SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN
XXVI THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN-A
KÍNH TRỌNG THỂ ĐỨC MẸ MÂN
CÔI
1 Cv 1,12-14; Gl 4,4-7; Lc
1,26-38
* Suy niệm 1:
Kính thưa
cộng đòan phụng vụ,
Hiệp hành
cùng toàn thể GH hoàn vũ, hôm nay chúng ta long trọng mừng
kính lễ Ðức Mẹ với tước hiệu Mẹ Mân Côi. Năm 1208 khi hiện ra với thánh
Ða Minh, Đức Mẹ đã chỉ dạy ngài cách lần chuỗi Mân Côi, để xin Chúa giúp Giáo
Hội Pháp thoát khỏi hiểm họa lạc giáo An-bi-goa
(Albigeois). Cũng như chiến thắng quân Hồi giáo tại vịnh Lepente
vào thế kỷ 16 của đạo quân thập tự chinh và nhiều biến
cố khác trong dòng lịch sử của GH.
Dâng thánh
lễ hôm nay, chúng ta tha thiết cầu xin Chúa cho ta biết nhận ra thánh
ý Thiên Chúa xảy đến trong đời sống với niềm tín thác vào quyền năng và
tình thương vô biên của Chúa theo gương Mẹ Maria.
Với tâm tình
con thảo, chúng ta cũng xin cho mỗi người trong chúng ta luôn biết khiêm tốn
vâng nghe lời Mẹ chỉ bảo là: Sám hối cải thiện đời
sống, tôn sùng mẫu tâm và siêng năng lần chuỗi Mân Côi làm đẹp lòng Mẹ.
Và nhờ đó chúng ta mới có thể vượt thắng mọi gian nan thử thách,
có được cuộc sống bình an và hạnh phúc.
Trong tâm
tình đó, giờ đây chúng ta thành tâm sám hối, xin Chúa thứ tha mội lầm lỗi thiếu
sót của chúng ta hầu xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh.
Trong toàn thể nhân
loại, chắc hẳn không có ai được TC ưu ái ban tặng nhiều ân phúc trọng đại cho
bằng Đức Maria. Ý thức điều đó và niềm xác tín vào nền tảng vững chắc của Thánh
kinh, Giáo hội luôn tôn kính và dành tặng cho Đức Mẹ nhiều tước hiệu cao quý…
Bước vào tháng 10,
GH ưu ái dành một ngày Chúa nhật đầu tháng để tưởng nhớ và mừng kính trọng thể
lễ Đức Mẹ, với tước hiệu “Mẹ Mân Côi”.
Sở dĩ có ngày lễ hôm
nay là vì liên hệ đến một biến cố quan trọng trong dòng lịch sử Giáo Hội. Đó là
sự kiện vua Hồi giáo đem một đại quân đông đảo và hùng mạnh hướng thẳng về La
Mã, với lời thề sẽ san bằng đền thờ thánh Phêrô, mong biến nơi đây thành một chuồng
ngựa.
Bấy giờ GH rất lo
lắng và sợ hãi. Bởi vì với quân đội ít ỏi, khí giới thì thô sơ, lại không có
kinh nghiệm tác chiến thì làm sao kháng cự lại với quân Hồi giáo hùng mạnh. Tin
tưởng vào sự che chở của Đức Mẹ nên GH đã kêu gọi toàn thể tín hữu lần chuỗi
Mân Côi. Nhờ đó mà đạo binh Công giáo đã ngăn chặn được bước tiến thần tốc của
quân Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ, và đã giành được chiến thắng tại vịnh Lépante, vào
ngày 07/10/1571.
Nhận ra cuộc chiến
thắng lạ lùng ấy là nhờ ơn ban của Mẹ qua việc lần chuỗi Mân Côi. Để ghi nhớ
công ơn của Đức Mẹ Đức Thánh Cha Piô V đã dạy các tín hữu rước kiệu Đức Mẹ và
chọn ngày 7 tháng 10 làm lễ kỷ niệm Đức Mẹ Chiến thắng, sau này được thánh Giáo
hoàng Gio-an XXIII đổi thành lễ Đức Mẹ Mân Côi (1960).
Ngày nay mỗi khi
kính nhớ lễ Đức Mẹ Mân Côi, Giáo hội không nhằm nhắc lại biến cố chiến thắng
ấy, cho bằng mời gọi con cái GH tích cực khám phá lại vai trò vị thế của Đức
Maria trong mầu nhiệm cứu độ; và qua đó cũng muốn nhắc nhở các tín hữu về sức
mạnh phi thường của Kinh Mân Côi.
1. Vai trò vị thế
của Mẹ Maria.
Nhìn lại lịch sử cứu
độ, qua lăng kính của Thánh kinh, chúng ta biết được công trình sáng tạo đầu
tiên của Thiên Chúa đã bị phá vỡ do tội lỗi nguyên tổ. Nhưng Thiên Chúa không
muốn công trình tốt đẹp Ngài đã tạo dựng bị hủy diệt đi. Nên ngay sau khi
nguyên tổ phạm tội, TC liền hứa ban Đấng Cứu Thế. Đấng ấy sẽ được sinh ra bởi
một người phụ nữ. Đấng ấy sẽ tái tạo lại công trình sáng tạo của TC xinh đẹp
như thuở ban đầu.
Và khi thời gian đã
đến hồi viên mãn, lời hứa ấy bắt đầu được thực hiện, khi TC sai sứ thần Gabriel
đến với cô thôn nữ làng quê Nazareth, có tên là Maria, để mời gọi cô cộng tác
vào chương trình cứu độ của Người.
Cũng giống như bao
cô gái làng quê khác, thiếu nữ Maria đã từng ấp ủ bao mộng ước và dự phóng cho
đời mình. Nhưng giờ đây, Thiên Chúa lại xen vào và đã khuấy động đời cô. Người
đã làm thay đổi toàn bộ những ước vọng dự hướng tương lai của cô.
Tuy nhiên sau khi
biết được ý định của TC, thiếu nữ Maria đã sẵn lòng thân thưa với sứ Thần bằng
hai tiếng "xin vâng" thật đơn sơ, nhẹ nhàng nhưng thật sâu lắng và
đầy niềm tín thác. Chính nhờ bởi lời “xin vâng” tuy đơn sơ ấy mà ơn cứu độ của
TC đã đến được với nhân loại.
Với biến cố Ngôi Lời
TC đã nhập thể trong cung lòng Đức Maria do quyền năng của CTT, Đức Maria đã
trở thành Mẹ TC. Xứng đáng đón nhận ơn phúc của TC theo như lời chào của Sứ
Thần: "Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc
giữa các người phụ nữ." (Lc 1,28). Qủa vậy, có ơn phước nào lớn hơn ơn
phước được làm Mẹ TC và được TC ở cùng.
Vì là Mẹ Ngôi Hai TC
làm người nên Đức Maria rất có uy thế trước mặt TC. Nhưng Mẹ Maria cũng là Mẹ
GH và là Mẹ của mỗi người chúng ta, nhờ bởi lời trăn trối thánh Gioan cho Đức
Mẹ và Đức Mẹ cho thánh Gioan của Chúa Giêsu dưới chân thập giá.
Là con cái của Đức
Mẹ nên chúng ta hãy tin tưởng vào tình thương đỡ nâng của Mẹ, bởi vì: “xưa nay
chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm
lời”. Tin tưởng như thế, chúng ta cần phải tỏ lòng yêu mến, tôn kính và vâng
lời Mẹ chỉ dạy với tất cả tâm tình của người con thảo.
2. Sức mạnh của
tràng chuỗi Mân Côi.
Mừng lễ Đức Mẹ Mân
Côi hôm nay, GH còn nhằm hướng chúng ta đến cuộc chiến khác, đó là cuộc chiến
với tội lỗi do ma quỷ, thế gian và xác thịt gây ra. Nếu xưa kia đạo quân thập
tự Công giáo, nhờ vào sức mạnh của việc lần chuỗi Mân côi mà chiến thắng quân
Hồi giáo hùng mạnh, thì ngày nay với trận chiến ba thù, chúng ta cần phải vâng
nghe lời chỉ dạy của Đức Mẹ mà siêng năng lần hạt Mân Côi. Đó là phương thế mà
Đức Mẹ chỉ dạy chúng ta mỗi khi hiện ra trên ngọn cây Sồi với ba trẻ chăn cừu
là: Giaxinta, Phanxicô và Lucia, tại làng quê hẻo lánh Fatima, nước Bồ Đào Nha:
1. Ăn năn đền tội
cải thiện đời sống.
2. Tôn sùng Mẫu Tâm.
3. Siêng năng lần
chuỗi Mân Côi.
Ước gì mỗi người
chúng ta tin tưởng vào sức mạnh thần thiêng của kinh Mân côi để trân quý và
siêng năng lần chuỗi mỗi ngày, nhờ đó ta mới có thể vượt thắng được những cám
dỗ của ba thù (ma quỷ, thế gian và xác thịt)..
Xin Chúa cũng cho
chúng ta biết gắn kết đời mình với Mẹ Maria qua lời kinh mân côi, để cùng với
Mẹ ta dâng lên Chúa lời tôn vinh, chúc tụng và ngợi khen vì biết bao điều cao
cả Người đã làm trên cuộc đời chúng ta. Và đừng quên hiệp thông cùng với GH
toàn cầu mà nguyện xin "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con
khi nay và trong giờ lâm tử". Amen.
* Suy niệm 2:
Truyện kể rằng: Có một anh
chàng thanh niên tên là A-đơ-ô-đa chơi bời trác táng. Để có tiền ăn chơi như
thế, anh ta mới viết một tờ giấy cam kết là sẵn sàng bán linh hồn cho ma
quỉ.
Sau những ngày ăn chơi thỏa
thích, đến hẹn, quỉ đến đòi linh hồn anh ta. Nó đưa anh ta lên một thành cầu
thật cao và bảo anh ta phải nhảy xuống dòng sông nước đang chảy xiết. Sợ hãi,
anh ta không dám nhảy và bảo quỉ hãy xô anh ta xuống.
Quỉ bảo với anh, hãy cởi bỏ
tràng chuỗi Mân Côi đeo trên cổ ngươi ra đi thì tao sẽ làm ngay. Biết vậy,
anh nhất định không tháo bỏ tràng chuỗi ra. Giằng co một hồi lâu, quỉ chán nản
và bỏ đi.
Bấy giờ người thanh niên
mới tìm đến Nhà Thờ để tạ ơn Đức Mẹ. Và từ đó anh ta mới siêng năng chạy đến
với Mẹ qua việc lần chuỗi Mân Côi mỗi ngày.
Câu chuyện trên minh họa cho chúng ta biết được sức mạnh
siêu nhiên vô song của chuỗi kinh Mân Côi. Vậy ta thử tìm hiểu xem kinh Mân Côi
có nguồn gốc từ đâu? Mang ý nghĩa gì? Giá trị ra sao? Và chúng ta phải sống
tinh thần kinh Mân Côi như thế nào?
1. Nguồn gốc
- Vào TK 12 , các tín hữu thay vì đọc 150 thánh vịnh, thì
họ đã thay bằng 150 kinh Lạy Cha. Sau đó là 150 kinh Kính Mừng cho dễ đọc và dễ
nhớ (lúc ban đầu chỉ có phần đầu chứ chưa có phần sau).
- Đến TK 14, thầy Ka-lar dòng
Car-thur-san chia 150 kinh Kính Mừng thành 3 chuỗi 50.
- Đến TK 15, Thầy A-la-nô thêm vào trước
mỗi chục một mầu nhiệm.
- Đến TK 16, ĐGH Pi-ô V đặt thêm
phần sau : “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời…” như chúng ta đọc bây giờ.
- Đến TK 21, ĐTC. Gioan
Phaolô II thêm vào Năm Sự Sáng như hiện nay.
2. Ý nghĩa
Kinh mân Côi bao gồm những ý nghĩa sau:
Đây là kinh bởi trời và được tích hợp bởi 3 nguồn:
- Lời chào
kính của sứ thần Gabriel dành cho Đức Mẹ lúc truyền tin.
- Lời của bà
Isave thưa lên với Mẹ Maria khi được Mẹ đến viếng thăm: “Bà
có phúc lạ hơn mọi người nữ”
- Lời kêu cầu của Giáo Hội, do ĐGH Pi-ô V đặt thêm vào thế kỉ 16, để xin Mẹ thương cứu giúp chúng ta là những kẻ tội lỗi khi nay và trong giờ lâm tử.
Nên khi đọc kinh Mân Côi, là ta suy niệm
lại chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa dành cho nhân loại chúng ta trong đó
có sự hiệp thông và tham gia tích cực của Mẹ Maria rất thánh, với:
- Mầu nhiệm năm sự Vui: diễn tả mầu nhiệm Nhập thể và cuộc
sống âm thầm của Đức Giê-su suốt ba mươi năm tại Na-da-rét.
- Mầu nhiệm năm sự Sáng: Diễn tả những biến cố trong thời
gian gần ba năm đi loan báo Tin mừng Nước Trời của Đức Giê-su.
- Mầu nhiệm năm sự Thương: Diễn tả các sự đau khổ mà Đức
Giê-su phải chịu trong cuộc Tử nạn để đền tội và chết thay cho loài người.
- Mầu nhiệm năm sự Mừng: Diễn tả các sự kiện cứu độ của mầu
nhiệm Phục Sinh Chúa Giê-su mà Đức Ma-ri-a là người đầu tiên đại diện cho Hội
Thánh được hưởng ơn ấy.
3. Giá trị
Kinh Mân Côi có giá trị rất cao quý như sau:
- Là kinh do chính Đức Mẹ chỉ dạy cho nhân loại khi những
lần Mẹ hiện ra với ba trẻ Giaxinta, Phanxicô
và Lucia, tại làng quê hẻo lánh Fatima, nước Bồ Đào Nha, nên
rất đẹp lòng Đức Mẹ.
- Giúp ta biết ghét tội và thêm
lòng yêu mến Chúa. (Thánh A-la-nô)
- Giúp kẻ có tội trở lại và được
ơn chết lành. (Thánh An-phong-sô)
- Đọc kinh Mân côi sẽ được Đức Mẹ ban rất nhiều ơn ích
thiêng liêng, đặc biệt được bảo đảm hạnh phúc thiên đàng.
- Đức Thánh Cha Gioan 23 cũng đã ca ngợi về Kinh Mân Côi
như sau: “Kinh Mân Côi là hơi thở của linh hồn; là bông hồng thiêng liêng
dâng kính Mẹ ; là việc đạo đức thích hợp cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi
lúc.”
4. Ta phải sống kinh Mân
Côi thế nào?
Kinh Mân Côi là những suy gẫm sâu xa về 20 biến cố xảy ra
trong cuộc đời của Chúa Giê-su, từ khi nhập thể cho đến khi Đức Chúa Thánh Thần
hiện xuống cũng như những vinh quang mà Thiên Chúa đã ân thưởng cho Đức Ma-ri-a
trên thiên quốc. Hai mươi biến cố này được chia thành 4 nhóm hay là 4
“sự”: năm sự Vui, năm sự Sáng, năm sự Thương, năm sự Mừng. Mỗi
sự đều có liên hệ và gắn kết mật thiết với cuộc đời của Mẹ Ma-ri-a là Đấng hiệp
thông với Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc nhân loại.
Vậy mà nhiều khi chúng ta lại lần chuỗi Mân Côi như cái máy
phát thanh, ít khi ta dừng lại để suy ngắm những gì mình đang đọc; hay có những
lúc chúng ta đọc quá nhanh tựa như là sợ ai đó giành giựt mất phần của ta vậy,
có lẽ vì chúng ta chưa hiểu và chưa thấm được tinh thần và giá trị cao quý của
kinh Mân Côi nên chúng ta chưa trân trọng và yêu mến Chúa Giê-su cho đủ.
Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI đã khích lệ chúng ta như
sau: “Bản chất việc đọc kinh Mân Côi đòi hỏi nhịp điệu phải chậm rãi và
có thời gian thư thả, để chúng ta có thời gian suy gẫm sâu xa hơn về các mầu
nhiệm cuộc đời Đức Chúa Giê-su được nhìn qua Trái Tim của Đấng gần gủi nhất với
Chúa là Mẹ Maria”. (Marialis Cultus, 47)
Mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi hôm nay, xin cho chúng ta có một
quyết tâm mới mỗi khi lần hạt Mân Côi, đó là luôn yêu mến và tin tưởng vào Đức
Mẹ Ma-ri-a, để nhờ Mẹ mà chúng ta đến với Đức Chúa Giê-su Đấng cứu chuộc chúng
ta.
Nguyện cho lời kinh Mân Côi luôn được vang vọng trong mỗi
trái tim ta với lòng kính yêu Mẹ Maria, để nhờ và qua Mẹ niềm vui Tin Mừng của
Chúa được lớn lên và lan toả đến với mọi người. Amen
* Suy niệm 3:
Lịch sử GH ghi nhận những lần Đức Mẹ hiện ra với 3 trẻ Lucia, Giaxinta và
Phanxicô, tại làng Fatima, thuộc đất nước Bồ Đào Nha, từ ngày 13/05/1917 đến
13/10/1917. Trong những lần hiện ra đó, Đức Mẹ đã nói với ba trẻ về nhiều điều khác nhau, nhưng có thể gom tóm lại trong
ba mệnh lệnh quan trọng và được coi là phương thế tối hảo nhất để canh tân đời
sống và cứu vãn hoà bình thế giới, đó là: Hãy cải thiện đời sống; Hãy
lần hạt Mân Côi; Hãy tôn sùng Trái tim Mẹ.
+ Hãy cải thiện đời sống:
Cải thiện đời sống hay thống hối ăn năn là cụm từ được
nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Kinh Thánh, từ Cựu Ước sang Tân Ước. Đó là chủ
đề chính mà Thánh Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu rao giảng. Bởi vì, để được
tha tội, để được cứu rỗi cần phải có lòng thống hối. Nên
mỗi lần hiện ra ở Fatima, Đức Mẹ luôn nhắc đi nhắc lại với ba
trẻ Lucia, Giaxinta và Phanxicô về việc sám hối và cải thiện đời sống.
- Lần hiện ra ngày 13 tháng 06 năm 1917,
chị Lucia xin Đức Mẹ chữa lành cho một bệnh nhân. Đức Mẹ trả lời: “Nếu anh ấy ăn năn trở lại, thì trong năm nay anh sẽ được chữa
lành”.
- Lần hiện ra ngày 13 tháng 10 năm 1917,
chị Lucia cũng muốn xin ơn cho một số người, Đức Mẹ nói: “Mẹ sẽ ban cho một số, còn một số thì không. Nhưng họ phải cải
thiện và xin ơn tha thứ lỗi lầm của họ. Đừng xúc phạm đến Thiên Chúa nữa,
vì Ngài đã bị xúc phạm quá nhiều rồi”.
- Năm 1858, khi hiện ra tại Lộ Đức, Đức
Mẹ lặp đi lặp lại ba lần với Thánh nữ Bernadette: “Hãy sám hối, hãy sám hối, hãy sám hối”.
Vậy, để được tha thứ tội lỗi, để thực hiện lời Mẹ nhắn
nhủ, mỗi người chúng ta hãy quyết tâm cải thiện đời sống của mình bằng cách sám
hối ăn năn và lãnh nhận Bí tích Giao Hoà.
+ Siêng năng lần hạt Mân Côi:
- Năm 1208, Đức Mẹ đã thân hành hiện ra
và dạy thánh Đa Minh truyền bá việc lần hạt Mân côi.
- Năm 1858, khi hiện ra tại Lộ Đức, Đức
Mẹ cũng mang tràng hạt theo và cùng lần hạt với Ber-na-dette.
- Đặc biệt, ở Fatima, Đức Mẹ tự xưng
mình là Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi. Ngài muốn chúng ta tỏ
lòng tôn sùng Ngài trong phép lần hạt Mân Côi. Ngài khẩn khoản xin các em lần
hạt, và cổ động cho người ta lần hạt, và đó cũng là một trong ba điều kiện để
có hòa bình. Nhiều người nhờ ba trẻ xin Đức Mẹ ơn nọ ơn kia, Đức Mẹ thường trả
lời: “Hãy bảo người ta lần hạt Mân Côi”. Chính trẻ
Phanxicô lúc đầu không được trông thấy Đức Mẹ hiện ra, nhưng sau đó nghe lời
chị Lucia, Phanxicô lần hạt và được thấy Đức Mẹ.
Vậy, lâu nay chúng ta đã siêng năng lần hạt chưa? Hãy
quyết tâm lần hạt, lần hạt mỗi ngày, lần hạt chung, lần hạt riêng và lần hạt
một cách sốt sắng. Làm vậy là chúng ta không chỉ thực hiện lời Mẹ dạy mà còn
đem lại lợi ích hồn xác cho chúng ta và cầu nguyện cho hoà bình thế giới và
đem lại bình an cho gia đình.
+ Tôn sùng Trái Tim Mẹ:
Mẹ Maria vừa là Mẹ Thiên Chúa vừa là Mẹ của chúng ta. Mẹ
là Đấng trung gian, là máng thông ơn Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta là phải
tôn sùng Mẹ. Hơn nữa, chính Mẹ đã đích thân khuyên nhủ mọi người hãy tôn sùng
Trái Tim Mẹ, Trái Tim đã bị đâm thâu vì tội lỗi của loài người. Mẹ khuyên nhủ
chúng ta hãy yên ủi Trái Tim Mẹ, hãy ẩn mình trong Trái Tim ấy để chúng ta làm
mọi việc với Mẹ, trong Mẹ, vì Mẹ và cho Mẹ. Vậy, chúng ta đã làm những gì để
thể hiện lòng tôn sùng Mẹ? Có nhiều cách để chúng ta thể hiện lòng tôn sùng Đức
Mẹ:
- Tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ bằng cách mang ảnh Mẹ trong
mình, trang hoàng bàn thờ Đức Mẹ trong gia đình, tôn kính ảnh tượng Mẹ tại các
nơi công cộng.
- Tôn sùng Trái Tim Mẹ bằng cách quy
tụ bên nhau lần hạt Mân Côi sáng tối trong gia đình.
- Tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ bằng cách đọc kinh cầu Đức Bà,
đọc kinh Truyền Tin, tham dự thánh lễ hàng ngày, nhất là vào mỗi thứ bảy hàng
tuần, hiệp thông lần chuỗi Mân côi trước đài Đức Mẹ.
- Đặc biệt, tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ bằng cách tận hiến
và phó thác đời mình cho Mẹ.
Sứ điệp của Mẹ Fatima luôn mang tính thời sự. Ngày hôm nay,
nhiều nơi trên thế giới vẫn đang còn chiến tranh. Tội lỗi, gương xấu vẫn lan
tràn khắp nơi. Đất nước Việt Nam chúng ta lúc nào cũng bị đe doạ về vấn đề toàn
vẹn lãnh thổ, môi trường, dịch bệnh, đạo đức luân lý xuống
cấp, tai nạn giao thông luôn trực chờ, quốc nạn tham ô tham nhũng tràn
lan…Để
cứu vãn thế giới và đất nước ta thoát khỏi các đại nạn ấy, để mỗi người được hưởng ơn cứu độ,
chúng ta hãy đến với Đức Mẹ, thực hành những sứ điệp do Mẹ trao ban là: Cải
thiện đời sống, siêng năng lần hạt, tôn sùng trái tim Mẹ.
Chúng ta nghe lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Phanxicô trong
buổi tiếp kiến chung ngày thứ tư 11/5/2016, ngài nói: “Đức Mẹ Fatima mời gọi
chúng ta một lần nữa hướng lòng cầu nguyện, ăn năn và hoán cải. Mẹ muốn chúng
ta đừng bao giờ làm phiền lòng Chúa nữa. Mẹ báo trước cho toàn nhân loại về
việc cần bỏ mình theo Chúa, nguồn cội của yêu thương và thương xót. Hãy theo
gương thánh Gioan Phaolô II, một người sùng kính Đức Mẹ Fatima, hãy để tâm lắng
nghe Mẹ Thiên Chúa và xin hòa bình cho thế giới. Chúc tụng Chúa Giêsu Kitô!”.
Vì
thế, khởi đầu tháng Mân Côi này, chúng ta hãy
xin Mẹ luôn đồng hành với nhân loại chúng ta, nhất là trong những lúc khó khăn.
Xin Mẹ tiếp tục hướng dẫn và chỉ dạy chúng ta đi đúng đường lối của
Chúa. Nhất là xin cho mỗi người chúng ta biết cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt, sùng kính Trái Tim Mẹ để thế giới và đất nước
Việt Nam thân yêu
của chúng ta
có được hoà bình thịnh vượng, gia đình và tâm hồn
chúng ta có được niềm vui và bình an trong Chúa, nhờ Mẹ Maria.
Với ý nghĩa và tâm tình ấy, giờ đây trong tâm tình hiệp thông, họ đạo chúng ta chính thức khai mạc tháng Mân Côi dâng kính Đức Mẹ qua nghi thức tôn vinh, rước kiệu và lần chuỗi chung với nhau, nhằm biểu tỏ tấm lòng hiếu kính mẹ Maria, người mẹ kính yêu của chúng ta!
Suy niệm 4: MẸ DIỄM PHÚC
Trong năm phụng vụ, không có vị thánh nào được Giáo Hội
sùng kính cách đặc biệt như Đức Trinh Nữ Maria. Giáo Hội dành riêng nhiều lễ trọng,
lễ kính và lễ nhớ để mừng kính Đức Maria. Đặc biệt Giáo Hội dành hai tháng, đó
là tháng Năm, tháng Hoa, và tháng Mười, tháng Mân Côi để lần hạt và tôn sùng Đức
Mẹ. Tại sao Đức Maria được sùng kính một cách đặc biệt như vậy trong phụng vụ
Kitô giáo? Chúng ta tìm thấy câu trả lời trong Kinh Thánh, có thể được tóm tắt
qua ba lý do sau đây:
1. Đức Maria, Thiên Mẫu
Lý do thứ nhất làm nền tảng cho việc Giáo Hội dành sự
sùng kính đặc biệt cho Đức Maria, bởi vì, Đức Maria là người đã sinh hạ Chúa
Giêsu, Đấng Cứu Độ loài người. Mẹ đã thưa “xin vâng” với Thiên Chúa trong việc
cộng tác vào chương trình cứu độ, để cho Con Thiên Chúa nhập thể làm người
trong cung lòng của mình. Người Con mà Đức Mẹ cưu mang và sinh hạ “được gọi là
Con Đấng Tối Cao” (Lc 1,32). Nhờ sự cộng tác đó, Con Thiên Chúa trở thành con
người, hiện diện giữa chúng ta, chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta. Như thế,
nhờ Đức Maria, chúng ta có Đấng Cứu Độ và được cứu độ; Nhờ Đức Maria, chúng ta
đến với Chúa. Bởi vì, Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Quả đúng như lời Đức Mẹ tiên báo: “Từ
nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao
điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1,48-49).
2. Đức Maria, Gương Mẫu
Giáo Hội đặc biệt sùng kính Đức Maria, bởi lẽ, Giáo Hội
tìm thấy nơi Đức Maria một mẫu gương tuyệt hảo của lý tưởng Kitô giáo. Mẹ được
thiên thần Gabriel chào: “Hỡi Đấng đầy ân phúc” (Lc 1,28). Lời chào này
trở thành tên riêng của Mẹ. Tên Mẹ là “Nguyễn Thị Đầy Ơn Phúc.” Mẹ được Thiên
Chúa đổ đầy ân sủng của Người. Mẹ hoàn toàn thánh thiện, tuyệt mỹ. Mẹ toàn
thánh. Mẹ là Evà mới của công trình tạo dựng mới. Mẹ là khuôn mẫu mới cho loài
người. Khác với Evà cũ đã khước từ Thiên Chúa mà chạy theo sự dụ dỗ của ma quỷ,
Đức Maria luôn sống trong sự tín thác, trung thành và tuân phục đường lối Thiên
Chúa. Mẹ hoàn toàn sống cho Thiên Chúa và cho tha nhân. Mẹ luôn thưa “xin vâng”
với Thiên Chúa trong suốt cuộc đời của mình. Vì thế, Giáo Hội từ xa xưa đã nhìn
thấy nơi Mẹ là “điển mẫu tuyệt hảo của người môn đệ Chúa Kitô.” Nên Giáo Hội đã
dành cho Mẹ một sự biệt kính (hyperdulia) trong phụng vụ để mời gọi con cái
mình không chỉ nhìn ngắm Mẹ, nhưng quan trọng hơn là biết noi gương, bắt chước
các nhân đức của Mẹ, trở nên giống Mẹ trong đời sống đức tin của mình. Bởi vì,
Mẹ là mẫu gương tuyệt hảo cho mỗi người Kitô hữu. Nên mỗi lần nhìn lên Đức Mẹ,
chúng ta được mời gọi noi gương và bắt chước cung cách sống của Đức Mẹ.
3. Đức Maria, Hiền Mẫu
Đối với loài người, Đức Maria không chỉ là Thiên Mẫu,
Gương Mẫu, mà còn là Hiền Mẫu. Mẹ là người mẹ hiền, người mẹ luôn yêu thương và
chăm sóc mỗi người chúng ta, con cái của Mẹ. Quả thế, đi khắp thế gian, không
ai tốt bằng Mẹ. Tình Mẹ thương con như biển thái bình. Những lời đó rất đúng để
áp dụng cho Đức Maria. Mẹ được Thiên Chúa yêu thương và tôn vinh. Mẹ được lên
trời cả hồn cả xác và ngồi bên tòa Chúa để cầu bầu cho loài người đang ở trong
thung lũng đầy nước mắt này. Mẹ luôn dõi theo những bước đi của con cái Mẹ ở dưới
trần gian với một lòng yêu thương vô bờ bến. Bằng chứng, nhiều lần Mẹ đã hiện
ra với con cái loài người, như ở Fatima, Lộ Đức, La Vang… để đồng hành, hướng dẫn
và yêu thương. Tất cả những cuộc hiện ra đều minh chứng tình thương vô bờ bến của
Mẹ. Mẹ luôn quan tâm, lo lắng và chăm sóc đối với nhân loại nói chung và mỗi
người chúng ta nói riêng. Chắc hẳn mỗi người chúng ta đều có kinh nghiệm về sự
cầu bầu và che chở của Đức Maria trong cuộc sống mình. Nhờ Đức Mẹ cầu bầu, hôm
nay ta mới được như thế. Vì thế, chúng ta được mời gọi luôn biết chạy đến với Đức
Maria để cảm nghiệm tình mẫu tử vô bờ bến của Mẹ, để nhờ Đức Mẹ gìn giữ, chở
che và cầu bầu cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa trong hành trình đầy khó khăn
trắc trở trong cuộc sống dương gian này.
Lạy Đức Maria, Mẹ là Thiên Mẫu, là Mẫu Gương và là Hiền
Mẫu của chúng con, xin Mẹ “hãy tỏ ra là Mẹ của chúng con” và làm cho chúng con
cũng được trở nên giống Mẹ, nhất là xin Mẹ hướng dẫn chúng con đến với Chúa,
Con chí ái của Mẹ là Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của chúng con. Amen!
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
ĐCV Thánh Phanxicô Xaviê - Nghệ An
Suy niệm 5: HIỆU QUẢ CỦA KINH MÂN CÔI
Trong năm phụng
vụ, có lẽ không có vị thánh nào được sùng kính cách đặc biệt như Đức Trinh Nữ
Maria. Giáo Hội dành riêng nhiều lễ trọng, lễ kính và lễ nhớ để tôn vinh Đức
Maria. Đặc biệt Giáo Hội dành hai tháng, đó là tháng năm gọi là tháng Hoa, và
tháng mười gọi là tháng Mân Côi để kính nhớ Đức Mẹ.
Hôm nay, với lòng
sùng kính và yêu mến Mẹ Maira, chúng ta quy tụ về Rạch Súc này, để cùng hiệp
dâng lên Mẹ những tâm tình ước nguyện chung và riêng tư chân thành của mỗi
người chúng ta, xin Mẹ vui nhận, ban ơn và chúc lành cho những ước nguyện chính đáng ấy, nhờ Đức Giê-su Kitô Chúa chúng ta.
Theo lẽ tự nhiên thì
món ăn nào ngon ta dùng trước, còn món ăn nào ít ngon ta dùng sau. Tôi được
biết ở Rạch Súc này, hàng năm cha sở thường mời một cha khách đến để chủ sự
thánh lễ và chia sẻ lời Chúa vào lúc 12 giờ trưa. Năm nay, không biết tại sao cha
sở không đặt nhà hàng món ăn cao cấp mà lại đưa về đây món ăn đồng quê dân giả.
Tôi tự hỏi, không biết có hợp khẩu vị với bà con không đây? Và giả như món ăn
này không hợp khẩu vị, thì xin bà con cũng cố gắng nếm thử nha!
Một chút Intro cho
vui, giờ đây tôi xin bắt đầu bài chia sẻ bằng một câu chuyện. Không biết câu
chuyện này có thật hay không. Nếu như không thật thì cứ xem đây là câu chuyện
do tôi mơ thấy vậy.
Chuyện kể
rằng: Có một gia trưởng trẻ, trước đây, anh ta rất ít đi lễ, nếu có đi
thì anh cũng thường đứng ngoài nhà thờ. Gần đây, anh ta có dấu hiệu thay đổi,
anh thường xuyên vào nhà thờ tham dự thánh lễ và sau lễ còn đứng lại viếng Đức
Mẹ khá lâu.
Cha sở ngạc nhiên
nên mới đến hỏi thăm: Gia đình anh có chuyện gì mà thời gian gần đây tôi thấy
anh thường xuyên đi lễ và viếng Đức Mẹ sốt sắng vậy?
Anh trả lời: Thưa
cha, con đi Rạch Súc và được thấy Đức Mẹ. Từ đó đến nay, mỗi tháng con đều đến
Rạch Súc vào ngày mười ba để dự lễ và viếng Đức Mẹ. Ở gia đình mỗi tối trước
khi đi ngủ, vợ chồng con đều lần chuỗi hết. Hôm nào chưa lần chuỗi là con không
thể ngủ được.
Sau khi nghe anh kể,
cha sở suy nghĩ: không biết anh có nhìn thấy Đức Mẹ thật hay không, nhưng việc
anh thay đổi một cách nhanh chóng như thế quả là một phép lạ Đức Mẹ đã thực
hiện trên cuộc đời của anh. Đặc biệt là ở họ đạo ai cũng ngạc nhiên khi thấy
anh từ một người nguội lạnh giờ trở thành một tín hữu sốt sắng, từ một người
dửng dưng với các sinh hoạt mục vụ của họ đạo, nay trở thành một tông đồ tham
gia tích cực vào các sinh hoạt của họ đạo cách nhiệt tình.
Câu chuyện trên giúp
chúng ta xác tín hơn về tầm quan trọng của việc lần chuỗi Mân Côi, cũng như vị
thế của Đức Mẹ Maria trong chương trình của Thiên Chúa, từ đó nhắc nhở chúng ta
phải sống thế nào cho xứng danh là con Mẹ. Đó là 3 ý tưởng mà tôi muốn chia sẻ
cùng với ông bà và anh chị em hôm nay.
1. Tầm quan
trọng của việc lần chuỗi Mân Côi
Chúng ta biết rằng
lịch sử Giáo hội ghi nhận rất nhiều phép lạ xảy ra nhờ và qua việc lần chuỗi
Mân Côi. Kinh Mân côi là lời kinh đơn sơ, bình dân, ai cũng có thể thuộc và có
thể đọc ở bất cứ nơi đâu, bất cứ khi nào, nhưng lại là lời kinh chuyển tải ơn
lành của Chúa xuống trên Giáo hội và trên mỗi người chúng ta cách hiệu quả
nhất. Trong một vài phút ngắn ngủi, chúng ta không thể nào kể ra cho hết những
phép lạ mà Chúa đã làm nhờ vào việc lần chuỗi Mân Côi. Tôi chỉ gạch đầu hàng
một vài biến cố tiêu biểu sau:
- Thứ nhất là vào thế kỷ 13, bè rối
Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp, thế nhưng nhờ việc lần chuỗi Mân Côi do
Đức Mẹ truyền dạy cho thánh Đa-minh, mà chỉ trong một thời gian ngắn, Chúa đã
cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.
- Thứ hai, vào thế kỷ 16, quân Thổ Nhĩ
Kỳ đe dọa sẽ xâm chiếm Âu Châu và thề rằng sẽ san bằng Va-ti-can, biến đền
thánh Phêrô thành chuồng ngựa. Nhưng nhờ việc lần hạt Mân Côi, đoàn chiến binh
thập tự chinh ô hợp của Công giáo nhỏ bé, lại không có kinh nghiệm tác chiến,
vậy mà đã giành được chiến thắng tại vịnh Lé-pan-te. Để tạ ơn Đức Mẹ cũng như
ghi nhớ cuộc chiến thắng lạ lùng ấy, Đức Thánh Cha Pi-ô 5 đã thiết lập ngày lễ
Mân côi kính Đức Mẹ như ngày nay.
- Thứ ba, là vào năm 1917, đất
nước Bồ Đào Nha ở trong tình trạng suy thoái trầm trọng về phương diện tôn
giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ với những cuộc nội
chiến xảy ra. Giáo Hội thì bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Các nhà
thờ bị phá hủy hầu hết, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ
chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ ngày 13/05/1917 đến
13/10/1917, Đức Mẹ đã hiện ra liên tiếp 6 lần tại làng Fatima với ba trẻ chăm
cừu là Lucia, Giaxinta và Phanhxico để ban truyền những sứ điệp quan trọng, tóm
kết trong những sứ điệp ấy là 3 mệnh lệnh: Hãy ăn năn cải thiện đời sống, siêng
năng lần hạt Mân Côi và Tôn sùng trái tim Mẹ, từ đó Giáo Hội bắt đầu đi vào
khúc quanh mới. Khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân
côi để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban những ơn lành xuống cho đất nước.
- Đặc biệt nhất là biến cố Đức Mẹ đã
che chở cho Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II khỏi những làn đạn nguy hiểm. Ai
trong chúng ta cũng biết, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II có lòng yêu mến Đức Mẹ
rất đặc biệt. Ngài rất siêng năng lần chuỗi Mân Côi và đã cổ vũ mọi người sùng
kính Đức Mẹ qua việc lần chuỗi. Chính Ngài đã thiết lập thêm Mầu Nhiệm 5 Sự
Sáng nhằm giúp tín hữu suy gẫm thêm về chặng đường rao giảng Tin mừng của Chúa
Giê-su.
Sự kiện xảy ra vào
ngày 13/05/1981, kỉ niệm ngày lễ Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Trong khi Đức Thánh
Cha chào thăm khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô, thì một loạt đạn
đã bắn vào Ngài. Đức Thánh Cha đã ngã xuống, cả quảng trường Thánh Phêrô rung
động bởi tiếng khóc, hoà lẫn với lời kinh Mân Côi. Nhưng thật là phép lạ, những
viên đạn chỉ cách trái tim của ngài vài centimet, sau đó ngài được đưa vào bệnh
viện và được cứu sống. Mọi người đều tin rằng, đó là nhờ sự che chở của Mẹ
Maria qua tràng chuỗi Mân Côi.
2. Vị thế của Mẹ
Maria trong chương trình của Thiên Chúa
Khi nhìn về lịch sử
cứu độ, qua lăng kính Thánh kinh, chúng ta biết được công trình sáng tạo đầu
tiên của Thiên Chúa đã bị phá huỷ do tội lỗi nguyên tổ. Nhưng Thiên Chúa không
muốn công trình tốt đẹp Ngài bị hủy diệt đi. Nên ngay sau khi nguyên tổ phạm
tội, Thiên Chúa liền hứa ban Đấng Cứu Thế, Đấng ấy sẽ được sinh ra bởi một
người phụ nữ, Đấng ấy sẽ tái tạo lại công trình sáng tạo của Thiên Chúa xinh
đẹp như thuở ban đầu. Và khi thời gian đến hồi viên mãn, lời hứa ấy bắt đầu được
thực hiện. Khi ấy Thiên Chúa sai sứ thần Gab-ri-el đến với cô trinh nữ làng quê
Nazareth, có tên là Maria, để mời gọi cô cộng tác vào chương trình cứu chuộc
của Người.
Cũng giống như bao
cô gái làng quê khác, thiếu nữ Maria đã từng ấp ủ bao mộng đẹp và dự phóng cho
đời mình bao điều. Nhưng giờ đây, Thiên Chúa lại xen vào và đã khuấy động đời
cô. Người đã làm thay đổi toàn bộ những ước vọng dự hướng tương lai của cô. Tuy
có chút bối rối nhưng sau khi biết được đó là thánh ý Thiên Chúa, thiếu nữ
Maria đã sẵn lòng thân thưa với sứ Thần bằng hai tiếng "xin vâng"
thật đơn sơ, nhẹ nhàng nhưng thật sâu lắng với đầy lòng tín thác. Chính nhờ lời
“xin vâng” đơn sơ ấy mà ơn cứu độ của Thiên Chúa đã đến được với nhân loại.
Với biến cố Ngôi Lời
Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng Đức Maria bởi quyền năng Chúa Thánh
Thần, Đức Maria hiển nhiên trở thành Mẹ Thiên Chúa. Xứng đáng đón nhận mọi ơn
phúc của Thiên Chúa theo như lời chào của sứ thần Chúa: "Kính chào
Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ
nữ." (Lc 1,28). Qủa vậy, có ơn phước nào lớn hơn ơn phước được
làm Mẹ Thiên Chúa và được Thiên Chúa ở cùng.
Vì là Mẹ Ngôi Hai
Thiên Chúa làm người nên Đức Maria rất có uy thế trước mặt Thiên Chúa. Và với
lời trăn trối thánh Gioan cho Đức Mẹ, Đức Mẹ cho thánh Gioan của Chúa
Giê-su, dưới chân thập giá. Mẹ Maria trở thành Mẹ Giáo hội và là Mẹ của mỗi
người chúng ta. Là con cái của Đức Mẹ, chúng ta có quyền tin tưởng vào tình
thương và uy thế của Mẹ, bởi vì: “xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến
cùng Đức Mẹ mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời”. Vậy để được Mẹ nhậm lời, chúng ta
cần phải sống thế nào cho xứng danh là con Mẹ, đó là ý thứ ba.
3. Ta phải sống thế nào cho xứng danh là
con Mẹ.
Người giáo dân Việt Nam chúng ta vẫn được
đánh giá là những tín hữu có lòng yêu mến Đức Mẹ một cách đặc biệt. Sự hiện
diện đông đảo của bà con hôm nay nơi đây vào đúng 12h00 trưa đã xác nhận điều
đó. Lòng yêu mến này là có cơ sở vững chắc, bởi vì Giáo Hội dạy chúng ta rằng: “Lòng
tôn kính đối với Đức Maria không hệ tại những tình cảm chóng qua và vô bổ nhưng
phát xuất từ 1 Đức tin chân thật, Đức tin đó dẫn đưa chúng ta tới chỗ nhận ra
địa vị cao trọng của Mẹ Maria”.
Thánh Bê-na-đô cũng đã quả quyết: “Không
ai chạy đến với Mẹ Maria mà phải trở về tay không”. Cảm nhận được điều ấy, nên
ông Paul Claudel, một triết gia người Pháp vào buổi trưa nọ, đã lẻn vào nhà thờ
một mình, quì dưới chân Đức Mẹ và cầu nguyện như sau: “Lạy Mẹ Maria,
con đến đây với Mẹ không phải để dâng lên Mẹ những gì, bởi vì con nghèo nên
không có gì để dâng Mẹ. Con đến đây với Mẹ cũng không phải để xin Mẹ điều gì,
bởi vì Mẹ biết quá rõ con đang cần đến những gì. Con đến đây với tâm hồn tràn
ngập hạnh phúc vì con biết rằng con là con của Mẹ và Mẹ của con đang đứng đó”.
Qủa thật Mẹ luôn đứng đó để ban cho chúng
ta Đức Giêsu Con Mẹ. Mẹ đứng đó để hiệp thông với chúng ta trong mọi biến cố
vui buồn, Mẹ đứng để trao ban cho ta nguồn mọi ân phúc là chính Đức Giê-su
Kitô, gồm tóm mọi ơn phúc.
Mẹ đứng đó để nói lời yêu thương chúng
ta, cho dẫu chúng ta có tội lỗi, xấu xa, nghèo hèn tới đâu, Mẹ cũng không bao
giờ bỏ rơi chúng ta, bởi vì một lẽ rất đơn giản: “Mẹ là Mẹ của chúng ta”.
Khi hiện ra 6 lần ở
Fatima Mẹ không hứa ban cho nhân loại chúng ta những ơn phần xác, nhưng Mẹ lại
hứa ban cho chúng ta những ơn về phần hồn nếu chúng ta tích cực thực hiện 3
mệnh lệnh truyền dạy của Mẹ: “Hãy cải thiện đời sống, hãy siêng năng lần hạt và
hãy tôn sùng trái tim Mẹ”, thì thế giới mới có hoà bình, nhân loại mới được
bình an.
Giờ phút này, Mẹ
Fatima Rạch Súc cũng đang đứng nhìn mỗi người chúng ta. Mẹ cũng muốn nói với
chúng ta rằng: nếu muốn có gia đình hạnh phúc, xã hội được bình yên, quê hương
Việt Nam ta và thế giới này được hoà bình thì cách tốt nhất vẫn là hãy ăn năn
cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt Mân Côi và tôn sùng mẫu tâm, theo lời Mẹ
dạy.
Ước gì mỗi người chúng ta biết vâng nghe lời Mẹ mà siêng năng lần chuỗi Mân Côi mỗi ngày, cùng với ước muốn cải thiện đời sống, tôn sùng trái tim Mẹ. Nhờ đó ta mới có thể vượt thắng được những cám dỗ của ba thù, xứng đáng đón nhận những điều cao cả do Chúa ban qua Mẹ Maria. Nhất là đừng quên hiệp thông cùng với Giáo hội mà cầu xin rằng: "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử". Amen.
* CHÚA NHẬT THƯỜNG NIÊN: HOÀN HẢO VÀ DUYÊN DÁNG
“Hôm nay, con hãy đi làm vườn nho!”
Cố vấn J. K. Galbraith, trong cuốn tự truyện của mình, đã minh hoạ sự tận
tâm của Emily, quản gia, “Đó là một ngày mệt mỏi, và tôi yêu cầu Emily từ chối
các cuộc điện thoại. Tôi muốn chợp mắt một lát. Không lâu sau, điện thoại reo.
“Cho tôi gặp Galbraith, Lyndon Johnson”; “Ông ấy đang ngủ, thưa tổng thống! Ông
ấy dặn tôi không được làm phiền”. “Được rồi, thức ông ấy dậy đi. Tôi muốn nói
chuyện!”; “Không, thưa ngài. Tôi làm việc cho ông ấy, không phải cho ngài!”.
Khi tôi gọi lại, tổng thống gần như không thể kiềm chế được niềm vui, “Nói với
người phụ nữ ấy rằng, tôi muốn có cô ấy trong Toà Bạch Ốc!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Câu chuyện của học giả Galbraith đưa chúng ta về dụ ngôn Tin Mừng Chúa
Nhật hôm nay! Qua đó, Chúa Giêsu cho thấy, vâng phục cách ‘hoàn hảo và duyên
dáng’ là tình yêu đích thực dành cho Thiên Chúa; nó mang lại ân phúc hơn là sự
vâng phục miễn cưỡng!
Chúa Giêsu kể chuyện một chủ vườn với hai con trai. Cả hai được cha yêu
cầu đi làm vườn nho. Người thứ nhất nói “Không”; sau đó đổi ý định và đi làm.
Người thứ hai nói “Vâng” nhưng không đi. Dụ ngôn nhấn mạnh sự cần thiết của việc
mỗi người đáp lại “xin vâng” liên tục trước hành động lớn nhỏ ‘mang tính cứu độ’
của Thiên Chúa. Dụ ngôn cho biết, lời hứa không bao giờ có thể thay thế được việc
thực hành, cũng như những lời nói tử tế không bao giờ thay thế được những việc
làm tốt đẹp. Giáo huấn Kitô giáo được tuân theo bằng cách thực hiện nó chứ
không chỉ bằng những lời hứa; và dấu hiệu của một người con ‘hoàn hảo và duyên
dáng’ là sự vâng phục, ân cần, kịp thời và nhã nhặn.
Bạn không được phép nói “Có” với Chúa các ngày Chúa nhật và nói “Không”
với Ngài các ngày trong tuần! Chúa không cần những lời lịch sự nhưng giả dối,
vì đó không phải là vâng lời. Ngài khoan dung cho sự cố ý, thậm chí báng bổ, miễn
là sau đó mỗi người biết ăn năn. Ngài thành tín, sẵn sàng đón nhận những tội
nhân sám hối; không bao giờ bỏ rơi bạn ngay cả khi bạn bỏ rơi Ngài. Ngài muốn
chúng ta một là từ bỏ con đường tội lỗi; hai là vâng lời làm theo những gì Ngài
dạy. Trong cả hai điều ấy, điểm nhấn mạnh là phản ứng ‘hoàn hảo và duyên dáng’
của một người vâng phục tuyệt đối vào Ngài.
Anh Chị em,
“Hôm nay, con hãy đi làm vườn nho!”. “Vâng” hoặc “Không”. Hãy coi chừng,
“Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông!”.
Chúa Giêsu không coi những người thu thuế và gái mại dâm là mẫu mực, mà là những
người “được ban ân sủng”. Hoán cải luôn là một ân sủng! Ân sủng cho bất cứ ai mở
lòng hoán cải. Thật vậy, những người này khi nghe Chúa Giêsu đã ăn năn và thay
đổi. Người gây ấn tượng là anh cả, không phải vì anh đã nói “Không”, nhưng vì
đã chuyển “Không” thành “Có”, anh ăn năn! Thiên Chúa kiên nhẫn, Ngài không mệt
mỏi, không từ bỏ lời “Không” của bất cứ ai; Ngài để chúng ta tự do, thậm chí rời
xa Ngài và phạm sai lầm. Sự kiên nhẫn của Chúa thật tuyệt vời! Ngài luôn chờ đợi
và tôn trọng tự do của mỗi người. Ngài nóng lòng nghe tiếng “xin vâng” ‘hoàn hảo
và duyên dáng’ để chào đón bạn và tôi một lần nữa trong vòng tay hiền phụ và đổ
đầy trên chúng ta lòng thương xót vô biên.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, để Chúa có thể nói, “Ta muốn có con trong Ngai Toà Thiên
Đàng!”, chớ gì ngày sống của con là một chuỗi những lời “xin vâng” ‘hoàn hảo và
duyên dáng!’”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)
Thứ
hai: Xh 23,20-23; Mt 18,1-5.10
Nhớ các Thiên Thiền Hộ Thủ
Suy niệm 1:
Dựa trên nền tảng Thánh Kinh, Giáo
lý Hội Thánh Công Giáo dạy biết Thiên Chúa dựng nên vũ trụ này gồm hai thế giới, hữu hình
và vô hình. Thế giới vô hình là thế giới thiêng liêng, mắt phàm không nhìn thấy
được, trong thế giới thiêng liêng đó có các Thiên Thần.
Thiên Chúa dựng nên các Thiên Thần một mặt để túc trực bên toà Thiên Chúa để đêm ngày thờ phượng, chúc tụng và tôn vinh Thiên Chúa thay cho muôn vật muôn loài; mặt khác là để thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa để thông truyền ý muốn Thiên Chúa, bảo vệ và giúp đỡ con người.
Thiên Chúa dựng nên hằng vô số các
Thiên Thần, trong đó có 3 Tổng Lãnh Thiên Thần là: Mi-ca-en, Gáp-ri-en và
Ra-phen-en mà Hội Thánh đã mừng kính vào ngày 29 tháng 09 vừa qua.
Riêng
hôm nay cùng với Hội Thánh, chúng ta kính nhớ các Thiên Thần Bản Mệnh hay còn
gọi là Thiên Thần Hộ Thủ. Thiên Chúa đã ban cho mỗi người chúng ta một Thiên
Thần Bản Mệnh riêng. Vị Thiên Thần này luôn gìn giữ bảo vệ chúng ta khỏi mọi sự
hãm hại của ma quỷ; giúp chúng ta tránh xa mọi cám dỗ ma quỷ ở mọi nơi mọi lúc.
Vị Thiên Thần Hộ Thủ là một người bạn đồng hành yêu thương và như một vệ sĩ vô hình luôn ở bên cạnh chúng ta, đồng hành với chúng ta suốt cuộc đời dương thế cho đến khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay.
Bài
Tin Mừng hôm nay Chúa Giê-su nhắc đến vị Thiên Thần này. Từ đó Chúa muốn nhắc nhở chúng
ta về phẩm giá cao quý của con người dù họ là ai và hãy tôn trọng nhân phẩm, giá trị mỗi người, chớ khinh thường bất cứ ai, nhất là những
con người bé nhỏ nghèo hèn, vì mỗi người đều mang hình ảnh Thiên Chúa,
là con Thiên Chúa và được Thiên Chúa ban cho một vị Thiên Thần bảo vệ, gìn giữ. Đồng
thời, qua đó Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy trở nên như trẻ nhỏ. Vì trẻ nhỏ có tâm hồn
đơn sơ trong trắng như Thiên Thần. Trẻ nhỏ biết mình yếu đuối mỏng manh nên
luôn tin tưởng phó thác vào tình thương của Chúa.
Lạy
Chúa, chúng con tạ ơn Chúa, vì Chúa đã thương ban cho mỗi người chúng con một
vị Thiên Thần Hộ Thủ. Xin cho chúng con luôn nhớ tới Thiên Thần Hộ Thủ
và tích cực cộng tác với ngài để chống lại những cám dỗ của ma quỷ.
Đồng thời xin Chúa cũng giúp chúng con biết ý thức tôn trọng phẩm
giá của con người, nhất là những con người bé nhỏ nghèo hèn mà sẵn sàng đón
tiếp và phục vụ họ vì danh Chúa.
Suy niệm 2: BẠN ĐỒNG HÀNH YÊU THƯƠNG
“Này Ta sai thiên sứ đi trước con, để giữ gìn con khi đi đường và đưa
con vào nơi Ta đã dọn sẵn!”.
A. Maclaren nhận định, “Nếu Chúa sai bạn đi trên những con đường đầy đá,
Ngài sẽ cung cấp những đôi giày bền bỉ! Sai bạn đến một nơi xa lạ, Ngài sẽ chuẩn
bị một người bạn đồng hành yêu thương! Và nếu muốn cứu độ chúng ta đời đời,
Ngài ban Con Một!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa ngày lễ Thiên Thần Bản Mệnh cho thấy tình yêu của Thiên Chúa
dành cho mỗi người chúng ta bao la như trời bể. Giáo lý Hội Thánh dạy, để canh
giữ hồn xác chúng ta từ khi chào đời cho đến ngày tắt hơi, Chúa Cha ban cho mỗi
người chúng ta một người ‘bạn đồng hành yêu thương’ như một vệ sĩ vô hình.
Qua bài đọc Xuất Hành, Thiên Chúa phán, “Này Ta sai thiên sứ đi trước
con, để giữ gìn con khi đi đường và đưa con vào nơi Ta đã dọn sẵn!”. Thánh Vịnh
đáp ca khẳng định sự có mặt của các ngài, “Chúa truyền cho thiên sứ, giữ gìn bạn
trên khắp nẻo đường!”. Trong Tin Mừng hôm nay, khi đặt một em nhỏ ở giữa các
môn đệ, Chúa Giêsu cũng nói đến sự hiện diện của những người bạn thân thiết
này, “Các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy!”.
Hãy tưởng tượng, mỗi người có một vệ sĩ vô hình chăm sóc suốt đời! Điều
này sẽ gợi lên hai tình cảm khác biệt. Trước hết, thật ủi an mỗi khi chúng ta
nguy khốn, chúng ta sẽ không đơn độc, nhưng được bảo vệ an toàn. Thế nhưng, sự
có mặt của ai đó cũng có thể làm mất quyền riêng tư. Với một số người, không phải
lúc nào điều này cũng được hoan nghênh. Tại sao? Bởi họ nhìn thấy mọi hành vi,
kể cả tội lỗi chúng ta phạm.
Vậy mà, người bạn đồng hành Chúa ban cho chúng ta luôn tôn trọng tự do,
không phán xét, nhưng chỉ hành động với tình yêu hoàn hảo. Các ngài giữ bí mật
tuyệt đối và chỉ quan tâm đến sức khoẻ hồn xác của mỗi người! Khi chúng ta sợ
hãi, Thiên Thần Bản Mệnh bảo vệ; khi chúng ta khó khăn, các ngài gỡ rối; khi
chúng ta bất an, các ngài ban lòng can đảm. Cách riêng, khi chúng ta phạm tội,
các ngài sẽ ra sức ngăn cản; nhưng vì tôn trọng tự do của mỗi người, không ít lần,
các ngài đành bất lực! Mối quan tâm duy nhất của các ngài là dẫn chúng ta trở về
với Chúa mỗi khi chúng ta lạc đường. Chỉ khi ở trên thiên đàng, bạn và tôi mới
hiểu hết được chiều kích sâu xa của tình yêu nơi Thiên Chúa vốn tiềm ẩn nơi những
người ‘bạn đồng hành yêu thương’ này.
Anh Chị em,
“Này Ta sai thiên sứ đi trước con!”. Thiên Chúa như một người mẹ chu đáo không nỡ để con cái Ngài bơ vơ
trên chốn dương gian này. Như thế, ngày lễ hôm nay đúng nghĩa, là ngày bổn mạng
của mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì quà tặng tuyệt vời này; và
hãy vui mừng, biết ơn, kính trọng và lắng nghe những người ‘bạn đồng hành yêu
thương’ của mình! Được như vậy, chắc chắn bạn và tôi sẽ đi đúng hướng để về đến
nơi Thiên Chúa đã dọn sẵn. Hãy xin lỗi các ngài vì sự ơ hờ của chúng ta đối với
các ngài! Hãy cầu nguyện với các ngài, thừa nhận quà tặng vô giá Chúa dành cho
chính mình; hãy giao phó hồn xác chúng ta trọn vẹn hơn cho sự bảo bọc của các
ngài!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng bao giờ để con làm buồn lòng người ‘bạn đồng hành yêu
thương’ Chúa ban, khi con nhân danh tự do để làm điều xằng bậy!”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)
Suy niệm 3: VÂNG NGHE CÁC THIÊN THẦN
“Ma quỉ đã tung ra một mạng
lưới ảo tưởng trên chúng ta, mạng lưới này tuy vô hình, nhưng rất mãnh liệt. Nó
làm cho ta yêu chuộng giây phút chóng qua hơn sự sống vĩnh cửa, khuyến dụ ta
chạy theo sự vô định hơn chân lý, nó bảo ta chỉ có thể yêu mến tạo vật bằng
cách thờ lạy chúng mà thôi” (Triết gia Raissa Maritain).
Khắc tinh của ma quỷ là các hiệp sĩ thiên thần hộ thủ,
những người bạn thân vô hình được Thiên Chúa sai đến ở bên cạnh, hộ giúp ta đêm
ngày. Vai trò của các ngài là giúp ta phá đi mạng lưới ảo tưởng, đưa ta đến môi
trường của sự thật giải thoát của Tin Mừng Nước Trời. Các ngài nhắc nhở ta cài
“phần mềm” sự sống vĩnh cửu trong mọi việc ta làm, phụng thờ Thiên Chúa và phục
vụ tha nhân trong mọi dự tính đời ta.
Mời Bạn: Các hiệp
sĩ vô hình ấy chu toàn nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó hay không tùy thuộc nơi
thái độ của bạn. Nếu bạn ngoan ngoãn vâng theo sự soi sáng hướng dẫn của các
ngài, dù phải trầy da tróc vẩy, bạn sẽ thoát vòng vây của quỷ ma và đạt đến
cùng đích đời mình là hạnh phúc muôn đời bên Chúa.
Sống Lời Chúa: Tập lắng
nghe tiếng nhắc nhở của thiên thần hộ thủ, và ngoan ngoãn làm theo, dù phải hy
sinh ý riêng, sở thích riêng của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã sai các thiên thần hộ thủ nâng đỡ chúng con trên hành trình đi về quê trời. Xin cho chúng con biết vâng theo sự hướng dẫn của các ngài, và cảnh tỉnh trước những hiểm họa do ma quỷ, xác thịt và thế gian đang cản trở bước đường của chúng con. Amen.
Thứ
ba: Lc 9, 51-56
Tin
mừng hôm nay nhấn mạnh đến tinh thần của người môn đệ cần phải có khi đi theo
Đức Giêsu.
Nếu
tinh thần của Gia-cô-bê và Gio-an là tinh thần nóng nảy, bất đồng muốn báo thù và tiêu diệt
khi bị dân làng Sa-ma-ri-a ngăn chặng không tiếp đón, thì tinh thần mà Chúa Giêsu muốn các
tông đồ phải có đó là lòng nhân nhượng, bao dung và cứu sống, bởi lẽ mục tiêu Người đến trần gian là để cứu chữa: "Con
Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta".
Đối
với Chúa Giê-su quyền lực và khả năng Chúa ban cho con người không phải để đối đầu, chấn áp hay giết
hại lẫn nhau cho hả cơn giận, nhưng là để yêu thương phục vụ, bao dung và tha thứ. Chính vì thế Chúa Giê-su đã không chọn lối ứng xử trả đủa
ngay lập tức theo thói đời như phản ứng của Gia-cô-bê và Go-an. Trái lại, Người mời gọi các ông
phải có lòng nhân từ tha thứ và sáng kiến tìm ra lối đường khác để thực hiện cho bằng được lộ trình lên
Giêsusalem.
Xin cho chúng ta có được tinh thần quảng đại bao dung của Chúa, nhờ đó mà tránh được những xung đột đáng tiếc xảy ra trong đời sống hàng ngày; và trước những điều trái không may xảy đến trong đời sống, xin cho ta biết bình tâm và sáng suốt tìm ra lối đường giải quyết êm đẹp theo ý Chúa muốn.
Suy niệm 2: CHIẾN LƯỢC NHU MÌ
“Ngài nhất quyết đi lên Giêrusalem!”.
Sau nội chiến, miền Nam Hoa Kỳ đã rơi vào thế ‘bên thua
cuộc’; đột nhiên, Abraham Lincoln muốn được đàm phán. Điều này khiến cho nhiều
tướng lãnh bất bình. Một người giận dữ, đập bàn nói, “Quân địch nhất định phải
bị tiêu diệt!”. Tổng thống ôn hoà lên tiếng, “Kẻ địch bị tiêu diệt khi họ trở
thành bạn của chúng ta!”. Cuộc chiến kết thúc với câu nói bất hủ của ông,
“Trong nội chiến, không có người thắng!”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Trong nội chiến, không có người thắng!”. Sẽ rất thú vị
khi Tin Mừng hôm nay được đọc dưới nhãn quan của một nhà quân sự. Như vị tướng
tài, Chúa Giêsu chỉ huy trận mạc cuối cùng, trận Giêrusalem! Tuy nhiên, chiến
lược của Ngài không giống bất cứ ai, một chiến lược mà Ngài cương quyết áp dụng,
‘chiến lược nhu mì’, chiến lược yêu thương!
Dẫn đầu đoàn quân tiến về Giêrusalem, Chúa Giêsu đối mặt
với quân thù là một thế lực xấu xa, nguy hiểm tiềm tàng, nhưng lại vô hình! Tuy
nhiên, cả khi hành quân vào một trận chiến sống mái đến thế, Ngài vẫn không sử
dụng một chiến lược truyền thống nào của các mãnh tướng từ cổ chí kim. Ngài tiến
vào đó như một con chiên hiền lành bị dẫn đi làm thịt; vũ khí của Ngài là khiêm
tốn. Đúng, Ngài sẽ ném trái bom “Khiêm Tốn” vào cứ địa của Satan; triệt hạ sự tự
hào và kiêu ngạo của nó. Cuối cùng, ‘chiến lược nhu mì’ của Ngài - đỉnh điểm là
cái chết thập giá - đã toàn thắng bằng sự Phục Sinh vinh hiển!
Giữa một chiến sự dằng dặc, Giacôbê và Gioan muốn giải
quyết nhanh một Samaria cứng lòng, “Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống
thiêu huỷ chúng không?”, một điều gì đó xem ra còn tệ hơn cả sự tham quyền mà
‘hai sĩ quan’ đã từng bộc lộ! Chúa Giêsu khiển trách và định hướng lại chiến lược
cho họ, ‘chiến lược nhu mì’; rằng, vũ khí không phải là lửa, phẫn nộ nhưng là
lòng tốt, sự dịu dàng, bác ái và khiêm nhượng.
Với các tiêu chí quân sự, vụ việc Samaria được coi là
thất bại! Tuy nhiên, đây không phải là trường hợp của Chúa Giêsu. Với Ngài, càu
nhàu hoặc trả đũa nó mới là thất bại. Thay vào đó, “Thầy trò đi sang làng
khác”. Là một vị tướng dày dặn, từng trải, Ngài tha thứ, quên đi và tiếp tục
lên đường. Và kìa, Ngài đã chiến thắng trận chiến Giêrusalem, thắng luôn trận
Samaria, những chiến thắng mà Zacharia báo trước trong bài đọc hôm nay, “Các nước
hùng cường sẽ đến tìm kiếm Chúa các đạo binh ở Giêrusalem”; và còn hơn thế,
“Chúng tôi muốn đi với anh em, vì chúng tôi đã nghe biết rằng, Thiên Chúa ở với
anh em”. Phải, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta!” như lời Đáp Ca, điều Zacharia thấy
trước.
Anh Chị em,
“Ngài nhất quyết đi lên Giêrusalem!”. Ở trong binh đoàn
của Chúa Giêsu, nhưng liệu bạn và tôi dám cương quyết như Ngài! Quan trọng hơn,
chúng ta chiến đấu với vũ khí và phong thái nào? Ngài đã sử dụng ‘vũ khí tự huỷ’
trong phong thái khiêm tốn và hiền lành. Là môn đệ Chúa Giêsu, chúng ta không
có một vũ khí nào khác ngoài vũ khí của Ngài; với chúng, bạn và tôi sẽ chiến đấu
đến cùng. Chiến thắng của chúng ta là mỗi người được nên giống Chúa Giêsu,
nghĩa là nên thánh. Và điều này có nghĩa là, từng giây phút, bạn và tôi cương
quyết từ bỏ ý riêng, tội lỗi, sự nóng nảy và đó là lên Giêrusalem!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, như Giacôbê và Gioan, con thường thích dùng
‘lửa’ để giải quyết các vấn đề, cho con nên giống Chúa khi biết áp dụng cho
mình ‘chiến lược nhu mì!’”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)
Thứ
tư: Lc 9, 57-62
Nhớ
Thánh Phan-xi-cô-Át-xi-di
Suy niệm 1:
Thánh Phanxicô Assisi chỉ sống
cuộc đời trần thế có 45 năm. Nhưng cuộc đời của Ngài là một bản tình ca tuyệt vời.
Thánh nhân sinh ở Assisi khoảng năm 1182. Cha Ngài là ông Bê-na-đô là một
thương gia tơ sợi nổi tiếng và mẹ Ngài là bà Pi-ca,một người đạo đức, thánh thiện. Có thể nói Phanxicô Assisi là một vị thiếu gia bởi lẽ đời
sống của ngài không thiếu thốn bất cứ điều gì về tình yêu, sự nghiệp và danh
vọng. Nhưng tận bên trong tâm hồn, ngài lại không cảm thấy hạnh phúc.
Năm
1206 (24 tuổi) thánh nhân quyết định rũ bỏ bụi trần, từ bỏ mọi sự mà theo Chúa
Giêsu trở thành người tu sĩ nghèo khó, ngày ngày
cầm bình bát đi khất thực dù rằng bị người cha già hết sức phản đối. Tuy
ngài rất thương cha nhưng lại không muốn làm trái ý Chúa. Bởi chỉ khi sống khó
nghèo theo tinh thân của Phúc âm thì ngài mới cảm thấy được an vui.
Thánh
nhân đã phân phát tất cả của cải mình có cho những người nghèo, Ngài chỉ giữ
lại một chiếc áo choàng cũ kỹ, rồi ra đi rao giảng Tin Mừng và đã thành lập Dòng
anh em hèn mọn. Thời gian sau đó, Ngài lui về Al-ver-ne, một nơi thật cô
liêu phía Bắc Assisi để ăn chay, cầu nguyện và sống tình thân với Thiên Chúa.
Chúa
yêu thương ngài cách đặc biệt, nên trong lúc Ngài xuất thần nhìn thấy Tổng Lãnh
Thiên Thần Séraphim và một ảnh chuộc tội. Tỉnh dậy, Ngài đã được Chúa in năm
dấu thánh trên người vào năm 1224. Hai năm sau đó, ngài lâm trọng bệnh và qua
đời vào ngày 4.10.1226. Trước khi ra đi về với Chúa, thánh nhân khuyên nhủ anh
em trong Dòng hãy giữ đức khó nghèo tuyệt đối và trung thành với Giáo Hội Chúa
Kitô. Thánh nhân được Ðức Thánh Cha Grê-gô-ri-ô đã tôn Ngài lên bậc hiển thánh.
Chính khi trải cảm nghiệm được hạnh phúc trong đời sống nghèo
khó theo tinh thần phúc âm, thánh Phanxicô mới có thể viết lên những ý từ tuyệt
mỹ, mang triết lý sâu xa trong lời Kinh Hoà Bình như thế!
- chính lúc thứ tha, là khi được tha thứ;
- chính lúc “quên mình”, là lúc “gặp lại bản
thân”;
- chính khi hiến thân, là khi được nhận lãnh;
- chính lúc chết đi, là khi vui sống muôn đời…
Thánh Phanxicô hiểu rằng, trong cuộc sống này, nếu có con
đường dẫn tới đau khổ, thì cũng có con đường dẫn tới hạnh phúc. Mà con đường
dẫn tới hạnh phúc là chính là ta dám ban tặng không tính toán, là cảm thông tha
thứ không lên án, là chia sẻ trao ban không giữ lại cho riêng mình.
Bởi thế, đối với thiếu gia Phanxicô, hạnh phúc
là một chọn lựa. Chọn lựa trao ban thì không tính toán; chọn lựa từ bỏ thì không
bám víu, lựa chọn quên mình thì sẽ gặp lại bản thân, lựa chọn hiến thân thì mới sẽ
được nhận lãnh, và lựa chọn theo Chúa thì sẽ cảm nhận được hạnh phúc đích thực.
Tin
mừng hôm nay, cũng nhấn mạnh đến những
điều kiện hay sự lựa chọn dứt khoát, một khi dấn bước theo Chúa làm môn đệ của Người:
1.
Người thứ nhất: tự nguyện xin theo Chúa
bất cứ nơi đâu. Nhưng Chúa Giêsu cho biết theo Người sẽ phải chấp nhận cuộc
sống vô sản: không nhà cửa, không tiền bạc, không nơi ăn chốn ở và phải phiêu
bạt khắp nơi. "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con người không
có nơi gối đầu". Không biết anh ta có chấp nhận theo hay không?
Tin mừng không nói rõ.
2.
Người thứ hai: Chúa Giêsu lại kêu
gọi: "hãy theo Ta". Nhưng điều kiện anh ta đưa ra
là: "xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã". Một điều
kiện xem ra rất cấp thiết và phù hợp với đạo làm người, không ai có thể chối
cải được. Nếu theo Chúa mà phải bỏ cha mẹ và không lo cho cha mẹ trong lúc cuối
đời thì quả là người con bất hiếu, không xứng đạo làm người sao xứng đáng làm
môn đệ của Chúa được. Ấy vậy mà Chúa Giêsu lại tỏ ra cương quyết đòi hỏi: "Hãy
để kẻ chết chôn kẻ chết, phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa".
Chắn chắn là Chúa Giêsu không hề xem thường đạo hiếu bởi trong 10 điều răn, thì
ngay sau 3 điều răn đầu nói về bổn phận với Chúa thì điều răn thừ 4 Chúa dạy
phải thảo kính cha mẹ. Nhưng nếu một khi rơi vào tình thế phải chọn lựa giữa
việc thờ và kính; giữa đạo làm người và làm con Chúa; nhất là giữa việc Chúa và
việc con người; giữa ý Chúa và ý ta thì ta phải ưu tiên cho Chúa. Việc rao
giảng Nước Thiên Chúa là việc làm tối quan trọng vì đem đến niềm vui tin mừng
cứu độ đến cho con người nên phải là việc cấp bách và ưu tiên hàng đầu. Chính vì
thế mà Chúa Giêsu đã quyết liệt đòi hỏi như thế. Tin mừng cũng không cho biết
anh ta có theo Chúa Giêsu hay không.
3.
Người thứ ba: cũng xin theo Chúa Giêsu
với điều kiện là cho phép anh ta về từ giã gia đình trước đã. Nhưng Chúa Giêsu
không đồng ý với lý do đó, Người nói : "ai đã tra tay vào cày mà còn
ngó lại sau lưng thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa". Nếu theo
Chúa mà còn vướn bận chuyện gia đình, còn lưu luyến bởi những tình cảm thân
quen thì khó lòng mà dốc toàn tâm toàn lực cho Chúa và nước trời được. Do đó
Chúa Giêsu đòi hỏi anh ta phải dứt khoát từ bỏ những vướn bận ấy mới xứng đáng
làm môn đệ Người. Cuối cùng ta cũng không biết anh ta có theo Chúa hay không.
*
Tóm lại: Muốn đi theo làm môn đệ
Chúa Giêsu đòi hỏi ta không chỉ bỏ một phần hay từ từ, nhưng Chúa đòi ta phải
từ bỏ cách dứt khoát và trọn vẹn để gắn bó đời mình cho Chúa và Nước Trời. Tiền
bạc của cải, tình cảm gia đình, bổn phận trần thế... là những thứ rất cần thiết
cho con người; nhưng nếu không vượt lên những thứ ấy để dành con tim trọn vẹn
cho Chúa và Nước Trời, chắc chắn ta sẽ không xứng đáng làm môn đệ đích thực của
Chúa.
Xin
Chúa cho chúng ta biết noi gương thánh Phanxico Assisi, luôn ưu tiên đặt Chúa
làm trọng tâm của đời sống, để sẵn sàng khướt từ mọi giá trị quyến rũ trần thế
mà gắn kết đời mình cho những giá trị cao quý của Tin mừng, mà hăm hở bước theo Ðức
Kitô, với lòng chan chứa an vui và yêu mến.
Suy niệm 2: MỘT GIÁ CẢ TIỀM ẨN
“Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo!”.
“Thiên Chúa ban cho con người mọi sự, để nó toàn quyền
sử dụng cho vinh quang Ngài. Thế nhưng, thiên nhiên luôn có những khuyết điểm
tiềm tàng của nó; vì thế, con người phải chấp nhận ‘một giá cả tiềm ẩn!’” -
Paul Dickson.
Kính thưa Anh Chị em,
Việc sử dụng thiên nhiên đòi hỏi con người chấp nhận rủi
ro, phương chi việc đi theo Đấng tạo thành nó. Trong Tin Mừng hôm nay, một người
khoe, “Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo!”. Chúa Giêsu nói, “Con Người
không có chỗ tựa đầu”. Bấp bênh quá! Việc theo Chúa không phải lúc nào cũng
hào nhoáng, nó luôn đòi hỏi ‘một giá cả tiềm ẩn!’.
Bạn ước làm nhiều điều cho Chúa, tốt! Nhưng về lâu về
dài, cuộc đấu tranh này đôi lúc thật khó chịu; thách thức không đáng có thì
muôn mặt. Một người vợ thất vọng khi khám phá chồng không thể cáng đáng tài
chánh; một người mẹ tuyệt vọng khi đứa con cô kỳ vọng bỏ học; một người cha vui
mừng khi có một công việc tốt, nhưng sớm phát hiện, ông chủ là một bạo chúa.
Cũng thế; việc theo Chúa không phải lúc nào cũng huy hoàng!
Chúa Giêsu còn nói với một người khác khi anh xin về
chôn cất cha, “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ!”. Theo Origen, câu nói
này mang một ý nghĩa thần học và tâm linh sâu sắc, “Đừng lãng phí thời gian cho
những thứ đã chết! Vô luân, ô uế, đam mê, ham muốn xấu xa và tham lam. Những ngẫu
tượng này làm cho bạn chết. Hãy đuổi chúng, cắt chúng như cắt khối u ung thư, để
không nghe nó nói, “Hãy để kẻ chết “tâm linh” chôn kẻ chết tâm linh!”. Việc cắt
bỏ này là ‘một giá cả tiềm ẩn’. Điều này có vẻ mâu thuẫn khi Đấng Cứu Rỗi thậm
chí không cho người môn đệ về chôn cha mình; trên thực tế, Ngài không cấm điều
đó. Đúng hơn, Ngài đặt trước điều này ‘một lời công bố về Vương Quốc thiên
đàng’, nơi mọi người sống. Còn người chết, thì ai cũng chôn được!”.
Tin Mừng còn nói đến một người xin về “từ biệt gia đình
trước đã”. Chúa Giêsu nói, “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau,
thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Ngài không thô lỗ và khắt khe với
các môn đệ mai ngày, nhưng một khi chọn theo Ngài, Chúa muốn chúng ta tính
toán, tự do ngã giá, dù đó là một giá cả ngất ngưởng!
Thật trùng hợp, Nơkhemia trong bài đọc hôm nay cũng trả
một giá tương tự - mạng sống của ông - khi dám lên tiếng xin vua cho về quê để
tái thiết phần mộ tổ tiên vốn đã hoang tàn. May thay, ông được toại nguyện, vì
“bàn tay nhân lành của Chúa tôi che chở tôi!”.
Anh Chị em,
“Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo!”. Theo Chúa Kitô, bạn và tôi
phải sẵn sàng trả giá cao. Điều này nghe có vẻ liều lĩnh nhưng đó là sự thật.
Việc theo Ngài đòi chúng ta trả giá mỗi ngày, nhưng việc trả giá mỗi ngày này lại
giúp chúng ta có khả năng để trả những giá cao hơn ‘cho những hy sinh lớn hơn’.
Chính Chúa Giêsu, bản thân Ngài cũng đã trả giá; vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh
Ngài với “một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu”. Như hai mặt của đồng
tiền, giá tiềm ẩn cũng có hai mặt! Giá để ‘trả’ và giá để ‘nhận!’. Bước theo
Chúa Kitô, chúng ta đi trên đường thập giá của Đấng tự hủy chính mình; nhưng bước
theo Ngài, bạn và tôi còn nhận được không chỉ gấp trăm ở đời này mà còn được cả
Nước Trời, được Giêsu, được Đấng Cứu Độ, được cả thiên đàng.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cho con xác tín rằng, việc theo Chúa dù giá
cao đến mấy, nó vẫn ‘vạn lần hời’ so với Nước Trời!”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)
* KINH HÒA BÌNH
Lm. Nguyễn Trung Tây
Kinh Hòa Bình do thánh Phanxicô thành Assisi viết. Người
này, theo như ngôn từ của ngày hôm nay, là một vị thiếu gia. Là con của một gia
đình buôn bán gấm vóc thành Assisi, thiếu gia Phanxicô không thiếu thốn bất cứ
điều gì, tình yêu, sự nghiệp và danh vọng. Nhưng thiếu gia lại biết sâu thẳm
trong tâm hồn, anh chàng không hạnh phúc. Mà nếu mình không hạnh phúc, thì mình
biết, Trời biết và Đất cũng biết.
Ngày rồi cũng tới, thiếu gia Phanxicô quyết định trả lại
bố mẹ tất cả những gì thuộc về anh ta: y phục trên người, địa vị thiếu gia, và
sự nghiệp buôn bán. Thế là thiếu gia Phanxicô trở thành người hành khất. Ngày
ngày tu sĩ bình bát đi ăn xin vào tấm lòng tử tế của thiên hạ. Thế đấy, thật là
không thể ngờ, khi buông bỏ tất cả, chỉ còn sở hữu một bộ tu phục và một bình
bát, thiếu gia một thời Phanxicô chạm được niềm hạnh phúc. Và cũng qua chính
kinh nghiệm của bản thân, thánh Phanxicô mới biết,
- khi cho đi, đó cũng chính là lúc nhận được;
- khi “quên mình”, đó cũng chính là lúc
“gặp lại bản thân”;
- khi hiến tặng cuộc sống, đó cũng là lúc
“nhận lãnh” tràn đầy trên đôi bàn tay trống rỗng của đời tu sĩ khất thực.
Nói một cách khác, tu sĩ bình bát Phanxicô hiểu rằng,
trong cuộc sống này, nếu có con đường dẫn tới đau khổ, thì cũng có con đường dẫn
tới hạnh phúc. Con đường dẫn tới hạnh phúc theo như thánh Phanxicô là ban tặng
mà không tính toán, là cảm thông mà không lên án, là chia xẻ mà không giữ lại
tính toán cho riêng mình.
Bởi thế, đối với người hành khất Phanxicô, hạnh phúc là
một chọn lựa. Khi tôi chọn lựa ban tặng mà không tính toán, tôi không còn chọn
lựa đau khổ nữa, nhưng tôi đang thật sự chọn lựa hạnh phúc.
* THÁNH PHAN-XI-CÔ ÁT-XI-DI
Cuộc đời của bất cứ vị thánh nào trong
Giáo Hội cũng đều bắt đầu bằng cuộc sám hối. Sám hối của các thánh có nghĩa là
nhìn vào Chúa để bắt chước Chúa hơn là nhìn vào mình để ngao ngán, chán nản mà
không muốn vươn tiến. Mỗi thánh đều có một cung cách sống, đều có một hướng đi
riêng biệt, muôn vẻ,muôn mầu, muôn sắc, nhưng tựu trung, tất cả đều có một mẫu số
chung là trở nên giống Chúa Kitô. Thánh Phanxicô Átxidi là vị sáng lập Dòng
Anh Em Hèn Mọn cũng không đi ra ngoài đường lối của Chúa. Ngài phó
thác, tin,cậy, yêu mến Chúa để càng ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với
Chúa Giêsu.
MỘT CUỘC ÐỜI NGẮN
NGỦI. MỘT CON NGƯỜI GIỐNG CHÚA
Thánh Phanxicô Átxidi chỉ sống cuộc đời
trần thế có 45 năm. Nhưng cuộc đời của Ngài là cả một bài ca. Một bản nhạc với
những dòng nhạc, với những cung bậc, hòa nên một bản trường ca tình yêu tuyệt
vời.
Người ta trong nhiều thế kỷ đã không ngớt
ca ngợi thánh nhân vì con người lạ lùng của thánh nhân giữa cuộc đời. Ngay anh
em trong Dòng cũng không nhận ra Ngài có gì đặc biệt mà sao lạ lùng thu hút mọi
người.
Thánh nhân đã rất khiêm nhượng, sự khiêm
tốn của một tâm hồn thánh thiện đã nhìn ra con người đầy khiếm khuyết, đầy tội
lỗi của mình và có làm được gì là do ân huệ nhưng không của Chúa, đã biến cái
tầm thường nên cái phi thường, đã biến cái đơn sơ, nhỏ bé nên cái vĩ đại khôn
lường. Vì thế, tình yêu của Phanxicô Átxidi là một tình yêu mang tính cụ thể, thánh
nhân yêu mọi người, mọi vật, Ngài biến mọi sự vật, mọi thụ tạo nên sinh động và
có nhân tính. Ngài yêu tất cả vì Ngài thấy Thiên Chúa nơi tất cả mà trung tâm
là Chúa Giêsu. Thánh nhân yêu thương mọi người với tất cả con tim của mình, với
cả cuộc đời mình vì chính Chúa đã chết cho nhân loại trong đó có cả Phanxicô
Átxidi. Tình yêu của Phanxicô Átxidi là tình yêu mang tính vui tươi, thoải mái, Ngài sống trong niềm vui vì lúc nào Ngài
cũng mang Chúa trong con người của mình, Ngài đồng hóa mọi sự và nhân cách hóa
tất cả để tất cả ca ngợi Chúa trong niềm vui.
Thánh nhân sinh ở Átxidi khoảng năm 1182.
Cha Ngài là ông Bê-na-đô là một thương gia tơ sợi nổi tiếng và mẹ Ngài là bà
Pi-ca,một người đạo đức, thánh thiện đã hun đúc Ngài nên một vị thánh thời danh.
Cuộc nổi loạn của những người lê dân chống lại những nhà quí tộc. Thánh nhân bị
bắt và bị giam cầm trong suốt một năm trời ròng rã. Ngài bị một căn bệnh hiểm
nghèo và được Chúa cứu chữa, ngài được khỏi bệnh và Chúa đã cảm hóa Ngài với
câu: " Lạy Cha chúng tôi ở trên trời ".
Năm 1206 (24 tuổi) thánh nhân quyết định rũ bỏ bụi
trần, từ bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu, dù rằng bị người cha già hết sức phản
đối, thánh nhân rất thương cha nhưng không dám làm trái ý Chúa. Thánh nhân phân
phát tất cả của cải mình có cho những người nghèo, Ngài chỉ giữ lại một chiếc
áo choàng cũ kỹ, rồi ra đi rao giảng Tin Mừng. Ðược Chúa thúc đẩy, soi sáng, thánh
nhân đã lập Dòng anh em hèn mọn.
Thời gian sau đó, Ngài lui về Alverne, một
nơi thật cô liêu phía Bắc Átxidi để ăn chay, cầu nguyện và sống tình thân với
Thiên Chúa. Chúa yêu thương Ngài cách đặc biệt, nên trong lúc Ngài xuất thần, Ngài
nhìn thấy Tổng Lãnh Thiên Thần Séraphim và một ảnh chuộc tội. Tỉnh dậy, Ngài đã
được Chúa in năm dấu thánh trên người lúc đó là năm 1224. Chỉ hai năm sau đó, Ngài
lâm trọng bệnh. Trước khi ra đi về với Chúa, thánh nhân khuyên nhủ anh em trong
Dòng giữ đức khó nghèo tuyệt đối và trung thành với Giáo Hội Chúa Kitô. Thánh
nhân qua đời vào ngày 4.10.1226. Ðức Thánh Cha Grê-gô-ri-ô đã tôn Ngài lên bậc
hiển thánh.
THÁNH PHAN-XI-CÔ
ÁT-XI-DI NÓI GÌ CHO TA ?
Cuộc đời của thánh nhân là mẫu gương của
tình yêu. Ngài là vị thánh của tình yêu, một tình yêu cụ thể, tận tình và vui
tươi. Thánh nhân đã làm toát lên hương thơm nhân đức. Sự khó nghèo Ngài thực
hiện nơi cuộc đời của Ngài hoàn toàn phù hợp với mối phúc thứ nhất của Chúa
Giêsu. Ngài đã sống tận cùng cái khó nghèo như hy lễ tạ ơn Thiên Chúa. Thánh
nhân đã sống cái điên rồ của thập giá. Ngài không thích mặt nạ mà mọi sự luôn
phải theo ý của Chúa. Ngài luôn trung thành với Tin Mừng, với giáo lý chân
chính của Chúa và của Hội Thánh. Ngài sống cái tầm thường của cuộc đời nhưng nó
là cái lớn lao của nước trời. Thánh nhân đã biết biến cuộc đời khó nghèo của
mình trở thành hồng phúc cho mình và cho mọi người. Thánh nhân đã nói lên tất
cả tình yêu của mình cho mọi người, một tình yêu không bôi sáp mà là tình yêu, trung
thực, hy sinh, quên mình. Thánh nhân đã gửi cho nhân loại một sứ điệp dễ chấp
nhận nhất: sứ điệp của tình yêu, sứ điệp thập giá.
"Lạy Chúa, Chúa đã soi sáng cho
thánh Phanxicô chọn cuộc đời hèn mọn khó nghèo để trở nên hình ảnh sống động
của Ðức Kitô. Xin cho chúng con hằng noi gương thánh nhân để lại mà thiết tha
gắn bó cùng Chúa, và hăm hở bước theo Ðức Kitô, lòng chan chứa an vui và đầy
tràn yêu mến" (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Phan-xi-cô Át-xi-di ngày 4/10).
Linh mục Giuse Nguyễn
Hưng Lợi DCCT
Thứ
năm: Lc 10, 1-12
Suy
niệm 1:
Bản
chất của Hội Thánh là truyền giáo, Hội Thánh không còn là Hội Thánh nữa nếu như
Hội thánh không truyền giáo. Chính Chúa Giê-su, trước khi về cùng Thiên Chúa
Cha, Người đã trao sứ mạng truyền giáo cho Hội Thánh mà đại diện là các Tông
Đồ.“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin Mừng”.
Không
phải đợi đến khi Chúa về trời, Người mới trao sứ mạng này cho các Tông Đồ mà
ngay trong khi Người còn đang thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng, Người cũng
đã sai phái các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng.
Bài
Tin Mừng hôm nay, tường thuật lại việc Chúa Giê-su sai 72 môn đệ đi loan báo
Tin Mừng. Khi thi hành sứ vụ loan báo tin mừng, Chúa muốn các ngài phải đặt mối
ưu tư truyền giáo lên hàng đầu, đừng quá bận tâm những chuyện vật chất khi
truyền dạy: “đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép; cứ ăn những gì người ta
dọn lên”
Trải
qua mọi thời, ở mọi nơi, Hội Thánh không ngừng thực hiện sứ mạng cao cả này. Từ
12 Tông Đồ, Hội Thánh Chúa đã phát triển và lan rộng đến mọi nơi trên thế giới.
Đến nay người Công giáo có khoảng 1 tỷ 313 triệu người, chiếm tỷ lệ 17,7%
dân số thế giới (Phòng Báo chí Tòa Thánh, 6/3/2019). Cách riêng trên đất nước Việt Nam chúng ta trải dài từ bắc tới nam đến nay chỉ có 27 giáo phận, 3.288 giáo xứ, 6.951.999 giáo dân, 5,842 linh mục. Một con số
còn rất khiêm tốn, do đó Hội Thánh rất mong con cái mình biết lưu tâm vào tham gia vào sứ vụ truyền giáo.
Đừng
cho rằng truyền giáo là sứ vụ chỉ dành riêng cho hàng giáo sỹ và những nhà chuyên môn.
Không phải như thế! Mỗi người tín hữu, khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội đều được mời gọi tham dự vào 3 chức vụ của Hội Thánh đó là: ngôn sứ, tư tế và vương giả. Với
chức vụ ngôn sứ, mỗi người tín hữu buộc phải thi hành bổn phận truyền giáo tùy
theo bậc sống và khả năng của mình.
Mục
đích truyền giáo là giới thiệu Chúa cho mọi người, giúp mọi người tin vào Chúa
và đón nhận tin mừng cứu độ của Chúa. Là một tín hữu bình thường, chúng ta phải có sự hiểu
biết sâu xa về Chúa qua việc không ngừng học hỏi thánh kinh, trau dồi kiến thức giáo lý. Vì làm sao
ta có thể giới thiệu một người cho người khác nếu ta không hiểu không biết Chúa là ai? Bên cạnh việc giới thiệu Chúa cho người khác, chúng ta còn phải
làm chứng cho Chúa bằng chínhh đời sống hằng ngày, đừng để đời sống của chúng ta
phản chứng lại những gì chúng ta loan báo trên môi miệng. Vì ngày hôm nay
người ta cần chứng nhân hơn thầy dạy, mặc dù thầy dạy cũng rất cần.
Vậy
trước tiên chúng ta can đảm tuyên xưng mình là người tin theo Chúa, đừng vì
những lợi ích vật chất mà ta chối bỏ niềm tin của mình.
Tiếp
theo, chúng ta can đảm sống cho những giá trị Tin Mừng như: sự thật, công bằng,
bác ái…mặc dù đôi lúc vì những giá trị này mà chúng ta phải chịu thiệt thòi,
hiểu lầm.
Cuối cùng chúng ta phải thực hành niềm tin của chúng ta. Làm sao người ta có thể tin có Chúa khi thấy một người Công Giáo không thực hành niềm tin và lòng bác ái. Có ai đó đã thốt lên “Tôi tin có đạo Công Giáo nhưng tôi không tin người Công Giáo” thật là đau lòng! Vậy mỗi người trong chúng ta hãy thao thức ưu tư về sứ vụ truyền giáo. Thao thức lo âu chưa đủ, Chúa còn muốn chúng ta hãy có những hành động cụ thể tùy theo bậc sống với hết khả năng của mình.
Lạy
Chúa, Chúa đã từng băn khoăn khắc khoải “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”,
Chúa muốn mỗi người hãy là những tay thợ gặt lành nghề. Xin Chúa ban thêm cho
chúng con sự can đảm và lòng hăng say giới thiệu Chúa cho những người chung
sống và làm việc với chúng con bằng chính cuộc sống chứng tá của chúng con. Xin
cho chúng con biết cùng cộng tác với Hội Thánh trong sứ mạng truyền giáo với
hết khả năng và sức lực mà Chúa ban và xem đó như là công việc “sống còn” của
chúng con và của Gíao hội.
Suy
niệm 2:
Công
đồng Vatican II đã khẳng định rõ rằng: “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành là truyền
giáo” (Ecclesia peregrinans natura sua missionaria est, Ad gentes 2). Sẽ không
còn là Giáo Hội nữa nếu như Giáo Hội không truyền giáo. Chính Chúa Giê-su,
trước khi về cùng Thiên Chúa Cha, đã trao lại sứ mạng truyền giáo cho Giáo Hội
qua các tông đồ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan
báo Tin Mừng”(Mc 16,15). Nhưng không phải đợi đến khi về trời, Chúa
mới trao sứ mạng này cho các Tông Đồ, mà ngay khi còn ở tại thế, Chúa đã từng sai
phái không chỉ 12 tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng, mà Người còn chỉ định thêm
72 môn đệ nữa. Vì đây là sứ mạng quan trọng nên trước khi sai 72 môn đệ lên
đường thi hành sứ vụ truyền giáo, Chúa Giêsu đã căn dặn các ông nhiều điều:
1. Gắn bó mật thiết với Chúa bằng cầu nguyện: Ý thức Thiên Chúa mới chính là chủ mùa gặt. Nên Chúa Giêsu
bảo các môn đệ: “hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. Bởi vì chỉ
có Chúa mới đánh động lòng người và làm cho người ta tin vào Chúa; chứ con
người không có khả năng làm được điều đó.
2. Tin
tưởng và phó thác vào Chúa: Khi thi hành sứ vụ
loan báo tin mừng, Chúa muốn các môn đệ phải tuyệt đối tin tưởng vào sự quan
phòng của Chúa, đừng quá nương tựa vào tiền bạc vật chất: “Ðừng mang theo túi tiền,
bao bị, giày dép…”. Cũng đừng quá sợ hãi khi phải đối mặt với những
hiểm nguy “như chiên con đi vào giữa bầy sói”.
3. Sống tinh thần siêu thoát: Bằng lòng với cuộc sống
hiện tại, không so đo tính toán, đứng núi này trông núi nọ: “Hãy ở lại nhà
ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì
đáng được trả công. Ðừng đi hết nhà nọ đến nhà kia”. Sẵn sàng cắt đứt
mọi liên hệ với những ai không đón tiếp mà không hề vương vấn hay tiếc nối: “vào
bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà
nói: Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin
giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Ðại Thiên Chúa
đã đến gần”.
4. Khiêm tốn cộng tác với nhau: Để loại trừ
tính kiêu căng tự mãn, nhưng biết khiêm tốn đón nhận và hợp tác làm việc với
anh em trong tinh thần hiệp thông, Chúa đã “sai
các ông cứ từng hai người một”. Chính nhờ biết sống hiệp nhất với nhau nên lời chứng
của các môn đệ đáng tin cậy và có sức mạnh lay động người nghe.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã từng băn khoăn khắc khoải khi nhìn thấy “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Hôm nay, cánh đồng truyền giáo vẫn còn bao la bát ngát. Vì thế, Chúa cũng muốn sai mỗi người chúng con ra đi khỏi vùng ngoại biên đi đến vùng đất mới, môi trường mới và gặp gỡ những con người mới để loan báo niềm vui tin mừng. Xin cho chúng con ý thức được những điều mà Chúa đã căn dặn các môn đệ xưa kia mà áp dụng vào đời sống chúng con hôm nay, khi thi hành sứ mạng truyền giáo.
Suy niệm 3: MỖI NGƯỜI ĐỀU LÀ
NHÀ THỪA SAI
Loan báo Tin Mừng là sứ mạng của hết mọi người
chứ không chỉ dành riêng cho các linh mục hay tu sĩ. Hình ảnh 72 môn đệ được
Đức Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng cho thấy tính phổ quát của sứ vụ này.
Khi được sai đi loan báo Tin Mừng, người thừa
sai cần hiểu rõ một nguyên tắc căn bản về sứ vụ tông đồ là: việc Tông đồ là của
Chúa. Người tông đồ là người được sai đi để thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Mục
đích là làm sao cho muôn người được ơn cứu độ.
Tuy nhiên, không phải ai được sai đi cũng đều
thành công trong sứ mạng, bởi lẽ người tông đồ sẽ bị những thử thách, khó khăn
do ngoại cảnh gây nên, và đôi khi do chính sự yếu đuối của bản thân, nên dẫn
đến tình trạng buồn chán, thất vọng và buông xuôi…
Vì vậy, bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã
hướng dẫn các môn đệ về tư cách, phương pháp và tinh thần của người thừa sai,
để các ông ra đi và hy vọng mang lại nhiều hoa trái.
Trước tiên: người môn đệ phải noi gương Thầy
của mình, đến để cứu độ bằng con đường thập giá. Vì thế, can đảm đón nhận những
khó khăn, trở ngại do hiểu lầm, kỳ thị, ghen tức và hóa giải nó trong yêu
thương là tinh thần của người môn đệ. Khó khăn này được ví như: “Chiên giữa bầy
sói”.
Thứ đến: người môn đệ phải sống cuộc sống
thanh thoát, nhẹ nhàng trong sự thiếu thốn. Không quá lo lắng về cơm áo gạo
tiền cách thái quá. Không bị của cải, sự sung sướng và an thân níu kéo bước
chân người thừa sai. Bởi vì của cải vật chất không đương nhiên đem lại hạnh
phúc cho con người, trái lại nó luôn có nguy cơ tha hóa và nô lệ hóa con người.
Của cải vật chất vốn dễ làm cho con người trở nên mù quáng đối với bản thân
cũng như trong tương quan với tha nhân; và khi đã trở thành mù quáng, con người
tôn của cải vật chất lên làm cứu cánh và tự giam mình trong vỏ ích kỷ. Cần cảm
nghiệm được tình yêu của Chúa trên cuộc đời mình qua sự chăm sóc của Ngài, vì
thợ thì đáng được thưởng công. Vì thế: không bị, không tiền, không mang hai áo
… là tinh thần của người thừa sai.
Tiếp theo: hãy noi gương Đức Giêsu, Đấng đến
để cho chiên được sống và sống dồi dào, còn bản thân Ngài thì lại hóa mình ra
không đến nỗi trở nên của ăn cho người khác. Vì thế, người môn đệ cần nhạy bén
để khước từ cám dỗ là tìm mọi cách để thay đổi điều kiện sống cho mình, nhằm an
thân và sung túc, trong khi đó sứ vụ thì bỏ bê. Như thế, không cẩn thận sẽ dẫn
đến tình trạng: “Đi hết nhà này đến nhà kia” mà sứ vụ thì không sinh hoa trái.
Mặt khác: hội nhập văn hóa là điều cần thiết
để Lời Chúa thấm nhập vào truyền thống, văn hóa, được chuyển tải bằng những thứ
ngôn ngữ của chính người bản địa. Những sinh hoạt hằng ngày như ăn uống, nghỉ
ngơi cũng cần thích nghi. Được như thế, người thừa sai sẽ không bị cuốn theo
bản năng để chỉ lo cho bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu “hạ đẳng” của chính mình.
Vì vậy: “Vào bất cứ thành nào mà người ta tiếp đón thì cứ ăn những gì mà người
ta dọn cho anh em”.
Hơn nữa: truyền giáo phải đi đôi với bác ái.
Nếu lời giảng dạy là để giới thiệu Đức Giêsu như một vị Thiên Chúa nhân từ, yêu
thương, đứng về phía người nghèo, áp bức, bất công để giải thoát con người cách
toàn diện, thì việc bác ái chính là một chứng minh cụ thể về tình thương, sự
liên đới do lòng thương xót của Thiên Chúa cho con người. Vì thế, người môn đệ
cần: an ủi kẻ âu lo, nâng đỡ kẻ yếu đuối… để làm chứng cho: “Triều Đại Thiên
Chúa đã đến gần”.
Cuối cùng: nhà truyền giáo phải là người thấm
thía sự bình an của Chúa. Nếu không có bình an thì không thể trao ban cho người
khác bình an được. Cuộc đời sứ vụ của người thừa sai mà thiếu đi yếu tố này,
thì hẳn chính bản thân cũng bất hạnh, và như thế, chỉ còn gieo rắc sự thất vọng
mà thôi. Tuy nhiên, bình an là một ơn ban của Thiên Chúa, kèm theo sự cộng tác
của con người. Vì vậy: “Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các
con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con”.
Lạy Chúa Giêsu, lúa chín đầy đồng mà thợ gặt
lại ít. Xin Chúa sai những người thợ lành nghề để ra đi thu lúa về cho Chúa.
Xin Chúa cũng ban cho chính chúng con, là những người cũng được mời gọi tham
gia vào sứ mạng truyền giáo ngày lãnh Bí tích Rửa Tội, luôn biết làm gương
sáng, chu toàn bổn phận và trung thành với đời sống bác ái yêu thương. Amen.
Ngọc Biển SSP
Thứ
sáu: Lc 10,13-16
Đức
Giêsu là Thiên Chúa làm người. Người luôn hiền hậu và khiêm nhường, giàu lòng
thương xót với mọi người, ngay cả tim đèn leo lét Người không nỡ dập tắt; cây
lau bị ngã, Người không nỡ bẻ gãy. Thế nhưng tại sao Người lại quở trách nặng
lời với các thành: Corozain, Bethsaiđa và Capharnaum? Để hiểu được điều này,
chúng ta hãy để tâm lắng nghe lời Chúa nói với chúng ta trong bài tin mừng hôm
nay.
Chúa
Giê-su xuống thế làm người, sau 30 năm sống ẩn dật, Người ra đi rao giảng Tin
Mừng, mạc khải Thiên Chúa Cha, kêu gọi mọi người sám hối và tin vào Tin Mừng.
Những thành như Corozain, Bethsaiđa hay Capharnaum là những thành được diễm
phúc nghe lời giáo huấn của Chúa, được chứng kiến những phép lạ Chúa làm. Nhưng
những người ở đây lại lòng chai dạ đá, cứng đầu cứng cổ, không chịu ăn năn sám
hối, canh tân đời sống mà lại khước từ những lời giáo huấn của Chúa. Thế là
Chúa phải thốt lên những lời quở trách xem ra rất nặng nề: “khốn cho ngươi”.
Giả như Chúa đến rao giảng cho những thành dân ngoại như Tyrô và Siđon thì hẳn
họ đã chú tâm lắng nghe mà ăn năn sám hối từ lâu rồi. Vì thế mà Chúa cho biết
trong ngày phán xét những thành đó sẽ được xét xử khoan hồng hơn những thành đã
được Chúa rao giảng Tin Mừng và kêu gọi sám hối.
Vì
sao dân chúng ở những thành này lại không chịu ăn năn sám hối và tin theo Chúa.
Có thể vì họ quá biết về Chúa Giê-su. Một người xuất thân từ một gia đình nghèo
ở một làng quê hẻo lánh, là con của một bác thợ mộc tầm thường... Do bởi cái
nhìn định kiến như thế nên họ đã không nhận ra Đức Giê-su là Con Thiên Chúa.
Cũng rất có thể họ tự hào mình là dân riêng của Thiên Chúa, là con cháu của tổ
phụ Abraham, đương nhiên họ sẽ được Thiên Chúa nâng lên đến tận trời.
Có
thể những lời khiển trách của Chúa Giê-su dành cho những thành như Corozain,
Bethsaiđa hay Capharnaum cũng là những lời dành cho chúng ta hôm nay. Bởi
nhờ bí tích Rửa Tội, chúng được Chúa chọn làm dân riêng của
Chúa, được diễm phúc lắng nghe Lời Chúa chỉ dạy, nhất là được đón nhận
chính Mình và Máu Chúa vào trong cung lòng. Thế nhưng đời sống của chúng ta
nhiều khi chẳng khác gì một người không biết Chúa, có khi còn tệ hơn nữa. Lắm
khi ta cũng bon chen, tranh giành, lọc lừa, mưu mô xảo quyệt theo kiểu người
đời, cũng như dễ dàng khước từ những lời giáo huấn của Chúa và GH để sống theo
ý riêng của mình.
Xin
Chúa cho chúng ta biết nhận ra những lầm lỗi, thiếu sót của mình để khiêm tốn
đón nhận những lời hướng dẫn của Chúa qua giáo huấn của GH và các vị mục tử mà
thật tâm sám hối về những thiếu sót, tội lỗi của mình để đời sống sao cho phù
hợp với thánh ý của Chúa.
“Ai
khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy!”.
Một
nhà giáo dục nói, “Điều quan trọng nhất mà cha mẹ có thể giúp trẻ sáng tạo là
dạy chúng không sợ thất bại. Để sáng tạo, trẻ cần khám phá và thử thách với
những điều mới. Ngoài ra, cần học cách chịu đựng khi bị cười nhạo, sẵn sàng
chấp nhận sự chỉ trích và không ngại khác biệt! Đó là một trải nghiệm cần
thiết, trải nghiệm bị từ chối!”.
Kính
thưa Anh Chị em,
Tin
Mừng hôm nay cho thấy không phải lúc nào Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài cũng
thành công! Họ còn phải “học cách chịu đựng khi bị cười nhạo, chấp nhận chỉ
trích và không ngại khác biệt”. Họ cần học biết thế nào là một ‘trải nghiệm bị
từ chối!’.
Chúng
ta đang sống trong một nền ‘văn hoá thành công!’. Đôi khi giá trị của một người
có thể được đánh giá qua mức độ thành công của người ấy ‘chỉ ở một mặt’ nào đó.
Và Chúa Giêsu, một người rất dễ chấp nhận người khác, dường như thường bị người
khác chối từ.
Tin
Mừng kể tên ba thành mà Ngài đã công khai quở trách, Ngài nhắc cho dân của
những thành này rằng, họ sẽ lãnh lấy hậu quả nếu từ chối Ngài, “Khốn cho
ngươi hỡi Chorazin! Bethsaida!”, và “Khốn cho ngươi hỡi Capharnaum!”.
Trong
bối cảnh sai các môn đệ đi truyền giáo, Chúa Giêsu đề cập sự khước từ này. Phải
chăng, Ngài đang chuẩn bị cho họ điều chắc chắn sẽ xảy đến với bất cứ ai trong
tư cách sứ giả của ‘một Thiên Chúa bị từ chối!’. Ngài không ngần ngại tuyên bố
mạnh mẽ sự thật sâu sắc của nó, “Ai nghe các con là nghe Thầy; và ai khước
từ các con là khước từ Thầy!”; chưa hết, “Mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng
đã sai Thầy!”.
Là
những người có đức tin, không ít lần, bạn và tôi cũng trải qua sự ê chề này.
Đức tin của bạn, việc làm của bạn, Phúc Âm mà bạn cố sức rao giảng bằng cả cuộc
sống… không phải lúc nào cũng được đón nhận nồng nhiệt. Đối tượng của bạn không
chỉ là những người không biết Chúa, nhưng còn là những anh chị em trong cộng
đoàn, gia đình; hoặc thậm chí với những người có trách nhiệm nhất trong công
cuộc loan báo Tin Mừng. Vì một lý do nào đó, có thể họ sẽ coi thường hoặc không
tiếp nhận những gì mà một số người đã cống hiến, cho dù đó là những gì tốt đẹp
nhất, thiết yếu nhất, những công việc mà không phải ai cũng muốn làm, dám làm
và có khả năng làm!
Anh
Chị em,
“Ai
khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy!”. Nhân loại đã khước
từ Con Thiên Chúa, “Ngài đã đến nhà của Ngài, và người nhà của Ngài đã không
tiếp nhận Ngài”. Sự khước từ thê thảm nhất, ‘trải nghiệm bị từ chối’ tột
cùng nhất của Chúa Giêsu là cái chết trên thập giá. Vậy mà, sự từ chối Ngài và
Tin Mừng của Ngài không bao giờ có tiếng nói cuối cùng. Thiên Chúa có thể tác
động một cách mạnh mẽ để thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài thông qua những
trải nghiệm như vậy theo những cách mà không phải lúc nào con người cũng có thể
hiểu một cách đầy đủ. Vì thế, tất cả những gì Thiên Chúa yêu cầu là bạn và tôi
cứ trung thành với lời chứng của mình, bất kể nó được đón nhận như thế nào.
Chúng
ta có thể cầu nguyện,
“Lạy
Chúa, dạy con học chịu đựng khi bị cười nhạo, chấp nhận sự chỉ trích và không ngại
khác biệt, miễn sao con mải miết làm vui lòng Chúa và những gì Chúa muốn!”.
(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)
Thứ bảy: Cv 1,12-14; Lc 1,26-38
Nhớ
Mẹ Mân Côi
(Dựa
trên ý tưởng của cha Carolo tổng đại diện-giám đốc ĐCV St Qúy, Gp Cần Thơ)
Tin
mừng hôm nay thuật lại biến cố Thiên Thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria,
khởi đầu cho chương trình cứu độ đầy yêu thương của Thiên Chúa dành cho Đức
Maria cách riêng và nhân loại cách chung. Để thực hiện chương trình cứu độ,
Thiên Chúa đã chọn gọi Đức Maria cộng tác trong việc cưu mang và sinh hạ Đấng
Cứu Thế và Đức Maria đã đáp lời bằng hai tiếng “xin vâng”.
Mỗi
khi đọc “kinh kính mừng” là chúng ta nhắc lại lời sứ thần Gabriel truyền tin
cho Đức Maria khi xưa: “kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng bà,
bà có phước lạ hơn mọi người nữ….”
Lời
truyền tin này là một lời chào chúc quý giá và mang giá trị hết sức cao cả. Bởi
lẽ, có ơn phúc nào cao lớn cho bằng ơn phúc được Thiên Chúa ở cùng (chính Chúa
là nguồn mọi ơn phúc và Đấng ban ơn phúc. Được Thiên Chúa ở cùng thì có mọi ơn
phúc nơi mình rồi). Và có vinh dự nào lớn bằng vinh dự được Thiên Chúa ưu ái
chọn làm Mẹ Thiên Chúa. (Được chọn làm mẹ vua đã là vinh dự và ơn phúc quá lớn
rồi huống chi là Mẹ Vua Trời).
Ý
thức sứ mạng cao quý ấy trong vui mừng khôn tả vượt trí hiểu, Đức Maria đã bối
rối và tự hỏi lời chào ấy có ý nghĩa như thế nào? Nhưng sau khi được Thiên Thần
giải thích, Đức Maria biết đó là ý định Thiên Chúa, dù không hiểu hết, nhưng
Đức Maria vẫn khiêm tốn ngoan ngoãn vâng nghe.
Có
nhiều điều xảy ra trong đời sống vượt ngoài trí hiểu và khả năng chúng ta,
chúng ta cảm thấy không thể thực hiện được, nhưng“đối với Thiên Chúa thì mọi
chuyện đều có thể”. Từ không, Chúa đã sáng tạo nên vũ trụ vạn vật chỉ bằng lời
phán truyền. Từ bùn đất, Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Bằng
quyền năng, Thiên Chúa đã làm cho bà Isave cao niên và son sẻ mang thai và sinh
con. Nên việc cưu mang và hạ sinh Đấng Cứu Thế vẫn đồng trinh đối với Đức Maria
là chuyện bình thường. Do đó, nếu ta biết tin tưởng và khiêm tốn để Chúa hành
động nơi cuộc đời của ta như Đức Maria, thì Chúa cũng sẽ làm những điều kì diệu
trên đời ta.
Tuy
dẫu Thiên Chúa quyền năng làm được mọi sự. Nhưng Thiên Chúa lại yêu thích con
người cộng tác với Chúa.
Để
chọn gọi dân riêng, Chúa đã mời gọi tổ phụ Abraham cộng tác, và Abraham đã vâng
lời bỏ xứ sở ra đi theo ý định Thiên Chúa. Thế là một dân riêng của Chúa đã
hình thành.
Để
cứu dân tộc Israel ra khỏi kiếp nô lệ bên Ai cập, Thiên Chúa đã mời gọi Môsê
cộng tác, dù sợ hãi về sự kém cỏi của mình, Môsê vẫn vâng phục ý muốn của Chúa.
Thế là cuộc giải phóng đã hoàn tất.
Để
cứu độ nhân loại, Thiên Chúa chọn Đức Maria, một người thiếu nữ bình thường,
nghèo khó làm mẹ Đấng Cứu Thế và Mẹ đã ngoan ngoãn tin tưởng vâng nghe. Thế là
chương trình cứu độ từ ngàn đời của Thiên Chúa được thực hiện.
Để
cứu độ mỗi chúng ta, Chúa cũng mời gọi chúng ta hợp tác với Chúa. Như thánh
Augustinô đã nói: “Chúa dựng nên con Chúa không cần con, nhưng để cứ độ con
Chúa cần con cộng tác”.
Xin cho chúng ta biết noi gương Đức Maria biết khiêm tốn và ngoan ngoãn vâng theo thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh mà tích cực cộng tác với ơn cứu độ của Chúa để cứu chính mình và qua ta ơn cứu độ đến được với tha nhân.
SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXVI THƯỜNG
NIÊN
TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Thứ hai: Chúa là tất cả
Thế giới đảo điên vì tranh chấp
hơn thua. Con người khổ đau vì cái được cái mất. Vì thế châm ngôn Pháp nói:
sống là đấu tranh. Đấu tranh để có địa vị hơn, giầu có hơn người. Não trạng thế
tục len lỏi vào cả các môn đệ của Chúa. Nên các ông tranh giành địa vị cao thấp.
Chúa nhân cơ hội dạy dỗ các ông. Tinh thần
trong Nước Chúa phải ngược với tinh thần thế tục. Ai muốn làm lớn phải trở nên
bé nhỏ. Ai muốn chỉ huy phải phục vụ. Chúa chẳng nói suông. Chính Chúa đã làm
trước. Chính Chúa rất giầu sang đã trở nên khó nghèo. Rất cao sang đã trở nên
thấp hèn. Chúa là Thầy là Chúa nhưng đã quì xuống rửa chân cho các tông đồ. Ai
trở nên bé nhỏ là trở nên chính Chúa. Chúa đi ngược với trần gian. Ai theo đuổi
trần gian sẽ mất Chúa. Ai từ bỏ trần gian sẽ được chính Chúa. Được Chúa là được
tất cả: “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là
tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Đấng đã sai Thầy. Thật
vậy, ail à người nhỏ nhất trong tất cả an hem, thì kẻ ấy là người lớn nhất”.
Đó là điều thánh Gióp đã cảm nghiệm. Ma quỉ
theo thói thế gian tưởng của cải, danh vọng, chức quyền là tất cả. Nên chiếm
hết của thánh Gióp để lung lạc ông. Để ông bỏ Chúa mà đi theo ma quỉ. Không ngờ
thánh Gióp có đức tin kiên vững. Là tôi tớ trung tín của Chúa. Càng đau khổ
càng gắn bó với Chúa. Ông tuyên xưng đức tin: “Thân trần
truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho,
Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa”. Ma quỉ chịu
thua. Chúa trả lại cho ông tất cả. Con cái. Của cải. Danh vọng. Hạnh phúc. Còn
hơn gấp bội những gì ngài có trước kia. Ngài càng xác tín: Chúa là tất cả. Có
Chúa là có tất cả (năm chẵn).
Đó cũng chính là điều Da-ca-ri-a thay mặt Chúa
khẳng định. Khi dân phản bội Chúa thì họ mất tất cả. Nhà tan cửa nát. Thân phận
lưu đày nô lệ. Họ mơ một cuộc sống an bình nơi quê nhà. Họ mơ chiều chiều được
ngồi trong quảng trường đền thánh. Ông già bà cả được thảnh thơi nghỉ ngơi. Lên
đền thờ cầu nguyện. Sống lâu trăm tuổi. Đó là điều không thể được với tình hình
lực lượng thua kém của họ. Nhưng Chúa quả quyết đó là điều có thể được đối với
quyền năng của Chúa. Vì Chúa là tất cả. “Ta sẽ dẫn chúng về…Chúng sẽ là dân của
Ta; Ta sẽ là Chúa của chúng” (năm lẻ).
Xin cho con biết từ bỏ thế gian. Chỉ chọn một
mình Chúa thôi.
Thứ ba: Con đường đau khổ
Chúa Giê-su rao giảng tại
Ga-li-lê. Người lên Giê-ru-sa-lem để hoàn tất quãng đời dương thế. Đó là cao
điểm. Lu-ca nói Người đi về trời để được vinh quang. Da-ca-ri-a đã loan báo
trước vinh quang của Chúa. Mọi dân tộc sẽ nhận biết Chúa. Sẽ trở về với Chúa.
Sẽ đi theo con đường của Chúa: “Các nước và dân cư trong các thành phố
lớn vẫn còn tuôn đến. Dân thành này sẽ đến thành khác mà nói rằng: “Nào ta cùng
đi làm cho nét mặt Đức Chúa dịu lại và tìm kiếm Đức Chúa các đạo binh; cả tôi
nữa, tôi cũng đi!…Trong những ngày ấy, mười người đàn ông thuộc mọi ngôn ngữ
trong các dân tộc sẽ níu lấy áo của một người Giu-đa mà nói: “Chúng tôi muốn đi
với anh em, vì chúng tôi đã nghe biết rằng Thiên Chúa ở với anh em”(năm
lẻ).
Nhưng con đường vinh quang phải trải qua
đau khổ. Đau khổ lớn lao chưa từng có ai chịu nổi. Đau khổ không ai có thể chịu
đựng được. Chúa bị phản bội, bị bỏ rơi bởi các môn đệ. Bị xét xử nhiều lần. Bị
kết án. Bị nhục mạ. Bị đánh đòn. Bị vác thánh giá. Bị đóng đinh. Chết giữa
những tên trộm cướp. Đau đớn nhất là Người cảm thấy như bị Chúa Cha ruồng bỏ.
Thánh Gióp là người chịu đau khổ phần nào giống Chúa. Ông trong sạch. Ông trung
thành thờ phượng Chúa. Nhưng ông bị thử thách. Mất hết của cải, con cái. Bản
than bị lở loét, sâu bọ đục khoét. Vừa đau đớn vừa hôi thối. Nhưng đau đớn hơn
nữa ông bị bạn bè kết án. Và nhất là người vợ thân thương cũng khinh khi miệt
thị. Và nhất là ông cảm thấy như bị Chúa ruồng bỏ. Nên ông đau buồn than khóc. “Bấy
giờ, ông Gióp mở miệng nguyền rủa ngày ông chào đời. Ông Gióp lên tiếng nói:
“Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi đã chào đời…Sao lại ban ánh sang và sự sống
cho kẻ chẳng biết mình đi đâu, cho kẻ bị Thiên Chúa giam hãm tư bề?”(năm
chẵn).
Việc người Sa-ma-ri không đón tiếp Chúa chỉ là
bắt đầu. Rồi Chúa sẽ chịu nhiều đau khổ nhục nhã lớn lao hơn nữa. Cho đến chết.
Các tông đồ muốn trừng phạt họ. Nhưng Chúa mắng các ông. Vì các ông không hiểu.
Chính Chúa tự nguyện đi vào con đường đau khổ để được vinh quang. Chấp nhận
chịu bạc đãi để đem lại yêu thương. Chấp nhận thân phận tội lỗi để qui tụ muôn
người về với Chúa Cha. Chấp nhận chết đi để được sống lại.
Các môn đệ tuy chưa hiểu. Nhưng vì yêu mến
Chúa, các ngài sẵn sang đi vào con đường của Chúa. Xin cho chúng ta cũng biết
noi gương các ngài. Gắn bó với Chúa. Đi theo Chúa. Cùng chịu đau khổ để cùng
vinh quang với Chúa. Cùng chịu chết để được sống lại với Chúa.
Thứ tư: Chúa Kitô là tất cả
Trong đời thường có những giá
trị cao quí. Như lòng yêu mến tôn kính ông bà tổ tiên. Lòng gắn bó với quê cha
đất tổ. Đó là những giá trị văn hoá dân tộc rất đáng khích lệ. Những người có
lý trí đều trân trọng những giá trị này. Chính vì thế, khi thấy Nơ-khê-mi-a
buồn phiền vì phần mộ tổ tiên bị hoang phế. Quê hương bị điêu tàn. Vua
Ác-tắc-sát-ta, một vị minh quân, đã cho phép ông trở về tái thiết quê hương và
phần mộ tổ tiên. Thực ra Nơ-khê-mi-a mượn cớ xây mộ tổ tiên để tái thiết Đền
Thờ Giê-ru-sa-lem. Và ông thờ kính Thiên Chúa hơn cả ông bà tổ tiên. Nên trước
khi cầu xin vua trần gian, ông đã “cầu xin Thiên Chúa các tầng trời”.
Và ông biết “Vua ban cho tôi như thế, vì bàn tay nhân
lành của Thiên Chúa tôi che chở tôi” (năm lẻ).
Mọi quyền năng trên đời thuộc về Chúa. Đó là
điều các thánh tổ phụ hằng tin tưởng. Đặc biệt thánh Gióp, bị thử thách, vẫn
tin tưởng vào Thiên Chúa. Vì Người nắm giữ vận mạng phàm nhân và vũ trụ: “Người
chuyển núi dời non mà chúng không hay… Người ra lệnh là mặt trời không mọc…Duy
mình Người trải rộng các tầng trời, đạp lên trên ba đào biển cả”.
Chính vì thế thái độ duy nhất đúng là vâng phục và xin Chúa xót thương: “Chẳng
lẽ tôi lại tranh cãi, hay tìm lý để chống đối Người sao? Cho dù tôi có lý, tôi
cũng không tranh cãi, nhưng sẽ xin Đấng xét xử tôi thương xót” (năm
chẵn).
Đến thời Chúa Giê-su, chân lý này được minh
nhiên công bố. Chúa Ki-tô là tất cả. Nhưng để đạt tới Người ta phải siêu thoát
khỏi những dính bén trần tục. Người là quê hương. Đi theo Người là đi về quê
hương đích thực. Người là gia đình đích thực. Vì nơi Người có Thiên Chúa là Cha
của mọi người cha. Và là gia đình rộng lớn. Vì bất cứ ai nghe và giữ Lời Chúa
đều là anh em với nhau. Người là tình yêu. Mọi tình cảm trên đời đều phát nguồn
từ nơi Người.
Người là tất cả. Nên khi ta từ bỏ tất cả trần
gian vì Người, ta lại được lại tất cả. Ở trần gian Người không có chỗ tựa đầu.
Nhưng khi trần gian tan biến hết thì Người vẫn tồn tại và Người có cả vũ trụ là
nhà. Ta bỏ tình cảm gia đình vì Chúa. Nhưng trong Chúa tình gia đình lại càng
sâu xa bền chặt hơn. Vì chính Chúa là tình yêu sẽ làm cho tình yêu tầm thường
của ta thành vĩnh cửu.
Thứ năm: Triều đại Thiên Chúa
Triều đại Thiên Chúa. Đó là
điều muôn đời ngàn dân trông đợi. Vì đời sống trần gian khổ cực đau thương.
Chưa hề có triều đại nào đem lại hạnh phúc cho người dân. Chưa có chế độ nào
hoàn toàn được tín nhiệm. Chưa có hệ thống ý thức hệ nào thực sự tạo nên thiên
đường.
Dân Ít-ra-en cảm nhận được tất cả những nỗi
khổ đau, nhục nhã khi bị lưu đầy. Nên khi được trở về. Được thờ phượng Chúa.
Được nghe Lời Chúa. Lòng họ tràn đầy niềm vui. “Ông Ét-ra
mở sách… Bấy giờ ông Ét-ra chúc tụng đức Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân
giơ tay lên đáp rằng: “Amen! Amen!” Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Đức
Chúa….Các thầy Lê-vi thì trấn an mọi người như sau: “Anh em đừng khóc nữa, vì
hôm nay là ngày thánh!…” Bấy giờ toàn dân đi ăn uống, rồi gửi các phần ăn, và
liên hoan tưng bừng”. Họ sống một cuộc sống hạnh phúc vì tuân theo
Lề Luật. Vì Thiên Chúa hướng dẫn họ.
Chúa Giê-su là Đấng phải đến. Quả thực Triều đại Thiên Chúa đã đến. Đó là tin vui lớn lao. Cần loan báo cho cả địa cầu. Vì thế Chúa không chỉ sai 12 tông đồ. Mà còn sai 72 môn đệ đi loan báo.
Triều đại được chứng nghiệm bằng việc xua trừ ma quỉ. Chữa lành bệnh tật. Giải phóng con người khỏi mọi ách nô lệ ràng buộc của ma quỉ và sự dữ. Và đem bình an cho mọi người.
Tuy nhiên chính người loan báo phải chứng tỏ Triều đại Thiên Chúa bằng một thái độ siêu thoát: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép”.
Sứ điệp quan trọng. Thời giờ cấp bách. Nên “đừng
chào hỏi ai dọc đường”. Tập trung vào sứ mạng. Không chú ý đến
những gì phụ thuộc ở đời này như ăn uống, ngủ nghỉ: “người ta
cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó”. Khi người môn đệ
siêu thoát, nghèo khó, chính Thiên Chúa ngự trong họ sẽ làm việc. Họ sẽ có sức
mạnh của Thiên Chúa.
Chính vì hi vọng Triều Đại Thiên Chúa đến mà
thánh Gióp, trong cơn đau khổ cùng cực, vẫn hi vọng tin tưởng đợi chờ. Luôn gắn
bó với Chúa: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn
sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu
huỷ, thì với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa… Lòng tôi những tha
thiết mong chờ” (năm chẵn).
Phần chúng ta hãy làm cho Triều Đại Thiên Chúa
mau đến ngay trong bản thân mình. Bằng đời sống siêu thoát. Bằng tin tưởng vượt
qua mọi gian khổ như thánh Gióp. Và bằng lời loan báo tin vui cho mọi người.
Chúa Giê-su buồn phiền. Vì chính những nơi được nghe rao giảng Tin mừng, được chứng kiến nhiều phép lạ, lại không ăn năn sám hối. Chúa đặt Ca-phác-na-um làm trung tâm rao giảng Tin mừng. Chúa thường xuyên đi lại Kho-ra-din và Bết-xai-đa. Tại Bết-xai-đa có vài môn đệ theo Chúa. Nhưng đa số dân chúng cứng lòng không tin. Trong khi đó tại vùng dân ngoại Tia và Xi-đôn có người phụ nữ, dù bị Chúa xua đuổi, vẫn kiên trì tin tưởng.
Chúa buồn không phải vì người ta chối từ Chúa. Nhưng vì người ta chối từ Chúa Cha. Chối từ tình yêu thương vô cùng sâu thẳm và bao la của Chúa Cha. “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Người”. Còn tình yêu nào lớn lao hơn thế. Còn tấm lòng nào quan tâm hơn thế. Nhưng buồn là buồn cho chính họ. Chúa Cha là nguồn mạch sự sống. Khi chối từ nguồn mạch sự sống, họ đánh mất sự sống. Họ đi vào chỗ chết.
Đó chính là điều tiên tri Ba-rúc thú nhận.
Trong thời kỳ lưu đầy, Ít-ra-en nhà tan cửa nát. Phải lưu đầy biệt xứ. Phải làm
nô lệ. Vừa khổ cực vừa nhục nhã. Nhưng vị tiên tri phải thú nhận dân Ít-ra-en
bị như thế là xứng đáng. Vì họ đã chối từ Thiên Chúa yêu thương. Thiên Chúa sức
mạnh. Thiên Chúa ban sự sống. “Chúng tôi, những người Giu-đa và cư dân
Giê-ru-sa-lem, các vua và thủ lãnh, tư tế và ngôn sứ cũng như các bậc cha ông,
chúng tôi phải hổ ngươi bẽ mặt như ngày hôm nay thì cũng đáng, vì tất cả chúng
tôi đã phạm tội trước nhan Đức Chúa, đã bất tuân, không nghe tiếng Đức Chúa là
Thiên Chúa chúng tôi, không vâng theo các mệnh lệnh Đức Chúa đã đề ra trước mắt
chúng tôi” (năm lẻ).
Chúa là nguồn mạch sự sống của toàn thể vũ trụ
cũng như con người. Chúa đã chất vấn thánh Gióp. Và thánh Gióp không thể trả
lời: “Có bao giờ ngươi đã đến tận nguồn biển cả và lang thang ở
đáy vực sâu? Có ai từng mở cho ngươi lối vào âm phủ và ngươi thấy được cửa dấn
tới âm ty? Có khi nào ngươi hiểu mặt đất rộng chừng nào? Nếu ngươi biết hết mọi
điều đó thì cứ nói đi”. Và thánh Gióp chỉ biết thưa lại: “Vâng,
con đây tầm thường bé nhỏ, biết nói chi để trả lời Ngài?” Thánh
Gióp chỉ biết vâng theo ý Chúa. Chính vì thế ngài được Chúa yêu thương ban muôn
hồng phúc (năm chẵn).
Chúng ta hãy noi gương thánh Gióp nhận biết
Thiên Chúa là sự sống và là tất cả của chúng ta. Để luôn biết đón nhận Người.
Đón nhận mệnh lệnh Người. Để chúng ta được sống.
Niềm vui chỉ có trong Chúa. Đó
là sứ điệp Lời Chúa hôm nay.
Ba-rúc tràn đầy nỗi buồn. Vì con cái Ít-ra-en
thờ lạy ma quỉ. Ma quỉ thiêu đốt dục vọng. Khiến người ta mê mải đuổi bắt hạnh
phúc. Càng đuổi càng xa. Càng chiếm đoạt càng buồn bã. Buồn cho bản thân. Buồn
cho những người thân. Buồn cho cả Thiên Chúa. Buồn cho cả thiên đàng. “Xưa
tôi vui mừng nuôi dưỡng chúng, nay đành phải buồn sầu ứa lệ để cho chúng ra đi.
Chớ ai vui mừng vì thấy tôi goá bụa, bị mọi người bỏ rơi; tôi phải sốn đơn đôc
như thế này chỉ vì con cái tôi phạm tội, lìa bỏ Lề Luật của Thiên Chúa”.
Vì thế tiên tri không ngừng kêu gọi con cái trở về để được Chúa xót thương. Để
được hưởng niềm vui. Niềm vui vĩnh cửu (năm lẻ).
Bài Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Các
môn đệ hớn hở sau một đợt sứ vụ. Về tường trình với Chúa những chiến thắng lẫy
lừng. Ma quỉ phải chịu khuất phục vì các ngài kêu Danh Cực Thánh Giê-su. Chúa
Giê-su tràn đầy niềm vui. Vì Chúa Cha đã ban cho các môn đệ được biết mầu nhiệm
Nước Trời. Các ngài vốn là những người bé nhỏ nghèo hèn. Thất học. Chính vì
không có gì. Không ham hố gì. Không hi vọng gì nơi trần gian. Tâm hồn các ngài
hoàn toàn trong trắng. Thuộc trọn về Chúa. Nên Chúa ngự trong các ngài. Có Chúa
các ngài khuất phục được ma quỉ. Có Chúa các ngài có tất cả. Đó là thiên đàng.
Là thuộc trọn về Chúa. Chúa là niềm vui. Nên khi không có gì. Chỉ có Chúa. Các
ngài tràn đầy niềm vui. Các ngài đã tới cõi phúc. Được gặp chính Chúa. Đó là
điều mọi người mơ ước mà không được. Đó chính là niềm vui đích thực, Chúa
Giê-su mặc khải cho các ngài: “Anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất
phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời”.
Thánh Gióp nêu gương cho ta. Dù trong thịnh vượng. Dù trong thử thách. Lúc nào cũng gắn bó với Chúa. Rồi Chúa lại ban thưởng niềm vui. Niềm vui trong đời sống sung túc. Niềm vui trong con cái đông đúc. Niềm vui được sống tới tuổi thọ hiếm có. Tất cả những niềm vui đó chỉ là hình ảnh diễn tả niềm vui có Chúa. Có Chúa là có tất cả. Khi thánh Gióp hoàn toàn từ bỏ mình. Trở nên người nghèo khổ nhất. Không có gì. Kể cả danh dự. Kể cả niềm an ủi. Nhưng ngài có Chúa. Nên ngài có tất cả. Ngài có niềm vui. Làm cho những người chung quanh được vui. Và nhất là Thiên Chúa vui tươi. Thiên đàng cũng mừng vui (năm chẵn).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét