Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 21 tháng 9, 2023

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXV THƯỜNG NIÊN

Lm. Nguyệt Giang

CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN-A

Is 55,6-9; Pl 1,20c-24.27a; Mt 20,1-16a

I. THIÊN CHÚA CÔNG BẰNG VÀ GIÀU LÒNG XÓT THƯƠNG

Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta biết Thiên Chúa chúng ta tôn thờ là một Đấng rất công bằng nhưng cũng thật giàu lòng thương xót. Xin cho chúng ta hiểu được đường lối và cung cách ứng xử tuyệt vời của Chúa mà thêm lòng mộ mến, tin tưởng và vâng theo đường lối của Người.

Chủ đề chính của phụng vụ lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến một vị Thiên Chúa thật công bằng và giàu lòng thương xót.

- Bài đọc 1, tiên tri Isaia trình bày chúng ta thấy một vị Thiên Chúa rất nhân từ và bao dung. Tư tưởng và đường lối của Người khác hẳn với tư tưởng và đường lối của người phàm chúng ta: "Như trời cao hơn đất thế nàođường lối Ta vượt trên các đường lối các ngươi thế ấy." (Is 55,9) Ngài không phải là một vị Thiên Chúa hay trừng phạt thích giết chết; trái lại Người là một vị Thiên Chúa hay tha thứ và cứu sống. Vì thế mà tiên tri Isaia mời gọi những ai tội lỗi đừng sợ hãi trốn tránh Người, nhưng hãy mạnh dạn đến với Người, vì Người rất bao dung và giàu lòng thương xót.

- Tin mừng hôm nay thì nói đến dụ ngôn những người làm vườn nho cho ông chủ với thời gian không đồng nhất, kẻ trước người sau. Nhưng cuối ngày, ông chủ lại trả tiền công như nhau, mỗi người 1 đồng. Cách trả lương của ông chủ xem ra là bất bình thường nên có sự phiền trách nhẹ của những người làm nhiều giờ hơn. Tuy nhiên điều xem ra bất thường ấy lại làm nổi bậc lên tấm lòng nhân từ của Thiên Chúa.

Những người làm công từ sáng sớm cứ ngỡ ông chủ sẽ trả tiền công cho mình nhiều hơn những người chỉ làm một giờ cuối ngày. Nhưng thật bất ngờ, dù làm từ sáng sớm hay chiều tàn, tất cả đều chỉ lãnh 1 đồng như nhau. Điều này đã khiến cho một số người làm nhiều giờ hơn kêu trách ông chủ là đối xử không công bằng. Tuy nhiên sau khi nghe lời giải thích của ông chủ, họ mới ngộ ra được cách hành xử hết sức công bằng của ông chủ, vì ông đã trả đầy đủ số tiền theo như sự thỏa thuận với họ ngay từ ban đầu. Còn việc ông trả 1 đồng cho những người làm ít giờ giống như những người làm nhiều giờ, đó là quyền tự do của ông. Như vậy sự trách phiền của họ là sai lầm do mắt họ bị che phủ bởi một màn đen của ghen tỵ.

Nhìn vào cách phản ứng khó chịu của những người làm vườn nho từ sáng sớm trong bài tin mừng hôm nay, chúng ta cũng cảm thấy mình hình như cũng đứng vào hàng ngũ, phe nhóm của họ. Bởi rất nhiều lần chúng ta cũng ghen tị, cũng so đo tính toán và không hài lòng khi ai đó được ưu ái và mai mắn hơn mình. Nên trong thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta phải biết quy hướng suy nghĩ và cái nhìn của mình về Đức Giêsu. Thánh Phao-lô đã nêu gương cho chúng ta về bài học cao quý đó, bởi lẽ trong bất cứ hoàn cảnh nào xảy ra, thì ngài cũng đều mong muốn làm vinh danh Chúa Kitô. Ngay cả đang lúc bị tù đày, ngài vẫn mạnh mẽ xác quyết rằng: “nếu được thả ra tự do thì ngài sẽ tiếp tục rao giảng Tin mừng để làm vinh danh Chúa Kitô. Còn ngược lại nếu phải chịu chết thì ngài cũng vui mừng bởi được chết vì danh Chúa Kitô.”

Như thế, khi quy hướng tất cả cuộc sống mình về danh Chúa Kitô và với mong muốn làm vinh danh Người theo gương thánh Phaolô, ta sẽ loại trừ được ghen ghét, hận thù, so đo thiệt hơn với nhau vì mọi ước muốn của ta chỉ còn tập trung vào việc duy nhất là làm thế nào để vinh danh Chúa mà thôi! Và khi biết quy hướng cuộc sống mình vào Chúa Kitô, chúng ta sẽ học được bài học của lòng thương xót Chúa nơi Đức Giêsu Kitô: “Dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha chính là Đức Giêsu Kitô” (Tông Sắc "Misericordiae vultus" số 1).

Xin Chúa cho chúng ta biết can đảm loại trừ tính ích kỷ và cái nhìn ghen tị ra khỏi lòng mình mà mặc lấy tâm tình từ bi, ôn hòa, nhẫn nại… của Chúa nhờ sự kết hợp mật thiết với Chúa Kitô mà sẵn sàng sống cho vinh danh Người trong mọi nơi, mọi lúc. 

 

II. CÔNG BẰNG VÀ TÌNH THƯƠNG

Trong cuộc sống đời thường, người ta hay nói đến công bằng như một lý tưởng phấn đấu và là một điều kiện căn bản để xây dựng một xã hội phồn vinh hạnh phúc. Tuy vậy, ở đời này không bao giờ có công bằng tuyệt đối. Bởi lẽ ngay khái niệm công bằng cũng được hiểu rất khác nhau, tuỳ theo quan điểm chính trị, văn hoá và xã hội của con người.

Thiên Chúa là Đấng công bằng. Giáo huấn của Kinh Thánh khẳng định với chúng ta như thế. Tác giả Thánh vịnh đã viết: Quả thật Chúa là Đấng công bằng, ưa thích điều chính trực; những kẻ sống ngay lành được chiêm ngưỡng Thánh Nhan” (Tv 10,7). Không chỉ công bằng, nơi Chúa còn có tình thương và lòng nhân hậu. Ở đời này, hiếm thấy công bằng và tình thương đi đôi với nhau. Dân gian ta thường nói: “Thương em anh để trong lòng, việc quan anh cứ phép công anh làm”. Điều đó cho thấy đã công bằng thì không (hoặc rất khó) mà có tình thương và không có sự nể nang tình nghĩa. Đây cũng là điều cần thiết bởi nếu không xã hội sẽ rối loạn như giao thông không có đèn hiệu.

Dụ ngôn ông chủ vườn nho hôm nay chứng minh cho thấy: Thiên Chúa vừa công bằng và tràn đầy tình thương. Thiên Chúa không hành động nhỏ nhen như con người. Chúng ta thường có thói quen “suy bụng ra bụng của Thiên Chúa”, có nghĩa là chúng ta thường gán cho Thiên Chúa những cách xử sự nơi thế giới nhân loại, cũng hận thù và tiểu nhân. Từ đó, chúng ta phàn nàn kêu trách Chúa khi đau khổ thiếu thốn. Tệ hơn, nhiều lúc chúng ta phê phán Chúa vì Ngài tốt bụng với người khác. Qua ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã khẳng định: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải đường lối của Ta… Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy” (Bài đọc I).  Những lời này dạy chúng ta phải có cái nhìn rộng lượng hơn trong cách đối xử với tha nhân, như Thiên Chúa là Đấng bao dung và quảng đại.

Chúa Giêsu đến trần gian để mạc khải cho con người tình thương bao la của Chúa Cha. Ngài thương hết mọi người và từng người, nhất là những tội nhân và những kẻ bé mọn. Trong khi đó, nhiều người Do Thái, nhất là người Biệt phái và các luật sĩ lại ghen tỵ vì Chúa Giêsu. Họ phê phán Chúa vì Người gần gũi những người tội lỗi và những kẻ bần cùng. Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” nhằm diễn tả lòng bao dung của Thiên Chúa và sự ích kỷ của con người. Nếu Thiên Chúa là Đấng rộng rãi bao dung, thì con người lại quá nhỏ nhen ích kỷ. Những người thợ đã làm từ đầu ngày ghen tương trước lòng tốt của ông chủ, trong khi đó, ông chủ vẫn làm đúng điều ông đã cam kết. Ông không hề làm cho họ bị thiệt hại. Họ ghen tương và phàn nàn bất mãn chỉ vì ông chủ tốt với người khác. Thái độ của những người này làm chúng ta liên tưởng đến người con cả trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu” được Chúa nói trong Tin Mừng Thánh Luca (x. Lc 15,25-32). Anh ghen tương và phẫn nộ vì cha mình xử tốt với đứa em khi nó đi hoang trở về. Đó cũng là thái độ của chúng ta, khi muốn Chúa phải xử theo ý muốn hẹp hòi của mình.

Đối lại với lời phàn nàn trách móc, ông chủ đã đặt ra hai câu hỏi: “Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?” Qua hai câu hỏi này, ông chủ muốn phê phán những người thợ tự cho mình là đáng giá hơn người khác, để dựa vào đó mà phản đối lòng tốt của ông chủ. Người chủ vườn là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng bao dung nhân hậu. Ngài sai Con Một là Đức Giêsu đến trần gian để sống gần với họ. Điều này làm những người tự coi là “công chính” không hài lòng. Bởi lẽ, theo suy nghĩ của họ, chỉ có họ là được Chúa yêu thương. Việc Chúa Giêsu gần gũi những người thu thuế và những người tội lỗi được họ coi như một thiệt thòi đối với họ, vì thế mà họ nổi loạn và trách móc phàn nàn. Họ giống như một số người có thái độ “ghen ngược” trong xã hội hôm nay, kêu ca phàn nàn trách móc trong khi mình không có quyền gì để làm những điều đó. Thiên Chúa yêu thương và cứu vớt những người bị đẩy ra bên lề cuộc đời. Họ là những người không ai thuê, mặc dù vào giờ thứ mười một, tức là đã xế chiều. “Không ai mướn chúng tôi!”. Lời này đã diễn tả tình trạng bi đát và khốn cùng của họ. Không ai mướn, tức là ngày đó không có lương, và như thế, cả vợ con và gia đình họ cũng không có gì sống. Ông chủ vườn nho là người thấu hiểu điều đó. Vì vậy, ông trả lương cho họ giống như những người đã làm từ sáng. Đó là đồng lương của lòng nhân hậu.

Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn luôn tỏ lòng nhân hậu đối với con người, không phân biệt sang giàu hay đẳng cấp xã hội. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm: “Đâu là thái độ của tôi đối với anh chị em đồng loại?”. Vì Thiên Chúa nhân hậu bao dung, nên Ngài mời gọi chúng ta hãy sám hối và bỏ đường tà, đoạn tuyệt với quá khứ, thay đổi con tim và canh tân cuộc sống: “Hãy trở về với Chúa – và Ngài sẽ xót thương, về với Thiên Chúa chúng ta vì Ngài rộng lòng tha thứ” (Bài đọc I).

Những lo toan bận tâm thường ngày không thể cản trở chúng ta tìm kiếm Nước Trời. “Chỉ có một điều là anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô” – Thánh Phaolô khuyên chúng ta như vậy. Đối với thánh nhân, sự sống hay sự chết chẳng là một điều bận tâm, vì đối với những ai yêu mến Chúa thực sự thì họ chắc chắn được lãnh nhận phần thưởng Nước Trời. Lòng mến Chúa yêu người sẽ thôi thúc chúng ta thực hiện những gì Chúa muốn: “Kẻ gan ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo. Người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa – và Người sẽ xót thương” (Bài đọc I).

Chúa là chủ vườn nho bao dung nhân hậu. Tuy vậy, chúng ta không dựa vào lòng nhân hậu của Chúa mà trễ nải khi được mời gọi vào vườn nho của Ngài. Những người thợ được nêu trong Tin Mừng, khi được mời, đều sẵn sàng nhận lời. Vì vậy mà họ đáng được thưởng công. Vườn nho của Chúa là Giáo Hội, nơi mỗi người tìm thấy bầu khí gia đình thân thương. Vườn nho của Chúa chính là cuộc đời, nơi chúng ta được sai đến để làm chứng cho lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Ý thức được điều này, chúng ta sẽ nhận ra giá trị của cuộc sống, nhất là niềm vinh hạnh vì được làm con cái Chúa.

+TGM Giuse Vũ Văn Thiên 


III. CHÚA KÊU GỌI MỌI NGƯỜI CỘNG TÁC VỚI NGƯỜI

Sau khi nghe bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, chắc ai trong chúng ta cũng thấy ông chủ làm vườn nho đối xử không công bằng với những người làm thuê: người làm ít cũng như người làm nhiều đều nhận tiền lương như nhau. Bình thường ở ngoài đời, nếu ông chủ hành động như vậy, thế nào công nhân cũng sẽ biểu tình hoặc đình công để phản đối vì sự bất công này!

Nhưng ngay từ đầu, Chúa Giêsu đã xác định đây chỉ là một dụ ngôn: “Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia…”. Dụ ngôn này nói về Chúa và về Nước Trời chứ không phải là một bài diễn thuyết xã hội để xác định tiền lương hoặc để giải quyết các xung đột xã hội trong các xí nghiệp.

Dụ ngôn cũng nói về sự khác biệt giữa Thiên Chúa và con người. Trong bài đọc I, Chúa phán: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta.”

Ðiểm chính yếu của dụ ngôn đó là: Thiên Chúa tốt lành, và lòng quảng đại không tính toán của Người vượt xa trí tưởng tượng của con người. Người tốt lành ngay cả với những người không xứng đáng lãnh nhận sự tốt lành đó. Ðiều đó có nghĩa là chúng ta phải từ bỏ lối suy nghĩ hợp lý theo kiểu: tôi cố gắng làm việc lành, ăn ở phúc đức, chấp nhận hy sinh, chịu đau khổ… thì đương nhiên Chúa phải yêu thương tôi, sẽ trả công cho tôi và cho tôi vào Nước Trời.

Những người thợ làm việc ngay từ sáng sớm cằn nhằn vì họ cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền, là mức lương đã được thỏa thuận của một ngày làm việc. Những người thợ này tượng trưng cho những người tự cho mình có quyền được ưu tiên, được hưởng nhiều quyền lợi trước mặt Chúa vì những cố gắng của họ. Vì thế họ ngạc nhiên và bất mãn trước thái độ ưu ái mà Chúa Giêsu dành cho những người tội lỗi, như thể ơn cứu độ chỉ dành cho những người đạo đức, thánh thiện như họ.

Khi kể lại dụ ngôn của Chúa Giêsu, có lẽ thánh Mát-thêu muốn ám chỉ Giáo Hội vào thời đại của ngài: “những kẻ đứng đầu” là những người Do Thái, là dân được Chúa tuyển chọn; còn “những kẻ đứng chót” là những người ngoại giáo mới được gia nhập vào dân Chúa.

Nhưng dù là dân tuyển chọn hay dân ngoại, họ đều được kêu gọi để trở nên dân của Chúa. Vì thế, dụ ngôn này không có ý hạ bệ “những kẻ đứng đầu” xuống thành “những kẻ đứng chót”, nhưng nhấn mạnh sự tốt lành vô biên của Thiên Chúa dành cho hết mọi người.

Dụ ngôn kể chuyện ông chủ vườn nho ra ngoài chợ bốn lần trong ngày để mướn thợ làm việc. Ông chủ vườn nho chính là Thiên Chúa. Trong suốt dòng lịch sử con người, qua mọi thời đại, Thiên Chúa luôn ra đi tìm kiếm con người thuộc mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi và trong mỗi giờ phút của cuộc sống. Người mời gọi mọi người vào làm việc trong vườn nho của Người, nghĩa là tham gia vào dân Chúa.

Tuy nhiên, không phải tất cả đều đáp lại lời mời gọi của Chúa cùng một lúc hoặc cùng một cách thức như nhau. Một số người đã lãnh nhận đức tin ngay từ lúc lọt lòng mẹ và được lớn lên trong môi trường tôn giáo thuận lợi, họ là những người “đạo dòng”, “đạo gốc”. Những người này được xem như những người thợ của giờ đầu tiên. Họ sẽ lãnh phần lương của mình như lời Chúa hứa.

Những người thợ được chủ vườn nho gọi vào giờ sau chót, đó là những người ngoại giáo đáp lại lời mời gọi của Chúa, và họ cũng sẽ lãnh nhận phần lương của mình như những người thợ của giờ đầu tiên. Sự rộng rãi của ông chủ vượt quá sức tưởng tượng của họ, và họ biết mình bất xứng trước những gì được lãnh nhận. Nhưng còn những người của giờ thứ nhất, những người “đạo dòng”, “đạo gốc”, liệu họ có biết rằng những gì họ được lãnh nhận không phải do công trạng của họ mà hoàn toàn do tình yêu nhưng không của Chúa hay không?

Vẫn còn nhiều người chưa khám phá ra tình yêu của Chúa, nhưng họ cũng luôn được Chúa kêu mời, dù suy nghĩ và hoàn cảnh của họ có như thế nào đi nữa. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ tuyệt vọng về sự cứu rỗi của chúng ta cũng như của những người mà chúng ta có trách nhiệm. Chúa mời gọi mỗi người theo cách của Người, điều mà chúng ta không thể hiểu thấu được.

Tháng chín, sau kỳ nghỉ hè, đối với nhiều giáo xứ, nhiều cộng đoàn, nhiều hội đoàn, nhiều nhóm, là thời kỳ bắt đầu sinh hoạt lại. Chúa vẫn tiếp tục đi ra và mời gọi. Chúa đi trước chúng ta. Chúa tìm kiếm chúng ta. Người kêu mời mọi lứa tuổi. Vì thế, không bao giờ trễ khi đáp lại lời mời gọi của Chúa.

“Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!”. Chúa vẫn luôn mời gọi mỗi người chúng ta vào làm vườn nho của Chúa. Chung quanh chúng ta có biết bao việc đang chờ sự dấn thân của chúng ta: trong gia đình, trong giáo xứ, trong cộng đoàn, trong các hoạt động xã hội và nơi làm việc của chúng ta. Chúa biết những khả năng và giới hạn của mỗi người chúng ta, nhưng Chúa cần một chút thiện chí của chúng ta để cộng tác với Người. Ðừng quên rằng Chúa luôn ở với chúng ta. Người sẽ ban ơn, thêm sức và ban niềm vui cho chúng ta trong việc phục vụ anh chị em của mình.

Xin cho mỗi người chúng ta hôm nay nghe được lời mời gọi một cách rất riêng tư của Chúa: “cả con nữa, hãy vào làm vườn nho của ta”. Và ước gì chúng ta cũng sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Chúa một cách thật quảng đại. Amen. (St)


IV. BẰNG LÒNG VỚI KHÁ NĂNG CHÚA BAN

Linh mục Inhaxio Trần Ngà

Khi những người làm thuê được gọi vào làm vườn nho từ sáng sớm, thấy những người khác vào làm muộn hơn cũng được lãnh tiền công bằng mình thì đâm ra ganh tị, phàn nàn, tức tối…

Ganh tị là căn bệnh trầm kha phát sinh từ thời kỳ đồ đá và sẽ tồn tại mãi cho tới ngày tận thế. Ngay khi loài người có mặt trên địa cầu là bắt đầu có ganh tị. Sau khi hai anh em Ca-in, A-ben dâng lễ vật cho Thiên Chúa, Ca-in nổi cơn ganh tị vì lễ vật của A-ben được Chúa vui nhận còn lễ vật của mình thì không. Lòng ganh tị bùng lên mãnh liệt trong lòng đã xui khiến Ca-in giết chết người em vô tội của mình.

Trong xã hội hôm nay, lòng ganh tị cũng đang nhen nhúm trong tâm hồn khi người ta thấy người khác đẹp hơn, giàu có hơn, sang trọng hơn, thành công hơn, nổi bật hơn mình…

Ganh tị sinh ra ganh ghét, ganh ghét sinh ra chia rẽ, hận thù, bất hòa, bất thuận.

Diệt trừ lòng ganh tị

Ganh tị là căn bệnh trầm kha, rất khó diệt trừ. Tuy nhiên, bệnh nào cũng có thuốc chữa. Vậy chúng ta thử xem có phương thế nào có thể hạn chế hoặc ngăn ngừa chứng bệnh này không.

Nguyên nhân sinh ra ganh tị là vì thấy mình thua kém người khác. Vậy thì cách tốt nhất để xóa bỏ ganh tị là nhận biết rằng dù ta thua kém bạn về mặt nầy, nhưng có thể ta hơn bạn về mặt khác.

Mỗi người được sinh ra trên đời là một nhân vật độc đáo, độc nhất vô nhị; mỗi người một vẻ, không ai giống ai; mỗi người đều có tính cách riêng, sứ mạng riêng, trách nhiệm riêng…

Trong khu vườn có trăm hoa đua nhau khoe sắc. Mỗi cụm hoa đều có nét đẹp riêng, hương sắc riêng. Hoa Cúc không nên ganh tị với hoa Hồng vì không tỏa hương thơm ngát như Hồng, nhưng hãy bằng lòng với những nét đẹp đặc thù của mình mà hoa Hồng không có.

Tương tự như thế, mỗi người chúng ta sống trong xã hội như một cánh hoa trong khu vườn rộng lớn có trăm hoa đua nở. Mỗi người có một số khả năng riêng, một tính cách riêng, không ai giống ai. Một thi sĩ có thể sáng tác những vần thơ tuyệt tác nhưng lại bó tay trước những bài toán khó; trong khi những người giải được bài toán khó lại không biết làm thơ. Ta có thể thua kém người khác về lĩnh vực nầy nhưng có thể giỏi hơn họ trong lĩnh vực khác.

Vì thế, hãy bằng lòng với khả năng Chúa ban cho mình, trau dồi thêm khả năng đó để phục vụ tốt hơn.

Lạy Chúa Giê-su, Chúa ban cho mỗi người có một số khả năng riêng, cũng giống như cho mỗi thứ hoa một hương sắc đặc thù. Xin cho chúng con bằng lòng với ân huệ Chúa ban và phát huy khả năng Chúa ban cho mình để tôn vinh Chúa và phục vụ tha nhân. Amen.


V. CHÚA KHÔNG CÔNG BẰNG

Lm. Xuân Trường

Thoáng nghe cứ tưởng là sai lệch, là lạc đạo, nhưng dụ ngôn về cách trả công lạ lùng cho thợ làm vườn nho cho thấy rất rõ Chúa không công bằng. Tư tưởng, đường lối Chúa không dựa trên công bằng, mà dựa trên yêu thương.

1. TỨC. Một niềm vui chính đáng trong đời là vui khi được lãnh lương, được hưởng thành quả lao động của mình. Thế thì lẽ ra người thợ khi được ông chủ trả lương đầy đủ như đã thỏa thuận thì phải vui sướng chứ, nhưng anh ta lại cằn nhằn khó chịu với ông chủ. Sao vậy? Phúc Âm nói rõ lý do là anh ta “ghen tức” vì thấy ông chủ không công bằng, trả lương cho người làm 1 giờ cũng giống như người làm vất cả cả ngày. Tức thật. Người ta dễ tức tối khi chỉ nghĩ đến cái tôi nên kém miếng là khó chịu. Chỉ vì ghen ăn tức ở mà hạnh phúc nhiều khi lại biến thành đau khổ!

2. TỐT. Cách trả lương tưởng không công bằng ấy lại cho thấy ông chủ bày tỏ hình ảnh một Thiên Chúa tốt bụng. Vì lòng yêu thương nên ông chủ thưởng công cho mọi người, chứ ông không trả tiền lương theo công thợ giờ làm. Nhờ Chúa đối xử bằng tình thương chứ không phải công bằng, chúng ta mới mong hưởng công ơn Chúa, chứ còn công lao, công trạng của mình có đáng chi. Thiên Chúa tốt lành nên đối xử với con người không dựa trên liên hệ chủ-thợ, mà dựa trên tình nghĩa cha-con trong nhà. Chỉ trong tình nghĩa cha mẹ - con cái, người ta mới có thể trả tiền không theo công việc làm, mà theo tình nghĩa công ơn. Tốt thật.

Có những khi chúng ta kêu trách Chúa không công bằng. Ồ, may mà Chúa không công bằng. Chứ cứ công bằng sòng phẳng mà Chúa chấp tội, nào ai rỗi được. Chúa không công bằng là một Tin Mừng vĩ đại, nhờ đó, không phải công lao của con người làm ít làm nhiều, mà là lòng thương của Chúa quyết định phần thưởng Nước Trời. Công ơn Chúa chứ không phải công lao mình làm nên ơn cứu độ. Amen.


VI. GHEN TỊ

Dụ ngôn hôm nay, giúp tôi nhớ đến câu chuyện sau:

Có một vị vua kia thuê nhiều người làm công để phục vụ cho mình. Trong số đó có một người làm việc tích cực hơn. Vua nhìn thấy liền đưa anh ta đi đi lại lại để dạo chơi và chuyện trò với ngài. Đến chiều, khi trả tiền công, anh này cũng được trả số tiền cũng bằng với những người làm việc vất vả từ sáng tới chiều. Thấy vậy họ phàn nàn: chúng tôi mệt mỏi suốt ngày, còn anh này chỉ làm có hai giờ mà cũng được trả công như chúng tôi sao?

Vua đáp : Đó là vì trong hai giờ làm việc của anh ta, công việc đã hoàn tất còn nhiều hơn công việc mà các anh đã làm cả ngày.

Câu chuyện mà trên có phần nào giống với dụ ngôn mà Chúa Giêsu nói đến trong bài tin mừng hôm nay. Nhưng nếu xét kỹ thì cũng có điểm khác nhau:

- Nét giống nhau là về việc trả lương bằng nhau: người làm hai giờ cũng bằng với những người làm cả ngày. Dụ ngôn Chúa nói cũng như thế.

- Nhưng cái khác ở đây là ở chỗ lý do trả công:

+ Ở câu chuyện trên thì: nhà vua dựa vào năng suất làm việc của chàng thanh niên kia. Có thể hiệu quả việc làm của anh ta bằng và có khi hơn hẳn những người làm cả ngày. Nghĩa là ông vua dự vào lẽ công bằng.

+ Ở dụ ngôn những người làm vườn nho: ông chủ trả cho người làm một giờ  bằng với những người làm 7 giờ và 9 giờ sáng, 12 giờ trưa, 3 giờ và 5 giờ chiều tất cả đều một đồng ngoài việc dựa vào lẽ công bằng đã thoả thuận, ông chủ vườn nho còn dựa vào tình thương. Đó là quyền tự do của ông chủ. Cho nên trước những thắc mắc và phàn nàn của những người vất vả làm việc cả ngày, ông chủ muốn chấp vấn lại tương tưởng và cái nhìn của họ: “Tôi không có quyền sao?  Và sấu hơn là: “hay bạn ghen tị vì tôi nhân lành chăng?

Như vậy vấn đề ở đây là vì họ ghen tị vì thấy ông chủ nhân lành. Chúng ta không nói đến phía công bằng và nhân từ của ông chủ nhưng chúng ta hãy để ý đến vấn đề  "ghen tị".

1. Ghen tị là gì?

Tự điển "sách" hay tự điển "sống" (tức là quan sát cuộc đời), đều cho biết: ghen tị là "khó chịu, so bì với ai đó vì họ HƠN ta". Như vậy ghen tị là vì ai đó hơn ta. Chẳng ai ghen với người thua mình cả.

Kinh nghiệm trong tình trường chúng ta biết: ghen là khi ta cân đo, đong đếm mà thấy mình thua kém tình địch một cái gì đó. Ví dụ mặt con nhỏ đó sáng hơn, miệng nó nói chuyện có duyên hơn, gia cảnh nó giàu hơn, đầu óc thông minh hơn (nên chồng ta mới mê nó). Còn nếu nhìn nó xấu người, xấu nết hơn ta, nghèo hơn ta, dốt hơn ta thì chắc ta chẳng thèm ghen bao giờ! Ta cứ để vậy để cho chồng ta nếm mùi cay đắng, rồi cũng sẽ ân hận mà quay về với ta thôi. Do đó, ghen tị là nhìn ra những điều mà người khác  mình, và rồi tìm cách tiêu diệt cái hơn đó. Khi nào ai đó không còn hơn ta, thì lúc ấy ta mới hết ghen.  

Trong thánh kinh Cựu ước cũng nói đến những trường hợp ghen tị: Sách sáng thế nói đến câu chuyện của Ca-in ghen với Abel vì cái hơn của Abel là Chúa nhận lễ vật của nó, còn của mình thì không, nên Cain đã giết Abel.

Anh em Giuse ghen với Giuse vì cái hơn của Giuse là được cha cưng hơn, nên đã bàn với nhau bán quách nó đi cho lái buôn.

Mấy ngày nay toà án Tp HCM xét xử vụ án mạng bà Nguyễn Phương Hằng và những người liên quan cũng phát xuất từ lòng ghen ăn tức ở, so bì, hơn thua từng chút với nhau mà làm bất an tâm hồn và bất ổn cộng đồng xã hội.

Dụ ngôn Chúa nói trong Tin mừng hôm nay một phần cũng nhấn mạnh đến lòng ghen tị của con người đối với nhau, họ đã bất bình và trách móc cả Thiên Chúa, Đấng quyền năng, công bằng và giàu lòng xót thương khi thấy người làm công vào giờ chót cũng hưởng tiền công bằng với họ là 1 đồng.

2. Nhưng làm sao để giảm bớt ghen tị?

Như ta đã xác định rõ ở trên, ghen tị là vì ai đó hơn ta. Vậy muốn bớt. Vậy thì cách tốt nhất để giảm bớt tính ganh tị là cần phải nhận thức được: dù ta thua kém người khác về mặt nầy, nhưng ta lại có thể giỏi hơn người khác về mặt khác. Mỗi người được sinh ra trên đời là một nhân vật độc đáo, độc nhất vô nhị; mỗi người một vẻ, không ai giống ai; mỗi người đều có tính cách riêng, sứ mạng riêng, trách nhiệm riêng…Tựa như trong khu vườn có trăm hoa khoe sắc. Mỗi loại hoa đều có nét đẹp, hương sắc rất riêng. Hoa Cúc không nên ganh tị với hoa Hồng vì không tỏa hương thơm ngát như Hồng, nhưng hãy bằng lòng với những nét đẹp đặc thù của mình mà hoa Hồng không có. Cũng thế mỗi cơ phận trong thân thể ta đều có những chức năng riêng nên không thể so bì được. Tất cả hãy nhân ra đặc sủng của mình mà hoàn thành tốt nhiệm vụ được trao ban.

Tương tự như thế, mỗi người chúng ta sống trong xã hội như một cánh hoa trong khu vườn rộng lớn có trăm hoa đua nở hay như một cơ phận cần thiết trong cơ thể. Mỗi người có một số khả năng Chúa ban tặng riêng, cùng với tính cách riêng, không ai giống ai. Một thi sĩ có thể sáng tác những vần thơ tuyệt tác nhưng lại bó tay trước những bài toán khó; trong khi những người giải được bài toán khó lại không biết làm thơ.  Ta có thể thua kém người khác về lĩnh vực nầy nhưng có thể giỏi hơn họ trong lĩnh vực khác. Vì thế, hãy bằng lòng với khả năng Chúa ban cho mình, trau dồi thêm khả năng đó để phục vụ tốt hơn.

Cảm tạ và biết ơn Chúa vì đã ban cho mỗi người chúng ta có những đặc sủng và khả năng riêng. Xin cho chúng ta bằng lòng với ân huệ Chúa ban mà tích cực phát huy khả năng ấy, để nhằm tôn vinh Chúa và phục vụ ích lợi cho mình và cho tha nhân. Amen. (St)


Thứ hai: Lc 8,16-18

Hãy nhớ: Thổi tắt nến của người khác không làm bạn sáng hơn

Suy niệm 1: Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu nhắc chúng ta về bản chất và sứ mạng đích thực của người Kitô hữu. Ta hãy lắng nghe Lời Chúa chỉ dạy để chấn chỉnh lại đời sống của mình cho phù hợp với bản chất và sứ vụ mà Chúa muốn.

- Nếu bản chất của chiếc đèn là để thắp sáng, thì đức tin chính là bản chất của người Kitô hữu. Vì chúng ta được gọi là "tín hữu".

- Còn nếu sứ mạng của chiếc đèn là chiếu giải ánh sáng cho mọi người nhìn thấy, thì sứ mạng của người kitô hữu là chiếu tỏa ánh sáng đức tin ấy cho mọi người nhìn thấy bằng những việc làm cụ thể. Vì "Đức tin không có việc làm là đức tin chết. " (Gc 2,17). Mà những việc làm cụ thể ấy chính là những việc lành, “Ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.” (Mt 5,16).

Qua bí tích rửa tội, chúng ta được Chúa trao ban cho ánh sáng Đức tin và kêu mời chúng ta chiếu tỏ ánh sáng đó cho trần gian. Nhờ ánh sáng của những việc làm vì đức tin ta mới có thể đẩy lui được những bóng tối của gian dối, ghen ghét, hận thù, tranh chấp, chia rẽ, đau khổ và sự chết ta khỏi cuộc sống để nhường lại cho ánh sáng của yêu thương, tha thứ, bác ái, niềm vui và sự sống…

Nếu mỗi chúng ta tích cực thắp lên ánh sáng của đức tin thì bóng tối của sự dữ sẽ tan biến. Ngược lại nếu ta ích kỷ chỉ giữ lại ánh sáng cho riêng mình hay che đậy nó lại thỉ sẽ nguy hại cho ta và cho người nên Chúa Giêsu khuyến cáo chúng ta : “vì ai có, sẽ được cho thêm, và ai không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất” (Mc 4, 25)

Xin Chúa củng cố Đức Tin nơi mỗi chúng con để chúng con can đảm thắp lên ngọn lửa đức tin bằng những hành động bác ái cụ thể cho tha nhân, nhờ đó mà mọi người nhận ra danh thánh Chúa và ngợi ca Danh Người.


Suy niệm 2: VẪN CHÁY SÁNG

“Để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng!”.

Trong “Fan the Flame”, tạm dịch “Thổi Cho Nó Bùng Lên!”, Joseph Stowell nhận xét, “Trong thế vận hội Olympic, người Hy Lạp có một cuộc đua có thể nói là duy nhất. Kẻ chiến thắng không phải là người về đích đầu tiên, nhưng là tất cả những ai về đích với ngọn đuốc trên tay ‘vẫn cháy sáng’. Như vậy, bất cứ ai cũng có thể là người chiến thắng!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi bạn và tôi ‘thổi cho nó bùng lên’ ngọn lửa đức tin của mình trong thế giới, một thế giới xem ra ‘rất tối’. Là Kitô hữu, chúng ta khác nào vận động viên chạy cho hết đường đua của mình mà đuốc trên tay ‘vẫn cháy sáng!’.

Thật là lợi thế khi trong bóng tối, mỗi người có một đuốc sáng. Ai vây quanh đuốc sáng sẽ không lãng phí thời gian để dò dẫm hay tần ngần; thay vào đó, tất cả có thể nhanh chóng đến nơi họ cần. Có đuốc sáng, mọi người cảm thấy nhẹ nhõm, kể cả bản thân người cầm đuốc. Đây là giá trị đức tin của mỗi Kitô hữu trong thế giới ngày nay. Qua bài đọc Esdra, vua Kyrô xứ Ba Tư khác nào người cầm đuốc; nhờ ông, dân Chúa đã đồng tâm, đồng lực, xây một đền thờ Chúa ở Giêrusalem hầu danh Ngài rạng sáng.

Chúa Giêsu còn khẳng định, “Vì chẳng có gì bí ẩn mà lại không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà người ta lại không biết”. Thật hấp dẫn! Khi không được người khác khen ngợi, chúng ta có thể buồn hoặc cảm thấy như bị lãng quên; vậy mà đây là lúc chúng ta cần giữ cho lửa bùng lên trong ‘thế giới rất đen’ đó. Vì lẽ, mọi bí ẩn sẽ được hiển hiện vào ‘Ngày của Chúa’. Nhiệm vụ của chúng ta giờ đây không phải là hô hoán, mà là giấu chúng đi; đợi ngày đến đích, nơi có phần thưởng vĩnh cửu. Đó là sự khôn ngoan của người cầm đuốc! Miễn sao, kết thúc hành trình, đuốc ‘vẫn cháy sáng’.

Chúa Giêsu còn nói, “Ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái họ tưởng là có, cũng sẽ bị lấy mất!”. Khi nói “Ai đã có”, Ngài ám chỉ những ai cầm đuốc đã dẫn dắt thành công nhóm đồng hành; người ấy sẽ được giao phó nhiều hơn. “Ai không có”, ám chỉ người không giữ được lửa; người ấy sẽ bị loại, đuốc trên tay cũng bị tước đi. Giữ cho đức tin ‘vẫn cháy sáng’, hay để cho đuốc tắt là trách nhiệm của mỗi người!

Anh Chị em,

“Để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng!”. Chúa Giêsu muốn chúng ta ‘thổi cho nó bùng lên’ ánh lửa đức tin; nó phải rực sáng, luôn hiện hữu và tồn tại. Hơn bao giờ hết, thế giới đang cần ánh đuốc đức tin của bạn và tôi một cách cấp thiết. Chúng ta đang ở trong một sân vận động bão táp, chiến tranh và nghèo đói. Hãy cầu xin Chúa Thánh Thần thổi bùng ngọn lửa đức tin trong trong linh hồn mình, giữ cho nó khỏi tắt, hầu có thể chiếu sáng và tiếp lửa cho những ánh đuốc đang lụi tàn vì gió bão của anh chị em mình. Nhờ đó, mọi người có thể về đích với đuốc ‘vẫn cháy sáng’. Để rồi, cùng họ, chúng ta có thể reo lên “Việc Chúa làm cho ta ôi vĩ đại!” như tâm tình của Thánh Vịnh đáp ca.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con thoả mãn với những ‘đích ngắn’ thế gian; sợ rằng, con không về ‘đích đời đời’ là chính Ngài khi đuốc trên tay rơi mất hồi nào mà không hay!”, Amen.

(Lm Minh Anh, Tgp. Huế) 


Thứ ba: Lc 8,19-21

Nhớ thánh Cót-ma và thánh Đa-mi-a-nô, tử đạo.

Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra những điều kiện cần thiết để xứng đáng trở nên thành viên trong gia đình của Người. Chúng ta hãy lắng nghe lời Chúa dạy và tích cực thực hiện những điều kiện ấy để xứng đáng trở nên thành viên trong gia đình thiêng liêng của Chúa.

Nhờ tích tích rửa tội chúng ta trở thành con Chúa và là thành viên trong GH. Nên ngoài gia đình tự nhiên được liên hệ bằng huyết thống, chúng ta còn có một gia đình thiêng liêng, nhờ được sinh ra trong đức tin.

Vì thế, Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định thành viên trong gia đình của Chúa chính là những người biết “lắng nghe và thực hành Lời Chúa”.

Nếu để trở thành người con ngoan trong gia đình tự nhiên theo huyết thống, ta phải lắng nghe và thi hành điều mà cha mẹ và anh chị hướng dẫn, chỉ bảo. Cũng vậy,  để trở thành con ngoan của Chúa và anh chị em thật sự với nhau trong gia đình thiêng liêng của đức tin, ta cần phải lắng nghe và thực hành Lời Chúa dưới sự hướng dẫn của GH.

Hơn ai hết, Đức Maria là người luôn để tâm lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa trong suốt cuộc đời mình. Nên Đức Maria trở nên kiểu mẫu cho đời sống đức tin cho chúng ta.

Khi khám phá những giọt máu trong chiếc khăn liệm thành Turin, các nhà khoa học đã chứng minh cho biết đó là loại máu B: Bái ái, bao dung và bình an.

Xin cho chúng ta mang lấy dòng máu của Chúa Giêsu để ta cũng biết sống bác ái, bao dung và bình an với mọi người, nhất là với những ai gặp đau khổ trong cuộc sống, qua việc chúng ta biết lắng nghe và thực thi lời dạy Chúa dạy. Nhờ đó ta xứng đáng trở thành người thân của Chúa và là thành viên trong gia đình đức tin của GH.


Suy niệm 2: MONG GẶP

Có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, muốn gặp Thầy!”.

G. K. Chesterton nói, “Địa ngục là lời khen tặng tuyệt vời của Thiên Chúa đối với ‘thực tế tự do’ của con người!”. Với câu nói đó, Leighton Ford nhận xét, “Chết tiệt, đó là một lời khen?”. Vâng, bởi lẽ Chúa đang nói, “Bạn thật quan trọng. Tôi coi trọng bạn, Tôi mong gặp bạn. Hãy chọn từ chối Tôi, hãy chọn địa ngục nếu bạn muốn. Tôi sẽ để bạn đi!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Tôi coi trọng bạn, Tôi mong gặp bạn!”. Lời Chúa hôm nay cho thấy không chỉ Thiên Chúa ‘mong gặp’ con người; nhưng con người mọi thời, cách đây hơn hai ngàn năm cũng như ngày nay, bạn và tôi, ai cũng đều ‘mong gặp’ Ngài, mong gặp Giêsu!

Toàn bộ Tin Mừng cho thấy, qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đi tìm con người! Và ngược lại, rất nhiều người muốn tìm gặp Ngài với nhiều lý do riêng! Một số cần được chữa lành như anh mù Bartimê, người đã la hét và đuổi theo Ngài cho đến khi được Ngài xót thương; một số vì tò mò như Giakêu trèo lên cây để có thể thấy Ngài; số khác được nghe lời Ngài như đám đông chen lấn bên hồ Gênêzareth; một số vì yêu thương, muốn chăm sóc Ngài như Đức Maria hoặc Maria Mađalêna. Vậy tại sao bạn và tôi ‘mong gặp’ Ngài?

Chinh phục Chúa Giêsu, một điều không dễ! “Vì dân chúng quá đông”. Dẫu tìm Ngài với những ý định trong sáng nhất, nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng dễ đạt được mục tiêu. Chắc chắn sẽ có những trở ngại và bạn phải chuẩn bị cho chúng! Satan luôn cố tách bạn xa Ngài qua tội lỗi, thậm chí gieo vào lòng chúng ta nỗi sợ đi xưng tội khiến ân sủng chữa lành của Ngài tắc nghẽn. Thế giới cũng tìm cách giữ bạn xa Chúa, nó chào mời hàng vạn thú vui khiến bạn rời xa việc cầu nguyện, suy tư và hoán cải. Và tất nhiên, bản thân bạn và tôi rất ít có khuynh hướng đạo đức, phục vụ người khác và sống đức hạnh. Sự lười biếng và nuông chiều thân xác có thể vượt thắng cả những người giỏi nhất. Vì thế, điều cần làm là hãy cho Chúa Giêsu biết bạn và tôi ‘mong gặp’ Ngài!

Nhưng tại sao Chúa Giêsu lại có vẻ như từ chối những ai ‘mong gặp’ Ngài? Không đâu! Điều đáng kể đối với Ngài là những “Ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”; và điều này không miễn trừ cho cả mẹ Ngài và những người thân yêu của Ngài. Chúa Giêsu không hạ thấp họ, nhưng nâng họ, nâng chúng ta lên một mức độ thân mật hơn cả thân mật của quan hệ huyết thống. Đây là vẻ đẹp của tình yêu Thiên Chúa!

Anh Chị em,

“Vẻ đẹp của tình yêu Thiên Chúa!”. Vẻ đẹp đó còn phản ánh một điều đáng kinh ngạc hơn! Rằng, Thiên Chúa ‘mong gặp’ con người! Ngài khao khát quan hệ mật thiết với mỗi người từ trái tim, khối óc và tinh thần; bởi lẽ, Ngài là tác giả và cội nguồn của tình yêu - một tình yêu không bao giờ thất bại, không bao giờ lãng quên, không bao giờ thoả hiệp, không bao giờ dối trá, không bao giờ khiến ai thất vọng. Tình yêu Ngài không lay chuyển, vô điều kiện, không ngừng nghỉ, không thể cản ngăn và không có kết thúc. Không gì có thể khiến Ngài rời bỏ chúng ta, hoặc rút lại tình yêu và sự chăm sóc. Ngài yêu chúng ta, ‘mong gặp’ chúng ta, dù chúng ta thế nào. Bản chất của Ngài là yêu. Đó là lý do tại sao Ngài tạo dựng chúng ta - để được kết hợp và chia sẻ tình yêu của Ngài!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con thật quan trọng đối với Chúa. Cho con biết chọn Chúa, ‘mong gặp’ Chúa từng giây phút. Đừng để con chọn ‘tự do’ địa ngục và thế gian mời mọc mỗi ngày!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)


Ngày 26/09: THÁNH COSMA VÀ THÁNH ĐAMIANÔ

Người ta thường ví vườn hoa không có hoa nở, không phải là vườn hoa. Trong nhà, không có tiếng khóc của trẻ con, nhà đó không vui nhộn. Lồng chim, không có chim là lồng chim chết. Giáo Hội được kết tinh, nở rộ bằng nhiều thành phần dân Chúa. Hội Thánh vì là thánh nên mọi người đều được mời gọi nên thánh. Bầu trời Giáo Hội xinh đẹp, lộng lẫy là do có nhiều vị thánh tô điểm, bồi đắp nên Thánh....đã góp phần tô điểm cho vườn hoa Giáo hội thêm mầu, thêm sắc và thêm hương cho vườn hoa GH.

Theo truyền thuyết thánh Cos-ma và Đa-mi-a-nô là hai anh em sinh đôi. Sinh tại Ả rập. Các ngài sớm mồ côi cha. Mẹ các ngài là một góa phụ nhân đức, đã không tiếc gì để giáo dục con cái về trí thức và đạo đức. Bà gửi hai con theo học ở Sy-ri-a. Tại đây Cos-ma và Đa-mi-a-nô nổi tiếng là lương thiện, vô vị lợi và trong trắng. Nhiệt thành với đức tin, các ngài dự tính học nghề thuốc. Khoa này vào thời ấy bị coi rẻ. Nhưng các ngài tin rằng khi chữa lành thể xác con người các ngài có thể góp phần vào việc chữa trị tật bệnh linh hồn.

Thiên Chúa đã chúc lành cho dự tính của các ngài và ban cho các ngài được thông thạo về nghề thuốc. Chữa bệnh hoàn toàn miễn phí, các ngài càng ngày càng trở nên danh tiếng vì những cuộc chữa lành nhờ lời cầu nguyện. Những cuộc chữa lành lạ lùng này lôi cuốn được nhiều người, kể cả các lương dân đến với các ngài. Tuy nhiên, chính vì tiếng tăm lừng lẫy này đã đưa tới cái chết vì đạo của các ngài.

Các hoàng đế Đi-ôc-lê-ti-a-nô và Ma-xi-mi-a-nô quyết tận diệt Kitô giáo, đã sai tổng trấn Lysias đến Ege để ép buộc các Kitô hữu phải dâng hương tế thần. Ai không tuân lệnh sẽ bị sát hại. 

Các lương dân tố cáo với quan tổng trấn rằng có hai người rất thạo nghề thuốc nhưng lại là thù địch chí tử của các thần minh. Nếu họ tiếp tục hành nghề các đền thờ sẽ trống vắng và cả nước sẽ theo Kitô giáo hết. Nghe tin này quan tổng trấn truyền bắt giam hai ngài. Sau khi bắt các ngài phải dâng hương tế thần mà không được, ông ra lệnh hành hạ các ngài. Nhờ ơn Chúa, hai thánh Cos-ma và Đa-mi-a-nô đã nhẫn nại chịu đựng, lại còn tỏ ra hân hoan nữa. Quan lính trói các ngài rồi bỏ xuống biển, nhưng các thiên thần đã đến tháo cởi xiềng xích và cứu các ngài bình an vô sự. 

Nghe tin này, quan tổng trấn truyền lập giàn thiêu. Nhưng giữa ngọn lửa cháy bừng, hai thánh nhân vẫn không hề hấn gì. Cuối cùng quan tổng trấn ra lệnh xử trảm. Hai thánh Cos-ma và Đa-mi-a-nô khẩn khoản nài xin Chúa thương nhận lễ dâng của các ngài. Lần này các ngài được nhận lời. Sau những nhát chém đầu tiên, đầu các ngài lìa xác và nhận phúc tử đạo.

Danh tiếng của hai thánh Cos-ma và Đa-mi-a-nô lan tràn khắp Giáo hội vì những cuộc chữa lành bệnh tật do các ngài thực hiện. Hoàng đế Jus-ti-nô I khuyến khích lòng sùng kính hai thánh nhân. Một nguyện đường được xây dựng ở Aege miền Cilicia để ghi nhớ nơi các ngài chịu chết vì đạo. Tại Rôma, Đức Sym-ma-chô (498 - 514) xây nguyện đường. Đức Felix IV (526 - 530) xây một đại giáo đường kính các ngài. Cùng với thánh Luca, hai thánh Cos-ma và Đa-mi-a-nô được đặt làm thánh bổn mạng các y sĩ và các nhà giải phẫu. 

Trích: Theo Vết Chân Người, Lm. Phaolô Phạm Quốc Túy


Thứ tư: Lc 9,1-6

Nhớ Thánh Vinh-sơn Phao-lô, linh mục

Sứ mạng quan trọng nhất khi Chúa Giêsu đến trần gian này là loan báo Tin mừng, mang ơn cứu độ đến cho nhân loại. Sứ mạng ấy Chúa trao cho các tông đồ xưa và nay cho chúng ta. Xin cho chúng ta ý thức sứ mạng quan trọng ấy để nỗ lực thi hành cho thật tốt.

Để thực hiện sứ mạng giải thoát con người khỏi những đau khổ về thể xác và tinh thần do trói buộc bởi ma quỷ, một mình Đức Giêsu là đủ, vì Ngài là Thiên Chúa quyền năng. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại không dùng cách thế đó. Trái lại, Chúa mời gọi chúng ta cộng tác.

Cụ thể bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu chọn gọi 12 Tông Đồ, ban quyền trừ quỷ và chữa bệnh cho các ông và sai các ông đi rao giảng Tin mừng.

Khi lãnh nhận bí tích rửa tội và thêm sức là chúng ta đã lãnh nhận quyền năng của Chúa và được mời gọi để chia sẻ sứ mạng loan báo Tin mừng..

Cánh đồng truyền giáo thật mênh mông bát ngát. Chúa đã nhìn thấy lúa vàng đã chín rộ, nhưng ma quỷ lại đang phá hoại bằng biết bao phương cách, từ bên trong (tham, sân, si), cũng như bên ngoài (những trò chơi đồi trụy, sách báo, phim ảnh xấu) đã len lỏi và thấm nhập cách tinh vi vào tâm hồn chúng ta những tư tưởng xấu xa, tội lỗi.

Xin cho chúng ta biết canh tân đời sống bản thân, làm lành mạnh hóa đời sống tâm hồn; đồng thời cũng biết canh tân đổi mới những người chung quanh. Cụ thể là những người sống gần gũi: trong gia đình, trong xóm làng và nơi họ đạo chúng ta.

Xin Chúa ban cho Giáo hội nhiều tông đồ nhiệt thành để đẩy lùi sự dữ và khử trừ sự ô uế ra khỏi môi trường chúng ta đang sống.

Lạy Chúa, Chúa biết chúng con là những phận hèn sức yếu. Vì thế, Chúa không đòi hỏi chúng phải ra đi loan báo tin mừng ở những nơi xa xôi. Nhưng Chúa muốn chúng con biết tích cực gieo vãi yêu thương và bình an cho những người gần gủi chúng con. Xin cho chúng con ý thức và tích cực thực thi lời Chúa dạy. Amen.

 

Suy niệm 2: BẤT LỰC VÀ QUYỀN NĂNG

“Ngài ban cho các ông năng lực và quyền phép!”.

Một buổi chiều năm 1865, Lincoln mặt vùi vào tay, nói với nội các, “Thưa các ngài, chẳng bao lâu nữa, sẽ có tin quan trọng! Đêm qua, tôi mơ thấy mình đơn độc trên một chiếc thuyền, không chèo, không lái… bất lực trong một đại dương vô tận!”. Im lặng vần vũ! “Nhiều lần, tôi đã mơ như thế; mỗi lần, là một trận chiến lớn. Vâng, có lẽ ngày mai, hoặc vài giờ nữa!”. Năm giờ sau, ông bị ám sát. Vậy mà, vị tổng thống luôn cảm nhận bất lực và yếu hèn đó lại trở nên ‘một huyền thoại can trường’ nhờ niềm tin vào Chúa của mình!

Kính thưa Anh Chị em,

Như người dân Hoa Kỳ đã nhìn thấy sự ‘bất lực và can trường’ nơi vị tổng thống huyền thoại của họ, trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta khám phá điều tương tự nơi các môn đệ của Chúa Giêsu. Ngài sai họ đi trong yếu hèn và mạnh mẽ, ‘bất lực và quyền năng!’.

Sai các môn đệ lên đường, Chúa Giêsu thông chia cho họ những gì Ngài có, “Ngài ban cho các ông năng lực và quyền phép!”. Thế nhưng, cùng lúc, Ngài buộc họ ra đi trong yếu đuối và khó nghèo; Ngài thu nhỏ vali của họ, gần như không còn gì, “Đừng mang gì đi đường!”. Ngài muốn nói, hành trang của họ là Ngài và chỉ một mình Ngài. Ngài hạn chế tối đa tư trang hành lý, để họ biết rằng, khiên thuẫn của họ nằm ở tình yêu họ dành cho Ngài, chứ không ở đâu khác; ở bất cứ ai khác, bất cứ tài sản hay tài năng nào.

Qua đó, rõ ràng, Chúa Giêsu đang xung trận cùng các môn đệ ‘từ một khoảng cách kín đáo’; Ngài muốn quyền năng của Ngài bộc lộ trong sự mỏng giòn của kẻ được sai. Vì lẽ, Thiên Chúa thường hoạt động mạnh mẽ qua những trải nghiệm bất lực của con người. Chính trong tình trạng dễ bị tổn thương này, bạn và tôi sẽ chỉ cậy trông vào một mình Ngài, vốn là ‘lá chắn’, thay cho sự cậy mình hay cậy vào một quyền lực thế gian nào!

Esdra, qua bài đọc hôm nay, một con người lấy Thiên Chúa làm lá chắn, “Tôi quỳ gối xuống, giơ tay lên Chúa là Thiên Chúa của tôi”. Trong bất lực, ông van xin, “Tội chúng con đã quá nhiều!”, và nhận ra quyền năng của Chúa khi Ngài đổi lòng vua Ba Tư để vua xót thương dân, cho dân được định cư và có thể xây đền thờ; nhờ đó, họ có thể hát mừng “Chúc tụng Thiên Chúa, Đấng muôn đời hằng sống!” như tâm tình của Thánh Vịnh đáp ca. Esdra trải nghiệm thế nào là ‘bất lực và quyền năng’ qua những gì Chúa đã làm.

Anh Chị em,

‘Bất lực và quyền năng!’. Chúa Giêsu đã sống sự tương phản và mâu thuẫn này. Sinh ra trong lạnh lẽo; chết đi trong tủi nhục! Vậy mà chính trong sự bất lực tột cùng đó, sức mạnh và quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện. Như đã sai các môn đệ, Chúa Giêsu đang sai chúng ta đi, thông chia sức mạnh và quyền năng của Ngài cho mỗi người. Bao lâu không còn bám víu vào bất cứ điều gì khác ngoài Ngài, bạn và tôi luôn đủ sức để chiến đấu. Ngài đang nâng đỡ chúng ta ‘từ một khoảng cách kín đáo’; Ngài đang đợi mỗi người từng giây phút trong các nhà chầu để bổ sức và tạo niềm cảm hứng hầu bạn và tôi mạnh mẽ ra khơi. Nhất là những khi thuyền đời chúng ta gặp bão, khi “không chèo, không lái… bất lực trong một đại dương vô tận!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Ngài! Con tạ ơn Chúa, vì con xác tín rằng, Chúa luôn bang trợ con ‘từ một khoảng cách kín đáo!’”, Amen.

(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)


* Ngày 27 tháng 9: THÁNH VINH SƠN ĐỆ PHAOLÔ

Thánh Au-gus-ti-no từng nói: "Tình yêu có đôi chân đi đến với người nghèo. Tình yêu có đôi mắt để thấy bất hạnh và thiếu thốn. Tình yêu có đôi tai để nghe được tiếng than thở của tha nhân". Điều này đã được thánh Vinh Sơn Phao-lô minh chứng rõ nét qua những việc làm bác ái cụ thể trong đời sống của ngài.

1. Đôi dòng tiểu sử

Vinh Sơn đệ Phao-lô sinh ngày 24 tháng 4 năm 1580, là một vị thánh của Giáo Hội Công Giáo Rô-ma. Ngài sinh tại Pouy, Landess, Gascony, nước Pháp trong một gia đình nông dân nghèo khó. Lễ kính ngài trước đây là ngày 19 tháng 07 nhưng hiện nay được cử hành vào ngày giỗ của ngài 27 tháng 9 hàng năm.

Vinh Sơn thụ phong linh mục năm 1600 và lưu trú tại Toulouse cho đến khi đi Marseille để nhận thừa kế. Trên đường về từ Marseille, ngài bị người Turk cướp và bắt cóc đưa đi Tunis và bị bán làm nô lệ. Sau khi cảm hoá người chủ để trở thành một Kitô hữu, linh mục Vinh Sơn được trả tự do vào năm 1607.

Sau đó, ngài quay trở lại Pháp và nhận nhiệm sở tại một giáo xứ gần Pa-ris. Ngài đã thành lập các dòng từ thiện như Tu Hội Nữ Tử Bác Ái, với sự cộng tác của bà Louise de Marillac, và Tu hội Truyền giáo hay còn được gọi là La-za-rist.

Khi được vua Louis XIII bổ nhiệm làm Tổng Tuyên úy của những tù nhân khổ sai chèo thuyền chiến, ngài có cơ hội để cải thiện đời sống những tù nhân ở Pháp.

Thánh Vinh Sơn Phaolô qua đời ngày 27 tháng 9 năm 1660 tại Pa-ris thọ 80 tuổi.

Vào năm 1705 tu viện trưởng Tu hội Truyền giáo La-za-rists đề nghị tiến hành hồ sơ phong thánh cho đấng sáng lập. Vào ngày 13 thánh 8 năm 1739, Vinh Sơn Phao-lô đã được Đức Giáo Bê-nê-đic-tô XIII phong chân phước, và ngày 16 tháng 6 năm 1737 ngài được Đức Giáo Hoàng Clêmentê XII phong ngài lên hàng hiển thánh. Năm 1885 Đức Giáo Hoàng Lê-ô XIII đặt ngài làm bổn mạng hội Nữ tu sĩ Bác ái. Đồng thời ngài cũng trở thành thánh bổn mạng của hội Nam tu sĩ Bác ái.

2. Những nét nổi bật trong đời sống

Đầu tiên là việc phục vụ cho những người nghèo khó: Cuộc đời của Ngài, ngay từ hồi còn thơ ấu đã nổi rõ nét là một con người đầy vị tha, bác ái và hay thương xót những kẻ nghèo khó. Chính vì thế, Thánh Vinh Sơn Phao-lô đã luôn rao giảng lòng thương xót của Chúa và sống chứng nhân tình yêu của Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. 

Dù với bất cứ chức vụ nào: Bề trên Dòng Thăm Viếng, Bề Trên Tu Hội triều hay trong cương vị của một mục tử, thánh Vinh Sơn Phaolô đã luôn chu toàn trách vụ cách hết sức khôn ngoan. Ngài yêu thương các người nghèo khó, những kẻ đau khổ, những kẻ lao động vất vả, đặc biệt Ngài lưu tâm đến việc giáo dục các thiếu nữ. Lời Chúa trong bài giảng tám mối phúc thật (x. Mt chương 5), đã được Ngài thực hiện cách tận căn: đi và dậy người ta bước đi trên con đường hiến chương nước trời. Ngài đã sống tận cùng lời Chúa: "cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, thăm viếng kẻ bị tù đầy v.v..." (x. Mt chương 25).

Chúa đã dậy mọi người bài học yêu thương. Yêu thương tận cùng và yêu thương không ngừng. Chính Chúa đã sống tận cùng sự yêu thương bằng cái chết trên thập hình. Chết mới nói lên lời. Trên thập giá, Chúa đã nói lên tất cả: yêu thương và tha thứ. Chúa đã trở nên nghèo, để sống với người nghèo. Thánh Vinh Sơn Phaolô đã yêu thương người nghèo, những kẻ bơ vơ vất vưởng, đầu đường xó chợ, không nhà không cửa. Theo gương Chúa, Thánh Vinh Sơn Phao-lô đã luôn cứu giúp người nghèo, sống như người nghèo trong việc phục vụ, lao động để gần gũi với Chúa. Phục vụ người nghèo là phục vụ Chúa. Sống như người nghèo là sống như Chúa. Gặp gỡ người nghèo là gặp gỡ Chúa.

Thứ đến là lo cho những người nghèo khó có các mục tử coi sóc: Năm 1625, ngài đã sáng lập Tu hội “Linh mục thừa sai” để giúp đào tạo các giáo sỹ theo tinh thần công đồng Trente, và nâng đỡ những người nghèo, đặc biệt là những người nghèo ở vùng quê. Như vậy, công việc giúp đỡ người nghèo của thánh nhân đã hội tụ được những nguồn lực có tính quyết định cho cả lộ trình đồng hành với người nghèo của ngài. Việc phục vụ những người nghèo khó theo tinh thần Tin Mừng đã trở thành một linh đạo sống cho những ai muốn hiến thân phục vụ người nghèo trong Chúa Kitô.

Theo Ngài, con đường nên thánh phải được khởi đi từ việc nhận ra hiện thân của Con Thiên Chúa, Đấng đã muốn là người nghèo: “… Chính chúng ta phải cảm nghiệm được điều đó, cũng như phải xử sự như Đức Kitô là quan tâm đến những người nghèo túng, an ủi, giúp đỡ và bảo lãnh cho họ… Quả thật, Đức Kitô đã muốn sinh ra là người nghèo, đã kết nạp những người nghèo làm môn đệ. Người đã trở thành kẻ phục vụ người nghèo, nên đã chia sẻ thân phận của họ…”

Việc phục vụ người nghèo đối với Thánh nhân, không phải theo một vài hình thức ban ơn phô trương, mà phải được xuất phát từ chính con tim biết hiểu hoàn cảnh của họ mà thông cảm với họ. Sao cho tâm hồn chúng ta cũng rung động như Thánh Phao-lô tông đồ, khi Người nói: "Tôi trở nên tất cả cho mọi người…”

Đức ái với những người nghèo trong linh đạo của thánh Vinh Sơn Phaolô còn hệ tại ở việc hành động phục vụ và nhận biết những nhu cầu cấp thiết nơi những người nghèo: “phải ưu tiên phục vụ người nghèo, không được trì hoãn… Vậy khi chị em bỏ đọc kinh nguyện để giúp đỡ người nghèo thì hãy nhớ rằng, đó là chị em phục vụ Thiên Chúa” (Kinh Sách, Các bài đọc).

Cám ơn Chúa đã ban cho chúng ta một tấm gương sáng trong việc phục vụ những người nghèo khó mà Chúa luôn yêu thương họ.

Lm. Giuse Đinh Tất Quý


Thứ năm: Lc 9,7-9

Suy niệm 1: 

Theo khuynh hướng tự nhiên mỗi khi mong muốn gặp ai đó là vì nhớ thương, kính mến hoặc muốn học hỏi những điều tốt đẹp nơi người ấy. Nhưng khao khát gặp gỡ Chúa Giêsu của vua Hêrôđê mà tin mừng hôm nay trình thuật không phải thế mà chỉ là vì hiếu kỳ. Do đó ước muốn của ông bất thành. Đó cũng chính là điều mà Chúa muốn cảnh tỉnh chúng ta hôm nay. 

Tin mừng hôm nay cho biết danh tiếng Chúa Giêsu được nhiều người biết đến, bởi những lời giảng dạy khôn ngoan và những phép lạ lớn lao Người đã thực hiện. Do đó dân chúng rất ngưỡng mộ và kính trọng Người. Biết những điều đó nên vua Hêrôđê cũng mong muốn một lần diện kiến Chúa để xác định xem Đức Giêsu là Người thế nào mà được dân chúng đồn thổi và ngưỡng mộ đến thế! Do bởi ước muốn gặp gỡ của Vua Hêrôđê không phải là vì thiện chí để lắng nghe và tìm hiểu chân thành mà chỉ để thỏa mãn tham vọng bất chính như:

- Vì lo sợ, ông muốn xác định xem Đức Giêsu có phải là Gioan Tẩy Giả mà ông đã nhẫn tâm giết chết không?

- Vì hiếu kỳ, ông muốn xem Đức Giêsu có thực sự tài năng xuất chúng như dân chúng đồn đoán không?

- Vì muốn chấn an lương tâm bất ổn bởi ông đã phạm quá nhiều tội ác như: 

. Giết các hài nhi từ 2 tuổi trở xuống ở Bêlem và các vùng phụ cận, khi Chúa Giêsu giáng sinh. Biến cố ấy đã gây chấn động đất nước và đã khiến cho biết bao nước mắt của các bà mẹ phải tuôn chảy vì khóc thương cho con mình. Tiếng thét ai oán của bà Rakhen không ngưng nghỉ vì con bà đã bị giết chết, đến nỗi không ai có thể khuyên can được bà. 

. Cướp lấy người vợ của anh mình là bà Hêrôđia. 

. Nhẫn tâm ra lệnh chém đầu Gioan Tẩy Giả chỉ vì lời hứa lúc cao hứng trong men say, nhân ngày sinh nhật của ông.

. Xem thường và lên án tử cách vô tội cho Chúa Giêsu sau này.

Chính do ý muốn gặp gỡ của ông phát xuất từ tâm địa bất chính nên mãi sau này khi Chúa Giêsu bị bắt bởi những người Do Thái và giới lãnh đạo tôn giáo, rồi đem đến trình diện để ông xử án, khi đó ông mới gặp gỡ được Chúa. Nhưng trong cuộc gặp gỡ ấy, ông cũng không đón nhận được bất cứ điều gì thiện hảo từ nơi Chúa Giêsu. Bởi lẽ ngay từ đầu cuộc gặp gỡ này đã không vì chủ đích tốt lành. 

Cuộc đời của vua Hêrôđê đã gây ra quá nhiều tội ác đã làm cho tâm hồn của ông trở nên chai đá, không còn khả năng để sám hối và thay đổi đời sống nữa. Cho nên dù ông có gặp gỡ Chúa Giêsu đi chăng nữa thì ông cũng không thể đón nhận được bất kỳ ân phúc từ nơi Chúa ban.  

Xin cho chúng ta luôn biết tìm đến Chúa bằng một tấm lòng chân thành khiêm tốn với ước muốn được đón nhận ơn tha thứ và lời chỉ dạy khôn ngoan của Người. Nhờ đó ta mới có thể đón nhận được những ơn lành cần thiết Chúa ban mà biến đổi đời sống nên tốt đẹp hơn.

 

Suy niệm 2: ĐỀN TÂM HỒN

“Hãy lên núi, đưa gỗ về tái thiết Đền Thờ cho Ta!”.

Đền Taj Mahal, Ấn Độ, một kiệt tác được UNESCO công nhận; tuy nhiên, một điều gì đó khá ‘mỉa mai’ với khởi đầu của nó. Năm 1629, người vợ yêu quý của Shah Jahan qua đời, vua ra lệnh xây một ngôi đền tráng lệ để tưởng nhớ hoàng hậu. Vua đặt quan tài của bà ở giữa một khu đất và việc xây dựng ngôi đền, đúng theo nghĩa đen, bắt đầu chung quanh nó. Ngày nọ, đi khảo sát, vua tình cờ gặp một ‘thùng gỗ’; người ta đã ném nó ra từ lâu. Đó là chiếc quan tài! “Tưởng nhớ” nhường chỗ cho đam mê “nghệ thuật!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Sẽ khá bất ngờ khi Lời Chúa hôm nay cũng nói đến một đền thờ mà Thiên Chúa hằng mong mỏi ở giữa dân Ngài; để từ đó, Ngài hy vọng thiết lập những ‘đền tâm hồn’. Qua miệng Khacgai, Chúa nói với dân, “Hãy lên núi, đưa gỗ về tái thiết Đền Thờ cho Ta!”.

Thánh Vịnh đáp ca tiết lộ lý do, “Chúa mến chuộng dân Người”. Vì mến chuộng dân, Thiên Chúa không ngần ngại tỏ lộ ước muốn có một đền thờ giữa họ, nhắc nhở họ về sự hiện diện của Ngài; nhờ đó, Ngài có thể chiếm cứ các tâm hồn. Cũng thế, trên bước đường rao giảng, Chúa Giêsu không xây một nhà thờ hay một đền thờ nào; điều Ngài trăn trở là những ‘đền tâm hồn’. Và một điều chắc chắn, Ngài cũng khát khao cả tâm hồn vua Hêrôđê, người đã giết Gioan, một nhân vật mà Tin Mừng hôm nay gợi lại.

Tin Mừng nói đến những phân vân của vua Hê-rô-đê về Chúa Giêsu, Ngài là ai? Sau đó, kết thúc, “Vua tìm cách gặp Ngài”. Hêrôđê có thể đến với Chúa Giêsu bất cứ lúc nào; nhưng điều này đã không xảy ra. Nếu gặp được Ngài và thực sự lắng nghe Ngài, hẳn Hêrôđê đã nhận được một quà tặng lớn nhất, quà tặng đức tin, quà tặng hoán cải; bấy giờ, tâm hồn ông hẳn đã được Chúa Giêsu chiếm ngự và ông đã bước đi trên con đường cứu rỗi. Phải chăng, tự thâm tâm, Hêrôđê sợ gặp Ngài, sợ nghe Ngài; nghĩa là phải thay đổi! Rõ ràng, “thay đổi”, một điều ông không muốn. Vì thế, Hêrôđê liên tục trì hoãn!

Phần chúng ta, nói rằng, tin nhận Chúa Giêsu là Chúa, là Đấng Cứu Rỗi và tôi đã được “sinh lại” là chưa đủ! Chúng ta phải bắt đầu sống cuộc sống “sinh lại” đó, đổi mới những lựa chọn của mình đối với Chúa Kitô mỗi ngày. Nói với Ngài rằng, “Hôm nay, con muốn hoán cải từ những yếu đuối, lầm lỗi của bản thân. Con muốn đến gần Ngài hơn!”.

Anh Chị em,

“Con muốn đến gần Ngài hơn!”. Việc lặp đi lặp lại lời nguyện tắt này sẽ nhen lên trong chúng ta một khát khao mãnh liệt muốn được gần Chúa Giêsu. Thế nhưng, như Hêrôđê, bạn và tôi dễ dàng gạt bỏ những lời mời lúc này lúc khác của Ngài; bởi lẽ, tự thâm tâm, chúng ta không muốn thay đổi, chúng ta sợ thay đổi! Vậy mà, Chúa Giêsu vẫn đang kiên trì ngỏ lời mỗi ngày; Ngài không ngừng gửi đến những thông điệp rõ ràng rằng, Ngài muốn xây bên trong mỗi người một ‘đền tâm hồn’ dành riêng cho Ngài. Ấy thế, bao lần, chúng ta đã cố ý hay vô tình lờ đi! Vậy, để có thể nghe được điều Ngài muốn, hôm nay, bạn và tôi hãy mở cửa cho Chúa Giêsu, chào đón Ngài, lắng nghe Ngài và thay đổi hoàn toàn theo cách Ngài muốn bạn và tôi thay đổi!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin lấp đầy trái tim con bằng chính Chúa; không được như thế, việc ‘tôn thờ Chúa’ trong ‘đền tâm hồn’ con nhất định sẽ nhường chỗ cho việc ‘thờ ngẫu tượng!’”, Amen.

                                                                           (Lm Minh Anh, Tgp. Huế) 

 

Thứ sáu: Đn 7,9-10.13-14; Ga 1,47-51

Kính Các Tổng Lãnh Thiên Thần Mi-ca-en, Gap-ri-en Và Ra-pha-en

(Tết Trung Thu)

Suy niệm 1: Hiệp hành cùng Giáo Hội, hôm nay chúng ta hân hoan cử hành thánh lễ mừng kính các tổng lãnh Thiên Thần: Micaen, Gabrien và Raphaen. Các ngài là tạo vật cao quý nhất do Thiên Chúa tạo dựng. Nhưng vì mang tính thiêng liêng nên ta không thấy được. Các ngài được diễm phúc túc trực ngay bên tòa Thiên Chúa để ca khen, chúc tụng và tôn vinh TC. Đồng thời các ngài cũng chính là sứ giả được Thiên Chúa sai đến với con người nhằm thông truyền những ý định của Thiên Chúa, cũng như cứu giúp con người chống lại sức mạnh của ma quỷ.

Xin cho chúng ta luôn yêu mến và năng tưởng nhớ đến các Tổng Lãnh Thiên Thần và liên kết mật thiết với các ngài để chống lại những cám dỗ do ma quỷ gây ra.

Dựa vào nền tảng Thánh Kinh, GH dạy cho ta biết: TC tạo dựng vũ trụ này gồm 2 thế giới. Thế giới hữu hình vật chất và một thế giới vô hình thiêng liêng. Và tạo vật quan trọng nhất được TC dựng nên trong thế giới hữu hình là con người. Còn tạo vật cao quý nhất được TC tạo nên trong thế giới vô hình là các Thiên Thần.

Thánh Kinh cũng mạc khải cho biết có vô số các Thiên Thần, trong đó gồm có thần lành là các Thiên Thần và thần dữ là Luxiphe. Luxiphe cũng là tổng lãnh Thiên Thần nhưng vì đã bất tuân và chống lại Thiên Chúa nên gọi là Satan. 

Các Thiên Thần chính là những sứ giả thần linh phục vụ Thiên Chúa và giúp đỡ con người.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác quyết với Nathanael về sự hiện hữu và hoạt động của các Thiên Thần trong thế giới, trong GH và trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Khi nói: “Thật, Ta nói thật với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người.”

Có vô số các Thiên Thần nhưng Thánh Kinh chỉ nhấn mạnh đến tên ba vị Tổng Lãnh Thiên Thần là Micael, Gabriel và Raphael. Cả 3 tổng lãnh đều có âm cuối là “el”. Trong tiếng Do Thái là “El” có nghĩa là Thiên Chúa.

- Tổng lãnh thiên thần Micael. Tiếng Do Thái có nghĩa “ai bằng Thiên Chúa”. Vì thế, sứ mạng của ngài là chiến đấu chống lại Satan, kẻ có tham vọng muốn trở nên như Thiên Chúa, và xúi dục con người chúng ta hướng chiều về ham muốn ấy như nó (x. St 3); Vì thế Satan luôn cám dỗ con người đứng dưới cờ nó để tranh giành quyền ảnh hưởng thay cho Thiên Chúa.

Sách Khải Huyền tường thuật cuộc chiến thắng khải hoàn của ngài và của các thiên thần trong cuộc chiến đấu chống lại Luxiphe (x. Kh 12, 7-12a). Chính vì thế, ảnh tượng của ngài luôn là vị tổng lãnh Thiên Thần uy dũng, tay cầm gươm, chân đạp đầu con rắn, vốn là hình ảnh của Satan.

Trong truyền thống GH còn tin rằng ngài là vị đặc biệt bảo vệ Mình Thánh Chúa, bảo vệ Đức Giáo Hoàng và GH. Ngài cũng luôn hiện diện với những người đang hấp hối để giúp họ chiến đấu trong trận chiến cuối cùng chống lại thần dữ và dẫn đưa các linh hồn qua đời đến trước tòa Thiên Chúa.

- Tổng lãnh thiên thần Gabriel. Tiếng Do Thái có nghĩa là “sức mạnh của Thiên Chúa”. Ngài được biết đến nhiều nhất, vì chính ngài, với tư cách là sứ giả truyền đạt tin vui của Thiên Chúa cho nhân loại. Trong chương 8 của sách ngôn sứ Đa-ni-en, cho biết điều đó. Trong tân ước ngài mang đến cho con người những sứ điệp của niềm vui trọng đại qua việc truyền tin cho cho ông Dacaria, cho thánh Giuse và cho Đức Mẹ Maria.

- Tổng lãnh Thiên Thần Raphael. Tiếng Do Thái có nghĩa là “Thiên Chúa chữa trị”. Bởi vì, ngài có sứ vụ, thay mặt Thiên Chúa chữa lành tất các bệnh hoạn tật nguyền của loài người. Trong sách Tôbia (Tb 12,15), Ngài là bạn đồng với Tôbia con và đã chữa mù mắt cho Tôbia cha được sáng. Truyền thống của Giáo Hội hiểu đoạn Tin Mừng sau đây: “Thỉnh thoảng có thiên thần Chúa xuống khuấy nước lên; khi nước khuấy lên, ai xuống trước, thì dù mắc bệnh gì đi nữa, cũng được khỏi” (Ga 5,1-4) là hoạt động của Tổng Lãnh Thiên Thần Raphael.

Như thế TC dựng nên các Thiên Thần để phụng sự Chúa; đồng thời cũng là để giúp đỡ con người. Vì thế chúng ta hãy luôn biết kết hiệp mật thiết với các Tổng Lãnh Thiên Thần để dâng lên TC tâm tình ngợi khen, chúc tụng, tạ ơn không ngừng. Đồng thời xin cho chúng ta cũng biết năng tưởng và cầu xin với các Tổng Lãnh Thiên Thần luôn ở bên gìn giữ, che chở và cứu giúp chúng ta khỏi những cơn gian nan khốn khó.

 

Suy niệm 2: THIÊN LINH HUYỀN NHIỆM

“Ngàn ngàn hầu hạ Ngài, vạn vạn túc trực Ngài”.

William. J. Bryan nói, “Quả dưa hấu có sức hút từ mặt đất gấp 200.000 lần so với trọng lượng của nó. Nó lấy vật liệu từ đâu để tô màu cho mình; rồi sau đó, hình thành một tầng trắng, một tầng đỏ, và dát dày bằng những hạt đen! Nếu bạn có thể giải thích cho tôi bí ẩn của quả dưa hấu, tôi sẽ giải thích cho bạn bí ẩn của Thiên Chúa, mà giữa Ngài với chúng ta, dày đặc các ‘thiên linh huyền nhiệm!’”.

Kính thưa Anh Chị em,

Thật thú vị, ý tưởng ‘quả dưa’ của Bryan được gặp lại trong Lời Chúa ngày lễ các Tổng Lãnh Thiên Thần. Qua đó, một nguyên tắc thần học được nhắc lại! Rằng, sự cứu rỗi luôn mang tính trung gian! Người không thể tự mình đến với Chúa; Chúa không tự mình đến với người! Trên hết, phải có Đức Kitô, Trung Gian Thiên Linh Huyền Nhiệm Tối Cao; và cùng Ngài, muôn vàn thần thánh và các trung gian khác. Vì khoảng cách giữa Chúa và người thì vô cùng, nên với vô vàn ‘thiên linh huyền nhiệm’, Thiên Chúa lấp đặc nó!

Bài đọc Đaniel mô tả sự dày đặc đó, “Từ trước nhan Ngài, một sông lửa cuồn cuộn chảy, ngàn ngàn hầu hạ Ngài, vạn vạn túc trực Ngài”. Đó là các ‘thiên linh huyền nhiệm’ Thiên Chúa đã tạo dựng; ngoài ra, còn có ‘các lớp’, ‘các tầng’ trung gian khác! Tin Mừng hôm nay nói các thiên thần “lên xuống” trên Con Người, mà giấc mơ Giacóp là hình ảnh tiền trưng, báo trước việc các ngài phục vụ Thiên Chúa, nhưng họ phục vụ Ngài vì chúng ta.

Đức Phanxicô nói, “Chiến đấu là một thực tế diễn ra hàng ngày trong đời sống Kitô hữu từ trong trái tim, trong cuộc sống, trong gia đình, trong Giáo Hội... Nếu không chiến đấu, chúng ta sẽ bị đánh bại! May thay, Chúa đã giao nhiệm vụ này chủ yếu cho các thiên thần, để chiến đấu và chiến thắng!”. Các thiên thần đã hiện diện từ buổi tạo dựng và suốt lịch sử cứu độ, loan báo ơn cứu độ dù xa hay gần và phục vụ việc hoàn thành kế hoạch của Thiên Chúa, dẫn dắt dân Chúa; loan báo các cuộc giáng sinh và các ơn gọi. Cuối cùng, Gabriel loan báo sự ra đời của Gioan Tiền Hô và chính Chúa Giêsu. Thánh Vịnh đáp ca thật ý nghĩa, “Lạy Chúa, giữa chư vị thiên thần, này con xin đàn ca kính Chúa!”.

Tin Mừng hôm nay minh hoạ vai trò trung gian của Philipphê khi ông dẫn Nathanael đến với Chúa Giêsu. Trong cái nhìn đức tin, Philipphê là một ‘thiên linh huyền nhiệm’, người đã dẫn Nathanael đến với Con Thiên Chúa, ‘Thiên Linh Huyền Nhiệm Tối Cao’. Và Chúa Giêsu đã mặc khải một cách cụ thể không dè giữ về các ngài, “Các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người”.

Anh Chị em,

“Ngàn ngàn hầu hạ Ngài, vạn vạn túc trực Ngài”. Trong cuộc sống, biết bao ‘thiên linh huyền nhiệm’ Chúa quan phòng đã chuẩn bị xa gần để bạn và tôi có thể nhận biết, yêu mến và phụng sự Ngài. Trước hết, cả triều thần thánh trên trời; tiếp đến là Mẹ Giáo Hội, trong đó, bao tâm hồn đạo đức; và này, ông bà, cha mẹ và bao con người, bao phương tiện. Như vậy, bên cạnh một triều thần vô hình, các thiên thần có cánh, còn có vô vàn các ‘thiên thần không cánh’. Họ là ‘các lớp’, ‘các tầng’ dày đặc phục vụ trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa vì mỗi người chúng ta. Hãy cảm tạ Thiên Chúa và biết ơn các ngài. Đến lượt chúng ta, bạn và tôi cũng hãy trở nên những ‘thiên linh huyền nhiệm!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con luôn trở nên một ‘thiên linh huyền nhiệm’ cho anh chị em con!”, Amen.

(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)

 

* TẾT TRUNG THUHc 42, 15-16; 43,1-2.6-10; Mc 10, 13-16.

Dẫn 1: Kính thưa cộng đoàn phụng vụ, đặc biệt các con thiếu nhi quý mến!

Hôm nay rằm tháng 8 âm lịch, Tết Trung Thu và là ngày hội của Thiếu nhi. Thật là chính đáng và phải đạo khi chúng ta qui tụ bên nhau để tạ ơn và dâng lên Chúa lời chúc tụng tôn vinh, vì Ngài đã tạo dựng đất trời cho chúng ta, trong đó có vầng trăng tuyệt mỹ nên chúng ta có thêm đêm hội trông trăng hàng năm.

Nguyện xin Thiên Chúa quyền năng và tình thương ban xuống trên tất cả mọi người, đặc biệt là các em thiếu nhi trong Họ đạo Sóc Trăng chúng ta có được tâm hồn trong trắng, đơn sơ, hồn nhiên, ngoan ngoãn. Xin cho các em thêm tuổi thêm khôn ngoan và nhân đức trước mặt Thiên Chúa và người đời theo gương Chúa Giêsu tuổi thơ

Xin Chúa cũng ban muôn vàn phúc lành trên quí Cha, quí Dì, Cha mẹ, Quí Thầy cô, anh chị GLV, quý Ân nhân và tất cả những ai đã góp phần cho niềm vui Trung Thu hôm nay của các em được nên trọn. 

Dẫn 2: Cộng đoàn phụng vụ và các con Thiếu Nhi thân mến,

Hôm nay là Tết Trung thu, ngày hội của Thiếu nhi khắp mọi miền đất nước. Chúng ta có dịp quy tụ bên nhau để cùng tạ ơn Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên những công trình tuyệt mỹ, nhờ đó chúng ta mới có được ngày hội trăng rằm.

Xin cho tất cả các thiếu nhi trên toàn thế giới, đặc biệt là các em thiếu nhi Thánh Thể trong Họ đạo chúng ta, luôn giữ được tâm hồn trong trắng, đơn sơ, hồn nhiên của tuổi thơ với sự thật thà, hiền hoà và tín thác vào Tình Yêu của Thiên Chúa.

Xin Chúa ban muôn phúc lành cho Quí Cha, Quí Dì, Cha Mẹ, Quí Thầy Cô, các anh chị GLV, cách đặc biệt cho quý vị Ân Nhân và tất cả những ai đã hy sinh giúp cho niềm vui Trung Thu năm nay được trọn vẹn. 

Để được vào Nước Trời, cần phải có điều kiện như thế nào? Đó là điều mà Chúa Giêsu sẽ hướng dẫn chúng ta qua bài Tin mừng hôm nay.

Điều kiện ấy chính là phải trở nên như trẻ nhỏ. Không phải chúng ta hóa kiếp trở lại làm trẻ nhỏ, nhưng Chúa muốn chúng ta phải có tinh thần trẻ nhỏ.

- Vì trẻ nhỏ luôn nói thật, đơn sơ, trong trắng. Chúa muốn chúng ta cũng hãy đơn sơ, luôn nói sự thật, đừng mưu mô, lọc lừa, mặc dù đôi lúc vì sự thật mà chúng ta phải chịu thiệt thòi, hay bị người khác hiểu lầm.

- Vì trẻ nhỏ luôn cảm thấy mình yếu đuối nên luôn tin tưởng phó thác cậy dựa vào cha mẹ. Chúa cũng muốn chúng ta luôn tin tưởng tín thác và cậy trông vào Chúa, cho dù cuộc sống có gặp nhiều gian lao vất vả.

- Vì trẻ nhỏ luôn khiêm nhường biết mình có giới hạn nên không ngừng cố gắng học hỏi những điều hay lẽ phải từ cha mẹ, người lớn. Chúa cũng muốn chúng ta phải biết luôn lắng nghe lời Chúa.

Chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự thinh lặng trong tâm hồn, biết được thánh ý Chúa qua việc lắng nghe, đọc và suy niệm Lời Chúa. Chúng ta cũng có thể biết được thánh ý Chúa qua những biến cố của cuộc đời hay những lời chỉ bảo khuyên răn chân tình của tha nhân.

Nói tóm lại, Chúa muốn chúng ta hãy sống tinh thần trẻ thơ, mặc dù chúng ta mang thân xác của người lớn. Ai sống được tinh thần như thế, mới được vào Nước Trời và là kẻ lớn nhất trong Nước Trời.

Đây cũng là con đường mà thánh Têrêxa Hài Đồng Giê-su đã trải qua, đã sống. Thánh Têrêxa là một vị thánh rất trẻ, cuộc đời của ngài chỉ vọn vẹn 24 tuổi thanh xuân. Ngài đã chọn cho mình con đường nên thánh, con đường để được vào Nước Trời là con đường thơ ấu. Ngài yêu Chúa như một đứa con thơ yêu mến cha mẹ. Ngài làm những việc rất ư là tầm thường nhưng với tấm lòng phi thường. Thân xác ngài mỏng manh yếu đuối nhiều bệnh tật nhưng lòng mến ngài dành cho Chúa, cho những ai chưa tin nhận Chúa và những linh hồn trong luyện ngục thật nồng nàn chan chứa.

Noi gương thánh nữ, chúng ta cũng hãy trở nên bé nhỏ, để luôn tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa; nhận ra sự giới hạn yếu đuối của mình để biết lắng nghe tiếng Chúa dạy bảo và hướng dẫn; hãy yêu mến hết khả năng, sức lực, trí khôn như một đứa bé luôn yêu mến cha mẹ, luôn tìm mọi cách làm vui lòng cha mẹ của nó.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn nhớ rằng trước mặt Chúa, chúng con chỉ là những người con bé nhỏ. Không có Chúa chúng con chẳng làm được chuyện gì và nếu chúng con có làm được chuyện gì đi nữa, tất cả cũng là ơn Chúa ban.  Xin cho chúng con luôn biết phó thác cả cuộc đời chúng con cho Chúa, như đứa bé đặt trọn niềm tin vào cha mẹ để sau cuộc đời dương thế này, chúng con sẽ quây quần bên Chúa, hưởng sự hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa.

 

* LỜI KHAI MẠC ĐÊM VĂN NGHỆ  TẾT TRUNG THU

1. Kính thưa quý Cha, quý Soeurs, quý HĐMVGX, quý ân nhân và tất cả quý ông bà anh chị em…

Hoà chung không khí tưng bừng của ngày hội trăng rằm, tối hôm nay chúng ta quy tụ về đây để cùng chung chia niềm vui cùng với các em thiếu nhi và hiệp dâng lên Thiên Chúa lời tri ân cảm tạ, vì Chúa đã dựng nên đất trời và ban tặng cho ta; trong đó có tứ thời bát tiết, có ánh trăng tuyệt mỹ. Nhờ đó mà chúng ta và các em mới có được một ngày hội vui trung thu hôm nay.

Là những người con Chúa, Tết trung thu không chỉ là ngày hội mà còn là ngày lễ. Vì thế trong dịp này, ngoài việc tận hưởng niềm vui và gửi đến nhau những lời chúc mừng ý nghĩa, chúng ta không quên cảm tạ ơn Chúa và cầu nguyện cho các em thiếu nhi luôn có được tâm hồn trong trắng, đơn sơ, hồn nhiên của tuổi thơ, cho dẫu mai đây các em khôn lớn, chắp cánh tung bay vào đời, các em vẫn lưu giữ mãi những kỷ niệm tuyệt đẹp của tuổi thơ. 

Chúng ta cũng không quên cám ơn tình thương của bao người hằng bao bọc, chở che, đỡ nâng các em, trong đó có các bậc làm cha mẹ, ông bà; quý cha, quý Soeurs, HĐMVGX, quý thầy cô, các anh chị GLV huynh trưởng, cũng như tất cả các vị ân nhân, thân nhân xa gần . . . đã tích cực hiệp hành cùng với các em trong mọi bước đường ơn gọi làm người và làm con Chúa.

Nguyện xin Chúa ban muôn phúc lành trên những ai đã đang và sẽ quảng đại hy sinh làm cho đời các em tươi sáng tựa như ánh trăng rằm đêm nay.

Thay lời cho ban tổ chức, tôi xin chúc mọi người đặc biệt các em thiếu nhi có được một đêm lễ hội Trung thu tràn ngập tiếng cười, niềm vui và bình an trong Chúa Giêsu tình thương.

Với những ý nghĩa và tâm tình đó, giờ đây tôi xin tuyên bố khai mạc đêm hội trăng rằm Tết Trung Thu 2023 với chủ đề: “VẦNG TRĂNG YÊU THƯƠNG-GIÊSU”.

Xin trân trọng cám ơn! 

 

2. Kính thưa quý ông bà và anh chị em, đặc biệt các em thiếu nhi yêu quý!

Hòa trong không khí vui tươi, phấn khởi nhân ngày hội trăng rằm của thiếu nhi cả nước, thay lời cho ban tổ chức tôi xin gửi đến quý ông bà và anh chị em lời chào yêu thương và quý mến.

Thưa quý vị  các em thiếu nhi thân mến!

Đến hẹn lại lên, cứ đến ngày rằm tháng 8, Họ đạo Sóc Trăng chúng ta lại tổ chức nhiều sinh hoạt mục vụ phong phú và đầy ý nghĩa…, với mong muốn giúp các em thêm niềm vui, tạo mối hiệp thông, liên kết tình bác ái yêu thương và giúp các em hoà nhập vào đời sống cộng đồng. Thông qua những hình thức vui chơi giải trí, nghệ thuật, văn hoá văn nghệ… hy vọng sẽ giúp cho các em sớm bộc lộ được những tài năng tiềm ẩn Chúa ban mà phát huy đúng cách và trúng hướng. Cho nên những hoạt động vui chơi giải trí lành mạnh trong đêm Trung Thu luôn là dự hướng không thể bỏ qua trong chương trình mục vụ của Họ đạo chúng ta.

Với ý nghĩa và mong muốn đó, tôi hy vọng quý vị phụ huynh, thầy cô và mọi tổ chức đoàn thể tích cực quan tâm, nâng đỡ và hướng dẫn các em, là thế hệ tương lai của xã hội và GH có thêm tin yêu cuộc sống, nỗ lực rèn luyện bản thân, chuyên chăm học tập và phấn đấu trở thành những người hữu ích và là con ngoan của Chúa trong lòng GH.

Thay lời cho ban tổ chức, tôi xin kính chúc quý vị phụ huynh, thầy cô, anh chị huynh trưởng và mọi người luôn mạnh khỏe, an vui và hạnh phúc trong cuộc sống. Chúc các con thiếu nhi một đêm trăng rằm thật vui, ấm áp và tràn đầy hạnh phúc bên bạn bè và gia đình!

Các riêng với người Công Giáo chúng ta, có thể nói rằng không có niềm vui nào mà không khởi đi từ Thiên Chúa. Bởi Ngài là Đấng sáng tạo đất trời, muôn vật muôn loài và đã ban tặng tất cả cho chúng ta, trong đó có ánh trăng sáng ngời. Nên trong ngày hội trăng rằm đêm hôm nay, chúng ta không quên dâng lên Thiên Chúa lời chúc tụng, ngợi khen và tạ ơn về những điều thật kì diệu do Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta.

Cuối lời, Cha cầu chúc các con Thiếu nhi luôn sống an vui, ngoan hiền, gìn giữ tâm hồn trong sáng như ánh trăng rằm, ngỏ hầu xứng danh là người kitô hữu và là người con yêu dấu của Chúa. Nguyện xin Chúa Giêsu luôn là người bạn đồng hành, yêu thương, gìn giữ, ban ơn và chúc lành cho tất cả các con.

Với những tâm tình đó, giờ đây tôi xin long trọng nói lên lời khai mạc đêm Trung Thu 2023, với chủ đề: “Vầng Trăng Yêu Thương-Giêsu”

 

3. Kính thưa cộng đoàn, 

Trong không khí rộn ràng khắp mọi miền đất nước chào đón Tết Trung Thu 2023, trước hết tôi xin gửi lời chào thân thương và quý mến đến tất cả quý ông bà và anh chị em, đặc biệt là các em thiếu nhi!

Trung thu được gọi là Tết của Thiếu nhi. Mỗi dịp Trung thu về, các em lại được quây quần bên gia đình và người thân để phá cỗ trông trăng; đây cũng là cơ hội để các em sum họp vui chơi múa hát thoả thích cùng với bạn bè, là dịp các em cảm nhận sâu sắc hơn về giá trị tình thân; nhờ đó tâm hồn các em được nuôi dưỡng thêm về những cảm xúc trong sáng của tuổi thơ.

Tết trung thu cũng là dịp để các em quan tâm biểu tỏ tình thương chia sẻ với nhau, và cũng là dịp nhắc nhở người lớn chúng ta về trách nhiệm quan trọng đối các em thiếu nhi, đặc biệt là những em có hoàn cảnh khó khăn, mồ côi cha mẹbệnh tật và thiếu thốn... bằng những hành động thiết thực, mong sao tất cả các em đều  cuộc sống đủ đầy và vui hưởng một cái Tết Trung Thu nên trọn vẹn và ý nghĩa.

Cha rất tự hào vì thời gian qua các con Thiếu nhi Họ đạo có nhiều tiến bộ, các con biết vâng lời và sống hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, thầy cô…, biết siêng năng học tập, biết làm việc giúp đỡ bạn bè, trợ giúp cha mẹ, nhất là biết tiết kiệm nuôi heo đất để hiệp thông vào sứ mạng chung tay xây dựng Họ đạo. Vui nhất là mỗi ngày nhìn thấy các con chăm ngoan, tích cực học giáo lý và siêng năng tham dự Thánh lễ.

Cha rất mong các con luôn biết nuôi dưỡng những ước mơ đẹp, biết yêu thương gia đình, biết lễ phép với người lớn, lưu tâm trao dồi đời sống đạo đức, tích cực chung tay gìn giữ môi trường sao cho: sáng, xanh, sạch, đẹp; lưu giữ mãi được tâm hồn trong trắng, hồn nhiên, đơn sơ và hiền hoà tựa ánh trăm rằm sáng tươi.

Tôi cũng không quên cám ơn tình thương của bao người đã bao bọc, chở che, đỡ nâng các em trên mọi chặng đường cuộc sống. Trong đó có các bậc phụ huynh, quý Cha, quý Soeurs, HĐMVGX, quý thầy cô GLV, anh chị Huynh trưởng, và tất cả quý vị ân nhân xa gần . . . đã hiệp hành: hiệp thông-tham gia vào sứ vụ cao quý là hướng dẫn và trợ giúp các em trên con đường nên thánh. Xin Chúa chúc lành và tuôn ban muôn vàn ơn phúc xuống trên quý vị.

Một lần nữa, thay lời cho ban tổ chức, tôi chúc mọi người, đặc biệt là các con Thiếu nhi một đêm lễ hội trăng rằm tràn ngập tiếng cười, niềm vui, bình an và hạnh phúc trong Chúa và Mẹ Maria!

Với những ý nghĩa và tâm tình đó, giờ đây tôi xin tuyên bố khai mạc đêm hội trăng rằm Tết Trung Thu 2023, với chủ đề: “VẦNG TRĂNG YÊU THƯƠNG-GIÊSU”.

Xin trân trọng cám ơn!

 

* Suy niệm mùa thường niên: Lc 9,18-22

Hôm nay thứ sáu, GH có thói quen tưởng nhớ mầu nhiệm tình yêu thập giá.  Nơi thập giá ấy thánh tâm CG bị đâm thâu, máu và nước tuôn chảy đến giọt cuối cùng vì yêu nhân loại chúng ta. Máu và nước thánh của Chúa trào tuôn để tẩy gột tội lỗi chúng ta và trào tràn ân sủng qua các bí tích cứu độ chúng ta.

Xin cho chúng ta biết đặt trọn niềm tin vào Đức Giêsu Kitô là Chúa của tình yêu  và sẵn sàng bước theo Ngài trên con đường tự hiến trong yêu thương và phục vụ nhằm thánh hóa bản thân và đem lại ích lợi cho tha nhân.

Đức Giêsu là ai? và con đường thực thi sứ mạng của Ngài là gì? Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ và với chúng ta qua đoạn Tin mừng hôm nay.

Sau một thời gian rao giảng thi hành sứ vụ đó đây, hôm nay Chúa Giêsu muốn làm một cuộc thăm dò có tính cách xã hội học. Nên Ngài phỏng vấn các môn đệ xem dư luận người ta bảo Thầy là ai?

Theo nghe ngóng đây đó, các môn đệ thấy có 3 luồng đánh giá về Thầy Giêsu.

Số người thì cho là Gioan Tẩy Giả, bởi lẽ Chúa Giêsu cũng có đời sống khắc khổ chay tịnh và mạnh mẽ lên án lối sống giả hình của người Pharisêu cũng như rao giảng về sự sám hối gần giống như Gioan Tẩy Gỉa. Một số người khác thì cho rằng là Êlia, bởi Chúa Giêsu cũng đã từng làm phép lạ tựa như Êlia xưa kia. Cũng có một số người xem Chúa Giêsu là một vị tiên tri vì cách chung họ cũng thấy Chúa cũng nói lời Chúa và tiên báo về những vấn đề tương lai như các tiên tri.

Nhưng có lẽ điều quan tâm nhất đối với Chúa Giêsu là các môn đệ hiểu về Ngài như thế nào? May mắn thay,  Phêrô đã thay mặt anh em tuyên xưng đúng như Ngài là: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại ngăn cấm các ông không được nói điều ấy với bất cứ ai cả và rồi Người mạc khải về con đường thương khó mà Người phải đi, để hoàn thành sứ mạng cứu độ theo thánh ý Chúa Cha. Qua lời loan báo này, Chúa Giêsu rất muốn các môn đệ và dân chúng phải hiểu đúng về vai trò đích thực “Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Đó là một Đấng Kitô cứu độ con người bằng con đường yêu thương:

- Chính vì yêu thương thế gian nên Chúa Giêsu đã chấp nhận từ  bỏ vinh quang và quyền thế của một vị Thiên Chúa tối cao để nhập thể làm người, ngoại trừ tội lỗi; đến nỗi những người Do Thái sống cùng thời với Người không nhận ra Thiên Tính đích thực của Người.

- Cũng vì quá yêu con người tội lỗi chúng ta, Chúa Giêsu đã chấp nhận đi vào con đường khổ nạn, đón nhận cái chết đau thương trên thập giá để cứu độ chúng ta theo thánh ý của Chúa Cha.

Xin cho chúng ta cảm nhận được tình thương lớn lao của Chúa, để ta biết nỗ lực sống xứng đáng với tình yêu ấy, cho dẫu phải đối mặt với bao gian nan thử thách trong cuộc sống hàng ngày.

 

Thứ bảy: Lc 9, 43b-45

Nhớ Thánh Giê-rô-ni-mô, Linh Mục, Tiến Sĩ Hội Thánh

Suy niệm 1: 

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu loan báo lần thứ 2 về cuộc khổ nạn của Người. Nhưng các tông đồ không hiểu hay không muốn hiểu vì những lời loan báo của Chúa Giêsu đi ngược lại với những gì các ông mong ước. Xin cho chúng ta hiểu rằng muốn đạt đến vinh quang phải trải qua con đường thập giá.

Kinh nghiệm cho thấy, mỗi người có những sở thích hay “gu” khác nhau về: ăn mặc, giải trí, nghề nghiệp, bạn bè và lý tưởng…

Có thể nói “gu” của các tông đồ là được sung sướng, được ca tụng, được vinh dự… Do đó không lạ gì khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài “Con người sẽ bị nộp vào tay người đời...”, các tông đồ đều không thích nên không hiểu hay không muốn hiểu vì không phải là “gu” mà các ông mong muốn.

“Gu” các tông đồ muốn là được làm lớn, lãnh đạo và đứng đầu nên có lần các ông đã tranh cải với nhau xem ai là người lớn nhất. “Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời?” (Mt 18,1).

“Gu” mà các tông đồ là mong muốn tận hưởng được một cuộc sống giàu sang, sung sướng, quyền thế nên sau khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn lần thứ nhất, tông đồ Phêrô can ngăn và đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời"Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cớ cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người." (Mt 16,22).

“Gu các tông đồ là muốn thống trị và buộc mọi người phải tùng phục mình, nên có lần ông Giacôbê và Gioan đã xin Chúa Giêsu sai lửa trời xuống để thiêu hủy làng Samaria vì không đón tiếp thầy trò các ông.“Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không?”. (Lc 9,54). 

“Gu” các tông đồ là muốn chiếm hữu độc quyền về đặc sủng của Chúa nên không muốn cho bất cứ ai được làm phép lạ như Thầy mình. Ông Gioan nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta." (Mc 9, 38).

Tóm lại “gu” của các tông đồ khi theo Chúa Giêsu là vì quyền lực, thống trị và tận hưởng vinh quang phú quý. Vì thế những gì đi ngược lại “gu” ấy đều nằm ngoài tai của các ông.

Rất có thể “Gu” của các tông đồ cũng là  “gu” của chúng ta. Nhưng chúng ta phải hiểu rằng: Nước mắt và nụ cười, đau khổ và hạnh phúc luôn đan xen vào nhau, dệt nên tấm thảm cuộc đời. Chính Chúa Giêsu đã chấp nhận đi vào trần gian và sống kiếp người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Người sẵn sàng vâng phục thánh ý của Chúa Cha để bước đi trên con đường thập giá để cứu độ nhân loại. Nên những ai muốn đạt đến đỉnh vinh quang và hạnh phúc đích thực thì không thể đi con đường nào khác ngoài con đường mang tên Giêsu theo như lời mời gọi của Người: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16,24).  

Xin cho chúng ta biết từ bỏ “gu” của ta để đón nhận theo “gu” Chúa bằng cách  yêu mến  đón nhận vác thập giá mình đi theo Chúa, nhờ đó mới xứng đáng trở thành môn đệ của Người. Đức Maria đã chấp nhận đi vào con đường “xin vâng”, sẵn sàng đón nhận thập giá cùng với con mình là Đức Giêsu. Nhờ đó mẹ đã được Chúa ân thưởng vinh quang rực rở trên trời và được người thế chúc tụng tôn vinh muôn thế hệ.


Suy niệm 2: NGƯỠNG MỘ

“Con Người sắp bị nộp vào tay người đời!”.

“Bạn không thể trải qua một ngày cách thành kính trừ khi bạn coi đó là ngày cuối đời của mình! Thật đáng ngưỡng mộ với một người luôn nghĩ về cái chết mỗi ngày. Ai cống hiến hết mình cho nó hàng giờ chắc chắn sẽ là một vị thánh! Một người từng nghe bản án tử hình của mình sẽ không lo lắng về cách vận hành của các rạp hát!” - John Climacus.

Kính thưa Anh Chị em,

Thật thú vị, Tin Mừng hôm nay chỉ ra vị thánh mà John Climacus phác hoạ, Chúa Giêsu! Bởi lẽ, đang khi mọi người tỏ ra ‘ngưỡng mộ’ Ngài thì một lần nữa, Chúa Giêsu lạnh lùng tuyên bố cuộc khổ nạn của mình, “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời!”.

Bối cảnh Phúc Âm xảy ra sau cuộc Biến Hình trên núi; và vừa xuống núi, Chúa Giêsu chữa lành một em bé động kinh. Luca ghi nhận, “Mọi người còn bỡ ngỡ về tất cả các việc Ngài làm”; tuy nhiên, Chúa Giêsu biết, sự ‘ngưỡng mộ’ đó sẽ không kéo dài, vì Ngài sắp lên Giêrusalem, nơi Ngài chịu khổ hình. Vì thế, Ngài nói, “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời!”. Và “Các môn đệ không hiểu lời đó, vì đối với các ông, lời đó còn bí ẩn”.

Nếu Chúa Giêsu nói, ‘Ngày mai Thầy sẽ đăng quang làm vua’; họ sẽ hiểu ngay! Vậy tại sao họ không hiểu? Trước hết, vì lòng trí họ đang bận tâm về lợi lộc trần thế; điều Ngài nói quá nghịch thường với những gì họ kỳ vọng. Thứ đến, họ quá ‘ngưỡng mộ’ Ngài về mặt tình cảm - dẫu là tốt - và sự ‘ngưỡng mộ’ này đã lấn át lý trí, khiến họ không hiểu kế hoạch tiềm ẩn của Chúa Cha trên Thầy mình. Tình cảm phải được hướng dẫn bởi Thánh Thần. Họ không hiểu, cũng ‘không dám hỏi’ vì sự ‘ngưỡng mộ’ đã nên vật cản, ngăn họ thấu hiểu ý nhiệm lớn lao của Chúa Cha, Ngài dâng mạng sống cho công trình cứu độ!

Rõ ràng, Chúa Giêsu không bị thúc đẩy bởi nhu cầu được ‘ngưỡng mộ’ từ phía con người. Ngài được thúc đẩy bởi sự ‘ngưỡng mộ’ của Cha. Và Ngài chỉ ước muốn làm theo ý Cha, hoàn thành công việc của Cha. Đó là lý do tại sao Ngài phải lên Giêrusalem, dù nơi đó không hứa hẹn một điều gì khác ngoài cái chết và cuộc khổ nạn.

Bài đọc Zacharia hôm nay cho thấy điều tương tự. Niềm tự hào thực sự về Giêrusalem không phải vì nó “Rộng bao nhiêu, dài bao nhiêu”, nhưng vì nó “Được Thiên Chúa ở cùng!”. Qua miệng Zacharia, Thiên Chúa phán, “Ta sẽ cư ngụ ở giữa chúng!”. Thánh Vịnh đáp ca lặp lại một lý do, “Chúa canh giữ chúng ta, như mục tử canh giữ đàn chiên!”.

Anh Chị em,

“Con Người sắp bị nộp vào tay người đời!”. Số phận cuối cùng của Chúa Giêsu mời gọi bạn và tôi tự hỏi, “Điều gì thúc đẩy tôi làm điều này, điều kia?”. Đó là nhu cầu được con người chấp nhận hay là một điều gì đó sâu sắc hơn? Chúng ta được kêu gọi biến ước muốn và ưu tiên của Chúa Giêsu thành của riêng mình! Làm công việc Cha trao, tiếp tục làm theo ý muốn của Cha sao cho phù hợp với ân sủng trong đấng bậc mình ‘ở đây, lúc này’. Chính lúc đó, bạn và tôi cảm nhận không chỉ niềm vui bên ngoài khi được con người chấp nhận mà còn cả niềm vui bên trong khi chúng ta “cống hiến hết mình hàng giờ” mà động cơ đến từ việc sống phù hợp với mục đích Chúa Cha dành cho cuộc đời mỗi người.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con lang thang rày đây mai đó ăn mày sự ‘ngưỡng mộ’ của thế gian. Cho con một chỉ tìm sự ‘ngưỡng mộ’ của Chúa, ‘ngưỡng mộ’ của thiên đàng!”, Amen.

(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)

 

Ngày 30/09: THÁNH GIÊRÔNIMÔ, LINH MỤC,TIẾN SĨ HỘI THÁNH

Nói về thánh Giêrônimô, không Kitô hữu nào không nhớ câu nói nổi tiếng của Ngài: “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”.  Và để mừng kỷ niệm 1600 năm ngày mất của Thánh Gieronimo ( 340- 390 ) Linh mục, tiến sĩ Hội Thánh, Đức Thánh Cha Phanxico ban hành Tông Thư Scripturae Sacrat Affectus (Lòng Yêu Mến Kinh Thánh) gửi đến mọi Kitô hữu, nhất là những Kitô hữu giáo dân Việt Nam vì rất ít giáo dân VN quan tâm đến việc tìm hiểu, học hỏi và truyền bá Lời Chúa chứa đựng trong kho tàng Thánh Kinh.

Vậy nhân ngày kính vị thánh đặc biệt này, chúng ta tìm hiểu đôi chút về ngài qua nguồn tgpsaigon.net:

A. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ

Giêrônimô sinh vào khoảng 347 trong xứ Dalmatia.

Lớn lên Giêrônimô du học ở Roma, học chuyên về sử và triết lý.

Giêrônimô có công tìm kiếm và mua sắm nhiều sách rất quí giá.

Lúc học ở Roma, Giêrônimô sống hơi buông thả một chút những lúc nào cũng giữ được lòng kính sợ Thiên Chúa.

Chính Đức Giáo Hoàng Liberrio rửa tội cho ngài.

Sau khi học xong, Giêrônimô có đi một vòng qua nước Pháp đến thành Trèves.

Cuối cùng thì Giêrônimô sang và ở luôn tại Antioche trong xứ Syria. Thời gian ở đây đánh dấu một bước ngoặt rất quan trọng trong việc hình thành ơn gọi nơi ngài. Ngài đã được chịu chức linh mục tại đây. Một đêm kia người mơ thấy Chúa hiện ra với mình.

Chúa hỏi:

- Giêrônimô, con là ai vậy?

Ngài trả lời:

- Con là con của Chúa, con là người có đạo.

Chúa trả lời lại:

- Nói láo! Phải nói con là của Cicêrô mới đúng.

Giêrônimô hiểu là ý Chúa muốn trách mình quá say mê Cicêrô - Cicêrô vừa là một nhà văn vừa là một nhà hùng biện rất nổi tiếng ở Roma - nên Giêrônimô quyết tâm sửa mình lại.

Ngay sau đó Giêrônimô bắt đầu học tiếng Hy lạp và Do thái với một mục đích duy nhất để có đủ khả năng dịch sách Kinh Thánh từ tiếng Hy Lạp ra tiếng Latinh.

Trong thời gian này Giêrônimô được Đức Thánh cha Damsus gọi Ngài về Roma một thời gian để làm thư ký riêng cho Ngài. Và cũng chính ở đây mà Ngài đã bắt đầu một công trình có một tầm vóc hết sức quan trọng cho Giáo hội: Ngài bắt đầu dịch Kinh Thánh bằng tiếng Hy Lạp sang tiếng Latinh.

Ở Roma được một thời gian, có lẽ vì cảm thấy Roma không phải là chỗ thích hợp cho công việc quá đặc biệt này cho nên Ngài đã trở lại xứ Palestine, vào sống một cuộc đời thầm lặng trong một tu viện ở Belem. Ngài sống tại đây suốt 34 năm trời...vừa tiếp tục học hỏi, tra cứu thêm để phục vụ Chúa trong các tác phẩm chống lạc giáo và nhất là để hoàn thành việc chuyển ngữ toàn bộ bộ Kinh Thánh sang tiếng Latinh.

Sau này chính Công Đồng Triđentinô đã tu sửa bản dịch này và đến nay vẫn được coi là văn bản chính thức của Giáo hội Công giáo Rôma.

Ngài là bạn rất thân của thánh Augustino. Chính thánh Augustinô cũng đã có nhiều lần nhắc đến Ngài như một người bạn và như một bậc thầy.

Theo cuốn niên sử ông Prosper thì thánh Giêrônimô qua đời quãng năm 420, hưởng thọ 92 tuổi tại Bethlehem.

Mặc dầu qua đời ở Palestina vào thời hỗn chiến, thánh Giêrônimô đã được toàn thể thế giới công giáo tôn sùng ngay từ mấy năm sau khi ngài tạ thế. Ở Rôma, người ta kính thánh nhân đặc biệt tại Đại Giáo Đường Đức Bà Cả. Dưới đời Đức Giáo Hoàng Bônifaciô VIII (1294-1303), thánh nhân được suy tôn bậc tiến sĩ ngang hàng với thánh Grêgôriô cả, thánh Âu Tinh và thánh Ambrôsiô, tức bốn vị giáo phụ ở Tây phương.

B. BÀI HỌC.

1. Dám hy sinh vì Chúa.

Bỏ cả sở thích riêng của mình. Khi được Chúa “cảnh cáo” dù chỉ là trong một giấc mơ, Giêrônimô đã sửa lại lỗi lầm của mình ngay. Đây là một điều rất khó nhưng Giêrônimô đã làm được.

Hy sinh cả cuộc đời cho Lời của Chúa. Chúng ta hãy cứ tưởng tượng xem một công trình lớn - là công trình chuyển ngữ Kinh Thánh tử tiếng Hy Lạp sang tiếng La tinh- như vậy mà hầu như chỉ có một mình ngài thực hiện thì thời giờ và công sức phải bỏ ra lớn đến mức độ như thế nào.

Để có một chút so sánh thì chúng ta hãy nhìn vào Giáo hội Việt Nam của chúng ta. Giáo hội công giáo Việt Nam đã tạm gọi là đã có hơn 4 thế kỷ nay. Vậy mà chỉ mới đây chúng ta mới có một tin vui là nhóm Phụng Vụ Giờ Kinh cho ra đời trọn bộ Kinh Thánh bằng tiếng Việt đầu tiên. Trước đây đã có một số bản những bản này có quá nhiều hạn chế và thiếu sai sót.

Phải đợi nhiều năm trời Giáo Hội Việt Nam mới có được bộ Kinh Thánh có tầm cỡ và xứng đáng như thế.

Vậy mà một mình Thánh Giêrônimô đã làm được công việc vĩ đại đó. Giáo hội dùng bản dịch của Ngài suốt từ thời đó cho đến nay. Điều đó đã tự khẳng định về tầm quan trọng và chỗ đứng của nó trong lịch sử Giáo hội.

2. Tiếp đến Thánh Giêrônimô đã biết chọn thật đúng nhu cầu của Giáo hội và đã làm hết sức mình để đáp ứng lại nhu cầu đó.

Vào hoàn cảnh lúc bấy giờ, người ta đã thấy thời đại của văn hóa Hy lạp đang suy tàn và thời đại văn minh Tây phương đi lên.

Phải nói Giêrônimô là một con người rất thức thời. Hiểu được những nhu cầu của Giáo hội và đáp ứng lại một cách hết sức tốt đẹp. Đây là bài học chung cho cả Giáo hội. Công đồng Vaticanô khi cho chuyển ngữ các bàn văn Phụng vụ bằng tiếng Latinh sang tiếng địa phương cũng nhắm chiều hướng này.

Hơn nữa ngày từ năm 1933 dưới triều Đức Giáo Hoàng Piô XI mà thánh Giêrônimô đã nghĩ đến việc phát động phong trào nghiên cứu và tìm hiểu Kinh thánh thì phải coi đây là sáng kiến và công việc hết sức mới mẻ mà mãi về sau Giáo Hội mới thấy sự sức cần thiết của công việc này. Bởi vậy, khi nhắc đến huân công và thiên tài dịch bộ Kinh Thánh của ngài, giáo sư M.J. Lagrange, một nhà nghiên cứu và chú giải Thánh kinh nổi tiếng của Giáo Hội hôm nay đã viết rằng: “Đó là một trong những sự nghiệp đáng thán phục nhất của trí óc nhân loại

Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta biết yêu mến Lời Chúa với tất cả tấm lòng của chúng ta .

Xin được kết thúc bằng lời chú giải của thánh Ép-rem, phó tế, về sách Tin Mừng tổng hợp.”Lạy Chúa, ai nào hiểu nổi dù chỉ một lời trong các lời Chúa phán. Như những kẻ khát nước uống nơi mạch suối, chúng con bỏ đi nhiều hơn là thu vào, bởi lẽ lời Chúa có muôn màu muôn vẻ, tuỳ theo nhận thức khác nhau của những người học hỏi. Chúa tô điểm cho lời Người bằng nhiều màu sắc, để ai học hỏi đều tìm thấy ở đó điều mình ưa thích. Người thiết lập nhiều kho tàng châu báu trong lời của mình, để ai trong chúng ta khai thác ở đâu thì nên giàu ở đó.

Lời Chúa là cây sự sống cung cấp cho bạn quả phúc từ mọi phần cây, tựa như tảng đá xưa trong sa mạc đã nứt ra để ban nước thiêng cho mọi thành phần dân Chúa, như thánh Phao-lô tông đồ nói : Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, cùng uống một thức uống linh thiêng. Vậy ai lãnh được phần nào trong kho tàng của Chúa thì đừng tưởng trong lời Chúa chỉ có bấy nhiêu thôi, nhưng phải nghĩ rằng mình chỉ thấy được có một trong nhiều điều chứa chất ở đó. Cũng đừng vì chỉ gặp được và lãnh nhận có một phần đó thôi mà coi nhẹ và bảo rằng lời Chúa nghèo nàn và cằn cỗi, nhưng bởi không thể lãnh hội hết nên hãy cảm tạ vì sự phong phú của lời Chúa.

Bạn hãy thưởng thức món bạn ăn và đừng buồn vì bạn không ăn hết được. Kẻ khát thì vui khi được uống và chẳng buồn vì không uống cạn được suối. Hãy để suối làm cho bạn đã khát, chứ đừng để cơn khát của bạn uống cạn suối, vì nếu bạn hết khát mà suối không cạn thì khi bạn lại khát, bạn có thể uống nữa. Còn nếu như bạn hết khát mà suối cũng cạn luôn thì việc bạn uống cạn suối sẽ trở nên tai hoạ cho bạn.

Hãy cảm tạ vì những gì bạn đã nhận được và đừng buồn vì phần còn lại quá nhiều. Cái bạn đã lãnh và đã tìm được là phần của bạn; ngoài ra cái còn lại là gia nghiệp bạn sẽ được hưởng. Điều mà trong một giờ bạn không lãnh được vì bạn yếu đuối thì bạn vẫn có thể lãnh nhận trong những giờ khác, nếu bạn kiên trì. Đừng vì tà ý mà cố gắng uống một hơi cho cạn cái không thể uống cạn một hơi, cũng đừng vì ngu dốt mà không uống cái bạn có thể uống từ từ. Amen.

Lạy thánh Giêrônimô, xin mở miệng chúng con để chúng con luôn ca ngợi và nói lời Chúa vì chỉ lời Chúa mới làm cho chúng con đi đúng đường và hạnh phúc.

Lm.Giuse Đinh Tất Quý

* Không biết Kinh Thánh là không biết Đức Ki-tô

Trích lời tựa sách chú giải ngôn sứ I-sai-a của thánh Giê-rô-ni-mô, linh mục.

Vâng lệnh Đức Ki-tô truyền : Hãy nghiên cứu Kinh Thánh và cứ tìm thì sẽ thấy, giờ đây tôi trả món nợ tôi mắc, kẻo phải cùng với người Do-thái nghe lời sau đây : Các ông lầm vì không biết Kinh Thánh cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. Quả vậy, nếu Đức Ki-tô là quyền năng và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa như thánh Phao-lô tông đồ nói, thì ai không biết Kinh Thánh là không biết Đức Ki-tô.

Bởi thế, tôi sẽ bắt chước chủ nhà kia lấy ra từ kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ và bắt chước vị hôn thê nói trong sách Diễm ca : Từ đầu mùa cho đến cuối mùa, em dành hết cho anh, hỡi người em yêu dấu. Vậy tôi trình bày sách I-sai-a để cho thấy tác giả không chỉ là ngôn sứ nhưng còn là người loan báo tin mừng và là tông đồ nữa. Quả thật, chính ông đã nói về mình và về các sứ giả khác cũng loan báo tin mừng : Đẹp thay bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an. Thiên Chúa cũng nói với ông như nói với một vị tông đồ : Ta sẽ sai ai đây ? Ai sẽ đi đến với dân này ? Và ông thưa : Dạ, con đây, xin sai con đi.

Xin đừng ai nghĩ rằng tôi muốn tóm gọn nội dung cuốn sách này trong một bài giảng ngắn, vì cuốn Sách Thánh này chứa toàn bộ những điều bí nhiệm về Chúa. Sách tiên báo Đấng Em-ma-nu-en sinh bởi Đức Trinh Nữ, Đấng làm những việc lẫy lừng và những dấu lạ, Đấng đã chết, được mai táng và đã từ âm phủ trỗi dậy : Người là Đấng cứu độ muôn dân. Tôi nói gì được về môn vật lý, luân lý và luận lý ? Tất cả những gì thuộc Sách Thánh, những gì miệng con người có thể nói ra, giác quan có thể cảm nhận, đều được chứa trong sách ấy. Về những mầu nhiệm trong sách đó, thì chính tác giả làm chứng như sau : Đối với các ngươi, thị kiến toàn là những lời ghi trong sách niêm phong. Người ta trao sách cho kẻ biết đọc và bảo : “Đọc đi !” Nhưng hắn nói : “Đọc sao được, sách đã niêm phong rồi !” Lại đưa sách cho kẻ không biết đọc và nói : “Đọc đi !” Hắn liền bảo : “Tôi nào đâu biết chữ !”

Nếu ai thấy điều nói trên là chưa đủ thì hãy nghe thánh Phao-lô tông đồ nói : Về các ngôn sứ, chỉ nên có hai hoặc ba người lên tiếng thôi, còn những người khác thì phân định. Nếu có ai ngồi đó được ơn mặc khải, thì người đang nói phải im đi. Vì lý do gì họ có thể im được, bởi lẽ nói hay im là việc của Thánh Thần nói qua các ngôn sứ ? Vậy, nếu họ hiểu được những điều họ nói, thì tất cả những điều đó đều là khôn ngoan và hợp lý ; không phải là tiếng nói chuyển qua không khí đập vào tai họ, nhưng là tiếng Thiên Chúa nói trong tâm hồn các ngôn sứ, theo lời một ngôn sứ khác như sau : Thần sứ đang nói với tôi và Chúng ta được kêu lên trong lòng “Áp-ba, Cha ơi”, lại nữa Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán.

(PVGK-GIỜ KINH SÁCH)

 

LỜI KHAI MẠC THÁNG MÂN CÔI (St)

I. Mỗi dịp tháng 10 về, GH nhắc nhớ chúng ta về tầm quan trọng của Kinh Mân Côi trong đời sống Đức tin.

Theo truyền thống, kinh Mân Côi thường được cho là do chính Đức Mẹ truyền dạy cho thánh Đa-minh để truyền bá cho nhân loại. Thực ra, việc đọc kinh Mân Côi đã bắt đầu hình thành từ những thế kỷ đầu tiên của lịch sử Kitô giáo. Có thể nói, thánh Đa-minh đã giúp phổ biến rộng rãi kinh Mân Côi trong Giáo hội qua lời kêu gọi cầu nguyện chống lại lạc giáo Albigeois.

Hình thức 150 kinh Mân Côi hay Kính Mừng cùng với việc suy gẫm 15 mầu nhiệm trong công trình cứu chuộc của Đức Kitô, được cắp xếp thành 3 phần gọi là năm sự Vui, năm sự Thương và năm sự Mừng đã từ có rất lâu trong Giáo Hội. Năm 2002, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã suy gẫm thêm Năm Sự Sáng như hiện nay.

Đức Mẹ nói trong các kinh nguyện chúng con dâng lên Mẹ thì không có lời nào đẹp lòng Mẹ cho bằng kinh Mân Côi. Chính vì vậy Mẹ mà đã ban cho những ai siêng năng lần chuỗi Mân Côi được nhiều ơn ích thiêng liêng theo ý nguyện.

Có thể nói hầu hết người tín hữu Công giáo chúng ta đều có một tràng chuỗi Mân Côi. Tuy nhiên không phải ai trong chúng ta cũng luôn mang tràng chuỗi bên mình để lần hạt mỗi ngày; cũng như không phải ai cũng hiểu rõ được ý nghĩa thâm sâu ẩn chứa bên trong kinh Mân Côi. Chuỗi Mân Côi không chỉ là một chuỗi hạt để lần đếm kinh, mà còn là một tràng hoa lòng dâng kính Đức Mẹ, là phương thức để chúng ta suy ngắm lại những mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Cứu Thế và của Mẹ Maria thông qua suy gẫm các mầu nhiệm: năm sự Vui-năm sự Sáng-năm sự Thương-năm sự Mừng; và trở nên như những “cửa sổ” để ân sủng của Chúa Giêsu chiếu dọi thông qua mầu nhiệm năm sự sáng do Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II đề ra.

Thánh Giáo hoàng Phaolô VI cũng từng quả quyết: “Tràng Kinh Mân côi là tràng xích cứu rỗi, rơi từ đôi tay chí thánh của Đức Chúa Giêsu KitôĐấng Cứu Độ con người và của Đức Mẹ Maria, Hiền Mẫu Ngài. Tràng Chuỗi Mân Côi tuôn đổ xuống trên chúng ta muôn vạn ơn lành. Và cũng từ Tràng Chuỗi Mân Côi, chúng ta dâng lên các Ngài mọi ước muốn cùng trọn niềm hy vọng của chúng ta.”  Bởi thế mà chuỗi Mân Côi khởi đầu và kết thúc bằng việc hôn tượng Chúa cứu chuộc, nghĩa là ta tin nhận và tôn kính tình yêu sáng tạo, cứu chuộc và thánh hoá của Ba Ngôi Thiên Chúa dành cho nhân loại chúng ta. Khởi đầu và kết thúc bằng chính tình yêu ấy. Vậy nên hi vọng mỗi người chúng ta cũng sẽ dùng tình yêu  đáp lại tình yêu thông qua việc năng lần hạt Mân Côi.

Chúa đã phán: “Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy.” (Mt 18,20) Nên trong Tháng Mân Côi này, mong muốn mỗi người mỗi người, mỗi gia đình trong Họ đạo chúng ta thường xuyên lần chuỗi Mân Côi hơn. Hi vọng mỗi người chúng ta biết hy sinh bớt chút thời gian cá nhân để tham gia tích cực vào các giờ kinh sáng tối gia đình, cũng như giờ kinh lễ chung của Họ đạo, với mong muốn lời kinh của ta được hòa chung với lời nguyện của cộng đoàn, cùng hiệp thông và tham gia với nhau trở thành một tràng hoa to lớn nhiều màu sắc và ngào ngạt hương thơm dâng kính Đức Maria là người Mẹ kính yêu của chúng taTin rằng với lời chuyển cầu thế giá của Đức Mẹ bên toà uy linh Thiên Chúa, Chúa sẽ đến, ngự giữa và chúc lành cho tất cả mọi người chúng ta.

 

II. Lịch sử GH ghi nhận những lần Đức Mẹ hiện ra với 3 trẻ Lucia, Giaxinta và Phanxicô, tại làng Fatima, thuộc đất nước Bồ Đào Nha, từ ngày 13/05/1917 đến 13/10/1917. Trong những lần hiện ra đó, Đức Mẹ đã nói với ba trẻ về nhiều điều khác nhau, nhưng có thể gom tóm lại trong ba mệnh lệnh quan trọng và được coi là phương thế tối hảo nhất để cứu vãn hoà bình thế giới, đó là: Hãy cải thiện đời sống; Hãy lần hạt Mân Côi; Hãy tôn sùng Trái tim Mẹ.

+ Hãy cải thiện đời sống: 

Cải thiện đời sống hay thống hối ăn năn sám hối là cụm từ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Kinh Thánh, từ Cựu Ước sang Tân Ước. Đó là chủ đề chính mà Thánh Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu rao giảng. Bởi vì, để được tha tội, để được cứu rỗi cần phải có lòng thống hối. Nên mỗi lần hiện ra ở Fatima, Đức Mẹ luôn nhắc đi nhắc lại với ba trẻ Lucia, Giaxinta và Phanxicô về việc sám hối và cải thiện đời sống.

Lần hiện ra ngày 13 tháng 06 năm 1917, chị Lucia xin Đức Mẹ chữa lành cho một bệnh nhân. Đức Mẹ trả lời: “Nếu anh ấy ăn năn trở lại, thì trong năm nay anh sẽ được chữa lành”. 

Lần hiện ra ngày 13 tháng 10 năm 1917, chị Lucia cũng muốn xin ơn cho một số người, Đức Mẹ nói: “Mẹ sẽ ban cho một số, còn một số thì không. Nhưng họ phải cải thiện và xin ơn tha thứ lỗi lầm của họ. Đừng xúc phạm đến Thiên Chúa nữa, vì Ngài đã bị xúc phạm quá nhiều rồi”. 

Năm 1858, khi hiện ra tại Lộ Đức, Đức Mẹ lặp đi lặp lại ba lần với Thánh nữ Bernadette: “Hãy sám hối, hãy sám hối, hãy sám hối”.

Vậy, để được tha thứ tội lỗi, để thực hiện lời Mẹ nhắn nhủ, mỗi người chúng ta hãy quyết tâm cải thiện đời sống của mình bằng cách sám hối ăn năn và lãnh nhận Bí tích Giao Hoà.

+ Siêng năng lần hạt Mân Côi: 

Năm 1208, Đức Mẹ đã thân hành hiện ra và dạy thánh Đa Minh truyền bá việc lần hạt Mân côi.

Năm 1858, khi hiện ra tại Lộ Đức, Đức Mẹ cũng mang tràng hạt theo và cùng lần hạt với Ber-na-dette.

Đặc biệt, ở Fatima, Đức Mẹ tự xưng mình là Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi. Ngài muốn chúng ta tỏ lòng tôn sùng Ngài trong phép lần hạt Mân Côi. Ngài khẩn khoản xin các em lần hạt, và cổ động cho người ta lần hạt, và đó cũng là một trong ba điều kiện để có hòa bình. Nhiều người nhờ ba trẻ xin Đức Mẹ ơn nọ ơn kia, Đức Mẹ thường trả lời: “Hãy bảo người ta lần hạt Mân Côi”. Chính trẻ Phanxicô lúc đầu không được trông thấy Đức Mẹ hiện ra, nhưng sau đó nghe lời chị Lucia, Phanxicô lần hạt và được thấy Đức  Mẹ.

Vậy, lâu nay chúng ta đã siêng năng lần hạt chưa? Hãy quyết tâm lần hạt, lần hạt mỗi ngày, lần hạt chung, lần hạt riêng và lần hạt một cách sốt sắng. Làm vậy là chúng ta không chỉ thực hiện lời Mẹ dạy mà còn đem lại lợi ích hồn xác cho chúng ta và cầu nguyện cho hoà bình thế giới và đem lại bình an cho gia đình.

+ Tôn sùng Trái Tim Mẹ: 

Mẹ Maria vừa là Mẹ Thiên Chúa vừa là Mẹ của chúng ta. Mẹ là Đấng trung gian, là máng thông ơn Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta là phải tôn sùng Mẹ. Hơn nữa, chính Mẹ đã đích thân khuyên nhủ mọi người hãy tôn sùng Trái Tim Mẹ, Trái Tim đã bị đâm thâu vì tội lỗi của loài người. Mẹ khuyên nhủ chúng ta hãy yên ủi Trái Tim Mẹ, hãy ẩn mình trong Trái Tim ấy để chúng ta làm mọi việc với Mẹ, trong Mẹ, vì Mẹ và cho Mẹ. Vậy, chúng ta đã làm những gì để thể hiện lòng tôn sùng Mẹ? Có nhiều cách để chúng ta thể hiện lòng tôn sùng Đức Mẹ:

- Tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ bằng cách mang ảnh Mẹ trong mình, trang hoàng bàn thờ Đức Mẹ trong gia đình, tôn kính ảnh tượng Mẹ tại các nơi công cộng.

- Tôn sùng Trái Tim Mẹ bằng cách quy tụ bên nhau lần hạt Mân Côi sáng tối trong gia đình.

- Tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ bằng cách đọc kinh cầu Đức Bà, đọc kinh Truyền Tin, tham dự thánh lễ hàng ngày, nhất là vào mỗi thứ bảy hàng tuần, hiệp thông lần chuỗi Mân côi trước đài Đức Mẹ.

- Đặc biệt, tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ bằng cách tận hiến và phó thác đời mình cho Mẹ.

Sứ điệp của Mẹ Fatima luôn mang tính thời sự. Ngày hôm nay, nhiều nơi trên thế giới vẫn đang còn chiến tranh. Tội lỗi, gương xấu vẫn lan tràn khắp nơi. Đất nước Việt Nam chúng ta lúc nào cũng bị đe doạ về vấn đề toàn vẹn lãnh thổ, môi trường, dịch bệnh, đạo đức luân lý xuống cấptai nạn giao thông luôn trực chờ, quốc nạn tham ô tham nhũng tràn lan…Để cứu vãn thế giới và đất nước ta thoát khỏi các đại nạn ấy, để mỗi người được hưởng ơn cứu độ, chúng ta hãy đến với Đức Mẹ, thực hành những sứ điệp do Mẹ trao ban là: Cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt, tôn sùng trái tim Mẹ.

Chúng ta nghe lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi tiếp kiến chung ngày thứ tư 11/5/2016, ngài nói: “Đức Mẹ Fatima mời gọi chúng ta một lần nữa hướng lòng cầu nguyện, ăn năn và hoán cải. Mẹ muốn chúng ta đừng bao giờ làm phiền lòng Chúa nữa. Mẹ báo trước cho toàn nhân loại về việc cần bỏ mình theo Chúa, nguồn cội của yêu thương và thương xót. Hãy theo gương thánh Gioan Phaolô II, một người sùng kính Đức Mẹ Fatima, hãy để tâm lắng nghe Mẹ Thiên Chúa và xin hòa bình cho thế giới. Chúc tụng Chúa Giêsu Kitô!”.

Cho nên khởi đầu tháng Mân Côi này, chúng ta hãy xin Mẹ luôn đồng hành với nhân loại chúng ta, nhất là trong những lúc khó khăn. Xin Mẹ tiếp tục hướng dẫn và chỉ dạy chúng ta đi đúng đường lối của Chúa. Nhất là xin cho mỗi người chúng ta biết cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt, sùng kính Trái Tim Mẹ để thế giới và đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta có được hoà bình thịnh vượng, gia đình và tâm hồn chúng ta có được niềm vui và bình an trong Chúa, nhờ Mẹ Maria. Amen.

 

* SUY NIỆM LỄ MÂN CÔI

CẦU NGUYỆN NHIỀU ĐỂ ĐƯỢC GÌ?

Có một người ngoại đạo từng hỏi cha thánh Pio rằng :

- Bạn “được” gì khi ngày nào cũng kiên trì cầu nguyện với Chúa như thế?

Ngài đã trả lời:

- Thường thì tôi chẳng giành được gì cả, mà thực ra “mất” đi nhiều thứ:

Tôi mất đi lòng tự cao

Tôi mất đi tính kiêu căng

Tôi mất đi sự tham lam

Tôi mất đi thói gian dối

Tôi mất đi tính nóng giận

Tôi mất đi tật xét đoán

Tôi mất đi sự hấp tấp

Tôi mất đi mong muốn phạm tội

Tôi mất đi lòng ghen ghét, hờn giận

Tôi mất đi sự chán nản, thất vọng và hèn nhát…

Như vậy, cầu nguyện không hẳn là để được điều này hay điều kia. Cầu nguyện có khi là để mất đi những thứ cản trở ơn Chúa đến với chúng ta. Ta càng cúi thấp xuống thì Chúa lại càng dốc cạn ân sủng vào trong tâm hồn chúng ta. Giống như mảnh ruộng càng trũng thì nước càng đầy và sẽ đảm bảo cho mảnh ruộng ấy thêm màu mỡ phì nhiêu.

Đối với cha thánh Pio thì phương thế cầu nguyện hiệu quả nhất chính là lần chuỗi Mân côi. Ngài cho rằng việc Đức Mẹ hiện ra ở mọi nơi kêu mời người ta đọc kinh Mân Côi là điều xác tín mạnh mẽ khiến ta phải chuyên cần đọc Kinh Mân Côi mỗi ngày để được ơn lành của Chúa, qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria.

Ngài còn nói: “Còn kinh nguyện nào đẹp hơn Kinh Mân Côi, bởi đó là kinh chính Mẹ dạy ta. Hãy luôn lần chuỗi Mân Côi”.

Hai ngày trước khi qua đời ngài còn nói: “Hãy yêu Đức Mẹ và làm cho Đức Mẹ được yêu. Hãy lần chuỗi Mân Côi và lần luôn luôn, lần càng nhiều càng tốt”.

Đức Mẹ cũng từng nói với thánh mữ Mec-tin-đa rằng: “Khi sống con đọc bao nhiêu kinh Kính mừng, khi chết con được bấy nhiêu ơn”.

Nhìn lại những ơn ích từ kinh Mân côi, ta có thể kết luận rằng: Lần chuỗi Kinh Mân Côi có thể mang lại hòa bình cho một thế giới đang gặp khủng hoảng và khó khăn như ta đã từng thấy qua thế chiến thứ I với Mẹ Fatima, chữa lành những trái tim tan vỡ, mang lại sự trong sáng cho những người đang bước đi trong đam mê tội lỗi như kinh nghiệm thiêng liêng của từng người chúng ta. Lần hạt Kinh Mân Côi cũng giúp chúng ta nhìn lại con người của mình và từng bước hoàn thiện con người của chúng ta hơn.

Cầu nguyện với kinh Mân côi không làm đau khổ biến mất, nhưng giúp chúng ta mạnh mẽ hơn, tin tưởng và lạc quan hơn để chiến đấu trước những thách đố và sóng gió ba thù do ma quỷ, thế gian và xác thịt lôi kéo.

Tháng 10 được gọi là tháng hoa hồng vì trong tháng này mọi tín hữu thể hiện lòng yêu mến Mẹ bằng việc dâng lên Mẹ tràng chuỗi Mân Côi kết thành muôn triệu bông hồng Mân côi dâng lên Mẹ.

Dâng lên Mẹ kinh Mân côi trong tâm tình biết ơn vì nhờ Mẹ mà chúng ta được bình yên, được thoát khỏi biết bao cám dỗ cùng những trở ngại trong cuộc sống.

Dâng lên Mẹ hàng triệu kinh Mân Côi để gởi gắm cuộc đời chúng ta trong bàn tay từ mẫu của Mẹ Maria để Mẹ xoa dịu nỗi khổ đau nơi tâm hồn và thân xác, cùng che chở gìn giữ chúng ta khỏi muôn vàn sự dữ luôn bủa vây.

Ước gì mỗi người chúng ta biết tận dụng tháng Mân Côi để xin ơn lành của Chúa qua lời cầu bầu của Mẹ Maria gìn giữ, che chở và ban bình an cho chúng ta trong mọi ngày sống và cho đến giờ lâm tử Amen.

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

  

SUY NIỆM TRONG TUẦN 25 THƯỜNG NIÊN

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

THỨ HAI: AI CÓ SẼ CHO THÊM

Lời Chúa là ngọn đèn. Đèn phải đặt trên cao để soi tỏ bước đi. Giống như ngọn hải đăng soi đường cho tầu bè đi trong đêm tối. Cũng vậy Lời Chúa phải hướng dẫn đời sống ta từ suy tưởng đến lời nói và đặc biệt trong việc làm. Lời Chúa phải trở thành châm ngôn, thành nguyên tắc, thành chỉ nam cho đời sống. Đời sống vốn tràn đầy bóng tối của ma quỉ, xác thịt, thế gian. Chỉ có Lời Chúa mới phá tan bóng tối, chỉ cho ta biết đi trên đường ngay thẳng.

Người sống và làm theo Lời Chúa dạy, dù có âm thầm thì rồi cũng sáng tỏ. Hữu xạ tự nhiên hương. Hương thơm nhân đức sẽ lan tỏa tới mọi người, sẽ ướp thơm xã hội, sẽ biến đổi môi trường sống. Và Lời Chúa sẽ được tôn vinh.

Người nghe và thực hành Lời Chúa giống như hạt giống gieo vào đất tốt. Sẽ sinh bông hạt trăm nghìn. Càng thực hành Lời Chúa cuộc sống càng phong phú. Càng lắng nghe Lời Chúa tâm hồn càng bén nhậy và càng được Chúa mặc khải những chân lý cao sâu. Càng đi vào mầu nhiệm Nước Trời, tâm hồn càng nếm cảm sự ngọt ngào của tình yêu Thiên Chúa. Cứ thế mùa gặt càng thêm phong phú.

Vua Ky-rô là mẫu gương của người nghe và thực hành Lời Chúa. Được Lời Chúa phán bảo, nhà vua tức khắc ra chỉ thị tái thiết Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Kêu gọi người Ít-ra-en trở về xây dựng đền thờ. Chỉ thị cho mọi người trong đế quốc rộng rãi đóng góp vàng bạc, đồ vật quí giá và cả thực phẩm. Chỉ thị đó đem lại ánh sáng cho bao tâm hồn, từ người Do thái đến người dân ngoại, từ người ở Pa-lét-tin đến người đang lưu đầy xa xứ, từ bậc trưởng thượng đến hàng lê thứ. “Những người đứng đầu các gia tộc của Giu-đa và Ben-gia-min, các tư tế và các thầy Lê-vi, tất cả những người được Thiên Chúa tác động trên tâm trí, trỗi dậy để đi lên xây Nhà Đức Chúa ở Giê-ru-sa-lem. Mọi người hàng xóm láng giềng đều mạnh tay giúp họ: bạc, vàng, của cải, thú vật, những đồ vật có giá, không kể mọi lễ vật tự nguyện” (năm lẻ).

Trong đường hướng đó, sách Châm ngôn khuyên dậy ta hãy thực hành Lời Chúa, đặc biệt hãy làm điều lành cho tha nhân. Người thực hành Lời Chúa sẽ đi trên đường ngay thẳng, hành động chính trực công minh và được Chúa ban ngàn muôn phúc lành. Đặc biệt “những ai chính trực Người nhận làm bạn tâm giao…Đức Chúa tuổn đổ phúc lành trên nơi ở của những người chính trực công minh”. Được Chúa là được tất cả. Người được Chúa sẽ được hạnh phúc. Càng yêu mến và càng muốn nghe và thực hành Lời Chúa hơn. Đó là có lại cho thêm (năm chẵn).

 

THỨ BA: SÂU HƠN, CAO HƠN, RỘNG HƠN

Khi trả lời “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”, Chúa Giê-su không có ý chối từ Đức Mẹ. Trái lại còn ngợi khen Đức Mẹ. Và nhân đó nói lên mối liên hệ gia đình cần phải sâu hơn, cao hơn và rộng hơn mối liên hệ huyết thống.

Liên hệ huyết thống tuy sâu xa, nhưng những ai nghe và giữ Lời Chúa thì kết hợp sâu xa hơn nhiều. Liên hệ gia đình thiêng liêng mới bền vững mãi mãi, vì có Lời Chúa làm nền tảng.

Liên hệ huyết thống tuy cao quí, nhưng chỉ dừng lại ở giới hạn phàm trần. Những ai nghe và giữ Lời Chúa tạo thành một gia đình cao hơn, bởi vươn lên tới Thiên Chúa và trở thành gia đình của Thiên Chúa.

Liên hệ huyết thống trần gian luôn bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Nhưng gia đình Thiên Chúa thì rộng lớn bao la vượt qua không gian và thời gian. Bất cứ nơi đâu có người nghe và giữ Lời Chúa thì thuộc gia đình của Chúa .

Đức Mẹ đã nghe và giữ Lời Chúa. Suốt đời kết hợp với Chúa Giê-su. Luôn thực hành thánh ý Chúa Cha. Nên mối liên hệ huyết thống với Chúa Giê-su đã vượt lên. Trở thành cao hơn, sâu hơn và rộng hơn.

Vua Đa-ri-ô khi nghe và thực hành Lời Chúa, đã biến cả vương quốc của vua thành một gia đình. Mọi người không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, đều góp phần vào việc tái thiết đền thờ Giê-ru-sa-lem. “Đây là lệnh ta ban cho các ngươi về cách đối xử với hàng kỳ mục Do-thái trong việc tái thiết Nhà Thiên Chúa: phải lấy tiền bạc của nhà vua trích từ thuế thu được ở Vùng bên kia sông Êu-phơ-rát, mà cung cấp đầy đủ các chi phí cho những người đó”. Đó là một gia đình rộng lớn khắp đế quốc Ba-Tư. Một gia đình nghe và thực hành Lời Chúa. Một gia đình của Thiên Chúa (năm lẻ).

Đó chính là thực hành lời sách Châm ngôn: “Trong tay Đức Chúa, lòng vua tựa dòng nước chảy, Người lèo lái đi đâu tuỳ ý Người”. Không theo ý Chúa thì mọi việc rơi vào thất bại tàn lụi. Làm theo ý Chúa thì kết quả bền vững tốt đẹp: “Các người cho lối sống của mình là ngay thẳng, nhưng Đức Chúa thấu suốt mọi tâm can. Thực thi điều công minh chính trực thì đẹp lòng Đức Chúa hơn là dâng hy lễ” (năm chẵn).

Nghe và thực hành Lời Chúa. Ta trở thành gia đình của Chúa. Thật vinh dự cao quí biết bao!

 

THỨ TƯ: CHÚA LÀ TẤT CẢ

Anh em đừng mang gì đi đường”. Nước Thiên Chúa không phải là nước trần gian. Nước trần gian cần nhiều phương tiện như lãnh thổ, tài nguyên, quân đội. Nước Thiên Chúa chỉ cần có Thiên Chúa. Thiên Chúa là tất cả.

Sống đơn sơ khó nghèo, người môn đệ làm sáng lên sự hiện diện của Thiên Chúa cao cả. Không bám víu vào phương tiện trần gian, người môn đệ làm sáng lên sức mạnh của Thiên Chúa toàn năng. Hai bàn tay trắng người môn đệ làm chứng về niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa và phó thác vận mệnh trong tay Người. Hành trang người môn đệ đơn sơ chỉ cần mang Thiên Chúa trong mình, đó là có tất cả.

Người môn đệ cậy dựa vào các phương tiện trần gian sẽ thất bại. Chỉ khi có Chúa việc tông đồ mới thành công. Ta hãy so sánh thời đại chúng ta với thời các tông đồ. Thời đó các ngài không có gì hết. Không cơ sở. Không nhân sự. Không tiền của. Bị bắt bớ. Thế mà việc truyền giáo phát triển với tốc độ vũ bão. Còn ngày nay ta có nhiều cơ sở hơn. Nhiều nhân sự hơn. Nhiều tiền của hơn. Ít bị bắt bớ hơn. Nhưng việc truyền giáo ì ạch. Lại còn có nhiều người bỏ đạo nữa.

Ta thất bại vì không có Chúa. Không có Chúa vì ta phạm tội. Ét-ra đau đớn nhận biết tội lỗi của cha ông đã quên Thiên Chúa, chỉ trông cậy vào thế lực trần gian nên đã bị trừng phạt nặng nề, bị lưu đày, bị làm nô lệ, bị tan nát, xấu hổ. “Từ thời tổ tiên chúng con cho đến ngày nay, vì chúng con đã mắc lỗi nặng và phạm tội, nên các vua và các tư tế của chúng con đã bị nộp vào tay vua chúa các nước ngoại bang”. Nay được Thiên Chúa thương đưa về quê nhà, ông xin nhất tâm xây dựng Đền Thờ để khuyến khích toàn dân thờ phượng Thiên Chúa là nguồn mạch sức mạnh, bình an và thịnh vượng. Tái thiết đền thờ chính là tái thiết con người. Ăn năn sám hối. Sống thánh thiện. Có Chúa ở cùng, sẽ có tất cả (năm lẻ).

Tác giả sách Châm ngôn cũng giúp ta ý thức điều này. Ông chỉ tha thiết được có Chúa. Vì Chúa là tất cả: “Mọi lời Thiên Chúa phán đều được chứng nghiệm, Người là khiên thuẫn cho ai tìm ẩn náu nơi Người”. Vì thế ông không dám xin Chúa sự gì nơi trần gian. Chỉ xin Chúa ban cho sống một đời sống đừng xa lìa Chúa, đừng lỗi phạm đến Chúa. Vì thế ông không xin sang giầu vì sợ sang giầu làm cho tâm hồn xa Chúa. Ông cũng xin Chúa đừng để ông nghèo đói vì sợ đói ăn vụng túng làm liều sẽ làm ô danh Chúa. Đây là một thái độ khôn ngoan chúng ta phải học hỏi và thực hành trong đời sống. Chỉ cần có Chúa. Lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Tránh xa những gì ngăn cách ta với Chúa. Có Chúa ở cùng ta sẽ có tất cả (năm chẵn).

 

THỨ NĂM: PHÙ VÂN CHỈ LÀ PHÙ VÂN

Nghe những lời đồn thổi về Chúa Giê-su, Hê-rô-đê lo sợ. Vì người ta cho rằng Gio-an Tẩy giả sống lại. Mà ông đã giết chết thánh Gio-an. Có quyền sinh sát. Nhưng ông không có quyền trên lương tâm. Tuy chẳng ai dám phản đối, nhưng lương tâm kêu trách ông. Ông là vua. Nhưng có Đấng cao cả hơn ông. Có quyền phán xét ông. Thưởng phạt ông. Nên ông phải phân vân về việc làm của mình. Ông giết thánh Gio-an Tẩy giả. Giờ đây tiếng máu vô tội giầy vò ông, chất vấn ông. Mọi biến cố đều qua đi. Nhưng cách ta ứng xử với mỗi biến cố lại tồn tại. Và trở thành lời phán xét ta. Vì trên quyền thế trần gian, vẫn còn có Chúa Tể Càn Khôn cầm cân nảy mực. “Ông Gio-an, chính ta đã chém đầu rồi! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?” Đầu chém rồi nhưng trách nhiệm chưa hết đâu!

Có những điều mau qua. Nhưng vẫn còn đó những giá trị vĩnh cửu. Ông Cô-he-lét nói: “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân. Lợi lộc gì đâu khi con người phải chịu đựng bao gian lao vất vả dưới ánh nắng mặt trời? Thế hệ này đi, thế hệ kia đến, nhưng trái đất mãi mãi trường tồn”. Ông khám phá ra chân lý. Mọi sự đều hư ảo. Nhưng vẫn có thứ trường tồn. Đừng dại dột vất vả thu tích những gì hư ảo chóng qua như phù vân. Hẫy làm việc mà tìm kiếm điều vĩnh cửu (năm chẵn).

Ét-ra cho biết những gì ngoài Thiên Chúa đều vô ích vì mau qua và không kết quả. Chỉ khi nào ta tôn thờ Thiên Chúa làm mọi việc trong Thiên Chúa bấy giờ mọi thứ mới vững bền. Vì thế phải làm việc cho Thiên Chúa và trong Thiên Chúa. Nếu chỉ làm cho bản thân mọi sự sẽ suy tàn: “Các ngươi hãy để tâm suy cho kỹ về lối sống của các ngươi. Các ngươi gieo vãi nhiều, nhưng thu hoạch chẳng bao nhiêu. Các ngươi ăn mà không đủ no, uống không đủ say, mặc không đủ ấm. Đồng lương của người làm thuê lọt qua túi thủng. Đức Chúa các đạo binh phán thế này: Các ngươi hãy để tâm suy cho kỹ về lối sống của các ngươi. Hãy lên núi, đưa gỗ về tái thiết Đền Thờ cho Ta. Ta sẽ lấy làm vui và tỏ vinh quang Ta ở đó” (năm lẻ).

Khi có Chúa ở cùng mọi việc sẽ tốt đẹp. Đất sẽ trổ sinh hoa trái. Hãy ở trong Chúa. Hãy làm việc trong Chúa. Kết quả sẽ vững bền. Ngoài Chúa tất cả là hư vô. Là phù vân trên mọi phù vân.

 

THỨ SÁU: ĐẾN THỜI ĐẾN BUỔI

Sau thời gian lưu đầy, dân Ít-ra-en chán nản. Vì Đền Thờ xưa kia lộng lẫy nguy nga. Nhưng nay đã điêu tàn xiêu vẹo. Chúa khích lệ họ: “Hỡi Dơ-rúp-ba-ven, hãy mạnh bạo lên! Này thượng tế Giê-su-a, con ông Gio-hô-xa-đắc, mạnh bạo lên nào! Toàn dân trong xứ hãy mạnh bạo lên!…Chỉ còn một thời gian ngắn nữa thôi…Ta sẽ làm cho Đền Thờ này rực rỡ vinh quang”. Quả thực Đền Thờ phải trải qua những thăng trầm. Lộng lẫy nguy nga. Điêu tàn xiêu vẹo. Rồi Chúa sẽ tái thiết cho Đền Thờ rực rỡ vinh quang hơn trước (năm lẻ).

Chúa hứa tái thiết Đền Thờ. Nhưng thực ra sau này Chúa Giê-su cho biết, chính Người là Đền Thờ. Đền thờ Chúa Giê-su cũng đã có thời nguy nga lộng lẫy. Đó là khi danh tiếng Người vang dội. Toàn dân ngưỡng mộ. Tuy nhiên đó là những cảm tính chưa đúng thực và chưa sâu xa. Họ cho rằng Chúa là một người nào khác: “Họ bảo Thầy là Gio-an Tẩy giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại”. Chỉ có Phê-rô có nhận thức đúng: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa”. Tuy nhiên vẫn chưa đến thời đến buổi để tiết lộ. Vì dân còn mang nặng não trạng trần tục về một Đấng Cứu Thế oai phong lẫm liệt. Nếu sớm biết Chúa là Đấng Ki-tô, họ sẽ tôn Chúa lên làm vua. Sẽ chính trị hoá tôn giáo. Và cuộc chạm trán với người Rô-ma là không tránh khỏi. Chúa muốn họ hiểu cho đúng về Đấng Cứu Thế. Muốn họ đi vào tâm tình tôn giáo. Chính Người cần phải trải qua đau khổ, và cả chịu chết. Để mọi người không còn ảo tưởng về Đấng Cứu Thế chính trị. Chính vì thế trước toà Phi-la-tô, khi đã thân tàn ma dại, Người mới xưng mình là vua. Người phải nhụ nhã. Rồi sau đó mới được vinh quang. Đền Thờ phải phá đi rồi mới xây lại (Tin mừng).

Sách Giảng viên dạy ta biết “Thiên Chúa làm mọi sự hợp thời đúng lúc”. Đó là qui luật ở đời này: “Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời: một thời để chào đời, một thời để lìa thế;…một thời để giết chết, một thời để chữa lành…”(năm chẵn).

Ta hãy noi theo gương Chúa Giê-su. Sống ở trần gian phải chấp nhận đau khổ thử thách. Nhưng đừng thất vọng. Vì rồi đến thời đến buổi Chúa sẽ ban ơn giải thoát ta. Phải trải qua thời sám hối ăn năn mới đến thời trong trắng an bình. Phải chịu phá đổ. Rồi mới xây dựng lại. Chấp nhận quên mình đi. Từ bỏ mình. Chết cho bản thân. Đến thời đến buổi ta sẽ tìm lại được chính mình. Sẽ được Chúa làm phần thưởng. Và sẽ được sống muôn đời.

 

THỨ BẢY: CON NGƯỜI SẼ BỊ NỘP VÀO TAY NGƯỜI ĐỜI

Chúa Giê-su đang làm những phép lạ lẫy lừng khiến mọi người thán phục. Đột nhiên Người nói dõng dạc với các môn đệ: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời” khiến các môn đệ sợ hãi. Thủ lãnh thế gian được quyền hoành hành ở thế gian trong một thời gian. Đó là thời kỳ thanh luyện. Chính Chúa, trong thân phận con người, cũng phải chịu một phép rửa thanh luyện. Đó là chịu đau khổ, chịu nhục nhã, chịu chết. Để thắng vượt mọi cám dỗ trần gian. Để siêu thoát mọi ràng buộc của xác thịt và thế gian. Để tự do đi vào Nước Trời. Để giải phóng con người khỏi ách nô lệ của ma quỉ, xác thịt, thế gian. Để mở con đường thăng tiến cho nhân loại. Đó là con đường khó khăn và đau khổ. Đến nỗi các môn đệ sợ hãi không dám hỏi lại.

Nhưng đó là con đường đúng đắn và cần thiết. Vì những giá trị trần gian chỉ là phù vân. Như sách Giảng viên khuyên nhủ thanh niên. Ngay lúc tuổi thanh xuân tươi đẹp hãy biết chuẩn bị cho đời sau. Vì đời này là chóng qua. “Giữa tuổi thanh xuân, bạn hãy tưởng nhớ Đấng đã dựng nên mình. Đừng chờ đến ngày tai ương ập tới, đừng chờ cho năm tháng qua đi, …Đừng chờ đến khi bụi đất lại trở về với đất, khi phàm nhân trả lại cho Thiên Chúa hơi thở Người đã ban cho mình…Phù vân chỉ là phù vân”. Hãy biết tích trữ kho tàng vĩnh cửu. Hãy biết sẽ bị Thiên Chúa xét xử để biết từ bỏ những cám dỗ vật chất trần gian. Mà chuẩn bị cho Nước Trời (năm chẵn).

Khi thế giới phù vân qua đi, một thế giới mới xuất hiện. Chúa lập nên thành Giê-ru-sa-lem mới. Vô cùng rộng lớn vì không còn biên giới. Vô cùng hạnh phúc vì được Chúa bảo vệ. Vô cùng lộng lẫy vì Chúa là vinh quang của thành. Đó là trời mới đất mới. Nơi chan hoà tiếng đàn ca. Nơi chan chứa tiếng vui cười. Nơi hạnh phúc vĩnh viễn. “Giê-ru-sa-lem phải là một thành rộng mở, sẽ có vô số người và súc vật đên cư ngụ ở đó. Phần Ta, sấm ngôn của Đức Chúa, Ta sẽ là tường luỹ bằng lửa bao quanh nó, và Ta sẽ là vinh quang ở giữa nó. Hỡi con gái Xi-on, hãy vui sướng reo hò, vì này Ta đang đến để ở lại giữa ngươi” (năm lẻ).

Chúa bị nộp vào tay người đời. Đó là tấm gương cho tôi biết sẵn sàng chịu thiệt thòi ở đời này. Từ bỏ những ràng buộc của danh vọng chức quyền đời này. Chắc chắn đó là một cuộc thanh luyện đớn đau. Nhưng khi sạch mọi vương vấn trần tục tôi mới có thể bước vào thành Giê-ru-sa-lem mới rạng ngời vinh quang, hạnh phúc vĩnh cửu.

Lạy Chúa xin cho con biết trao nộp vào tay người đời tất cả những gì của họ. Để con thuộc về Chúa. Thuộc về Nước Chúa.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XIV THƯỜNG NIÊN Lm. Nguyệt Giang CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN B Ed 2,2-5; 2Cr 12,7-10; Mc 6,1-6 Suy niệm 1: ...