SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN
XXII THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN
A
Gr 20,7-9; Rm 12,1-2; Mt
16,21-27
Suy niệm 1:
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết những điều kiện căn bản để trở nên
môn đệ chân chính của Chúa Giêsu. Đó là “từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng
ngày mà theo.”
Xin cho mỗi ngày chúng ta dám từ bỏ ý mình để vâng theo ý chúa, từ bỏ
lối sống vị kỉ để sống vị tha và sẵn sàng dấn thân hy sinh vác thập giá mình
hằng ngày để tiến bước theo Chúa Giêsu, Đấng đáng chúng ta tin tưởng và yêu
mến.
Cuộc sống chúng ta là một chuỗi những chọn lựa. Chính vì những lựa chọn
cách tự do mà đưa đến những hệ lụy tốt-xấu, thành công-thất bại, hạnh phúc- đau
khổ… cho cuộc đời của ta. Lựa chọn nào cũng đòi buộc chúng ta phải từ bỏ,
mà từ bỏ lại đòi hỏi chúng ta phải hy sinh, mà hy sinh nào cũng dẫn đến mất mác
và đau đớn.
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu mong muốn chúng ta cần phải có thái độ dứt
khoát trong chọn lựa khi theo làm môn đệ Ngài: “ai muốn theo Ta, phải từ bỏ
mình, vác thập giá hằng ngày mà theo.” Khi gọi các môn đệ, Chúa Giêsu
luôn đòi hỏi các ông phải chấp nhận từ bỏ mọi sự: Bỏ tình thân, tiền bạc của
cải, nghề nghiệp, danh vọng, lạc thú, nhất là con người cũ với những tật xấu để
bước theo Ngài. Từ bỏ mọi sự là không được nhượng bộ xác thịt, không được dung
dưỡng sự lười biếng và thỏa hiệp với lòng ham muốn ích kỉ… Nhưng trên hết phải
là từ bỏ chính mình, bởi lẽ nếu có bỏ tất cả mà chưa từ bỏ mình thì coi như ta
chưa từ bỏ gì cả, từ từ ta sẽ gom lại tất cả những gì mà mình đã bỏ rơi.
Trong kho tàng văn hóa thần bí của người Ấn độ, người ta đọc thấy một
câu chuyện răn đời rất lý thú sau đây:
Sau một thời gian dài kiên nhẫn chịu đựng để hướng dẫn tu luyện, một vị
linh sư Ấn giáo nọ rất hài lòng về sự tiến bộ của người đệ tử ruột của ông.
Nhận thức rằng người đệ tử không cần đến sự dìu dắt huấn luyện của mình nữa,
nên một ngày kia, vị linh sư mới bỏ mặc anh trong một túp lều tranh rách nát
bên cạnh một bờ sông.
Thực hiện huấn dụ của vị linh sư, mỗi buổi sáng khi thức dậy, người đệ
tử dìm mình xuống dòng sông để thanh tẩy theo đúng nghi thức Ấn giáo, rồi anh
giặt chiếc áo rách của mình. Bởi chiếc áo rách ấy là tài sản duy nhất của
anh.
Một ngày kia, người đệ tử xót xa vô hạn khi phát giác chiếc áo duy nhất
của mình phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn rách tả tơi! Không còn cách nào khác,
người đệ tử đành phải gõ cửa dân làng để xin một chiếc áo khác. Nhưng chẳng bao lâu, chiếc áo này cũng bị chuột cắn nát!
Lúc đó anh mới nảy sinh ý nghĩ vào làng xin cho kỳ được một con mèo để từ nay
anh không phải lo lắng về sự quấy phá của mấy chú chuột nữa. Nhưng người đệ tử
này thuộc môn phái khất thực ngày ngày phải vào làng xin cơm bánh cho mình.
Ngày này qua ngày khác, anh phải vác bị đi khất thực! Bỗng nhiên một
ngày nọ, anh cảm thấy xấu hổ vì bao năm qua, mình đã trở nên gánh nặng
cho dân làng! Nghĩ thế, anh đã tìm đủ mọi cách để tậu cho bằng được một con bò
để làm vốn nuôi sống bản thân. Nhưng có bò rồi thì cũng phải cắt cỏ cho bò ăn.
Những ngày đầu, anh tự mình đi cắt cỏ cho bò. Nhưng về lâu về dài, nhận thấy
không còn thời giờ để ngồi thiền và cầu nguyện, anh đành phải thuê một người
cắt cỏ cho bò. Con bò ngày càng sinh sản ra nhiều.
Chẳng bao lâu đã trở thành một đàn bò đông đúc, nên số người cắt cỏ cũng phải
gia tăng theo nhịp độ phát triển của đàn bò. Thế là chỉ mấy năm sau, mảnh đất
chung quanh túp lều tranh của anh biến thành một nông trại trù phú sung túc.
Con người đã một thời muốn từ bỏ tất cả mọi sự để trở thành một tu sĩ,
một vị linh sư trong Ấn giáo, thì nay đã nghiễm nhiên trở thành một ông chủ
nông trại giàu có danh tiếng. Có tiền và có tất cả mọi sự, nên anh nghĩ phải có
một người tâm đầu ý hợp để cùng anh tâm sự và chia sẻ công việc. Sau cùng anh
đành phải cưới một người vợ trẻ đẹp và trở thành một ông chủ nông trại giàu có
và quyền thế nhất trong vùng.
Hai mươi năm trôi qua, trong một dịp trở lại thăm ngôi làng cũ, vị linh
sư Ấn giáo khi xưa đã một thời dẫn dắt anh trên đường tu trì, vô cùng ngạc
nhiên vì túp lều tranh rách nát nghèo nàn bên bờ sông ngày nào, nay đã biến
thành cơ nghiệp đồ sộ lớn lao. Thăm hỏi dân làng
vị linh sư mới biết người chủ nông trại giàu có uy quyền hống hách này là đệ tử
mình. Vị linh sư mới ôn tồn lên tiếng hỏi người đệ tử của mình: " Thế này
nghĩa là gì hả con?! ".
Người đệ tử suy nghĩ hồi lâu rồi trả lời: "Thưa Thày, có lẽ Thày
không tin. Nhưng tất cả cơ nghiệp này, được như hôm nay, cũng chỉ vì con đã
không đủ can đảm tìm mọi cách để giữ được chiếc áo rách!"
Câu chuyện trên giúp ta hiểu rằng: bỏ mọi sự phải là từ bỏ cách dứt
khoát và trọn vẹn thì mới có thể đi theo Chúa được.
Bởi vì đi theo Chúa là đi chứ không đứng, là thực hiện chứ không ước
muốn, vì “hoả ngục thuờng được lát bằng những thiện chí.”
Đi theo Chúa là tiến bước chứ không được lùi hay đứng tại chỗ. Sao cho
mỗi ngày ta phải thấy mình được gần Chúa và gần anh em hơn.
Đi theo Chúa cũng có nghĩa là không bao giờ được theo ai khác. Phải xác
định chắc chắn rằng: “Đức Giêsu Kitô phải là thần tượng duy nhất của đời tôi,
đó là một Đức Giêsu Kitô đã chịu đóng đinh và đã chết và đã phục sinh vì tình
yêu để cứu cứu độ nhân loại chúng ta.”
Đi theo Ngài cũng đồng nghĩa là không được bắt Ngài phải đi theo tôi hay
theo ý muốn của tôi.
Ước gì mỗi chúng ta dám hy sinh từ bỏ ý mình để vâng theo ý Chúa.
Biết bỏ đi những ước muốn và toan tính của mình để vâng theo ý định của Chúa.
Biết ưu tiên làm việc Chúa hơn việc mình. Biết sống cho và vì Chúa hơn sống cho
và vì mình. Bởi ta hiểu được ý Chúa, việc Chúa, cho Chúa và vì Chúa… thì luôn
thiện hảo và ích lợi cho ta hơn những gì là của chúng ta.
Suy niệm 2: ĐƯỜNG DẪN ĐẾN NIỀM VUI ĐÍCH THỰC
Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta đã trở thành
Kitô hữu. Từ ngữ “Kitô hữu” có nghĩa là người thuộc về Chúa Kitô hay người được
mang danh Chúa Kitô. Đã là Kitô hữu thì phải theo Chúa Kitô.
Theo ở đây không phải chỉ tuyên xưng Ngài
là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” như thánh Phêrô đã
tuyên xưng. Theo Chúa không phải là chỉ chấp nhận giáo lý của Ngài, cũng không
phải chỉ thực hành một số tục lệ và nghi lễ do tôn giáo ấn định, như đi dự lễ
và lãnh nhận các bí tích…Nhưng theo Chúa là phải chấp nhận một số
điều kiện như Ngài đã đề ra và mời gọi: “Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ
chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Như vậy, ai muốn làm môn đệ Chúa
Kitô thì phải từ bỏ chính mình và vác thập giá mình trong cuộc sống hằng ngày.
Đây là điều kiện khắt khe và quyết liệt đòi buộc chúng ta phải nỗ lực không
ngừng, nhưng thực hiện những điều kiện ấy mới dẫn ta tới sự sống đời đời. Đó chính
là sứ điệp Lời Chúa muốn gửi đến chúng ta tuần này:
- Bài đọc 1, trích sách tiên tri Giêrêmia. Có thể nói Giêrêmia là con
người nhút nhát, nhưng ông đã được Thiên Chúa kêu gọi làm tiên tri cho Chúa để
rao giảng những lời chói tai. Cho nên ông được gọi là “nhà tiên tri loan tin
dữ”. Sứ mạng của ông gặp rất nhiều khó khăn: người ta chống đối, chế nhạo ông,
thậm chí còn lên án và tìm cách giết ngài, vì ngoài việc công kích lối sống sa
đọa tội lỗi của họ, ngài còn loan báo về những án phạt của Thiên Chúa sẽ giáng
xuống họ.
Bị công kích tư bề và nhiều lần nên ông có ý
định bỏ cuộc, nhưng dù sao, ông cũng phải thú nhận là ông không thể nào từ bỏ
sứ mạng đau khổ đó, vì “Chúa đã quyến rũ được con, Chúa đã hùng mạnh hơn con
và đã thắng con”.
- Bài đọc 2, trích thư của Thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma. Trong lá
thư này, ngài kêu gọi các tín hữu thực hiện lời những kêu gọi
của Chúa Giêsu theo tinh thần của bài Tin mừng hôm nay: “Ai muốn đi theo
Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Theo
Chúa là không sống theo ý mình hay chạy theo xu hướng của thế gian nhưng là
vâng theo thánh ý Thiên Chúa, như lời kêu gọi của Thánh Phao-lô: “Anh
em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi
mơi tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp
lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.” (Rm 12, 2)
- Tin mừng Thánh Mat-thêu hôm
nay, trình bày cho chúng ta biết được những điều kiện cần thiết để trở thành
môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Đó là phải chấp nhận bước theo con đường
mà Đức Kitô đã đi qua, con đường đó là từ bỏ mình, vác thập giá mình mà
theo Ngài. Nếu ai can đảm dấn thân đi vào con đường ấy, Chúa hứa sẽ ban
cho họ phần thưởng cao quý trong ngày Người đến: “Vì Con Người sẽ ngự đến
trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên sứ của Người, và bấy giờ,
Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”. Nên nhớ rằng theo Chúa
Giêsu thì phải gắn kết chặt chẽ với Ngài, biết lấy Ngài là làm lẽ sống “sự
sống của tôi là Đức Kitô”. Như người vợ gắn bó cuộc đời mình với chồng thế
nào, thì đời ta cũng phải gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu như vậy. Nếu người vợ
có cùng số phận với chồng, sống chết với chồng và không khó khăn nào có thể làm
cho họ lìa bỏ nhau:
Đi đâu cho thiếp đi cùng.
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam (Ca
dao),
thì cuộc đời người môn đệ chân chính cũng
phải gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu như vậy. Một khi gắn bó mật thiết với Chúa
Giêsu thì đòi buộc ta phải từ bỏ mình, trên hết việc từ bỏ mình là từ bỏ ý
riêng của mình, mà ý riêng mình chính là cái tôi ham muốn. Còn vác thập giá
mình chính là chu toàn bổn phận của mình trong cuộc sống hằng ngày, đó là bổn
phận của người Ki-tô hữu, bổn phận của người làm cha làm mẹ, bổn phận của con
cái đối với cha mẹ...
Chính Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt hảo cho
chúng ta noi theo, khi Người đã hoàn toàn từ bỏ ý mình mình để vâng phục thánh
ý Chúa Cha, đã chấp nhận vác lấy cây thập giá và đã biến nó thành nguồn yêu
thương cứu độ cho mọi người.
Khi suy niệm về mầu nhiệm thập giá của hy sinh, từ bỏ…
chúng ta như có thêm sức mạnh và động lực để đón nhận những thách đố và đau khổ
xảy ra trong đời sống hàng ngày, với một thái độ tích cực và bình thản hơn, vì
ta tin rằng đó mới là con đường chính lộ đưa dẫn chúng ta đến bến bờ của niềm
vui, bình an và hạnh phúc đích thực. (St).
Suy niệm 3:
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay tha thiết mời gọi chúng ta hãy vững tin bước
theo Chúa để mỗi ngày chúng ta được trở nên giống Ngài hơn trên con đường thập
giá.
Xin Chúa cho chúng ta dám chấp nhận từ bỏ mọi sự mà dấn bước
theo Chúa đến cùng, với lòng tin tưởng vào sức mạnh và tình thương của
Chúa Đấng cứu chuộc chúng ta.
- Bài đọc 1, cho ta biết vì vâng lệnh Chúa, ngôn sứ Giêrêmia đã
khiển trách dân Chúa, nên bị họ đã thù ghét bắt bớ ông, nhưng ông vẫn cam lòng
chịu khổ vì Chúa.
- Bài đọc 2, Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu Rô-ma hãy cố gắng vươn lên
sống đẹp lòng Chúa, luôn làm mọi việc tốt lành theo ý muốn của Chúa, đừng chạy
theo tính xác thịt hay những lời quyến rũ của thế gian.
- Tin mừng Mat-thêu cho chúng ta biết những
điều kiện căn bản để trở nên môn đệ chân chính của Chúa Giêsu. Đó là “từ bỏ
mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.”
Chắc chắn trong đời của mỗi chúng ta đều có hơn một lần
từ bỏ: từ bỏ buổi đi nhậu với bạn bè để đi tham dự thánh lễ, từ buổi hẹn hò
cùng người yêu để đi làm việc từ thiện, từ bỏ lập gia đình để đi tu dâng mình
cho Chúa, từ bỏ quê hương xứ sở để tha phương cầu thực tìm kế sinh nhai, từ bỏ
cái này để chọn cái kia…
Tất cả những việc từ bỏ trên là những điều rất đáng
mừng, nhưng đó chưa phải là việc từ bỏ thật sự, bởi vì chúng ta chưa từ bỏ
chính con người của mình, Đức Chúa Giê-su mời chúng ta phải từ bỏ chính mình,
chứ không phải từ bỏ những gì thuộc về người khác.
Chưa từ bỏ chính con người của mình, thì rồi tất cả
những gì mà chúng ta đã từ bỏ, dần dần chúng ta cũng sẽ thu góp lại, mà thu góp
cách “nhiệt tình” hơn những người khác.
Có nhiều người từ bỏ mọi sự để theo Chúa, nhưng khi đạt
được mục đích rồi thì từ từ gom góp lại những gì mà mình đã từ bỏ: thích có
nhiều tiền, thích tranh giành chức quyền danh vọng, thích được mọi người ca
tụng, thích làm theo ý riêng của mình. Tại sao vậy? Thưa, là bởi vì chúng ta
chưa từ bỏ chính con người của mình, hay nói cách khác là chưa từ bỏ ý riêng
của mình.
Trong kho tàng văn hóa thần bí của người Ấn độ, người ta đọc thấy một
câu chuyện răn đời rất lý thú sau đây:
Sau một thời gian dài kiên nhẫn chịu đựng để hướng dẫn tu luyện, một vị
linh sư Ấn giáo nọ rất hài lòng về sự tiến bộ của người đệ tử ruột của ông.
Nhận thức rằng người đệ tử không cần đến sự dìu dắt huấn luyện của mình nữa,
nên một ngày kia, vị linh sư mới bỏ mặc anh trong một túp lều tranh rách nát
bên cạnh một bờ sông.
Thực hiện huấn dụ của vị linh sư, mỗi buổi sáng khi thức dậy, người đệ
tử dìm mình xuống dòng sông để thanh tẩy theo đúng nghi thức Ấn giáo, rồi anh
giặt chiếc áo rách của mình. Chiếc áo rách : Ðó là tất cả tài sản duy nhất của
anh.
Một ngày kia, người đệ tử buồn bực xót xa vô hạn khi phát giác chiếc áo
duy nhất của mình phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn rách tả tơi! Không còn cách
nào khác, người đệ tử đành phải gõ cửa dân làng để xin một chiếc áo khác.
Chẳng bao lâu, chiếc áo này cũng bị chuột cắn nát! Lúc đó anh mới nảy
sinh ý nghĩ vào làng xin cho kỳ được một con mèo. Từ nay anh khỏi phải lo lắng
về sự quấy phá của mấy chú chuột nữa. Nhưng thay vì xin áo mặc, người đệ tử
thuộc môn phái khất thực cũng vẫn phải ngày ngày vào làng xin cơm bánh cho mình.
Tháng này qua năm khác, anh vẫn phải vác bị đi khất thực! Một ngày kia,
bỗng nhiên người đệ tử cảm thấy xấu hổ vì bao năm qua, anh đã vô tình trở thành
một thứ gánh nặng cho dân làng! Nghĩ thế, anh đã tìm đủ mọi cách để tậu cho
bằng được một con bò lấy vốn làm ăn. Nhưng có bò rồi thì cũng phải liệu sao có
cỏ cho bò ăn. Những ngày đầu, anh tự mình đi cắt cỏ cho bò. Nhưng về lâu về
dài, nhận thấy không còn thời giờ để ngồi thiền và cầu nguyện, anh đành phải
thuê một người cắt cỏ cho bò.
Con bò ngày càng sinh sản ra nhiều. Chẳng bao lâu đã trở thành một đàn
bò đông đúc, nên số người cắt cỏ cũng phải gia tăng theo nhịp độ phát triển của
đàn bò. Mấy năm sau, mảnh đất chung quanh túp lều tranh của anh ngày xưa đã
biến thành một nông trại trù phú lớn lao.
Con người đã một thời muốn từ bỏ tất cả mọi sự để trở thành một tu sĩ,
một vị linh sư trong Ấn giáo, thì nay đã nghiễm nhiên trở thành một ông chủ
nông trại giàu có danh tiếng. Có tiền, có tất cả mọi sự, nên anh nghĩ phải có
một người tâm đầu ý hợp để cùng anh chia sẻ công việc. Sau cùng anh đành phải
cưới một người vợ trẻ đẹp. Không bao lâu, anh đã trở thành một trong những ông
chủ nông trại giàu có quyền thế nhất trong vùng.
Hai mươi năm sau, trong một dịp trở lại thăm ngôi làng cũ, vị linh sư Ấn
giáo xưa đã một thời dẫn dắt anh trên đường tu trì, vô cùng ngạc nhiên vì thay
cho túp lều tranh rách nát nghèo nàn bên bờ sông ngày nào, nay đã là cả một cơ
nghiệp đồ sộ lớn lao.
Thăm hỏi dân làng để biết được tung tích người chủ nông trại giàu có uy
quyền hống hách khắp vùng, vị linh sư mới ôn tồn lên tiếng hỏi người đệ tử cũ
của mình: " Thế này nghĩa là gì hả con?! ".
Người đệ tử suy nghĩ hồi lâu rồi hối hận trả lời: "Thưa Thày, có lẽ
Thày không tin. Nhưng tất cả cơ nghiệp này, được như hôm nay, cũng chỉ vì con
đã không đủ can đảm tìm mọi cách để giữ được chiếc áo rách!"
Câu chuyện trên giúp ta hiểu rằng: bỏ mọi sự phải là từ bỏ cách dứt
khoát và trọn vẹn để dấn bước đi theo Chúa. Đức Chúa Giê-su đã nói cách
dứt khoác là nếu ai muốn theo Ngài thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình
mà theo. Từ bỏ chính mình là từ bỏ ý riêng của mình, mà ý riêng chính là cái
tôi ham muốn; vác thập giá mình là chu toàn bổn phận của mình trong cuộc sống
hằng ngày, bổn phận của người Ki-tô hữu, bổn phận của kẻ làm cha làm mẹ, bổn phận
của những con cái đối với cha mẹ…Chúng ta nói từ bỏ nhưng chúng ta chưa thực
hành từ bỏ, chúng ta nói vác thập giá mình, nhưng chúng ta đem thập giá của
mình cho người khác vác, còn bản thân mình thì nhởn nhơ dạo phố ngắm cảnh hưởng
thụ...
Truyện: Thánh giá ta đang mang là thánh giá vừa sức ta.
Câu chuyện ngụ ngôn dưới đây chứng minh điều
đó: có một người luôn than van những nỗi khổ cực của mình. Một tối kia, thiên
thần hiện đến phán bảo:
- Con hãy theo ta ra nghĩa địa, nơi đó người
ta để lại thánh giá của mình. Con hãy mang thánh giá của con ra để đó và hãy
lựa thánh giá vừa sức con.
Ông ta mang thánh giá của mình ra quăng nơi
nghĩa địa, ông bắt đầu chọn cái khác nhẹ hơn, ông tìm kiếm mãi mà không được:
có cây quá là dài, cây quá ngắn, có cây thì nhẹ nhưng sù sì, khó vác, có cây
thì trơn tru nhưng nặng quá, và sau cùng ông nói với thiên thần:
- Thưa thiên thần, cây nào cũng khó vác quá,
chỉ có cây con định vứt đi là vừa với con thôi.
- Phải, Chúa đã trao cho con một cây thánh
giá vừa sức, con hãy vui lòng vác đi, đừng than van gì nữa.
Có lẽ lời mời gọi xem ra nghịch lý của Chúa:
“…” bây giờ làm chúng ta khó hiểu, nhưng đây lại là chân lý. Chính
Chúa Giêsu đã sống và đã trải nghiệm về nghịch lý này, khi Ngài dạy cho ta
biết: “hạt giống có mục nát ra thì mới sinh hoa kết quả được”.
Có một bài thơ cổ của một tác giả vô danh.
Bài thơ mang tựa đề “The Folded Page” (Trang sách bị gấp nếp). Sau đây là một
đoạn trong đó:
“Trên căn gác một nhà xưa cổ,
Khi hạt mưa từ mái nhà đổ xuống,
Tôi ngồi đó lật từng trang tập cũ.
Bỗng nhận ra một trang bị gấp nếp,
Ghi dòng chữ của mình hồi nhỏ:
“Thầy giáo bảo: tạm bỏ qua điều này,
Vì hiện tại nó rất ư khó hiểu”.
Tôi liền mở nó ra và đọc,
Đoạn mỉm cười và gục gặc đầu nói:
“Thầy có lý, bây giờ tôi mới hiểu”.
Trong cuộc đời có nhiều trang khó hiểu
Ta chỉ việc gấp lại và viết lên:
“Thầy giáo bảo: tạm bỏ qua điều này
Vì hiện tại nó rất ư khó hiểu”.
Rồi một ngày nào đó trên Nước trời,
Mở trang cũ ra đọc lại ta sẽ nói:
“Thầy giáo có lý, bây giờ tôi mới hiểu”.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen. (St)
Suy niệm 4: ĐỂ ĐỔI LẤY HẠNH PHÚC VÔ TẬN ĐỜI SAU
Để hiểu và cảm nhận lời Chúa dạy hôm nay cách sâu sắc hơn, có người nghĩ ra một câu chuyện sau đây: Ngày nọ, dân chúng tụ tập đông đảo tại một quảng trường rộng lớn để lắng nghe hai diễn giả lừng danh diễn thuyết, đó Đức Giêsu và Thần Tài
1. Mở đầu chương trình,
vị diễn thuyết thứ nhất bước lên diễn đàn và được dân chúng chào đón nồng nhiệt
bằng những tràng vỗ tay thật to. Bởi vì vị diễn thuyết này chính là Đức Giêsu
một bật Thầy giảng dạy mà phần đông dân chúng đã từng nghe đến danh Ngài, nhưng
giờ đây họ mới được diện kiến.
Sau khi giới thiệu cho mọi người biết về Nước Thiên Chúa, về 10 điều
răn trọng nhấ, 8 mối phúc thật… Đức Giê-su mới cất tiếng mời gọi: “Có
ai trong anh chị em muốn theo Tôi không?”
Họ dư biết Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ đầy quyền năng, theo Ngài sẽ
được nhiều lợi lộc, nên hầu hết mọi người đều hớn hở vui mừng, giơ tay cao và
đứng lên hô lớn: “Tôi, tôi, tôi nữa… xin theo…”
Sau khi thấy họ đưa tay xin theo hầu như hết, Chúa Giê-su lại nói
tiếp: “Nhưng muốn theo Tôi thì phải từ bỏ mình, vác thập giá mà theo…”
Nghe nói đến việc “từ bỏ
mình và vác thập giá”, nhiều người trở nên cụt hứng, những cánh tay lần lược hạ
xuống vì không ai muốn từ bỏ cả.
Nhưng để chấn an họ,
Chúa Giêsu tiếp tục nói về quy luật tất yếu của việc từ bỏ qua hình ảnh của hạt
lúa: "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi thì nó chỉ trơ
trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt" (Ga
12,24). Rồi Ngài kết luận: “Vì ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất;
còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy... Vì nếu
người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”.
Khi nghe những lời ấy khiến họ phân vân, do dự và chưa thể đưa ra quyết
định theo Đức Giêsu hay không.
2. Chương trình được
tiếp nối với bài thuyết trình của Thần Tài.
Vừa thấy Thần Tài bước
ra diễn đàn, đám đông lại hò reo tưng bừng và vỗ tay cuồng nhiệt. Vị Thần Tài
mở đầu bài diễn thuyết bằng việc đề cao sức mạnh vạn năng của đồng tiền,
vinh quang của quyền lực, sự cuốn hút của lạc thú đời này… Sau đó, vị Thần Tài
lên tiếng mời gọi: “Ai theo tôi thì sẽ được giàu có, quyền lực, hạnh
phúc, lạc thú… ở đời này, nhưng chỉ ở đời này mà thôi!”
Thế là có đông người vỗ
tay tán thưởng và hăm hở xin đi theo Thần Tài.
* Câu chuyện giả tưởng
trên khiến cho mỗi người chúng ta phải suy nghĩ mà đưa ra lựa chọn cho riêng mình: Theo Chúa Giêsu hay
theo Thần Tài?
- Nếu theo Thần Tài rất
có thể chúng sẽ được giàu sang,có danh vọng, tận hưởng được lạc thú đời này nhưng
có thể đánh mất đời sau.
- Còn nếu theo Chúa
Giêsu chúng ta phải chấp nhận hy sinh, từ bỏ và ngay cả việc liều mất mạng sống
mình vì tình yêu Chúa, bù lại chúng ta sẽ được tận hưởng hạnh phúc thiên đàng vĩnh
cửu mai sau.
Thật khó để chúng ta
chọn lựa, bởi lẽ danh vọng, giàu sang, phú quý đời này lúc nào cũng có sức cuốn
hút mảnh liệt. Nếu không có bản lãnh và khôn ngoan sáng suốt, thì khó lòng ta
vượt thoát được sự lôi cuốn đi theo Thần Tài.
Gỉa như không có sự sống
đời sau, thì việc chọn theo Thần Tài là điều dễ dàng và chính đáng. Tuy
nhiên, thực tế lại có đời sau, mà sự sống đời này thì ngắn ngủi, mau qua. Chỉ
có cuộc sống đời sau mới là thiên thu vạn đại. Vì thế, mải mê tìm kiếm hạnh
phúc thoáng qua đời này mà đánh mất hạnh phúc vĩnh cửu mai sau thì không đáng
chút nào.
Như thế, lời mời gọi của
Chúa Giêsu: "Từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo" luôn
là một bài học khôn ngoan cần phải ghi tâm khắc cốt, phải là châm ngôn, là
ánh sáng soi đường dẫn lối cho chúng ta đi.
- Từ bỏ mình không chỉ
là từ bỏ những tính hư tật xấu, những tham sân si...mà trên hết là bỏ ý mình để
vâng theo ý Chúa, bỏ việc mình để làm việc cho Chúa và vì Chúa.
- Vác thập giá mình là
chu toàn thật tốt những bổn phận hàng ngày được Chúa trao ban. Bổn phận của
chồng-vợ, của cha-mẹ đối với con cái và con cái đối với cha mẹ...
- Theo Chúa chứ không ai
khác, Đức Giêsu Kitô phải là thần tượng của đời tôi, một Đức Giêsu Kitô chịu
khổ hình, chịu đóng đinh và chết đau thương trên thập giá, nhưng Ngài đã sống
lại vì yêu thương chúng ta và để cứu chuộc chúng ta.
Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e
đã chọn lựa đi theo con đường Chúa mời gọi khi nghe được lời dạy của Chúa qua
miệng thánh I-nha-xi-ô: "được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng
sống, thì nào có lợi gì? ngài đã từ bỏ lại vinh hoa phú quý, rời xa
kinh thành Pa-ris hoa lệ, vượt đại dương ngàn trùng để loan báo Tin mừng cho
dân tộc Ấn-độ, Sri-lan-ca, Ma-lay-si-a, Nhật Bản… ngài đã đem đến ơn cứu độ của
Chúa cho muôn vạn người Châu Á, nên ngài xứng đáng được toàn thể Hội thánh Chúa
ca ngợi, tôn vinh.
Xin cho chúng ta luôn ghi nhớ lời vàng Chúa dạy, sẵn sàng hiến thân phục vụ Chúa và mọi người, chấp nhận từ bỏ danh lợi ngắn ngủi đời này để đổi lấy hạnh phúc vô tận đời sau. Amen.
(Dựa trên ý tưởng của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Suy niệm 5: “ĐỜI NGƯỜI – RỪNG CÂY”
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Mỗi khi một mình tôi vẫn thích trải lòng mình
qua bài hát “Một đời người một rừng cây” của nhạc sỹ Trần Long
Ẩn. Bài hát với ca từ mang một triết lý sống giản dị nhưng rất sâu
sắc. Lời ca như đang bắt chúng ta phải đối diện với chính bản thân mình. Nó
chất vấn chúng ta về cuộc đời mà chúng ta đang sống.
Lời chất vấn nhẹ nhàng nhưng đi sâu vào tâm
khảm con người:
“Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ
dành phần ai
Ai cũng một thời trẻ trai, cũng từng nghĩ về
đời mình
Phải đâu may nhờ rủi chịu, phải đâu trong đục
cũng đành, phải không anh, phải không em?”
Câu hỏi mà tác giả đặt ra cũng chính là câu
hỏi mà mỗi chúng ta phải tự hỏi hôm nay. Bởi vì chưa bao giờ, chủ nghĩa cá nhân
lại lên ngôi đến nỗi bỏ mặc đồng loại để chạy theo chủ thuyết “makeno” mà tìm
hưởng thụ riêng cho mình. Con người ngày nay như đang tìm mọi cách thu vén cho
bản thân mình mà quên đi những lợi ích cho cộng đồng.
Nhưng chân lý vẫn thuộc về những ai sống có
ích cho đời. Họ như ánh sao đêm phá tan đêm tối của ích kỷ và lòng tham. Họ
không tìm sống cho riêng mình mà biết dấn thân phục vụ cho đời.
Chân lý thuộc về mọi người, không chịu sống
đời nhỏ nhoi
Xin hát về bạn bè tôi, những người sống vì
mọi người.
Ngày đêm canh giữ đất trời, rạng rỡ như rừng
mai nở chiều xuân.
Lời ca như mỗi lúc lại cao trào hơn để dội
vào lương người nghe. Nó bắt những người có lương tâm và có ý thức sống phải
trả lời câu hỏi về lẽ sống. Con người phải sống như “Một đời người một rừng
cây” đã sống nương tựa nhau thì phải biết dâng hiến cho nhau.
Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy bước đi
theo Chúa. Theo Chúa là bước đi trên con đường hẹp buộc phải từ bỏ con đường
rộng thênh thang. Theo Chúa là đón nhận thánh giá bổn phận mà không chọn việc
nhẹ nhàng. Theo Chúa là để lại sau lưng những danh lợi thú trần gian. Vì “được
lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì?”
Chúa Giê-su đã đi con đường như thế. Khi Ngài
từ bỏ cõi trời mà mặc lấy kiếp phàm nhân. Ngài từ bỏ thân phận mình để trở nên
mọi sự cho con người. Ngài tiếp tục đi vào con đường hẹp để tuân theo thánh ý
Chúa Cha. Vì lương thực của Ngài chính là thánh ý Thiên Chúa. Ngài đã chọn vâng
phục Chúa Cha và bằng lòng chết trên thập giá để cứu độ trần gian. Ngài đã
không chọn vinh hoa phú quý trần gian mà chọn cho thánh ý Chúa Cha hiển trị.
Thế nên, Chúa Cha đã tôn vinh Người và ban cho Người mọi danh hiệu vượt trên
mọi danh hiệu.
Nhưng là người ai cũng “ham sướng sợ khổ”.
Con người luôn thấy gian nan thì chuồn. Thấy vất vả thì tháo lui. Phê-rô cũng
từng khuyên can Chúa trên đường hiến tế. Bởi vì ông sợ Chúa mất mạng là thiệt
thòi cho ông và cho cả Chúa. Nhưng Chúa đã quở mắng ông: “Satan hãy lui ra khỏi
Thầy, vì tư tưởng của con không phải là của Chúa”. Chúa còn cho các ông hiểu
rằng: “được lời lãi cả thế gian chết mất linh hồn nào ích gì”. Hơn nữa, ai xả
thân vì Nước Trời thì ngày Con Người đến sẽ thưởng phạt ai nấy tùy theo việc họ
làm.
Xem ra cuộc sống người ky-tô hữu luôn phải đi
ngược lại với trào lưu thời đại. Con người thời nay ích kỷ, thì người ky-tô hữu
phải sống dấn thân. Con người ngày nay ham sướng sợ khổ thì người ky-tô phải
lãnh lấy trách nhiệm như thập giá vì lòng yêu mến Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta
luôn sống chứng nhân tin mừng khi biết sống cho đi mà không mong đền đáp. Amen.
Suy niệm 6: KHÔNG THỂ CHÙN BƯỚC!
“Ai muốn đi theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo!”
Tin Mừng hôm nay cho ta biết tông đồ trưởng
Phêrô đã “phớt lờ” thập giá. Vì thế Chúa Giêsu nặng lời với ông. Và trong bố cảnh
đó, Ngài đã tuyên bố mạnh mẽ: “Ai muốn đi
theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo!”. Ý Ngài muốn nói với Phê-rô là anh ‘Đừng cản Thầy!’,
Thầy ‘Không thể chùn bước đâu!’.
Sự việc xảy ra khi Chúa Giêsu tỏ cho các
môn đệ biết Ngài phải đi Giêrusalem, chịu đau khổ… bị giết và ngày thứ ba sẽ sống
lại. Khi nghe lời loan báo về cuộc khổ nạn ấy, các môn đệ như bị Sốc! Họ mong
muốn một kịch bản về Đấng Messia không thể như thế. Cho nên, Phêrô đã kéo Ngài
ra riêng và “Xin Thiên Chúa thương đừng để
Thầy gặp phải chuyện ấy!”. Nhưng Chúa Giêsu đã quay lại, và quở trách rất nặng
lời, Ngài gọi ông là “Satan!”.
Thật trớ trêu, ‘tảng đá’ vừa được Ngài đặt
lên làm nền móng của ‘Giáo Hội’, thì liền sau đó tảng đá ấy trở thành ‘vật cản’
cho chương trình và sứ mạng của Thiên Chúa.
Qủa thật, Đức Giêsu chính là Messia, là Đấng
Kitô, là Vua, nhưng Ngài là vị Vua của tình yêu, một Vua cai trị bằng yêu
thương và phục vụ đến nỗi chấp nhận hy sinh cả mạng sống mình vì thần dân. Các
bài đọc hôm nay hình như đều quy hướng về ý tưởng đó.
- Tiên tri Giêrêmia dường như hối tiếc
vì được gọi, “Lạy Chúa, Ngài đã quyến rũ
con, và con đã để cho Ngài quyến rũ”. Kết quả là ông trở thành “trò cười”.
Giêrêmia quyết định sẽ không nói về Chúa nữa, nhưng ông ‘không thể chùn bước’ vì, “Lời
Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim!”.
- Tông đồ Phao-lô, trong bài đọc thứ
hai, cũng khao khát và mong muốn mọi tín hữu Rô-ma hãy trở nên của lễ sống động
để dâng hiến cho Chúa: “Anh em hãy hiến
dâng thân mình làm của lễ sống động!”.
Như thế qua tuyên bố “Ai muốn đi theo Tôi, phải từ bỏ chính mình!”, Chúa Giêsu cũng
mong muốn chúng ta hãy tích cực dâng hiến đời mình hoàn toàn vì tình yêu để phục
vụ, cho dẫu điều này dẫn đến hiểu lầm, chế giễu, đau đớn và thậm chí cả cái chết
nữa.
- Vậy để theo Chúa cách trọn vẹn, đòi buộc
chúng ta phải có “tâm trí của Chúa Kitô”,
nghĩa là chúng ta phải nhìn cuộc sống theo hướng yêu thương và phục vụ chứ đừng
chạy theo những tham vọng trần thế hay theo ý riêng của mình. Một khi có “tâm
trí của Chúa Kitô”, thì toàn bộ hướng đi của cuộc đời của chúng ta sẽ thay đổi,
nhờ đó mà chúng ta ‘không thể chùn bước!’ đi theo Chúa.
- Còn việc từ bỏ chính mình, không phải
là kìm nén nhân cách; đúng hơn là ta buông bỏ chính mình để có thể thực sự tìm
thấy chính mình. Thực tế cho thấy, chúng ta luôn bị cám dỗ đi theo Chúa Kitô mà
không “từ bỏ chính mình”. Vậy để từ bỏ chính mình chúng ta cần phải có được tình
yêu Chúa đích thực, nếu không có tình yêu đích thực thì chúng ta sẽ không thể nào
dám chấp nhận từ bỏ và hy sinh bản thân mình được. Vậy đừng để cho mình bị cuốn
hút bởi tầm nhìn lợi lộc của thế gian này, nhưng hãy nỗ lực lội ngược dòng trước
những khó khăn mà ‘không thể chùn bước’, vì tin rằng chỉ có tình yêu mới mang lại
ý nghĩa và hạnh phúc đích thực.
Hãy sống cho Chúa, đặt đời sống mình
trên tình yêu, chúng ta cũng sẽ nếm trải niềm vui đích thực, và cuộc sống của
chúng ta sẽ không cằn cỗi; nhưng sinh hoa kết quả!
Lạy
Chúa, lội ngược, bao giờ cũng nhọc nhằn! Đừng để con chùn bước trước bất cứ
gian khó nào. Cho con không ngừng buông bỏ để thực sự tìm thấy chính mình! Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)
Thứ hai: Lc 4, 16-30
Nếu khởi đầu cho sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã thi ân giáng phúc
cho những người sống trong vùng đất u tối của dân ngoại, thì Tin mừng hôm nay
cho biết Chúa Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy trở về quê nhà là Nazareth, để
công bố chương trình hành động của mình. Đó là: “Loan báo Tin Mừng cho
người nghèo khó…, công bố năm hồng ân và ngày khen thường”. Như vậy, chương
trình hành động của Chúa Giêsu là ưu tiên hướng về người nghèo. Nên rất hợp
lòng dân. Vì thế, mà Ngài đã được dân chúng đón nhận cách
nhiệt tình “mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người”. Tuy
nhiên, điều quan trọng nhất là chương trình ấy rất đẹp lòng
Đức Chúa Cha, bởi đã ứng nghiệm đúng như những gì mà tiên tri I-sa-i-a đã loan
báo từ ngàn xưa về vai trò của Đấng Mes-si-a.
Nếu chương trình hành động của Chúa Giêsu là nhằm đem lại niềm
vui, hạnh phúc và hồng ân cứu độ cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ.
Vậy thử hỏi chương trình hành động ưu tiên của tôi là gì?
Mỗi người chúng ta rất cần sắp xếp lại chương trình sống hàng ngày
của mình. Mong sao những ưu tiên chọn lựa hành động trong chương trình sống của
chúng ta luôn phù hợp với thánh ý của Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta biết quan tâm yêu thương hết mọi người, nhất
là những người nghèo khổ đang sống chung quanh chúng ta. Bằng những lời nói yêu
thương và những việc làm bác ái cụ thể. Làm được như thế là ta đã góp phần đưa
chương trình hành động yêu thương của Chúa đến được với mọi người nhất là những
người nghèo khổ.
Thứ ba: Lc 4, 31-37
Năm 1983, trong cuộc nói chuyện với liên hội đồng Giám Mục Châu Mỹ
La-tinh, Đức cố Giáo hoàng Gio-an Phaolô II, đã khẳng định "Tân phúc âm
hóa", không phải là Phúc âm mới, nhưng là "mới về lòng nhiệt
thành, mới trong phương pháp và mới trong các diễn tả", vì "Đức
Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn
đời" (Dt 13,8). Như vậy "Tân phúc âm hóa" không phải là
Phúc âm mới; cũng không phải là một sáng kiến mới của Giáo Hội trong việc loan
báo Tin mừng ngày nay, mà công cuộc "Tân phúc âm hóa" đã được Đức cố
GH Gioan Phaolô II đề cập cách nay khá lâu. Nhưng trên hết công cuộc "Tân
phúc âm hóa" này là do chính Chúa Giêsu khởi xướng và thực hiện cách nay
hơn 2000 năm, ngay khi bắt đầu sứ vụ loan báo Tin mừng. Đó là điều mà Tin mừng
hôm nay nói đến.
- Chúa Giêsu luôn làm mới lòng nhiệt thành. Vì thế, cho dù bị thất bại ngay trong lần trở về quê nhà Na-za-reth,
nhưng Chúa Giêsu không hề nản lòng trước thái độ khướt từ chống đối của dân
làng. Trái lại càng làm cho Ngài nhiệt thành hơn. Bằng chứng là Ngài đã bình
tâm rời bỏ nơi đó mà sẵn sàng đi đến các thành khác (Ca-phar-na-um) để tiếp tục
thi hành sứ mạng đã được Chúa Cha trao phó, với lòng nhiệt tâm mới mẻ như ban
đầu.
- Chúa Giêsu làm mới trong phương pháp giảng dạy. Không biết nội dung Chúa Giêsu giảng dạy như thế nào tại hội đường
Ca-phar-na-um, nhưng lời rao giảng của Ngài đã làm cho dân chúng hôm đó hứng
khởi đến sửng sốt. Tin mừng chỉ cho biết việc giảng dạy của Chúa Giêsu rất mới
lạ và rất uy quyền. Chắc chắn rằng phong thái và phương pháp giảng
dạy của Chúa Giêsu không giống như các Kinh sư. Các Kinh sư khi giảng dạy
thì chỉ giải thích Kinh Thánh và Luật Lệ cách dài dòng, nhằm chất lên vai người
khác những gánh nặng. Còn giáo huấn của Chúa Giêsu thì ngắn gọn, cụ thể, gần
gủi nên dễ hiểu; hơn nữa lời giảng dạy của Ngài luôn hướng đến những người
nghèo khổ, những người bị loại ra bên lề xã hội, đúng như chương trình hành
động mà Ngài đã công bố nơi hội đường Na-za-reth. Vì thế mà lời giảng dạy của
Ngài đã đụng chạm đến trái tim người nghe.
- Cuối cùng Chúa Giêsu đã làm mới trong cách diễn tả. Chúa Giêsu không chỉ nói suông như những Kinh sư và Biệt phái "họ
nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính
họ lại không buồn động ngón tay vào." (Mt 23, 3-4). Còn Chúa
Giêsu thì trái lại lời giảng dạy luôn đi đôi với việc làm cụ thể. Bằng phép lạ
chữa một người bị quỷ ám, ngoài việc minh chứng cho biết Ngài chính là
Thiên Chúa uy quyền; còn cho thấy cách thế diễn tả mới mẻ của Chúa Giêsu trong
việc rao giảng Tin mừng, nên đã thu hút được người nghe. Đúng là “lời nói
lung lay, gương lành lôi kéo”. Hay như đức cố Giáo hoàng Phaolô VI
đã nói: "ngày nay người ta cần chứng nhân hơn thầy dạy."
Xin Chúa ban cho mỗi chúng ta luôn biết làm mới lại lòng nhiệt tâm tông
đồ, luôn biết thao thức tìm ra những phương cách phù hợp để đem Tin mừng đến
được với người nghe, nhất là biết tích cực sống những giá trị của Tin mừng phù
hợp với thời đại mới. Nhờ thế sức sống của Tin mừng của Chúa mới có thể lan tỏa
mạnh mẻ đến mọi người và mọi nơi.
Suy niệm 2:
Bài Tin mừng hôm nay dạy chúng ta hai bài học.
1. Bài học thứ nhất: Thắng không kêu bại không nản.
Dẫu trong ngày tiếp xúc cử tri tại quê nhà, để công bố chương trình hành
động, Chúa Giêsu đã bị thất bại vì những định kiến cố hữu của họ. Nhưng không
vì thế mà Người nản lòng, bỏ cuộc. Bởi vì Chúa Giêsu hiểu rằng: "không
một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình". (Lc 4, 24). Nhưng
Tin mừng phải được rao giảng, nên Người bỏ nơi đó mà xuống thành
Ca-phar-na-um, vào hội đường và tiếp tục thi hành sứ vụ. Tại đây Ngài đã thành
công rực rỡ vì được dân chúng đón nhận hồ hởi, nên đã gây được tiếng vang lớn
khắp cả vùng. Đây cũng là bài học quý gia cho chúng ta. Đừng nản lòng khi gặp
thất bại, nhưng cũng đừng quá hãnh diện khi thành công may mắn. Điều quan trọng
là khiêm tốn tạ ơn Chúa trong mọi lúc.
2. Bài học thứ hai: Lời nói phải đi đôi với việc làm.
Nếu lời giảng dạy của các Biệt phái và Kinh sư không được dân chúng đón
nhận là vì "họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà
chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay
vào". (Mt 23, 3-4). Lối sống giả hình của họ khiến dân chúng
chán ngán, mệt mỏi. Thì với Chúa Giêsu lại khác. Lời giảng dạy của Ngài đã được
dân chúng đón nhận cách nhiệt tình. Với phép lạ trục xuất ma quỷ ra khỏi người
bị nó ám hại, Chúa Giêsu không những minh chứng mạnh mẻ uy quyền của Thiên Chúa
mà còn gây sửng sốt cho mọi người, vì lời Ngài nói luôn đi đôi với việc Ngài
làm. Vì vậy, để có thể thuyết phục người khác tin vào Chúa, chúng ta không chỉ
rao giảng suông bằng lời, nhưng đòi hỏi chúng ta phải thực hiện bằng những việc
làm cụ thể.
Nguyện xin Chúa Giêsu, Ðấng giảng dạy với uy quyền, giúp chúng con biết
thống nhất giữa lời nói và việc làm để những giá trị Tin mừng luôn được người
nghe đón nhận và tin tưởng. Xin Chúa củng cố
niềm tin, gia tăng đức mến và bảo toàn niềm trông cậy nơi chúng ta để dẫu khi
thành công hay khi thất bại chúng ta vẫn luôn an vui sống trong vòng tay đầy
yêu thương của Chúa.
Thứ tư: Lc 4, 38-44
Tin mừng hôm nay thuật lại một ngày sống tiêu biểu của Chúa Giêsu ở
Ca-phác-na-um với biết bao công việc: “Vào Hội đường giảng dạy, rồi đến
nhà chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô; mãi đến lúc mặt trời lặn Ngài vẫn còn tất bật
chữa lành đủ mọi loại bệnh hoạn, tật nguyền. Sáng sớm tinh mơ, Chúa lại tìm đến
nơi hoang vắng để cầu nguyện cùng Chúa Cha.” Ngày sống tiêu biểu của
Chúa Giêsu phải trở nên khuôn mẫu cho ngày sống của mỗi người kitô hữu chúng
ta.
- Noi gương Chúa Giêsu chúng ta hãy bắt đầu ngày mới bằng việc cầu
nguyện. Cầu nguyện để gặp gỡ Chúa, được sống thân
tình bên Chúa, để lắng nghe lời Chúa chỉ dạy. Trên hết cầu nguyện để nhận lấy
nguồn ơn sức mạnh nâng đỡ của Chúa nhằm chu toàn tốt bổn phận hằng ngày. Một
ngày sống khởi đầu với kinh nguyện, thánh lễ, chúng ta được gia tăng lòng Tin
Cậy Mến, nhờ đó mà nhiệt thành làm mọi việc trong ngày sáng danh Chúa.
- Học nơi Chúa Giêsu, chúng ta hãy chuyên chăm làm việc. Con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa để sống trong thế giới
hữu hình và được đặt trong thế giới này để "làm chủ trái đất";
vì thế, ngay từ đầu con người đã được kêu gọi để lao động. Chính Chúa Giêsu
cũng đã nêu gương cho ta: "Cho đến nay, Cha tôi làm việc, thì Tôi
cũng làm việc" (Ga 5, 17). Làm việc để có của nuôi
sống bản thân và gia đình; đóng góp vào sự tiến bộ liên tục của khoa học kỹ
thuật, nhất là làm cho cộng đồng xã hội anh em của mình luôn luôn thăng tiến về
văn hóa và đạo đức, đó là ý định của Chúa và mong muốn của con người.
Tóm lại: Chúa Giêsu đã đi bước trước trong đời sống lao động và cầu
nguyện. Lao động mà không cầu nguyện sẽ làm cuộc sống con người mệt mỏi và đơn
điệu; ngược lại cầu nguyện mà không lao động, khiến con người trở nên sống hình
thức, lười biếng và ỷ lại.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết kết hợp cách hài hoà giữa lao động
và cầu nguyện để nhờ đó nhân loại không chỉ biết trân trọng những giá trị do
lao động mang lại, mà còn biết trân trọng những hiệu quả lớn lao của đời sống
kết hiệp với Thiên Chúa.
Thứ năm: Lc 5, 1-11
Trên báo điện tử Trí Thức Trẻ ngày 12.8.2014 có đăng tải bài
viết: Gái Miền Tây, và 3 chữ "N" nổi danh thiên hạ. (3 chữ
"N": Ngon, Ngoan và Ngu), đã bị dân cư mạng phản đối cực lực, khiến
cho bộ VHTT phải vào cuộc và xử lý nghiêm khắc. Bởi vì tác giả đã bôi nhọ và xúc
phạm đến giá trị nhân phẩm của gái Miền Tây, cũng như chia rẻ người vùng miền.
Trái với nội dung bài viết trên báo điện tử Tri Thức Trẻ trên, bài
viết và nội dung của tác giả thánh Lu-ca trong bài Tin mừng hôm nay đã để lại
cho người đọc một ấn tượng tuyệt đẹp, khi đề cao nhân vật Giêsu với 3 chữ
"L" (lạ) nổi danh thiên hạ.
1. "Lạ" về nơi giảng dạy.
Lạ là ở đời ai lại dùng thuyền đánh cá để ngồi trên đó mà giảng dạy;
cũng chưa từng thấy ai quy tụ dân chúng nơi bãi biển để giáo huấn. Vậy mà Chúa
Giê-su đã không ngần ngại tận dụng phương tiện và nơi chốn ấy để rao giảng Lời
Chúa. Quả là lạ thường!
2. "Lạ" về mẻ cá bất thường.
Với kinh nghiệm lành nghề về việc đánh bắt cá biển, Si-mon cùng các bạn
đồng nghiệp đã trãi qua một đêm vất vả, nhưng chẳng được con cá nào. Trong khi
giữa lúc ban ngày, thầy Giêsu chẳng có chút kinh nghiệm gì về việc ra khơi bám
biển, lại đề nghị Si-mon thả lưới bắt cá, quả là chuyện đùa! Nhưng để làm vui
lòng thầy Giêsu, Si-mon đành miễn cưỡng làm theo; vật mà thật bất ngờ, kết quả
lại ngoài sức tưởng tượng. Một mẻ cá lạ đầy ấp những cá là cá. Ấy mới là sự lạ!
3. "Lạ" về việc chuyển đổi nghề nghiệp bất ngờ.
Trước một mẻ cá lạ lùng, Si-mon đã hò reo sung sướng, nhưng cũng đầy sợ
hãi khi nhận ra thân phận yếu hèn tội lỗi của mình nên đã sụp lạy thầy Giêsu
đầy quyền năng. Không ngờ chính lúc đó, Chúa Giêsu lại nhẹ nhàng chấn an, rồi
bất ngờ kêu gọi ông chuyển đổi ngành nghề: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ là
người thu phục người ta". Si-mon đã không cưỡng lại được lời mời gọi
chân tình tha thiết ấy của Đấng quyền năng, nên đã "bỏ mọi sự mà
theo Người". Ôi lạ lùng biết mấy!
Với 3 chữ "lạ" nơi con người Giê-su mà thánh Lu-ca tường thuật
trong bài Tin mừng hôm nay, như dạy chúng ta những bài học quý:
- Phải tận dụng mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh để loan báo Tin Mừng.
- Luôn biết tin tưởng, trông cậy vào quyền năng Chúa trong mọi lúc vì
"mọi kẻ tin vào Ngài sẽ không thất vọng bao giờ". (Tv
90). Biết cậy dựa vào Chúa, ta có thể làm được những điều kì diệu, như
thánh Phaolô đã nói: "Tôi có thể làm mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho
tôi". (Pl 4,13).
Mỗi người mỗi hoàn cảnh, mỗi người mỗi kinh nghiệm, mỗi người mỗi khả
năng, tính cách..., nhưng Chúa đều tin tưởng mời gọi để cộng tác với Chúa để
cứu rỗi các linh hồn.
Xin cho chúng ta biết mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa cách tích
cực, sẵn sàng từ bỏ mọi sự để thi hành thánh ý Chúa với lòng tin tưởng cậy
trông vào quyền năng của Người.
Thứ Sáu: Mk 5, 1-4a; Mt 1,1-16.18-23
Kính Nhớ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ
Maria
Hôm nay GH mừng kính lễ sinh nhật Đức Mẹ Maria, hiệp với tâm tình của Mẹ
Maria, chúng ta cùng dâng lên Chúa lòng tôn kính, yêu mến và cảm tạ vì “biết
bao điều trọng đại Chúa đã làm”. Một trong muôn điều trọng đại Chúa đã làm là
ban cho chúng ta được làm người, làm con Chúa, nhất là được đón nhận ơn cứu độ
của Chúa.
Xin cho chúng ta luôn biết noi gương Mẹ Maria biết tích cực mở lòng đón
nhận mọi ơn ban của Chúa và cố gắng chu toàn tốt bổn phận Chúa ban để loan báo
niềm vui cứu độ của Chúa đến cho mọi người.
1. Đức Giêsu dẫu là Thiên Chúa tốt lành, thánh thiện và quyền năng vô
cùng, vậy mà Ngài đã chấp nhận đi vào dòng lịch sử nhân loại và sẵn sàng mang
lấy thân phận con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Người đã chấp nhận
sinh ra trong một dòng tộc bao gồm đủ mọi thành phần. Trong đó có người tốt
nhưng đa phần lại là người tội lỗi, thiếu sót như: Gia-cóp dẫu là tổ phụ nhưng
đã giành quyền trưởng nam của anh mình là Ê-sau; Vua Đa-vít kính mến Chúa nhưng
vì ham mê sắc dục nên đã chiếm đoạt vợ của U-ri-gia và nhẫn tâm gián tiếp giết
chết U-ri-gia vị cận tướng trung tín với ngài; Vua Sa-lô-môn dẫu Chúa ban cho
ơn khôn ngoan tột đỉnh nhưng không tránh được lối sống sa đọa; bà Rút là phụ nữ
dân ngoại; cô Ta-ma lại là gái điếm; bà Bath-she-ba vợ của ông U-ri-gia, người
đàn bà chấp nhận chung sống bất hợp pháp với vua Đa-vít … Khi đi vào dòng tộc
như thế, Chúa Giêsu muốn chung chia kiếp người và để cứu độ con người.
Mỗi người chúng ta khi sinh ra cũng được Thiên Chúa đặt vào trong một
quốc gia, một dòng tộc và sống trong một hoàn cảnh gia đình khác nhau. Nơi ấy
có người tốt và người xấu; môi trường đó có khi thuận lợi nhưng có khi bất lợi.
Xin Chúa cho chúng ta biết vui lòng đón nhận tất cả mọi người và mọi
nghịch cảnh nơi môi trường chúng ta đang sống với niềm tin tưởng và phó thác
vào tình thương và quyền năng của Chúa.
2. Để trở nên “Đấng Em-ma-nu-el, Thiên Chúa ở cùng chúng
ta”. Từ thuở đời đời, Thiên Chúa đã chọn Đức Maria và mời gọi Mẹ cộng
tác với Ngài trong việc cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế. Cho dẫu Mẹ không hiểu
rõ về tất cả diễn tiến trong đường lối của Chúa, nhưng Mẹ vẫn sẵn sàng “xin
vâng” theo thánh ý Chúa, cho dẫu gặp phải muôn vàn khó khăn đau khổ phía trước,
Mẹ đã can đảm đón nhận tất cả và cố gắng chu toàn sứ mạng Chúa trao một cách
xuất sắc. Cũng thế do tình thương và sự quan phòng của Chúa, mỗi người chúng ta
cũng được Chúa cho sinh ra trên trần gian này như Mẹ Maria, Chúa cũng trao ban
mỗi người chúng ta ơn được làm người, làm con Chúa với những bổn phận và sứ
mạng có thể khác nhau… Nhưng sứ mạng nào cũng cao quý và bổn phận nào cũng quan
trọng, bởi lẽ sứ mạng và bổn phận nào cũng nói lên kế hoạch tình thương nhiệm
mầu của Thiên Chúa dành cho ta.
Vậy xin Chúa cho chúng ta biết noi gương Mẹ Maria luôn trân trọng sứ
mạng Chúa trao ban và ý thức chu toàn tốt nhất bổn phận của mình cách tốt nhất
có thể trước mặt Chúa, với niềm hy vọng mỗi ngày trở nên hoàn thiện hơn theo
gương Mẹ Maria trinh trong theo lời mời gọi của Chúa: "Anh em hãy nên hoàn
thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện" (Mt 3,48).
* Suy niệm mùa thường niên: Lc 5, 33-39
Nhân cơ hội giải thích cho những người Pha-ri-sêu lý do vì sao các môn
đệ Chúa không ăn chay, Chúa Giêsu mạc khải cho họ biết về bản thân và sứ mạng
của Ngài.
Trong cựu ước Thiên Chúa tự ví Người là chàng rể và Is-ra-el là
nàng dâu. Như thế khi đem trường hợp tiệc cưới ra để giải thích về việc ăn
chay, Chúa Giêsu muốn cho họ biết rằng: Người là chàng rể
và Is-ra-el là nàng dâu. Qua đó mặc nhiên tuyên bố Người chính là
Thiên Chúa đã đến giữa lòng nhân loại.
Hơn nữa, mục đích chính của việc ăn chay bấy giờ là mong đợi Đấng
Mes-si-a đến. Mà Chúa Giêsu chính là Đấng Mes-si-a (chàng rể) đã đến với loài
người (nàng dâu) rồi, thì cớ gì phải ăn chay. Việc ăn chay phải gắn liền với
cuộc đời của Đức Giêsu. Do đó lúc Người vui thì con người phải chia vui với
Người. Khi Người khổ thì con người cùng chung đau khổ. Lúc Người chết thì con
người phải cùng chấp nhận chịu chết với Người. Khi Người sống lại thì con người
cũng cùng sống lại với Người.
Tóm lại, Chúa Giêsu không hề phủ nhận việc ăn chay, nhưng qua lời giải
đáp thắc mắc trên, Chúa Giêsu muốn cho biết: Người chính là chàng rể Chúa Cha
sai đến kết hôn với loài người, yêu thương loài người và cứu độ loài người.
Cũng như xác định rõ cho chúng ta biết việc ăn chay là để dọn lòng tiếp rước
Chúa. Một khi đã tiếp nhận Chúa rồi thì không cần ăn chay nữa, trái lại phải
vui mừng phấn khởi trong niềm tin yêu Chúa.
Xin cho chúng ta biết lo ăn chay hãm mình, để dọn lòng xứng đáng đón
nhận Chúa qua bàn tiệc Thánh Thể mỗi ngày, nhờ đó mà được thông hiệp với Chúa
nguồn hạnh phúc đời ta.
Thứ bảy: Lc 6, 1-5
Tin mừng hôm nay tường thuật về cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và những
người Pha-ri-sêu. Lý do xảy ra cuộc tranh luận là vì các môn đệ Chúa Giêsu bứt
bông lúa ăn cho đỡ đói vào ngày Sa-bát. Nguyên nhân chính của cuộc tranh luận
này là vì bất đồng quan điểm.
- Với những người Ph-ari-sêu giữ ngày Sa-bát là điều hết
sức quan trọng. Ai vi phạm ngày này có thể bị xử tử (Xh 31, 14), bị ném đá (Ds
15, 32-36). Vì thế hành động bứt bông lúa để ăn đối với người Pha-ri-sêu là một
hành động không thể chấp nhận được, mặc dù theo sách Đệ Nhị Luật thì hành động
này là được phép: “Khi vào đồng lúa của người đồng loại, anh em có thể
lấy tay bứt bông lúa” (Đnl 23, 26). Tuy nhiên vì đố kỵ, ghen ghét Chúa
Giêsu nên họ cho rằng việc bứt lúa và vò trong tay cũng giống với hành vi gặt
và xay lúa là một trong ba mươi chín việc không được phép làm trong ngày
Sa-bát.
- Còn theo quan điểm của Chúa Giêsu thì Thiên Chúa lập nên ngày Sa-bát để loài người có thời gian nghỉ ngơi
hầu nhớ đến công trình tạo dựng và giải phóng của TC (Đnl 5, 14-15). Ngày Sabát
đúng là ngày của Chúa, dành cho Chúa, nhưng nó cũng là ngày phục vụ nhu cầu lợi
ích cho con người và vì con người "Ngày Sa-bát được đặt ra vì con
người". Do đó, việc các môn đệ Chúa bứt lúa ăn cho đỡ đói trong
ngày Sa-bát là một nhu cầu chính đáng vì nó phục vụ cho nhu cầu lợi ích chính
đáng cho con người. Chính vua Đa-vít và đoàn tùy tùng cũng đã vào đền thờ và đã
lấy bánh dâng tiến để ăn khi bụng đói! Nhưng vì ghen ghét và hận thù đã làm cho
những người Pha-ri-sêu trở nên mù quáng mà quên đi mục đích chính của việc giữ
luật.
Để giúp cho những người Pha-ri-sêu có cái nhìn đúng đắn về mục đích của
luật, Giêsu đã không ngần ngại đối đầu với họ cho đến cùng, dù có phải trả
giá bằng cái chết trên Thập giá, tất cả là để minh chứng rằng: chỉ có một lề
luật duy nhất để tuân giữ, đó là luật yêu thương, và chỉ có một giá trị cao cả
nhất để sống và chết cho, đó là tình yêu. Sống "yêu thương là chu
toàn lề luật." (Rm 13,10).
Xin Chúa loại trừ nơi chúng ta những đố kỵ, ghen ghét tầm thường để chúng ta có được cái nhìn trong sáng đúng đắn. Và xin Chúa giúp chúng ta luôn biết sống nhân ái và bao dung với hết mọi người như Chúa đã yêu thương chúng ta. Amen.
SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN
22 THƯỜNG NIÊN
Thứ hai:
Suy niệm 1: BẼ BÀNG
“Ngài băng qua giữa họ mà đi!”.
Thần học gia, triết
gia Jan Hus tin rằng, Lời Chúa là quyền lực tối cao, không thể sai lầm. Ông đã
chết vì niềm tin đó vào sinh nhật 40 của mình tại ở Constance, Đức. Trước khi tắt
hơi, Jan Hus nói lớn, “Những gì tôi dạy bằng môi, tôi sẽ đóng dấu bằng máu!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng hôm nay
không nói đến việc chối từ Lời Chúa, nhưng nói đến việc từ chối “Ngôi Lời Thiên
Chúa” khi Ngài về lại cố hương. Tin Mừng tường thuật sự ‘bẽ bàng’ của Chúa
Giêsu khi những người cùng quê không nhận biết Con Thiên Chúa và sứ điệp của
Ngài.
Thật dễ hiểu, một anh
hàng xóm mới ra khỏi làng một thời gian, nay trở về ‘lên lớp’ giảng dạy! Không
lạ, họ tẩy chay; tệ hơn, muốn giết Ngài! Vậy mà việc Ngài trở lại quê nhà đích
thực là một cuộc ‘hiển linh’, ‘epiphany’; đúng hơn, một cuộc viếng thăm uy nghi
của Thiên Chúa đến với dân Ngài như Thánh Vịnh đáp ca diễn tả, “Chúa ngự tới
cai quản địa cầu!”.
Sự thật ‘bẽ bàng’ này
nhiều lúc cũng là trải nghiệm của bạn và tôi. Chúng ta cảm thấy việc nói về
Chúa với một người lạ lại dễ dàng hơn khi nói về Ngài với một người thân. Ngược
lại, sẽ khó hơn nhiều, khi bản thân chúng ta để cho ai đó truyền cảm hứng bởi
niềm tin và lòng đạo đức của họ; đặc biệt, khi người ấy lại là một người thân
quen! Thế nhưng, điều quan trọng ở đây chính là cách thức chúng ta đón nhận phản
ứng từ những người khác. Họ có thể tẩy chay, dèm pha và những gì ‘bẽ bàng’ hơn
thế. Đây là lúc mức độ khiêm tốn của chúng ta được tỏ hiện, nhất là khi phải
“băng qua giữa họ mà đi”.
Về phía người nhận,
phải chăng chúng ta đã không nhận ra sự hiện diện của Chúa trong những người gần
gũi nhất. Sự thật là chúng ta dễ nhìn thấy những lỗi lầm của họ hơn là nhận ra
những nhân đức và những gì tốt lành nơi họ. Vậy mà, việc của chúng ta không phải
là tập trung vào những thiếu sót của họ nhưng là nhìn thấy Đấng Toàn Năng trong
họ; và dẫu họ thế nào, họ vẫn là sứ giả Chúa gửi đến! Họ phản ánh sự hiện diện
của Ngài nếu chúng ta sẵn lòng nhận biết; và như thế, mục tiêu của chúng ta, là
không chỉ nhìn thấy Thiên Chúa trong họ mà còn phải tìm kiếm sự hiện diện của
Ngài trong họ nữa.
Con Thiên Chúa làm
người, đón nhận bao ‘bẽ bàng’ từ người thân. Thế nhưng, Ngài khiêm tốn “băng
qua giữa họ mà đi”; mục đích của Ngài không phải để hơn thua, nhưng là để cứu độ.
Thiên Chúa đã đến một cách quá đỗi bình thường, nếu không nói là tầm thường;
nhưng chính trong sự tầm thường đó, Ngài đã làm những việc phi thường!
Anh Chị em,
“Ngài băng qua giữa họ
mà đi!”. Chớ gì bạn và tôi không để Chúa Giêsu phải “băng qua mà đi” khi Ngài
viếng thăm linh hồn chúng ta mỗi ngày! Ngài đang đến, đang ‘hiển linh’ và vào
ngày sau hết, sẽ đón chúng ta để “được ở cùng Chúa mãi mãi” như thư
Thessalônica hôm nay nhắc nhở. Không chỉ đến trong Thánh Thể, trong Lời, Ngài
còn đến trong những ‘nhà tạm di động’ chung quanh chúng ta. Vấn đề là bạn và
tôi có nhận ra Ngài không; có nghe được Ngài không; và nhất là có để Ngài biến
đổi không? Đây là còn việc của tương tác, của cầu nguyện, khẩn xin với Chúa
Thánh Thần, Đấng có thể biến đổi mọi sự, ngay cả những gì ‘bẽ bàng’ nhất, và có
thể đến từ bất cứ phía nào!
Chúng ta có thể cầu
nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để
con khiến Chúa phải ‘bẽ bàng’ băng qua lối khác mà đi mỗi lần Chúa viếng thăm
con… qua từng Thánh Lễ, qua từng biến cố, từng con người!”, Amen.
Lm Minh Anh, Tgp. Huế
Suy niệm 2: Chúa Kitô niềm hy vọng
TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Có gì đó cay đắng và đau xót.
Bao năm mòn mỏi đợi chờ Đấng Cứu Thế, nhưng khi Chúa Giê-su đến thực hiện lời
hứa, ứng nghiệm những tiên báo trong Lề Luật và các Tiên Tri thì người Do thái
không những không tin, thậm chí còn chối bỏ và muốn giết Người. Còn gì đau đớn
hơn khi: “Người đã đến nhà
mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Chúa Giê-su
đã dành hết tâm huyết cho quê hương. Loan báo lời I-sai-a ứng nghiệm. Loan báo
chương trình cứu nhân độ thế khởi đầu. Công bố chương trình hành động của việc
cứu độ. Nhưng chuyến trở về quê hương thật bẽ bàng. Có lẽ vì họ có thiên kiến
Người xuất thân nghèo hèn, trong gia đình bác thợ mộc Giuse. Và họ đã lỡ cơ
hội. Đánh mất niềm hi vọng.
Họ có ngờ đâu chính sự nghèo
hèn, sự thất bại của Chúa Ki-tô, đặc biệt cái chết nhục nhã trên thánh giá của
Người chính là cơ hội cho một đức tin chân thực hoàn toàn khác biệt với niềm
tin dựa trên những giá trị trần gian. Chính vì thế, với giáo đoàn Cô-rin-tô,
thánh Phao-lô chỉ rao giảng Chúa Ki-tô chịu đóng đinh. Đó là một sứ điệp thô
nhám, mộc mạc, không trau chuốt, tô vẽ. Nhưng đó là chân lý, là niềm hi vọng.
Để những ai tin Chúa có một đức tin nguyên tuyền không dựa vào sự khôn ngoan
của người đời. “Vì hồi còn ở
giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì hác ngoài Đức Giê-su Ki-tô
chịu đóng đinh vào thập giá…Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ
khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa” (năm
chẵn).
Chính nhờ Chúa Giê-su Ki-tô
chịu chết và sống lại mà ta có niềm hi vọng. Vì ta cũng sẽ được sống lại với
Chúa. Và cả những người thân yêu của chúng ta cũng thế. Vì thế thánh Phao-lô an
ủi dân Tét-xa-lô-ni-ca: “Vì nếu
chúng ta tin rằng Đức Giê-su đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng
những người đã an giấc trong Đức Giê-su, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức
Giê-su…. Rồi đến chúng ta là những người đang sống, chúng ta sẽ được đem đi
trên đám mây, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế chúng ta sẽ được ở
cùng Chúa mãi mãi” (năm lẻ).
Đó chính là niềm hi vọng lớn
lao cho chúng ta. Đó chính là niềm an ủi, là động lực giúp ta vượt qua quãng
đường trần thế đầy chông gai thử thách. Đó cũng chính là đích tới của chúng ta
những người đặt trọn niềm tin nơi Chúa Ki-tô chịu đóng đinh. Quả thật Thiên
Chúa đã dùng sự yếu hèn mà thắng vượt những sự hùng mạnh của thế gian. Dùng sự
điên rồ của thánh giá mà thắng sự khôn ngoan của con người.
Thứ ba:
Suy niệm 1: ĐẤT KẺ SỐNG
“Tôi vững vàng tin tưởng, sẽ được thấy ân lộc Chúa ban,
trong cõi đất dành cho kẻ sống!”.
Cao bồi thị trấn
Shiloh Ranch, Idaho, rất tự hào về những chú chó của họ. Họ nói với du khách,
“Chúng ta có thể học gì từ một chú chó? Đừng bao giờ bỏ qua cơ hội để có được
niềm vui; vâng lời là lợi ích tốt nhất; khi ai đó đang có một ngày tồi tệ, hãy
im lặng, ngồi gần và nhẹ nhàng vỗ về họ. Và lập tức lên tiếng khi có ai đó xâm
phạm đất của bạn!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Thật thú vị, Lời Chúa
hôm nay cũng nói đến đất của bạn, ‘đất kẻ sống!’. Chủ đề này được tìm thấy từ
thư Phaolô cho đến bài Tin Mừng và sâu sắc hơn cả, Thánh Vịnh đáp ca, “Tôi vững
vàng tin tưởng, sẽ được thấy ân lộc Chúa ban, trong cõi đất dành cho kẻ sống!”.
‘Đất kẻ sống’ thường
được hiểu là thiên đàng! Đó là ‘đất’ chúng ta hưởng nhận “ơn cứu độ, nhờ Đức
Giêsu Kitô” như Phaolô xác tín. Quyến rũ hơn, ‘đất’ ấy là cõi mơ ước được Thánh
Vịnh đáp ca mô tả như một nơi lộng lẫy huy hoàng khiến linh hồn ngây ngất và
mòn mỏi ngóng trông, “Một điều tôi kiếm tôi xin, là luôn được ở trong đền Chúa
tôi!”.
Tin Mừng hôm qua và
hôm nay nói đến hai ‘vùng đất’ vốn chỉ cách nhau chưa đầy 50km, Nazareth và
Capharnaum. Cũng một Giêsu, một giáo huấn, một hành động và một sứ điệp; thế
nhưng, Nazareth đối với Chúa Giêsu là một ‘vùng đất’ của định kiến, từ chối và
giết chết. Đang khi Capharnaum, với Ngài, là ‘mảnh đất’ của hồn nhiên, đón nhận
và cởi mở với ân sủng. Luca viết, “Họ sửng sốt về cách Ngài giảng dạy, vì lời
Ngài có uy quyền!”. Ở đó, như hôm nay, ngay trong hội đường, chỉ một lời của
Chúa Giêsu, quỷ xuất ra, “Mọi người rất đỗi kinh ngạc, nói với nhau, “Lời ấy là
thế nào?””. Danh Ngài đồn ra khắp miền.
Capharnaum là ‘ngôi
nhà mới’, nơi mà Chúa Giêsu đã thi hành phần lớn sứ vụ, hơn một phần ba các
phép lạ; nơi Ngài tìm được các môn đệ đầu tiên: Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan và
Matthêu. Ở đó, Ngài còn tìm thấy một niềm tin ngời sáng giữa các lương dân,
viên đại đội trưởng xin chữa cho đứa đầy tớ. Cũng ở đó, Ngài mặc khải một trong
những giáo huấn khó nhất, Bánh Hằng Sống. Tuy nhiên, ai được cho nhiều, cũng sẽ
bị đòi nhiều! Và nếu không gìn giữ, ‘đất’ ấy vẫn là một cái gì hết sức bấp
bênh, “Hỡi Capharnaum, ngươi tưởng sẽ được nâng lên tận trời ư? Ngươi sẽ phải
nhào xuống tận âm phủ! Vì nếu các phép lạ nơi ngươi được làm tại Sôđôm, thì
thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay!”.
Anh Chị em,
“Tôi vững vàng tin tưởng,
sẽ được thấy ân lộc Chúa ban, trong cõi đất dành cho kẻ sống!”. Ai sống cho
Chúa, người ấy ở trong ‘đất kẻ sống’. Vậy linh hồn bạn đang thuộc phần đất nào,
một Nazareth cứng cỏi hay một Capharnaum cởi mở? Hay phải chăng, nó từng là một
Capharnaum, nơi ân sủng dẫy đầy, nhưng nay đã cằn cỗi hư hoại? Cầu nguyện là
‘đi vào’ đất thánh lòng mình; là ‘cởi dép ra’ như Môsê xưa; là ‘khuỵu gối và
trườn tới’ như lạc đà đi vào cửa thành... để xét xem tội lỗi nào, ngăn trở nào
đang ở đó. Cầu nguyện là ‘trả lại đất’ linh hồn cho Giêsu, cho lửa Thánh Thần
thiêu đốt và thanh tẩy!
Chúng ta có thể cầu
nguyện,
“Lạy Chúa, ‘đất kẻ sống’
của con. Giúp con vui vẻ bán hết những gì con có để tậu lấy nó. Nhờ đó, linh hồn
con thuộc trọn về Chúa và có một tên mới, ‘Đất Giêsu!’”, Amen.
Lm Minh Anh, Tgp. Huế
Suy niệm 2: Tiến hành cuộc chiến đấu
TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Ô nhiễm đang là một vấn đề lớn
và nan giải. Từ ô nhiễm môi trường sống với nước thải, khói xăng, khí độc đến ô
nhiễm thực phẩm với chất bảo quản, với phân bón và với cách chế biến thực phẩm.
Nhưng tất cả đều bắt nguồn từ sự ô uế nơi tâm hồn con người. Đừng tưởng thần ô
uế chỉ có thời Chúa Giêsu. Nó vẫn hiện diện thời chúng ta và đang tác oai tác
quái. Con người bị ô uế từ trong tư tưởng với những ý đồ xấu xa trục lợi. Ô uế
thấm vào cả trái tim với những ước muốn tội lỗi. Con người đang hít thở bầu khí
ô uế, đươc nuôi dưỡng bằng những món ăn ô uế và còn dự tính mở rộng môi trường
ô uế. Những nỗ lực ngăn chặn ô uế, thanh tẩy môi trường đạo đức hầu như vô
hiệu. Con người bất lực. Chỉ còn trông chờ sức mạnh của Thiên Chúa.
Có hai điều đáng sợ do ma quỉ
lừa gạt. Điều thứ nhất ma quỉ trấn an chúng ta: “Không can gì đâu”. Ô uế không
sao đâu. Tội lỗi không sao đâu. Điều thứ hai nó thấm nhập và trở thành một phần
không thể thiếu của đời ta. Khi Chúa trục xuất thần ô uế, người bị quỉ ám ngã
vật xuống như chết đi. Có những sự xấu như tiền bạc, danh vọng, chức quyền, lạc
thú trở thành nhu cầu. Ta tưởng sẽ chết nếu thiếu chúng.
Vì thế thánh Phao-lô khuyên các
tín hữu Tét-xa-lô-ni-ca hãy vào cuộc chiến đấu. Thần ô uế là bóng tối. Con cái
Chúa là ánh sáng. Đi theo thần ô uế là ngủ mê. Đi theo ánh sáng của Chúa phải
tỉnh thức. Sống theo thần ô uế là chiều theo dục vọng. Sống theo ánh sáng của
Chúa là tiết độ: “Thưa anh em,
anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất
cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về
đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người
khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ” (năm lẻ).
Đó chính là cuộc chiến giữa xác
thịt và Thần khí. Ai sống theo xác thịt thì có sự khôn ngoan của trần gian để
chiếm đoạt danh, lợi, thú của trần gian. Ai sống theo Thần Khí thì trước mặt
thế gian bị coi là điên rồ, nhưng thực ra họ có sự khôn ngoan của Nước Trời: “Con người sống theo tính tự nhiên thì
không đón nhận những gì của Thần Khí Thiên Chúa, vì cho đó là sự điên rồ; họ
không thể biết được, bởi vì phải nhờ Thần Khí mới có thể xét đoán”
(năm chẵn).
Cuộc chiến rất khốc liệt. Để
dứt lìa thần ô uế ta phải đau đớn như chết đi, giống như người bị quỉ ám ngã
vật xuống. Chúng ta chỉ thắng được nhờ sức mạnh của Chúa Ki-tô. Nhưng chúng ta
chỉ có Chúa khi sống trong ánh sáng, khi đi theo sự hướng dẫn của Thần Khí.
Thứ tư: NGÀI NÂNG CON LÊN
“Ngài đứng bên bà…, cơn sốt biến khỏi bà. Tức thì bà chỗi
dậy, dọn bữa hầu các ngài!”.
Rolf Lovland viết
“You Raise Me Up”, “Ngài nâng con lên” thoạt đầu chỉ với giai điệu. Cơ duyên đến
khi ông vừa đọc xong “The Whitest Flower”, “Nụ hoa trắng nhất” của B. Graham;
Lovland nghĩ, đây là người hoàn hảo sẽ viết ca từ cho bài hát dở dang của mình.
Chiều kia, hai người gặp nhau, cùng nghe nó. Tối ấy, Graham viết phần lời mà
không một lần chỉnh sửa. “You Raise Me Up” được hát lần đầu trong đám tang mẹ của
Lovland. Sức mạnh của nó nằm ở “Đấng Được Treo Lên” khi bạn không còn gì để mất!
Kính thưa Anh Chị em,
Sẽ khá bất ngờ, khi Lời
Chúa hôm nay cho thấy ý nghĩa của việc “Ngài nâng con lên!”. Đó là những gì rất
bình thường, rất âm thầm, nhẹ tênh, mà Thiên Chúa hằng thực hiện cho con người;
đặc biệt cho con cái Ngài. Bằng chứng là câu chuyện Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu vào nhà,
thấy bà mẹ vợ Phêrô liệt giường, Ngài đến gần bên, cúi xuống, cầm tay cô, nâng
cô lên. Không một lời cầu xin, không một tiếng cảm ơn, không một phản ứng của
những người có mặt. Cô hồn nhiên chỗi dậy! Cũng thế, Thiên Chúa đang lặng lẽ
nâng bạn và tôi lên mỗi ngày như đã nâng người phụ nữ may mắn này. Thế thôi!
Những gì ‘không thể
đơn giản hơn’ thật đáng cho chúng ta chú ý! Vì lẽ, đang khi kỳ vọng vào một điều
kỳ diệu vốn được chờ đợi từ lâu, chúng ta thường dễ bỏ qua một trong những cách
thức chữa trị rất bình thường mà Thiên Chúa tặng trao. Ở lãnh vực tâm linh, đó
có thể là một lần đi xưng tội, một lần rước Chúa hay một lần tự vấn lương tâm;
cũng thế, về thể chất, đó có thể chỉ là việc chăm sóc tốt bằng việc ăn uống, ngủ
nghỉ hợp lý.
Trong thư Côlôssê hôm
nay, Phaolô gọi những điều này là “ân sủng và bình an của Thiên Chúa”. Đó là những
phúc ân thường ngày, đến độ chúng ta không nhận ra để cám ơn Chúa. Hãy nhìn vào
cách thức điều đã xảy ra! Chúa Giêsu nâng mẹ vợ Phêrô lên và lập tức, cô làm
công việc của mình, không hoài nghi, không phản đối. Ân sủng có hiệu quả, chữa
lành hoàn toàn và tức thì. ‘Ngài nâng con lên’ để đi tới, phục vụ. Chúng ta rất
giỏi trong việc cầu xin để được chữa lành một điều gì đó, nhưng thường dùng dằng
với ‘hoá đơn’ thanh toán, phục vụ người khác. Đúng thế, Chúa Giêsu cứu chúng ta
khỏi cái chết của tội lỗi, là để chúng ta phục vụ; Kitô hữu là ‘đoàn người sống
lại’ để đi tới, phục vụ!
Anh Chị em,
“Bà chỗi dậy, dọn bữa
hầu các ngài!”. Chính tình thương vô điều kiện nơi Chúa Giêsu khiến mẹ vợ Phêrô
đứng lên để phục vụ, đây là điều Lời Chúa muốn thức tỉnh chúng ta. Chỉ có Chúa
mới có thể cứu và nâng chúng ta lên; không chỉ thể lý nhưng cả tinh thần. Ngài
nâng chúng ta lên hàng con cái, lên hàng môn đệ, lên bậc tông đồ để bạn và tôi
tiếp tục công việc cứu độ. Mỗi ngày, Ngài đang ‘vào nhà’ chúng ta; Ngài đứng kề
bên, và bằng Lời quyền năng, nâng chúng ta lên. Ước gì chúng ta luôn biết cảm tạ
và ra sức bắt chước cuộc sống phục vụ của Ngài dù ở đấng bậc nào. Thánh Vịnh
đáp ca thật ý nghĩa, “Lạy Chúa, con tin cậy vào tình thương Chúa mãi mãi đến
muôn đời!”.
Chúng ta có thể cầu
nguyện,
“Lạy Chúa, ‘Chúa nâng
con lên’ không để con lo cho bản thân, nhưng để con đứng kề bên, cúi xuống,
nâng anh chị em con lên. Nhất là những ai không còn gì để mất!”, Amen.
Lm Minh Anh, Tgp. Huế
Suy niệm 2: Tấm lòng bao la
TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Như mặt trời trên bầu trời tỏa
sáng trên muôn loài, đem sức sống cho con người và súc vật, cho hoa nở, cho
trái chín, cho giòng nước trong xanh. Như mưa từ trời rơi xuống cho khí hậu mát
mẻ, cho lúa mọc, cho sa mạc có sức sống. Tình Chúa bao la ấp ủ muôn loài.
Hãy xem một ngày làm việc của
Chúa Giêsu. Người làm việc không biết mỏi mệt. Có giảng dậy trong Hội đường. Có
chiến đấu với ma quỉ. Có đám đông mênh mông đến với Người. Nhưng cũng có thời
giờ gặp gỡ riêng tư với người thân. Và nhất là có thì giờ tâm sự với Chúa Cha
ngay từ sáng sớm. Người đi đến đâu là mở rộng Nước Thiên Chúa đến đấy. Phá tan
vương quốc sự dữ. Diệt tan đau khổ, bệnh tật, bất hạnh. Đem đến an ủi, niềm hi
vọng. Đem đến sự sống và sự sống dồi dào.
Nhiều người nhìn thấy trong đó
mối lợi riêng tư, nên muốn giữ chân Người. Nhưng tấm lòng bao la, Người phải
lên đường đi đến với hết mọi người ở khắp mọi nơi. Bao lâu còn khổ đau bước
chân Người còn dong duổi. Ở đâu còn bất hạnh trái tim Người còn thổn thức. Tin
Mừng chưa đến tận cùng trái đất tâm hồn Người chưa biết đến nghỉ ngơi. Người
phải đi khắp nơi vì Nước Trời không biên giới. “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các
thành khác nữa”.
Nhưng có những môn đệ chưa hiểu
điều đó, nên vẫn còn cục bộ phân chia. Kẻ theo A-pô-lô. Người theo Phao-lô. Đó
là vì họ còn theo tính xác thịt chưa theo Thần Khí. Đó là vì họ còn muốn thiết
lập nước trần gian chưa đi vào Nước Trời. Đó là vì họ còn ấu trĩ chưa đủ trưởng
thành. “Vì anh em còn là những
con người sống theo tính xác thịt. Bao lâu giữa anh em có sự ghen tương và cãi
cọ, thì anh em chẳng phải là những con người sống theo tính xác thịt và theo
thói người phàm sao? Khi
người này nói: “Tôi, tôi thuộc về ông Phao-lô” …thì anh em chẳng là người phàm
tục sao” (năm chẵn).
Người môn đệ phải có tấm lòng
bao la như Chúa. Bao la để đón tiếp và cộng tác với mọi sứ giả của Chúa, dù đó
là Phao-lô, Ti-mô-thê hay Ê-páp-ra. Bao la để không chỉ yêu mến người thân,
cộng đoàn mà còn yêu mến cả thế giới. Bao la để cho Tin Mừng lớn lên không chỉ
ở một địa phương nhưng là toàn cầu. Bao la để cho niềm tin và niềm trông cậy
vươn tới Nước Trời: “Tin Mừng
này đang sinh hoa trái và lớn lên trên toàn thế giới như thế nào, thì nơi anh
em cũng vậy” (năm lẻ).
Thứ năm: CUỘC ĐÁNH BẮT KỲ DIỆU
“Họ bắt được rất nhiều cá,
đến nỗi hầu như rách cả lưới!”.
Rừng Bắc Âu, Bắc Mỹ nổi
tiếng với “Chồn Ermine” tuyệt đẹp; bộ lông của nó trắng như tuyết. Ermine bảo
vệ ‘áo’ mình bất cứ giá nào. Tận dụng bản năng này, thợ săn không bẫy; thay vào
đó, tìm chỗ ở của Ermine. Họ bôi bẩn lối vào ổ của chúng; sau đó, thả đàn chó
để săn đuổi. Những con vật sợ hãi chạy ‘về nhà’, nhưng không vào, vì sợ bẩn!
Thay vì để lấm lem chiếc áo trắng tinh của mình, Ermine nộp mạng để gìn giữ sự
thanh khiết.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay không nói
đến kiểu đánh bắt độc đáo loài Ermine xinh đẹp, nhưng nói đến các ‘cuộc đánh
bắt kỳ diệu’ của Thiên Chúa trong lịch sử. Những cú đánh bắt này cho thấy,
“Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ!” như Thánh Vịnh đáp ca tán dương.
Thư Côlôssê nói đến ‘cuộc
đánh bắt kỳ diệu’ lớn lao nhất từ tạo thiên lập địa; qua đó, Thiên Chúa đã biểu
dương ơn cứu độ và lòng thương xót của Ngài khi “Giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc
Thánh Tử chí ái!”.
Câu chuyện ‘đánh bắt’ của
Tin Mừng hôm nay xoay quanh Chúa Giêsu và Phêrô, một người đã chứng kiến những
điều lạ lùng từ nhân vật ‘huyền bí’ có tên “Giêsu” mới xuất hiện. Ông đã chứng
kiến mẹ vợ mình được Ngài nâng lên; các bệnh nhân và nhiều người quỷ ám được
chữa lành. Để sau đó, “Giêsu” này bước xuống thuyền ông, xin ông chống ra xa để
đánh cá. Ông đã vâng lời và đã bắt được rất nhiều cá, nhiều “đến nỗi hầu như rách cả lưới!”.
Đó là cú đánh bắt thần kỳ
trong đời các ngư phủ miền Galilê, nhưng điều thần kỳ không phải là ‘cá’, nhưng
là ‘những người đánh cá’ vốn đã bị đánh bắt! Phép lạ không ‘thuộc về vật chất’,
nhưng ‘hoàn toàn tinh thần’; Giêsu đã giúp họ không trở thành nạn nhân của chán
nản khi đối mặt với thất bại, nhưng trở nên tuyệt vời khi họ để mình ‘bị đánh
bắt’ và trở nên những ngư phủ sẽ đi khắp thế giới ‘vung chài’ đánh bắt các linh
hồn.
Vậy thì điều gì đã dẫn đến
cú đánh bắt ngoạn mục mang tính cứu độ này? ‘Cứu độ!’, vì đó là mục đích của
mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể. Những con người này đã để Đấng Cứu Độ bước
xuống thuyền mình; ngoan nguỳ chèo ra chỗ nước sâu, thả lưới. Cũng thế, Ngài
yêu cầu bạn và tôi đón Ngài vào thuyền đời mình, giữ Ngài ‘đủ lâu’, đi với Ngài
‘đủ xa’, đến những vùng biển mới đầy bất ngờ! Hãy đón Ngài, đừng để Ngài lớ ngớ!
Hãy nhớ, Ngài giỏi ‘đi trên nước!’; hãy ‘cột chân’ Ngài bằng ‘dây yêu mến’ và
đừng quên tỏ ra háo hức, tập thích thú lắng nghe câu chuyện dài ‘Nghìn lẻ một
đêm’ Ngài sẽ kể!
Anh Chị em,
“Họ bắt được rất nhiều cá!”. Sẽ không có ‘cuộc đánh bắt kỳ diệu’ nào nếu bạn và tôi
không để Giêsu bước xuống lòng thuyền đời mình và mạnh dạn chèo ra xa bờ! Bờ
của những tính toán hơn thiệt, bờ của những suy nghĩ tục hoá. Và sẽ là cú đánh
bắt Chúa Giêsu mong đợi nhất, tuyệt vời nhất, trước nhất, là cuộc đánh bắt linh
hồn bạn và tôi! “Lạy Chúa, xin tránh xa
con, vì con là người tội lỗi!”. Bạn và tôi hãy để mình ‘bị đánh bắt’ theo
cách này; và Ngài cũng sẽ nói với chúng ta, “Đừng sợ!”. Những lời an ủi này của
Ngài tất yếu cũng cần được đáp lại khi bạn và tôi “bỏ hết mọi sự mà theo Ngài!”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, sẽ không có cú
đánh bắt nào nếu Chúa sẩy mất linh hồn con! Chúa cứ bước xuống lòng thuyền con,
con sẽ làm tất cả những gì Chúa muốn, hôm nay và mỗi ngày!”, Amen.
Lm Minh Anh, Tgp.
Huế
Suy niệm 2: Khôn ngoan và dại dột
TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
“Họ bỏ hết mọi sự mà theo Người”.
Trong đời sống ai càng chiếm
hữu được nhiều và biết dùng mọi cơ hội để có thêm được coi là khôn ngoan. Thánh
Phê-rô và các bạn hôm nay chắc chắn bị nhiều người cho là dại dột. Đang mệt mỏi
cần đi nghỉ, nhưng đã sẵn sàng cho Chúa mượn thuyền và còn cất công chèo thuyền
cho Chúa rao giảng.
Các ngư phủ chuyên nghiệp đánh
cá suốt đêm không đuợc gì lại vâng theo lệnh Chúa, một người thợ mộc, tiếp tục
ra khơi. Và sau một mẻ lưới phi thường, tưởng có thể là cơ hội phát triển công
ăn việc làm, lại bỏ tất cả đi theo Chúa.
Các ngài đã từ bỏ nhiều thứ và
sau cùng từ bỏ tất cả. Bỏ cả gia đình vợ con. Bỏ cả nếp sống quen thuộc với
nghề nghiệp vững vàng. Bước vào hành trình phiêu lưu. Theo đuổi một công việc
mới: “thu phục người ta”.
Không có gì bảo đảm. Không biết đích điểm. Không thấy tương lai. Có dại dột quá
không?
Thánh Phao-lô cho biết đó là
những người khôn ngoan nhất. “Vì
sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa”. Nên “nếu trong anh em có ai tự cho mình là
khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật”.
Khôn ngoan thật là biết rằng: “tất
cả thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Ki tô, và Đức Ki tô lại thuộc về
Thiên Chúa”.
Bỏ hết mọi sự, dâng hết mọi sự
cho Chúa chính là đi vào nguồn mạch sự phong phú, là kho tàng của mọi kho tàng,
là chiếm được tất cả. Vì Chúa là tất cả (năm chẵn).
Tất nhiên để đạt đến sự khôn
ngoan trong Thiên Chúa, ta phải trải qua rất nhiều thử thách. Chính vì thế
thánh Phao-lô luôn cầu nguyện để chúng ta “được
am tường thánh ý Thiên Chúa với tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết mà Thần Khi
ban cho”. Khi đó ta sẽ biết sống như Chúa đòi hỏi, sinh nhiều hoa
trái và ngày càng hiểu biết Chúa hơn. Khi đó Chúa sẽ ban sức mạnh để ta kiên
trì vượt qua mọi khó khăn thử thách. Nhờ đó ta sẽ xứng đáng đạt tới vinh quang
của Thiên Chúa trong cõi đầy ánh sáng. “Nhờ
sức mạnh vạn năng của Thiên Chúa vinh quang, anh em sẽ nên mạnh mẽ để kiên trì
chịu đựng tất cả. Anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở
nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng”.
Như vậy tuy yếu đuối trước mặt
thế gian, ta sẽ trở nên mạnh mẽ. Điên dại trước mặt thế gian ta sẽ nên khôn
ngoan. Nghèo khó trước mặt thế gian ta vô cùng giầu có vì được hưởng gia nghiệp
của Chúa. Và gia nghiệp ấy bền vững mãi mãi (năm lẻ).
Lạy Chúa, xin cho con biết điên
rồ, nghèo hèn và dại dột trước mặt thế gian. Để được sáng suốt, giầu sang và
khôn ngoan trong Nước Trời.
Thứ sáu: KÍNH SINH NHẬT ĐỨC TRINH NỮ MARIA
Mk 5,1-4a; Mt 1,1-16.18-23
MỘT LỊCH SỬ CÓ TÊN EMMANUEL
“Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel,
nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta!”.
Ngoài gia phả của Chúa Giêsu, Thánh Kinh còn
có gia phả của Ađam. Không tin, bạn mở Sáng Thế chương 5! Cả hai tạo nên một
tương phản vô cùng độc đáo. Gia phả của Ađam là hồ sơ về những cái chết; gia
phả của Chúa Giêsu, hồ sơ về những cuộc sinh ra! Một bên, các từ “rồi chết”,
“rồi chết”; bên kia, “sinh ra”, “sinh ra” lặp đi lặp lại hàng chục lần. Và dẫu
ai cũng chết, nhưng từ “chết” tuyệt đối không có trong gia phả Chúa Giêsu!
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng lễ Sinh Nhật Đức Mẹ tường thuật mầu
nhiệm Nhập Thể vĩ đại với gia phả Chúa Giêsu; trong đó, Con Thiên Chúa mặc lấy
lịch sử tốt xấu của tổ tiên. Vậy mà nhờ Ngài, lịch sử đó được định hình để làm
nên lịch sử cứu độ, ‘một lịch sử có tên Emmanuel!’.
Đó là một lịch sử được báo trước! Mikha,
trong bài đọc hôm nay, nói đến ‘cái kết cứu độ’ của gia phả với lời tiên tri về
một trinh nữ sẽ sinh con, “Ngài sẽ bỏ dân Ngài, cho đến khi một người nữ phải
sinh, sẽ sinh con”. Với khôn ngoan thế gian, không ai hiểu tại sao Thiên Chúa
lại chọn trở thành một con người. Trong gia phả của Chúa Giêsu, xuất hiện kẻ
tốt, người xấu; hạng trung thành, kẻ bất tín; người hữu dụng, kẻ vô dụng. Thật
khó hiểu, khi Thiên Chúa lại chuốc lấy những gì là lầm lỗi, kém cỏi để biến nó
thành của mình!
Gia phả của Chúa Giêsu bắt đầu với Abraham,
một con người đầy niềm tin; nhưng qua thời gian, lịch sử dòng dõi của vị tổ phụ
vấy bao tội lỗi. Vì thế, khi mang lấy huyết thống của dòng tộc này, Con Thiên
Chúa muốn cứu lấy không chỉ dòng dõi Abraham, nhưng cả nhân loại trước và sau
Abraham; cả những ai thuộc về Abraham hay không thuộc về ông. Tắt một lời, Ngài
sẽ ôm lấy kiếp người trọn vẹn với buồn vui của nó; một kiếp nhân sinh đang bị
xâu xé bởi tội nguyên tổ. Ngài đi vào trong chính lịch sử của nó, một lịch sử
mà Ngài sẽ định hình nên lịch sử cứu độ. Và để làm được công việc này; Ngài
phải đi vào nhân loại này, và Con Thiên Chúa nhất định cần có một người mẹ.
Sinh Nhật Maria báo trước Sinh Nhật Chúa
Giêsu. Ngài đã làm người; có cha, có mẹ, có huyết thống. Ngài khiêm nhường chen
mình vào dòng tộc con người đầy khiếm khuyết này, hầu cứu độ nó. Để làm được
điều đó, Ngài phải ở với, ở cùng con người; và nhờ Ngài, lịch sử của nó trở nên
một lịch sử mang tên “Thiên Chúa ở cùng chúng ta!”.
Anh Chị em,
“Tên con trẻ là Emmanuel!”. Nhiệm Cục Cứu Độ
sẽ thế nào nếu không có Đức Maria? Chiêm ngắm con người tuyệt vời của Mẹ, đấng
Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng ta thấy Mẹ như hòn đất trong tay người Thợ Gốm tài
hoa. Mừng sinh nhật Mẹ, chúng ta nhớ đến sinh nhật thiêng liêng của mình ngày
được rửa tội. Chớ gì, bạn và tôi cũng biết ngoan nguỳ và khiêm hạ như Đức Mẹ,
thuộc trọn về Thiên Chúa và Ngài cũng sẽ nắn đúc chúng ta nên một kiệt tác của
Ngài; và lịch sử mỗi người cũng được định hình để trở nên một lịch sử cứu độ,
‘một lịch sử có tên Emmanuel!’. Và rồi đây, như Đức Mẹ, bạn và tôi có thể reo
lên, “Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa!” như tâm tình của Thánh Vịnh đáp ca.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, ngày sống của con làm nên lịch
sử đời con, ước gì nó cũng là lịch sử cứu độ. Đừng để con làm ‘chật chỗ’ địa
cầu và ‘thừa mứa’ trong dòng dõi của Chúa!”, Amen.
Lm Minh Anh, Tgp.
Huế
Suy niệm 2: Đạo Của Niềm Vui
TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Chúa Giêsu đến mang luồng gió
mới cho tương quan Thiên Chúa-con người. Trong đạo cũ, dù biết bao lần Thiên
Chúa bày tỏ tình yêu thương, sự gần gũi, nhưng con người vẫn cảm thấy Thiên
Chúa không những xa cách mà còn hà khắc và hay trừng phạt. Vì thế đạo cũ mang
nặng mầu sắc sợ sệt, buồn bã. Chúa Giêsu giáng trần làm cho con người được gần
gũi Thiên Chúa. Hơn nữa Người còn mặc khải cho ta biết đạo mới là đạo tình
thương. Thiên Chúa yêu thương gần gũi con người. Thiên Chúa cưới lấy con người.
Chúa Giê-su chính là chàng rể đem đến hạnh phúc làm cho đời sống vui tươi. “Chẳng lẽ các ông lại có thể bắt khách dự
tiệc cưới ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ”? Thiên Chúa ở với con
người. Thiên Chúa nên một với con người. Quả là một hạnh phúc mà con người từng
mơ ước từ ngàn đời. Thiên Chúa biến đổi thân phận con người. Đó là một đạo mới.
Đó là thứ rượu mới. Rượu đem lại vui tươi phấn khởi cho người mới. Rượu mới
phải chứa trong bầu da mới. Đạo mới phải có con người mới. Có cung cách mới.
Nếu đạo cũ cần nhiều luật lệ
thì đạo mới chỉ cần Chúa Ki-tô. Chỉ cần ở trong Chúa Ki-tô là đủ. Chúa Ki-tô là
tất cả. Người là nguồn mạch mọi hiện hữu, “là
hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo, vì
trong Người, muôn vật được tạo thành”. Người là nguyên lý tồn tại
của mọi loài: “Người có trước
muôn loài môn vật, tất cả đều tồn tại trong Người”. Và tuyệt vời
hơn nữa nay Người qui tụ chúng ta thành một thân thể mà Người là Đầu: “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là
đầu của Hội Thánh”. Là đầu để đưa các chi thể đến vinh quang. Đầu
tiến đến đâu thì chi thể cũng tiến đến đấy. Người đã sống lại nên chúng ta cũng
sẽ được sống lại: “là trưởng
tử trong số những người từ cõi chết sống lại”. Người đã đạt tới tầm
vóc viên mãn để chúng ta cũng được viên mãn với Người: “vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự
viên mãn hiện diện ở nơi Người” (năm lẻ).
Người nên một với ta.
Người trở thành vận mệnh của ta. Vận mệnh đó tuỳ thuộc ta có kết hợp chặt chẽ
với Người hay không. Có trung thành với Người hay không.. Thánh Phao-lô ao ước
được trở nên “người đầy tớ của
Đức Ki-tô”. Nghĩa là hoàn toàn tuỳ thuộc vào Chúa. Sống cho Chúa.
Chết cho Chúa. Sự trung thành từ đáy thâm tâm sẽ được tỏ lộ vào ngày sau cùng:
“chính Người sẽ đưa ra ánh
sáng những gì ẩn khuất trong bóng tối, và phơi bày những ý định trong thâm tâm
con người. Bấy giờ, mỗi người sẽ được Thiên Chúa khen thưởng đích đáng”.
Lúc đó niềm vui của những kẻ trung tín trong một kết hợp trọn vẹn với Chúa
Ki-tô sẽ nên hoàn hảo (năm chẵn).
Thứ bảy: ĐỪNG QUÁ KHẮT KHE
“Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày
Sabbat?”.
“Bạn hãy sống làm sao cho
đến khi chết, cả người gánh đám cũng thương tiếc!” - Mark Twain.
Kính thưa Anh Chị em,
Câu nói của Mark Twain xem
ra nghịch với những gì xảy ra trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Băng qua đồng
lúa, các môn đệ bứt bông lúa mà ăn. Vậy mà những người biệt phái lại bắt bẻ.
Trình thuật này khiến chúng ta nghĩ đến một mối nguy thiêng liêng; đó là sự quá
cẩn trọng. Lời Chúa dạy bạn và tôi ‘đừng quá khắt khe!’.
Nếu là một người có khuynh
hướng quá cẩn trọng, tôi sẽ bị cám dỗ rời bàn phím, đứng dậy, và sẽ không viết
thêm một chữ nào! Với các môn đệ cũng thế. Nếu một hoặc nhiều người trong họ
phải vật lộn với việc thiếu cẩn trọng vì đã đưa tay bứt bông lúa, dẫn đến việc
bị lên án, thì họ có thể cảm thấy bối rối, hối hận về hành động của mình. Họ sẽ
bắt đầu lo lắng vì đã phạm thánh ngày Sabbat. Thế nhưng, sự cẩn trọng đó cần
được xem xét, nó như thế nào và đâu là nguyên nhân!
Phải chăng việc quá cẩn
trọng là cách nhìn cực đoan về lề luật của Chúa? Đúng, luật của Chúa phải được
tuân giữ đến chữ cuối cùng; nhưng với những ai đấu tranh vì khuynh hướng quá
cẩn trọng, luật Ngài có thể dễ dàng bị bóp méo và phóng đại dẫn đến lệch lạc.
Tại sao? Nguyên nhân chính là sự kiêu ngạo, thiếu yêu thương và quá khắt khe
trong xét đoán. Thiên Chúa không hề bị xúc phạm bởi việc các môn đệ với tay hái
bông lúa ngày Sabbat. “Điều không được phép” mà các biệt phái nghĩ ra nhất định
không đến từ Ngài! Vì thế, bài học ở đây là bạn và tôi ‘đừng quá khắt khe!’.
Trẻ em đâu có khắt khe; chỉ người lớn thường không rộng lượng!
Chúng ta có thể bị cám dỗ khi nhìn vào lề luật và
ý muốn của Thiên Chúa một cách quá cẩn trọng; mặc dù không ít người làm điều
ngược lại, nghĩa là quá lỏng lẻo! Nhưng nếu là những người đang đấu tranh với mối
nguy của sự quá cẩn trọng, hãy biết rằng, Thiên Chúa luôn muốn giải thoát chúng
ta khỏi mọi gánh nặng ‘không đáng có’ này, Ngài muốn giải thoát bất cứ giá nào!
Thánh Vịnh đáp ca xác tín, “Thiên Chúa là
Đấng phù trợ tôi!”.
Anh Chị em,
“Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày
Sabbat?”. Chính lối sống “gắn bó”
với luật pháp này đã khiến các biệt phái xa cách tình yêu và công lý. Quá chú ý
đến lề luật, họ coi thường công lý và tình yêu. Chúa Giêsu gọi họ là “đạo đức
giả”. Người ta không thể đi khắp thế giới tìm một người cải đạo rồi đóng “cửa
lại”. Đây là những người quá gắn bó với luật lệ đến nỗi họ “luôn đóng những
cánh cửa hy vọng, tình yêu và cứu độ”. Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta một con
đường hoàn toàn ngược chiều. Con đường này khởi đi từ tình yêu, tiến tới công
lý và dẫn đến Thiên Chúa. Chỉ con đường đi từ tình yêu đến hiểu biết và phân
định, đến sự viên mãn trọn vẹn, mới dẫn đến sự thánh thiện, ơn cứu rỗi và gặp
gỡ Chúa Giêsu. Vậy chúng ta ‘đừng quá khắt khe’ với những người khác ngay cả
trong việc tuân giữ luật Chúa!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con trở
nên hình thức, vô hồn và cứng nhắc khi thiếu quảng đại với anh em con. Vì bấy
giờ, con làm tôi lề luật, đánh mất công lý và tình yêu!”, Amen.
Lm Minh Anh, Tgp.
Huế
Suy niệm 2: Phục vụ Tin mừng
TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Phục vụ Tin Mừng là nhiệm vụ
cao quí. Tin Mừng giúp phát triển bản thân và thế giới. Nhưng việc phục vụ Tin
Mừng không phải dễ dàng. Người phục vụ Tin Mừng phải vất vả gieo trồng để có
được mùa gặt phong phú.
Thánh Phao-lô cho tín hữu
Cô-rin-tô biết những vất vả mà ngài phải chịu vì phục vụ Tin Mừng: “Cho đến giờ này, chúng tôi vẫn chịu đói
khát, trần truồng, bị hành hạ và lang thang phiêu bạt; chúng tôi phải vất vả tự
tay làm lụng”. Ngoài vất vả về thể xác, còn có những đau đớn trong
tâm hồn: bị nguyền rủa, bị bắt bớ, bị vu khống, bị loại trừ: “Cho đến giờ này, chúng tôi đã nên như
rác rưởi của thế gian, như phế vật đối với mọi người” (năm chẵn).
Các tông đồ đói đến nỗi phải
tuốt lúa xanh ngoài ruộng mà ăn. Thế mà không yên thân. Vẫn còn bị người
Pha-ri-sêu hoạnh hoẹ vì lỗi luật ngày sa-bát. Nhưng Chúa đã lên tiếng bênh vực
các ngài bằng trích dẫn trường hợp Đa-vít. Đa-vít cho thuộc hạ ăn bánh tiến
trong đền thờ mà không phạm tội. Nhưng đây còn hơn Đa-vít. Là Chúa Thượng của
Đa-vít. Vì thế có thể cho các môn đệ tuốt lúa ăn trong ngày sa-bát. Tư tế được
ăn bánh tiến trong đền thờ mà không phạm tội. Nhưng Chúa Giê-su mới là Thầy Cả
Thượng Phẩm. Người cũng là đền thờ mới. Vì thế có thể cho các môn đệ được tuốt
lúa ăn trong ngày lễ nghỉ.
Khi trưng dẫn Đa-vít, Chúa có ý
cho biết Người chính là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi. Từ xưa dân Ít-ra-en
luôn mong chờ Đấng Cứu Thế thuộc dòng tộc Đa-vít ra đời. Giải phóng dân khỏi nô
lệ. Đưa đất nước đến phồn thịnh, vinh quang. Chúa Giê-su thuộc dòng tộc Đa-vít.
Nhưng lại là Chúa của Đa-vít. Là niềm hi vọng của Dân Chúa. Các môn đệ đã gặp
được niềm hi vọng ngàn đời. Đã được thấy ơn cứu độ. Nên các ngài theo Chúa,
phục vụ Chúa, dù gian nan vất vả.
Chính vì thế, thánh Phao-lô khuyên nhủ tín hữu Cô-lô-xê phải kiên trì giữ vững đức tin: “Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc, kiên quyết và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hi vọng anh em đã nhận được”. Chúa là Tin Mừng. Là niềm hi vọng. Chính vì thế Phao-lô sẵn sàng chịu đau khổ. Hãnh diện vì được phục vụ Tin Mừng (năm lẻ).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét