinh Mân
Côi có thể mang lại hòa bình cho một thế giới đang gặp khủng hoảng và khó
khăn như ta đã từng thấy qua thế chiến thứ I với Mẹ Fatima, chữa lành
những trái tim tan vỡ, mang lại sự trong sáng cho những người đang bước đi
trong đam mê tội lỗi như kinh nghiệm thiêng liêng của từng người chúng ta. Lần
hạt Kinh Mân Côi cũng giúp chúng ta nhìn lại con người của mình và
từng bước hoàn thiện con người của chúng ta hơn.
Cầu nguyện
với kinh Mân côi không làm đau khổ biến mất, nhưng giúp chúng
ta mạnh mẽ hơn, tin tưởng và lạc quan hơn để chiến đấu trước
những thách đố và sóng gió ba thù do ma quỷ, thế gian và xác thịt lôi kéo.
Tháng 10
được gọi là tháng hoa hồng vì trong tháng này mọi tín hữu thể hiện lòng yêu mến
Mẹ bằng việc dâng lên Mẹ tràng chuỗi Mân Côi kết thành muôn triệu bông hồng Mân
côi dâng lên Mẹ.
Dâng lên Mẹ
kinh Mân côi trong tâm tình biết ơn vì nhờ Mẹ mà chúng ta được bình yên, được
thoát khỏi biết bao cám dỗ cùng những trở ngại trong cuộc sống.
Dâng lên Mẹ
hàng triệu kinh Mân Côi để gởi gắm cuộc đời chúng ta trong bàn tay từ mẫu của
Mẹ Maria để Mẹ xoa dịu nỗi khổ đau nơi tâm hồn và thân xác, cùng che chở gìn
giữ chúng ta khỏi muôn vàn sự dữ luôn bủa vây.
Ước gì mỗi người chúng ta biết tận dụng tháng
Mân Côi để xin ơn lành của Chúa qua lời cầu bầu của Mẹ Maria gìn giữ, che chở
và ban bình an cho chúng ta trong mọi ngày sống và cho đến giờ lâm tử Amen.
Lm. Jos Tạ
Duy Tuyền
SUY NIỆM TRONG TUẦN 25 THƯỜNG NIÊN
TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
THỨ HAI: AI CÓ SẼ CHO THÊM
Lời Chúa là ngọn đèn. Đèn
phải đặt trên cao để soi tỏ bước đi. Giống như ngọn hải đăng soi đường cho tầu
bè đi trong đêm tối. Cũng vậy Lời Chúa phải hướng dẫn đời sống ta từ suy tưởng
đến lời nói và đặc biệt trong việc làm. Lời Chúa phải trở thành châm ngôn,
thành nguyên tắc, thành chỉ nam cho đời sống. Đời sống vốn tràn đầy bóng tối
của ma quỉ, xác thịt, thế gian. Chỉ có Lời Chúa mới phá tan bóng tối, chỉ cho
ta biết đi trên đường ngay thẳng.
Người sống và làm theo Lời
Chúa dạy, dù có âm thầm thì rồi cũng sáng tỏ. Hữu xạ tự nhiên hương. Hương thơm
nhân đức sẽ lan tỏa tới mọi người, sẽ ướp thơm xã hội, sẽ biến đổi môi trường
sống. Và Lời Chúa sẽ được tôn vinh.
Người nghe và thực hành Lời
Chúa giống như hạt giống gieo vào đất tốt. Sẽ sinh bông hạt trăm nghìn. Càng
thực hành Lời Chúa cuộc sống càng phong phú. Càng lắng nghe Lời Chúa tâm hồn
càng bén nhậy và càng được Chúa mặc khải những chân lý cao sâu. Càng đi vào mầu
nhiệm Nước Trời, tâm hồn càng nếm cảm sự ngọt ngào của tình yêu Thiên Chúa. Cứ
thế mùa gặt càng thêm phong phú.
Vua Ky-rô là mẫu gương của
người nghe và thực hành Lời Chúa. Được Lời Chúa phán bảo, nhà vua tức khắc ra
chỉ thị tái thiết Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Kêu gọi người Ít-ra-en trở về xây dựng
đền thờ. Chỉ thị cho mọi người trong đế quốc rộng rãi đóng góp vàng bạc, đồ vật
quí giá và cả thực phẩm. Chỉ thị đó đem lại ánh sáng cho bao tâm hồn, từ người
Do thái đến người dân ngoại, từ người ở Pa-lét-tin đến người đang lưu đầy xa
xứ, từ bậc trưởng thượng đến hàng lê thứ. “Những người đứng đầu các gia tộc
của Giu-đa và Ben-gia-min, các tư tế và các thầy Lê-vi, tất cả những người được
Thiên Chúa tác động trên tâm trí, trỗi dậy để đi lên xây Nhà Đức Chúa ở
Giê-ru-sa-lem. Mọi người hàng xóm láng giềng đều mạnh tay giúp họ: bạc, vàng,
của cải, thú vật, những đồ vật có giá, không kể mọi lễ vật tự nguyện” (năm
lẻ).
Trong đường hướng đó, sách
Châm ngôn khuyên dậy ta hãy thực hành Lời Chúa, đặc biệt hãy làm điều lành cho
tha nhân. Người thực hành Lời Chúa sẽ đi trên đường ngay thẳng, hành động chính
trực công minh và được Chúa ban ngàn muôn phúc lành. Đặc biệt “những ai
chính trực Người nhận làm bạn tâm giao…Đức Chúa tuổn đổ phúc lành trên nơi ở
của những người chính trực công minh”. Được Chúa là được tất cả. Người được
Chúa sẽ được hạnh phúc. Càng yêu mến và càng muốn nghe và thực hành Lời Chúa
hơn. Đó là có lại cho thêm (năm chẵn).
THỨ BA: SÂU HƠN, CAO HƠN,
RỘNG HƠN
Khi trả lời “Mẹ tôi và
anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”,
Chúa Giê-su không có ý chối từ Đức Mẹ. Trái lại còn ngợi khen Đức Mẹ. Và nhân
đó nói lên mối liên hệ gia đình cần phải sâu hơn, cao hơn và rộng hơn mối liên
hệ huyết thống.
Liên hệ huyết thống tuy sâu
xa, nhưng những ai nghe và giữ Lời Chúa thì kết hợp sâu xa hơn nhiều. Liên hệ gia
đình thiêng liêng mới bền vững mãi mãi, vì có Lời Chúa làm nền tảng.
Liên hệ huyết thống tuy cao
quí, nhưng chỉ dừng lại ở giới hạn phàm trần. Những ai nghe và giữ Lời Chúa tạo
thành một gia đình cao hơn, bởi vươn lên tới Thiên Chúa và trở thành gia đình
của Thiên Chúa.
Liên hệ huyết thống trần
gian luôn bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Nhưng gia đình Thiên Chúa
thì rộng lớn bao la vượt qua không gian và thời gian. Bất cứ nơi đâu có người
nghe và giữ Lời Chúa thì thuộc gia đình của Chúa .
Đức Mẹ đã nghe và giữ Lời
Chúa. Suốt đời kết hợp với Chúa Giê-su. Luôn thực hành thánh ý Chúa Cha. Nên
mối liên hệ huyết thống với Chúa Giê-su đã vượt lên. Trở thành cao hơn, sâu hơn
và rộng hơn.
Vua Đa-ri-ô khi nghe và
thực hành Lời Chúa, đã biến cả vương quốc của vua thành một gia đình. Mọi người
không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, đều góp phần vào việc tái thiết đền thờ
Giê-ru-sa-lem. “Đây là lệnh ta ban cho các ngươi về cách đối xử với hàng kỳ
mục Do-thái trong việc tái thiết Nhà Thiên Chúa: phải lấy tiền bạc của nhà vua
trích từ thuế thu được ở Vùng bên kia sông Êu-phơ-rát, mà cung cấp đầy đủ các
chi phí cho những người đó”. Đó là một gia đình rộng lớn khắp đế quốc
Ba-Tư. Một gia đình nghe và thực hành Lời Chúa. Một gia đình của Thiên Chúa
(năm lẻ).
Đó chính là thực hành lời
sách Châm ngôn: “Trong tay Đức Chúa, lòng vua tựa dòng nước chảy, Người lèo
lái đi đâu tuỳ ý Người”. Không theo ý Chúa thì mọi việc rơi vào thất bại
tàn lụi. Làm theo ý Chúa thì kết quả bền vững tốt đẹp: “Các người cho lối
sống của mình là ngay thẳng, nhưng Đức Chúa thấu suốt mọi tâm can. Thực thi
điều công minh chính trực thì đẹp lòng Đức Chúa hơn là dâng hy lễ” (năm
chẵn).
Nghe và thực hành Lời Chúa.
Ta trở thành gia đình của Chúa. Thật vinh dự cao quí biết bao!
THỨ TƯ: CHÚA LÀ TẤT CẢ
“Anh em đừng mang gì đi
đường”. Nước Thiên Chúa không phải là nước trần gian. Nước trần gian cần
nhiều phương tiện như lãnh thổ, tài nguyên, quân đội. Nước Thiên Chúa chỉ cần
có Thiên Chúa. Thiên Chúa là tất cả.
Sống đơn sơ khó nghèo,
người môn đệ làm sáng lên sự hiện diện của Thiên Chúa cao cả. Không bám víu vào
phương tiện trần gian, người môn đệ làm sáng lên sức mạnh của Thiên Chúa toàn
năng. Hai bàn tay trắng người môn đệ làm chứng về niềm tin tưởng tuyệt đối vào
Thiên Chúa và phó thác vận mệnh trong tay Người. Hành trang người môn đệ đơn sơ
chỉ cần mang Thiên Chúa trong mình, đó là có tất cả.
Người môn đệ cậy dựa vào
các phương tiện trần gian sẽ thất bại. Chỉ khi có Chúa việc tông đồ mới thành
công. Ta hãy so sánh thời đại chúng ta với thời các tông đồ. Thời đó các ngài
không có gì hết. Không cơ sở. Không nhân sự. Không tiền của. Bị bắt bớ. Thế mà
việc truyền giáo phát triển với tốc độ vũ bão. Còn ngày nay ta có nhiều cơ sở
hơn. Nhiều nhân sự hơn. Nhiều tiền của hơn. Ít bị bắt bớ hơn. Nhưng việc truyền
giáo ì ạch. Lại còn có nhiều người bỏ đạo nữa.
Ta thất bại vì không có
Chúa. Không có Chúa vì ta phạm tội. Ét-ra đau đớn nhận biết tội lỗi của cha ông
đã quên Thiên Chúa, chỉ trông cậy vào thế lực trần gian nên đã bị trừng phạt
nặng nề, bị lưu đày, bị làm nô lệ, bị tan nát, xấu hổ. “Từ thời tổ tiên
chúng con cho đến ngày nay, vì chúng con đã mắc lỗi nặng và phạm tội, nên các
vua và các tư tế của chúng con đã bị nộp vào tay vua chúa các nước ngoại bang”.
Nay được Thiên Chúa thương đưa về quê nhà, ông xin nhất tâm xây dựng Đền Thờ để
khuyến khích toàn dân thờ phượng Thiên Chúa là nguồn mạch sức mạnh, bình an và
thịnh vượng. Tái thiết đền thờ chính là tái thiết con người. Ăn năn sám hối.
Sống thánh thiện. Có Chúa ở cùng, sẽ có tất cả (năm lẻ).
Tác giả sách Châm ngôn cũng
giúp ta ý thức điều này. Ông chỉ tha thiết được có Chúa. Vì Chúa là tất cả: “Mọi
lời Thiên Chúa phán đều được chứng nghiệm, Người là khiên thuẫn cho ai tìm ẩn
náu nơi Người”. Vì thế ông không dám xin Chúa sự gì nơi trần gian. Chỉ xin
Chúa ban cho sống một đời sống đừng xa lìa Chúa, đừng lỗi phạm đến Chúa. Vì thế
ông không xin sang giầu vì sợ sang giầu làm cho tâm hồn xa Chúa. Ông cũng xin
Chúa đừng để ông nghèo đói vì sợ đói ăn vụng túng làm liều sẽ làm ô danh Chúa.
Đây là một thái độ khôn ngoan chúng ta phải học hỏi và thực hành trong đời
sống. Chỉ cần có Chúa. Lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Tránh xa những gì ngăn
cách ta với Chúa. Có Chúa ở cùng ta sẽ có tất cả (năm chẵn).
THỨ NĂM: PHÙ VÂN CHỈ LÀ PHÙ
VÂN
Nghe những lời đồn thổi về
Chúa Giê-su, Hê-rô-đê lo sợ. Vì người ta cho rằng Gio-an Tẩy giả sống lại. Mà
ông đã giết chết thánh Gio-an. Có quyền sinh sát. Nhưng ông không có quyền trên
lương tâm. Tuy chẳng ai dám phản đối, nhưng lương tâm kêu trách ông. Ông là
vua. Nhưng có Đấng cao cả hơn ông. Có quyền phán xét ông. Thưởng phạt ông. Nên
ông phải phân vân về việc làm của mình. Ông giết thánh Gio-an Tẩy giả. Giờ đây
tiếng máu vô tội giầy vò ông, chất vấn ông. Mọi biến cố đều qua đi. Nhưng cách
ta ứng xử với mỗi biến cố lại tồn tại. Và trở thành lời phán xét ta. Vì trên quyền
thế trần gian, vẫn còn có Chúa Tể Càn Khôn cầm cân nảy mực. “Ông Gio-an,
chính ta đã chém đầu rồi! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như
thế?” Đầu chém rồi nhưng trách nhiệm chưa hết đâu!
Có những điều mau qua.
Nhưng vẫn còn đó những giá trị vĩnh cửu. Ông Cô-he-lét nói: “Phù vân, quả là
phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân. Lợi lộc gì đâu khi con
người phải chịu đựng bao gian lao vất vả dưới ánh nắng mặt trời? Thế hệ này đi,
thế hệ kia đến, nhưng trái đất mãi mãi trường tồn”. Ông khám phá ra chân
lý. Mọi sự đều hư ảo. Nhưng vẫn có thứ trường tồn. Đừng dại dột vất vả thu tích
những gì hư ảo chóng qua như phù vân. Hẫy làm việc mà tìm kiếm điều vĩnh cửu
(năm chẵn).
Ét-ra cho biết những gì
ngoài Thiên Chúa đều vô ích vì mau qua và không kết quả. Chỉ khi nào ta tôn thờ
Thiên Chúa làm mọi việc trong Thiên Chúa bấy giờ mọi thứ mới vững bền. Vì thế
phải làm việc cho Thiên Chúa và trong Thiên Chúa. Nếu chỉ làm cho bản thân mọi
sự sẽ suy tàn: “Các ngươi hãy để tâm suy cho kỹ về lối sống của các ngươi.
Các ngươi gieo vãi nhiều, nhưng thu hoạch chẳng bao nhiêu. Các ngươi ăn mà
không đủ no, uống không đủ say, mặc không đủ ấm. Đồng lương của người làm thuê
lọt qua túi thủng. Đức Chúa các đạo binh phán thế này: Các ngươi hãy để tâm suy
cho kỹ về lối sống của các ngươi. Hãy lên núi, đưa gỗ về tái thiết Đền Thờ cho
Ta. Ta sẽ lấy làm vui và tỏ vinh quang Ta ở đó” (năm lẻ).
Khi có Chúa ở cùng mọi việc
sẽ tốt đẹp. Đất sẽ trổ sinh hoa trái. Hãy ở trong Chúa. Hãy làm việc trong
Chúa. Kết quả sẽ vững bền. Ngoài Chúa tất cả là hư vô. Là phù vân trên mọi phù
vân.
THỨ SÁU: ĐẾN THỜI ĐẾN BUỔI
Sau thời gian lưu đầy, dân
Ít-ra-en chán nản. Vì Đền Thờ xưa kia lộng lẫy nguy nga. Nhưng nay đã điêu tàn
xiêu vẹo. Chúa khích lệ họ: “Hỡi Dơ-rúp-ba-ven, hãy mạnh bạo lên! Này thượng
tế Giê-su-a, con ông Gio-hô-xa-đắc, mạnh bạo lên nào! Toàn dân trong xứ hãy
mạnh bạo lên!…Chỉ còn một thời gian ngắn nữa thôi…Ta sẽ làm cho Đền Thờ này rực
rỡ vinh quang”. Quả thực Đền Thờ phải trải qua những thăng trầm. Lộng lẫy
nguy nga. Điêu tàn xiêu vẹo. Rồi Chúa sẽ tái thiết cho Đền Thờ rực rỡ vinh
quang hơn trước (năm lẻ).
Chúa hứa tái thiết Đền Thờ.
Nhưng thực ra sau này Chúa Giê-su cho biết, chính Người là Đền Thờ. Đền thờ
Chúa Giê-su cũng đã có thời nguy nga lộng lẫy. Đó là khi danh tiếng Người vang
dội. Toàn dân ngưỡng mộ. Tuy nhiên đó là những cảm tính chưa đúng thực và chưa
sâu xa. Họ cho rằng Chúa là một người nào khác: “Họ bảo Thầy là Gio-an Tẩy
giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ
thời xưa đã sống lại”. Chỉ có Phê-rô có nhận thức đúng: “Thầy là Đấng
Ki-tô của Thiên Chúa”. Tuy nhiên vẫn chưa đến thời đến buổi để tiết lộ. Vì
dân còn mang nặng não trạng trần tục về một Đấng Cứu Thế oai phong lẫm liệt.
Nếu sớm biết Chúa là Đấng Ki-tô, họ sẽ tôn Chúa lên làm vua. Sẽ chính trị hoá
tôn giáo. Và cuộc chạm trán với người Rô-ma là không tránh khỏi. Chúa muốn họ
hiểu cho đúng về Đấng Cứu Thế. Muốn họ đi vào tâm tình tôn giáo. Chính Người
cần phải trải qua đau khổ, và cả chịu chết. Để mọi người không còn ảo tưởng về
Đấng Cứu Thế chính trị. Chính vì thế trước toà Phi-la-tô, khi đã thân tàn ma
dại, Người mới xưng mình là vua. Người phải nhụ nhã. Rồi sau đó mới được vinh
quang. Đền Thờ phải phá đi rồi mới xây lại (Tin mừng).
Sách Giảng viên dạy ta biết
“Thiên Chúa làm mọi sự hợp thời đúng lúc”. Đó là qui luật ở đời này: “Ở
dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời: một thời để chào
đời, một thời để lìa thế;…một thời để giết chết, một thời để chữa lành…”(năm
chẵn).
Ta hãy noi theo gương Chúa
Giê-su. Sống ở trần gian phải chấp nhận đau khổ thử thách. Nhưng đừng thất
vọng. Vì rồi đến thời đến buổi Chúa sẽ ban ơn giải thoát ta. Phải trải qua thời
sám hối ăn năn mới đến thời trong trắng an bình. Phải chịu phá đổ. Rồi mới xây
dựng lại. Chấp nhận quên mình đi. Từ bỏ mình. Chết cho bản thân. Đến thời đến
buổi ta sẽ tìm lại được chính mình. Sẽ được Chúa làm phần thưởng. Và sẽ được
sống muôn đời.
THỨ BẢY: CON NGƯỜI SẼ BỊ
NỘP VÀO TAY NGƯỜI ĐỜI
Chúa Giê-su đang làm những
phép lạ lẫy lừng khiến mọi người thán phục. Đột nhiên Người nói dõng dạc với
các môn đệ: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời” khiến các môn đệ sợ
hãi. Thủ lãnh thế gian được quyền hoành hành ở thế gian trong một thời gian. Đó
là thời kỳ thanh luyện. Chính Chúa, trong thân phận con người, cũng phải chịu
một phép rửa thanh luyện. Đó là chịu đau khổ, chịu nhục nhã, chịu chết. Để
thắng vượt mọi cám dỗ trần gian. Để siêu thoát mọi ràng buộc của xác thịt và
thế gian. Để tự do đi vào Nước Trời. Để giải phóng con người khỏi ách nô lệ của
ma quỉ, xác thịt, thế gian. Để mở con đường thăng tiến cho nhân loại. Đó là con
đường khó khăn và đau khổ. Đến nỗi các môn đệ sợ hãi không dám hỏi lại.
Nhưng đó là con đường đúng
đắn và cần thiết. Vì những giá trị trần gian chỉ là phù vân. Như sách Giảng
viên khuyên nhủ thanh niên. Ngay lúc tuổi thanh xuân tươi đẹp hãy biết chuẩn bị
cho đời sau. Vì đời này là chóng qua. “Giữa tuổi thanh xuân, bạn hãy tưởng
nhớ Đấng đã dựng nên mình. Đừng chờ đến ngày tai ương ập tới, đừng chờ cho năm
tháng qua đi, …Đừng chờ đến khi bụi đất lại trở về với đất, khi phàm nhân trả
lại cho Thiên Chúa hơi thở Người đã ban cho mình…Phù vân chỉ là phù vân”.
Hãy biết tích trữ kho tàng vĩnh cửu. Hãy biết sẽ bị Thiên Chúa xét xử để biết
từ bỏ những cám dỗ vật chất trần gian. Mà chuẩn bị cho Nước Trời (năm chẵn).
Khi thế giới phù vân qua
đi, một thế giới mới xuất hiện. Chúa lập nên thành Giê-ru-sa-lem mới. Vô cùng
rộng lớn vì không còn biên giới. Vô cùng hạnh phúc vì được Chúa bảo vệ. Vô cùng
lộng lẫy vì Chúa là vinh quang của thành. Đó là trời mới đất mới. Nơi chan hoà
tiếng đàn ca. Nơi chan chứa tiếng vui cười. Nơi hạnh phúc vĩnh viễn. “Giê-ru-sa-lem
phải là một thành rộng mở, sẽ có vô số người và súc vật đên cư ngụ ở đó. Phần
Ta, sấm ngôn của Đức Chúa, Ta sẽ là tường luỹ bằng lửa bao quanh nó, và Ta sẽ
là vinh quang ở giữa nó. Hỡi con gái Xi-on, hãy vui sướng reo hò, vì này Ta
đang đến để ở lại giữa ngươi” (năm lẻ).
Chúa bị nộp vào tay người
đời. Đó là tấm gương cho tôi biết sẵn sàng chịu thiệt thòi ở đời này. Từ bỏ
những ràng buộc của danh vọng chức quyền đời này. Chắc chắn đó là một cuộc
thanh luyện đớn đau. Nhưng khi sạch mọi vương vấn trần tục tôi mới có thể bước vào
thành Giê-ru-sa-lem mới rạng ngời vinh quang, hạnh phúc vĩnh cửu.
Lạy Chúa xin cho con biết trao nộp vào tay người đời tất cả những gì của họ. Để con thuộc về Chúa. Thuộc về Nước Chúa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét