SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXVI THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN-B
Ds 11,25-29; Gc 5,1-6; Mc 9,38-43.45.47-48
Suy niệm 1:
Xã hội luôn lên án mạnh mẻ tính cục bộ và loại trừ những
ai có đầu óc bè phái. Đoàn kết nội bộ là điều đáng quý, nhưng kỳ thị và loại
trừ những người khác là điều không nên. Chúng
ta hãy lắng nghe lời Chúa dạy hôm nay để ta biết cách cư xử thế nào cho đúng ý
muốn của Chúa.
Linh mục Anthony De Mello, chuyên viên huấn luyện tu
đức, đã tưởng tượng câu chuyện dí dỏm như sau: "Đức Giêsu hay than phiền
với các môn đệ là Ngài chưa một bao giờ được xem bóng đá, một hôm có người đưa
Người đến sân bóng để xem trận đấu giữa hai đội tuyển Tin Lành và Công Giáo.
Vào trận không bao lâu, đội Công Giáo bắt đầu mở tỉ số
trước 1-0, Đức Giêsu liền vỗ tay hoan hô vang dội và tung cả mũ lên trời. Nhưng
chỉ vài phút sau, trong một đợt phản công đẹp mắt, đội Tin Lành chọc thũng lưới
đội Công Gíao, khi ấy Đức Giêsu cũng lại vỗ tay reo hò và tung mũ cả lên trời y
như lần trước.
Một khán giả ngồi bên cạnh tỏ vẻ khó chịu trước thái
độ của Đức Giêsu, ông ta quay sang hỏi Người:
- Này ông ông, ông là cổ động viên của đội bóng nào
vậy ? Đức Giêsu liền trả lời:
- Tôi à ? “Tôi chẳng ủng hộ đội nào cả. Tôi đến đây là
để thưởng thức trận đấu mà thôi".
Người khán giả ấy càng tỏ ra khó chịu hơn về thái độ
của Đức Giêsu, ông ta quay sang nói nhỏ với người bên cạnh: "Hắn ta chắc
là một gã vô thần!".
Trên đường về nhà, một môn đệ nói với Đức Giêsu:
- “Thưa Thầy, những người có tôn giáo thật là buồn
cười, họ tưởng rằng Thầy chỉ đứng về phe họ và chống lại tất cả những ai không
cùng một tôn giáo với họ".
Đức Giêsu gật đầu tỏ ý đồng tình và bảo:
- “Đó là lý do tại sao Thầy không ủng hộ đội bóng Tin
Lành hay đội bóng Công Giáo, mà chỉ ủng hộ các cầu thủ nào đá hay thôi, dù họ
thuộc đội nào đi nữa".
Câu chuyện trên
làm cho chúng ta liên tưởng tới chủ đề của Lời Chúa hôm nay.
- Bài đọc 1 trích sách dân số, kể lại câu chuyện xảy ra từ thời ông Mô-sê, nghĩa là
trước Chúa Giêsu giáng sinh khoảng 1250. Khi ấy Chúa bảo Mô-sê chọn trong dân
70 người để xin Thiên Chúa đổ ơn Thánh Thần xuống trên họ. Nhờ đó mà họ được ơn
nói tiên tri. Đang khi ấy có 2 người khác tên là El-đad và Mê-đad đang ở trong
lều trại lại không hiện diện cùng họ, nhưng hai người này cũng nói tiên tri.
Một đứa bé thấy vậy chạy báo cho Mô-sê và người phụ tá của ông là ông Giô-suê
biết sự việc ấy. Khi biết được điều đó, ông Giô-suê đề nghị với Mô-sê hãy ra
lệnh nghiêm cấm 2 người đó không được nói tiên tri. Bởi lẽ họ không ở cùng với
nhóm họ. Nhưng Mô-sê không hề khó chịu, trái lại có cái nhìn bao dung và tích
cực, nên nói với Giô-sê: “Ngươi phân bì
giùm ta làm chi? Chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban Thần Trí Người
cho họ”.
Câu chuyện trên
cho ta biết rằng, ngay từ thời xa xưa, con người đã mang tính ganh tị và óc cục
bộ rồi. Và tính xấu ấy đã được tiếp diễn đến thời các tông đồ.
Bài tin mừng hôm nay cho biết: có một số người không thuộc nhóm 12 tông đồ. Những người
này thấy Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ và các tông đồ cũng làm được những phép
lạ nữa, thế là họ cũng nhân danh Chúa Giêsu làm phép lạ giống như các tông đồ.
Thấy vậy, ông Gioan bực tức, đã ra sức ngăn cấm họ, ông còn tố cáo sự việc này cho
Chúa Giêsu biết. Gioan cứ tưởng việc cấm đoán như vậy là đẹp lòng Chúa, nhưng
Chúa Giêsu lại bảo ông đừng ngăn cấm họ bởi vì với Chúa Giêsu thì : “ai không chống lại ta thì thuộc về Ta”.
Sau đó, Chúa
Giêsu nhắc nhở các môn đệ cần phải ý thức tránh xa mọi hành vi gây ra gương mù,
gương xấu cho người khác, nhất là phải quyết liệt loại trừ tội lỗi ra khỏi đời
sống mình.
Như vậy, lời
Chúa hôm nay xác định cho chúng ta biết rằng: tính ghen tỵ và đầu óc bè phái đã
có sẵn trong con người chúng ta ngay từ thuở xa xưa và nó vẫn tiếp diễn đến
thời các tông đồ. Tính xấu ấy có cả nơi những người lãnh đạo như Giô-suê (sau
này ông thay Mô-sê lãnh đạo dân Chúa tiến vào đất hứa); cũng như nơi những
người ở gần bên Chúa và được Chúa yêu như tông đồ Gioan. Chắc chắn lòng ghen
tỵ, óc bè phái cũng sẽ có nơi mỗi người chúng ta. Vì thế, Chúa cũng muốn mời
gọi mỗi chúng ta:
1. Hãy mặc lấy tinh thần bao dung và hợp tác theo lời dạy của Chúa Giêsu: “Đừng ngăn cản người ta” làm điều tốt, việc lành có ích cho đời,
cho người.
2. Hãy loại trừ óc bè phái và lợi ích nhóm ra khỏi tâm trí mình. Đoàn kết nội bộ là điều cần nhưng chưa đủ, ta còn phải hiệp nhất và sống hài hòa với những người khác và nhóm khác nữa. Vì đó là điều Chúa muốn nơi mỗi chúng ta, là môn đệ Ngài.
Xin Chúa giúp chúng ta biết loại trừ phương châm của thế gian: “Ai không theo ta tức là nghịch ta” ra khỏi cuộc sống mà nổ lực thực hiện phương châm: “Ai không chống đối ta, tức là ủng hộ ta” của Chúa Giêsu chỉ dạy.
Suy niệm 2:
Nhiều khi chúng ta ngỡ rằng, các môn đệ được Chúa Giêsu tuyển chọn là nhũng người tốt lành, thánh thiện những thực tế cho thấy các môn đệ cũng là những con người rất bình thường, các ông cũng thích địa vị, danh vọng và vinh quang thế gian. Nên có một Phêrô chối Chúa, Tôma cứng lòng tin và Giuđa bán Chúa. Nhưng Chúa là một người Thầy hiền lành, kiên nhẫn biến đổi các môn đệ để GH suốt hôn 2000 năm qua vẫn phát triển không ngừng. Xin cho chúng ta biết học nơi Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường để biến đổi đời sống mỗi ngày nên hoàn thiện hơn.
"Ai
chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con... Nếu tay con nên dịp tội cho con,
hãy chặt tay đó đi" là lời dạy
của Chúa Giêsu mang tính ẩn dụ sâu sắc và mang nhiều ý nghĩa đáng để chúng ta
suy tư.
1. Chúa muốn
chúng ta thay đổi tư duy độc tôn:
Chúa nhắc nhở chúng ta rằng, không
phải ai chống đối mình đều là kẻ thù. Ngay cả những người không đồng ý, không ủng
hộ quan điểm của mình, họ vẫn có thể đóng góp một cách gián tiếp vào sự trưởng
thành của chúng ta. Điều này đi ngược lại tư duy độc tôn, cho rằng chỉ có những
người đồng ý mới là bạn. Thật chí lý điều Tuân Tử nói: "Người
chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những
kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy".
Và nhân gian cũng dí dỏm lý lẽ rằng: "Khi ta đúng
mà kẻ nào nói ta đúng thì kẻ đó là bạn ta. Khi ta sai
mà kẻ nào nói ta sai thì kẻ đó là thầy ta. Khi ta sai
mà kẻ nào nói ta đúng thì kẻ đó là kẻ thù của ta." Vậy thì, nếu khi ta đúng mà kẻ nào nhất định nói ta sai thì
sao ạ? Thì kẻ đó đích thực là vợ ta chứ còn ai nữa !
2. Chúa muốn chúng ta cắt bỏ những thói quen xấu:
Câu nói
"Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi" là một hình
ảnh ẩn dụ mạnh mẽ, khuyên chúng ta phải quyết liệt loại bỏ những thói quen, tư
tưởng tiêu cực, những điều có thể gây hại cho bản thân và người khác. Đối với
giới gia trưởng, điều này có nghĩa là họ cần sẵn sàng từ bỏ những quan niệm lỗi
thời, những hành vi độc đoán, những thái độ áp đặt.
3. Chúa muốn
chúng ta tôn trọng sự khác biệt:
Lời Chúa khuyến khích
chúng ta mở lòng đón nhận sự khác biệt. Thay vì chống đối những quan điểm khác
nhau, chúng ta nên tìm hiểu, đối thoại và học hỏi từ đó. Điều này đặc biệt quan
trọng trong gia đình, nơi mà mỗi thành viên đều có cá tính riêng.
4. Chúa muốn
chúng ta biết đặt lợi
ích chung lên trên:
Chúa nhấn mạnh tầm quan
trọng của tình yêu thương và sự hy sinh. Đôi khi, chúng ta phải từ bỏ những lợi
ích cá nhân để bảo vệ hạnh phúc của gia đình. Đối với những người có quyền lực
trong giáo hội cũng như xã hội điều này có nghĩa là họ cần đặt lợi ích chung
lên trên lợi ích cá nhân, lắng nghe ý kiến của mọi người và tạo ra một môi trường
sống lành mạnh, bình đẳng.
* Để áp dụng
những bài học từ lời Chúa vào thực tế cuộc sống, chúng ta cần:
- Thường xuyên tự vấn và cải thiện bản thân: Mỗi người đều
có những khuyết điểm. Việc nhận ra và sửa chữa những sai lầm là điều cần thiết
để hoàn thiện bản thân.
- Tạo dựng một không gian đối thoại mở: Khuyến khích
các thành viên trong gia đình, khu xóm, họ đạo… chia sẻ cảm xúc, ý kiến và lắng
nghe nhau một cách chân thành.
- Tôn trọng sự khác biệt của mỗi người: Mỗi người đều có
quyền được là chính mình. Cha mẹ cần tạo điều kiện để con cái phát triển cá
tính riêng. Người lãnh đạo cần đón nhận cá tính mỗi người và tôn trọng quyền tự
do chính kiến của họ.
- Lấy tình yêu thương làm nền tảng: Tình yêu
thương là nền tảng của mọi mối quan hệ gia đình và xã hội. Hãy thể hiện tình
yêu thương một cách chân thành và vô điều kiện.
* Tóm lại:
Lời Chúa
"Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Nếu tay con nên dịp tội
cho con, hãy chặt tay đó đi" là một lời nhắc nhở sâu sắc về sự bao dung,
sự hy sinh và sự hoàn thiện bản thân. Khi áp dụng những bài học này vào cuộc
sống gia đình và cộng đoàn là chúng ta sẽ góp phần xây dựng cuộc sống này tốt
đẹp hơn. (St).
Suy niệm 3:
1. Lời dạy của Chúa:
"Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai
có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống
đối các con, là ủng hộ các con", là một lời dạy sâu
sắc về sự bao dung, lòng nhân hậu và tinh thần đoàn kết. Khi áp dụng vào cuộc
sống của một người mẹ, nó trở thành một kim chỉ nam quý báu để nuôi dạy con cái
và xây dựng một gia đình hạnh phúc.
- Sự bao dung: Chúa Giêsu dạy
chúng ta hãy chấp nhận những khác biệt, những quan điểm khác nhau. Thay vì gò
ép con cái phải giống mình, người mẹ hiền mẫu sẽ tạo điều kiện để con cái phát
triển cá tính riêng.
- Lòng nhân hậu: Câu nói này
khuyến khích chúng ta luôn mở lòng với mọi người, không phân biệt đối xử. Người
mẹ hiền mẫu sẽ dạy con cái biết yêu thương, chia sẻ và giúp đỡ những người xung
quanh.
- Tinh thần đoàn kết: Dù có
những ý kiến khác nhau, chúng ta vẫn có thể cùng nhau hướng tới một mục tiêu
chung. Người mẹ hiền mẫu sẽ giúp con cái hiểu được giá trị của sự đoàn kết và
hợp tác.
2. Áp dụng lời Chúa
vào đời sống gia đình:
- Tôn trọng sự khác
biệt: Mỗi đứa trẻ là một cá thể độc lập với những sở thích, năng khiếu riêng.
Người mẹ hiền mẫu sẽ không ép buộc con cái phải theo đuổi những gì mình mong
muốn mà sẽ tạo điều kiện để con cái khám phá và phát triển bản thân.
- Khuyến khích sự tự
do: Thay vì kiểm soát quá chặt chẽ, người mẹ hiền mẫu sẽ tạo cho con cái không
gian để tự do khám phá, trải nghiệm và rút ra bài học cho riêng mình.
- Dạy con cái lòng
khoan dung: Người mẹ hiền mẫu sẽ dạy con cái biết chấp nhận những người khác, dù họ có
khác biệt về màu da, tôn giáo, quan điểm...
- Xây dựng một gia
đình đoàn kết: Người mẹ hiền mẫu sẽ tạo ra một không khí gia đình ấm áp, nơi mọi thành
viên được lắng nghe và tôn trọng.
3. Lợi ích khi áp
dụng lời dạy của Chúa vào việc nuôi dạy con cái:
- Con cái sẽ tự tin
hơn: Khi được tôn trọng và khuyến khích, con cái sẽ tự tin hơn vào bản thân và
khả năng của mình.
- Mối quan hệ mẹ con
sẽ trở nên khăng khít hơn: Khi mẹ con hiểu và tôn trọng lẫn nhau, mối quan hệ
giữa họ sẽ trở nên bền chặt hơn.
- Con cái sẽ trở
thành những người tốt: Những đứa trẻ được nuôi dạy bằng tình yêu thương và
sự bao dung sẽ lớn lên trở thành những người tốt, biết yêu thương và chia sẻ.
Tóm lại:
Lời dạy của Chúa Giêsu "Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai
có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống
đối các con, là ủng hộ các con" là kim chỉ nam quý báu cho chị em chúng ta, đặc
biệt là những người làm mẹ. Khi áp dụng lời dạy này vào cuộc sống, chị em hiền
mẫu sẽ không chỉ giúp con cái phát triển toàn diện mà còn góp phần xây dựng một
xã hội tốt đẹp hơn. (St).
BÈ PHÁI
Ganh ghét đố
kỵ ai ơi!
Bè phái cục
bộ, thói đời đáng khinh.
Hiệp hành
đoàn kết tự tin,
Giáo huấn của
Chúa hết tình thực thi.
Giô suê: khó chịu, bực mình.
Thấy hai kỳ mục khác mình “tiên tri”.
Mô sê! ngăn cấm họ đi.
Mô sê liền nói: "Phải chi Thánh Thần
Ngự trên toàn người dân
Để họ ngôn sứ thánh ân Chúa Trời.
Gia cô bê rỏ nặng lời:
“Giàu có mà chẳng giúp đời gieo
neo;
Tiền bạc tích trữ kiệt keo;
Tài sản gian lận, kỳ kèo bất
công;
Thỏa mãn khát vọng ý lòng,
Hại người công chính, hại đồng
bào ta”.
Giê su bài học
dạy ta:
"Ai
không chống đối, tức là theo ta".
Thế nên
gương xấu gây ra,
Là tội rất nặng
khiến ta “phải đền”.
Diệt trừ tận
gốc hiểm nguy,
Mất đi thể
xác, bảo trì lương tâm.
Ganh đua, thù hận ghét căm,
Bè phải, cục bộ luôn nằm trong tâm,
Gương xấu tác hại bao năm,
Cho con biết rõ: thật tâm hối chừa.
Hai Lúa
Thứ
hai : Lc 9,46-50
Nhớ thánh
Giê-rô-ni-mô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh.
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm nay đề cập đến tinh
thần, thái độ và cách hành xử cần phải có của người môn đệ Đức Giêsu.
Với hình ảnh cụ thể khi đặt đứa
bé bên cạnh mình, Chúa Giêsu muốn chỉ dạy cho các môn đệ tinh thần và thái độ
cần phải có của người làm lớn:
- Về tinh
thần: Lẽ thường tình, ai trong chúng ta cũng thích làm
lớn, đứng đầu, lãnh đạo như các môn đệ Chúa Giêsu khi xưa. Chúa Giêsu có lẽ
cũng không nghiêm cấm các môn đệ ước muốn làm lớn. Nhưng điều Ngài quan tâm là
làm lớn, đứng đầu với tinh thần nào mới quan trọng.
Để xứng đáng là người đứng đầu,
lãnh đạo theo tinh thần của Chúa Giêsu mong muốn đó là phải biết sống khiêm tốn
và tận tâm phục vụ mọi người. Phải luôn ý thức rằng chức vụ gắn liền với trách
nhiệm. Khi người lãnh đạo biết hạ mình xuống để phục vụ người khác với tinh
thần khiêm tốn vô vị lợi, thì chính lúc ấy hình ảnh và giá trị của người lãnh
đạo mới trở nên cao đẹp và đáng được trân trọng! Ước mong trong đạo, ngoài đời
đều có những vị lãnh đạo mang tinh thần ấy!
- Về thái
độ: Theo khuynh hướng tự nhiên, ai trong chúng ta cũng
thích liên hệ và tiếp đón những người có chức cao quyền trọng, giàu sang thế
giá; còn những người thấp cổ bé miệng, cô thế cô thân, nghèo khổ thì ta có vẻ
xem thường, khinh bỉ, không thích đón tiếp họ. Đó cũng chính là thái độ của các
môn đệ xưa kia.
- Về cách
hành xử: Chúa không muốn các môn đệ hành xử tiêu cực và loại
trừ như thế, nhưng Chúa muốn các môn đệ hãy vì danh Chúa mà bao dung và quảng
đại đón tiếp những ai bé nhỏ, nghèo hèn, bởi lẽ họ chính là hiện thân của Chúa.
Tiêu chí trong ngày phán xét chính là đức ái. Phần thưởng hay hình phạt là tùy
thuộc vào việc ta có quảng đại giúp đỡ những người nghèo khổ hay không?
Hy vọng mỗi người trong chúng ta
đều có được thái độ ân cần, quảng đại và nhiệt tâm giúp đỡ mọi người, nhất là
anh em nghèo khổ.
Qua cách hành xử độc đoán của tông đồ Gioan khi ra sức
ngăn cấm người khác làm phép lạ trừ quỷ nhân danh Chúa chỉ vì người ấy không
cùng phe nhóm của mình. Chúa Giêsu lại tiếp tục chỉ dạy cho các môn đệ về cách
thế hành xử phải có của người môn đệ Người. Cách hành xử ấy phải dựa trên những
nguyên tắc căn bản như: Trong những điều tốt thì ủng hộ chứ không cấm đoán; hợp
tác chứ không chống đối; Và trong hết mọi sự cần nhớ rằng: "Ai không chống
lại chúng ta là ủng hộ chúng ta".
Cách hành xử ích kỉ loại trừ của tông đồ Gioan ngày
xưa cũng rất có thể là cách hành xử của người kitô hữu chúng ta ngày nay. Bởi
lẽ nhiều khi chúng ta chỉ muốn Chúa ban ơn phúc cho riêng ta hay phe nhóm ta mà
thôi; còn những người thuộc phe nhóm khác thì mong Chúa đừng bao giờ thi ân
giáng phúc cho họ.
Xin Chúa hoán cải và
biến đối lối suy nghĩ hẹp hòi ích kỷ này của chúng con. Mong lắm mọi người dù
lương hay giáo, lớn hay nhỏ, hữu thần hay vô thần đều có được tinh thần tôn
trọng những đặc sủng riêng biệt do CTT ban cho để cùng nhau chung tay thực hiện
những điều thiện hảo với mong muốn mang đến niềm vui và hạnh phúc cho mọi
người.
Suy niệm 2:
Thánh Giêrônimô được biết đến như một trong những nhà
nghiên cứu Kinh Thánh vĩ đại nhất trong lịch sử. Ngài đã dành cả cuộc đời để
dịch Kinh Thánh từ tiếng Hy Lạp và tiếng Hê-brơ sang tiếng Latin, tạo nên bản
Vulgata - một trong những bản dịch Kinh Thánh quan trọng nhất trong truyền
thống Công giáo.
Thánh Giêrônimô nói đến vai trò
trung tâm của Kinh Thánh trong đời sống đức tin, và mời gọi chúng ta chuyên cần
đọc, suy niệm và sống theo Lời Chúa mỗi ngày.
- Tầm quan trọng của việc học hỏi
Lời Chúa: Thánh Giêrônimô đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu và
dịch Kinh Thánh. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc học hỏi và hiểu biết
sâu sắc Lời Chúa. Chúng ta cũng được mời gọi dành thời gian để đọc, suy niệm và
tìm hiểu về Lời Chúa, để có thể sống trọn vẹn đức tin của mình.
- Lời Chúa là ánh sáng soi đường: Kinh Thánh giống như một ngọn đèn soi sáng con đường chúng ta đi. Lời Chúa
giúp chúng ta nhận ra ý nghĩa của cuộc sống, vượt qua những khó khăn và tìm
thấy niềm vui đích thực.
- Sống Lời Chúa
trong đời sống hằng ngày: Việc đọc Kinh Thánh không chỉ dừng lại ở việc
hiểu biết lý thuyết mà còn cần được thể hiện qua hành động. Chúng ta được mời
gọi sống theo những gì chúng ta đã đọc và suy niệm, để trở nên những chứng nhân
sống động của Tin Mừng.
Vậy chúng ta hãy:
- Dành thời gian đọc Kinh Thánh mỗi ngày:
Hãy cố gắng dành ra một khoảng thời gian nhất định để đọc và suy niệm Lời Chúa.
- Tham gia các
lớp học Kinh Thánh: Các lớp học Kinh Thánh sẽ giúp chúng ta hiểu sâu hơn về
Lời Chúa và trao đổi kinh nghiệm với những người khác.
- Chia sẻ Lời
Chúa với người khác: Hãy chia sẻ những điều mình đã học được từ Kinh Thánh
với bạn bè, người thân và cộng đồng.
- Sống theo Lời
Chúa: Hãy để Lời Chúa hướng dẫn mọi hành động và quyết định của mình.
Tạ ơn Chúa vì đã ban cho chúng ta Lời của Ngài để soi dẫn hành trình đức tin của chúng ta. Xin Chúa giúp chúng ta luôn có lòng khao khát tìm hiểu và sống theo Lời Chúa mỗi ngày theo gương Thánh Giêrônimô, với mong muốn trở thành những người truyền bá Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người. Amen.
Ngày 30/09: THÁNH GIÊRÔNIMÔ, LINH
MỤC,TIẾN SĨ HỘI THÁNH
Nói về thánh
Giêrônimô, không Kitô hữu nào không nhớ câu nói nổi tiếng của Ngài: “Không biết Thánh Kinh là không
biết Chúa Kitô”. Và để mừng kỷ niệm 1600 năm ngày mất của
Thánh Gieronimo (340- 390) Linh mục, tiến sĩ Hội Thánh, Đức Thánh Cha Phanxico
ban hành Tông Thư Scripturae Sacrat Affectus (Lòng Yêu Mến Kinh Thánh) gửi đến
mọi Kitô hữu, nhất là những Kitô hữu giáo dân Việt Nam vì rất ít giáo dân VN
quan tâm đến việc tìm hiểu, học hỏi và truyền bá Lời Chúa chứa đựng trong kho
tàng Thánh Kinh.
Vậy nhân ngày
kính vị thánh đặc biệt này, chúng ta tìm hiểu đôi chút về ngài qua nguồn
tgpsaigon.net:
1. ĐÔI DÒNG
LỊCH SỬ
Giêrônimô sinh vào khoảng 347
trong xứ Dalmatia.
Lớn lên Giêrônimô du học ở Roma,
học chuyên về sử và triết lý.
Giêrônimô có công tìm kiếm và mua
sắm nhiều sách rất quí giá.
Lúc học ở Roma, Giêrônimô sống
hơi buông thả một chút những lúc nào cũng giữ được lòng kính sợ Thiên Chúa.
Chính Đức Giáo Hoàng Liberrio rửa
tội cho ngài.
Sau khi học xong, Giêrônimô có đi
một vòng qua nước Pháp đến thành Trèves.
Cuối cùng thì Giêrônimô sang và ở
luôn tại Antioche trong xứ Syria. Thời gian ở đây đánh dấu một bước ngoặt rất
quan trọng trong việc hình thành ơn gọi nơi ngài. Ngài đã được chịu chức linh
mục tại đây. Một đêm kia người mơ thấy Chúa hiện ra với mình.
Chúa hỏi:
- Giêrônimô, con là ai vậy?
Ngài trả lời:
- Con là con của Chúa, con là
người có đạo.
Chúa trả lời lại:
- Nói láo! Phải nói con là của
Cicêrô mới đúng.
Giêrônimô hiểu là ý Chúa muốn
trách mình quá say mê Cicêrô - Cicêrô vừa là một nhà văn vừa là một nhà hùng
biện rất nổi tiếng ở Roma - nên Giêrônimô quyết tâm sửa mình lại.
Ngay sau đó Giêrônimô bắt đầu học
tiếng Hy lạp và Do thái với một mục đích duy nhất để có đủ khả năng dịch sách
Kinh Thánh từ tiếng Hy Lạp ra tiếng Latinh.
Trong thời gian này Giêrônimô
được Đức Thánh cha Damsus gọi Ngài về Roma một thời gian để làm thư ký riêng
cho Ngài. Và cũng chính ở đây mà Ngài đã bắt đầu một công trình có một tầm vóc
hết sức quan trọng cho Giáo hội: Ngài bắt đầu dịch Kinh Thánh bằng tiếng Hy Lạp
sang tiếng Latinh.
Ở Roma được một thời gian, có lẽ
vì cảm thấy Roma không phải là chỗ thích hợp cho công việc quá đặc biệt này cho
nên Ngài đã trở lại xứ Palestine, vào sống một cuộc đời thầm lặng trong một tu
viện ở Belem. Ngài sống tại đây suốt 34 năm trời...vừa tiếp tục học hỏi, tra
cứu thêm để phục vụ Chúa trong các tác phẩm chống lạc giáo và nhất là để hoàn
thành việc chuyển ngữ toàn bộ bộ Kinh Thánh sang tiếng Latinh.
Sau này chính Công Đồng
Triđentinô đã tu sửa bản dịch này và đến nay vẫn được coi là văn bản chính thức
của Giáo hội Công giáo Rôma.
Ngài là bạn rất thân của thánh
Augustino. Chính thánh Augustinô cũng đã có nhiều lần nhắc đến Ngài như một
người bạn và như một bậc thầy.
Theo cuốn niên sử ông Prosper thì
thánh Giêrônimô qua đời quãng năm 420, hưởng thọ 92 tuổi tại Bethlehem.
Mặc dầu qua đời ở Palestina vào
thời hỗn chiến, thánh Giêrônimô đã được toàn thể thế giới công giáo tôn sùng
ngay từ mấy năm sau khi ngài tạ thế. Ở Rôma, người ta kính thánh nhân đặc biệt
tại Đại Giáo Đường Đức Bà Cả. Dưới đời Đức Giáo Hoàng Bônifaciô VIII
(1294-1303), thánh nhân được suy tôn bậc tiến sĩ ngang hàng với thánh Grêgôriô
cả, thánh Âu Tinh và thánh Ambrôsiô, tức bốn vị giáo phụ ở Tây phương.
2. BÀI HỌC.
- Dám hy
sinh vì Chúa.
Bỏ cả sở thích riêng của mình.
Khi được Chúa “cảnh cáo” dù chỉ là trong một giấc mơ, Giêrônimô đã sửa lại lỗi
lầm của mình ngay. Đây là một điều rất khó nhưng Giêrônimô đã làm được.
Hy sinh cả cuộc đời cho Lời của
Chúa. Chúng ta hãy cứ tưởng tượng xem một công trình lớn - là công trình chuyển
ngữ Kinh Thánh tử tiếng Hy Lạp sang tiếng La tinh- như vậy mà hầu như chỉ có
một mình ngài thực hiện thì thời giờ và công sức phải bỏ ra lớn đến mức độ như
thế nào.
Để có một chút so sánh thì chúng
ta hãy nhìn vào Giáo hội Việt Nam của chúng ta. Giáo hội công giáo Việt Nam đã
tạm gọi là đã có hơn 4 thế kỷ nay. Vậy mà chỉ mới đây chúng ta mới có một tin
vui là nhóm Phụng Vụ Giờ Kinh cho ra đời trọn bộ Kinh Thánh bằng tiếng Việt đầu
tiên. Trước đây đã có một số bản những bản này có quá nhiều hạn chế và thiếu
sai sót.
Phải đợi nhiều năm trời Giáo Hội
Việt Nam mới có được bộ Kinh Thánh có tầm cỡ và xứng đáng như thế.
Vậy mà một mình Thánh Giêrônimô đã làm được công việc vĩ đại
đó. Giáo hội dùng bản dịch của Ngài suốt từ thời đó cho đến nay. Điều đó đã tự
khẳng định về tầm quan trọng và chỗ đứng của nó trong lịch sử Giáo hội.
- Tiếp đến
Thánh Giêrônimô đã biết chọn thật đúng nhu cầu của Giáo hội và đã làm hết sức
mình để đáp ứng lại nhu cầu đó.
Vào hoàn cảnh lúc bấy giờ, người
ta đã thấy thời đại của văn hóa Hy lạp đang suy tàn và thời đại văn minh Tây
phương đi lên.
Phải nói Giêrônimô là một con
người rất thức thời.
Hiểu được những nhu cầu của Giáo hội và đáp ứng lại một cách hết sức tốt đẹp.
Đây là bài học chung cho cả Giáo hội. Công đồng Vaticanô khi cho chuyển ngữ các
bàn văn Phụng vụ bằng tiếng Latinh sang tiếng địa phương cũng nhắm chiều hướng
này.
Hơn nữa ngày từ năm 1933 dưới
triều Đức Giáo Hoàng Piô XI mà thánh Giêrônimô đã nghĩ đến việc phát động phong
trào nghiên cứu và tìm hiểu Kinh thánh thì phải coi đây là sáng kiến và công
việc hết sức mới mẻ mà mãi về sau Giáo Hội mới thấy sự sức cần thiết của công
việc này. Bởi vậy, khi nhắc đến huân công và thiên tài dịch bộ Kinh Thánh của
ngài, giáo sư M.J. Lagrange, một nhà nghiên cứu và chú giải Thánh kinh nổi
tiếng của Giáo Hội hôm nay đã viết rằng: “Đó là một trong những sự nghiệp đáng thán phục nhất của trí óc nhân
loại”
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng
ta biết yêu mến Lời Chúa với tất cả tấm lòng của chúng ta .
Xin được kết thúc bằng lời chú
giải của thánh Ép-rem, phó tế, về sách Tin Mừng tổng hợp.”Lạy Chúa, ai nào hiểu
nổi dù chỉ một lời trong các lời Chúa phán. Như những kẻ khát nước uống nơi
mạch suối, chúng con bỏ đi nhiều hơn là thu vào, bởi lẽ lời Chúa có muôn màu muôn
vẻ, tuỳ theo nhận thức khác nhau của những người học hỏi. Chúa tô điểm cho lời
Người bằng nhiều màu sắc, để ai học hỏi đều tìm thấy ở đó điều mình ưa thích.
Người thiết lập nhiều kho tàng châu báu trong lời của mình, để ai trong chúng
ta khai thác ở đâu thì nên giàu ở đó.
Lời Chúa là cây sự sống cung cấp
cho bạn quả phúc từ mọi phần cây, tựa như tảng đá xưa trong sa mạc đã nứt ra để
ban nước thiêng cho mọi thành phần dân Chúa, như thánh Phao-lô tông đồ nói
: Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, cùng uống một thức uống linh
thiêng. Vậy ai lãnh được phần nào trong kho tàng của Chúa thì đừng tưởng
trong lời Chúa chỉ có bấy nhiêu thôi, nhưng phải nghĩ rằng mình chỉ thấy được
có một trong nhiều điều chứa chất ở đó. Cũng đừng vì chỉ gặp được và lãnh nhận
có một phần đó thôi mà coi nhẹ và bảo rằng lời Chúa nghèo nàn và cằn cỗi, nhưng
bởi không thể lãnh hội hết nên hãy cảm tạ vì sự phong phú của lời Chúa.
Bạn hãy thưởng thức món bạn ăn và
đừng buồn vì bạn không ăn hết được. Kẻ khát thì vui khi được uống và chẳng buồn
vì không uống cạn được suối. Hãy để suối làm cho bạn đã khát, chứ đừng để cơn
khát của bạn uống cạn suối, vì nếu bạn hết khát mà suối không cạn thì khi bạn
lại khát, bạn có thể uống nữa. Còn nếu như bạn hết khát mà suối cũng cạn luôn
thì việc bạn uống cạn suối sẽ trở nên tai hoạ cho bạn.
Hãy cảm tạ vì những gì bạn đã
nhận được và đừng buồn vì phần còn lại quá nhiều. Cái bạn đã lãnh và đã tìm
được là phần của bạn; ngoài ra cái còn lại là gia nghiệp bạn sẽ được hưởng.
Điều mà trong một giờ bạn không lãnh được vì bạn yếu đuối thì bạn vẫn có thể
lãnh nhận trong những giờ khác, nếu bạn kiên trì. Đừng vì tà ý mà cố gắng uống
một hơi cho cạn cái không thể uống cạn một hơi, cũng đừng vì ngu dốt mà không
uống cái bạn có thể uống từ từ. Amen.
Lạy thánh Giêrônimô, xin mở miệng
chúng con để chúng con luôn ca ngợi và nói lời Chúa vì chỉ lời Chúa mới làm cho
chúng con đi đúng đường và hạnh phúc.
Lm.Giuse
Đinh Tất Quý
* Không biết Kinh Thánh là không biết Đức Ki-tô
Trích lời tựa sách chú giải ngôn
sứ I-sai-a của thánh Giê-rô-ni-mô, linh mục.
Vâng lệnh
Đức Ki-tô truyền : Hãy nghiên cứu Kinh Thánh và cứ tìm
thì sẽ thấy, giờ đây tôi trả món nợ tôi mắc, kẻo phải cùng với người
Do-thái nghe lời sau đây : Các ông lầm vì không biết Kinh Thánh cũng
chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. Quả vậy, nếu Đức Ki-tô là quyền năng và
là sự khôn ngoan của Thiên Chúa như thánh Phao-lô tông đồ nói, thì ai không
biết Kinh Thánh là không biết Đức Ki-tô.
Bởi thế, tôi
sẽ bắt chước chủ nhà kia lấy ra từ kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái
cũ và bắt chước vị hôn thê nói trong sách Diễm ca : Từ đầu mùa
cho đến cuối mùa, em dành hết cho anh, hỡi người em yêu dấu. Vậy tôi trình
bày sách I-sai-a để cho thấy tác giả không chỉ là ngôn sứ nhưng còn là người
loan báo tin mừng và là tông đồ nữa. Quả thật, chính ông đã nói về mình và về
các sứ giả khác cũng loan báo tin mừng : Đẹp thay bước chân người loan
báo tin mừng, công bố bình an. Thiên Chúa cũng nói với ông như nói với một
vị tông đồ : Ta sẽ sai ai đây ? Ai sẽ đi đến với dân này ? Và
ông thưa : Dạ, con đây, xin sai con đi.
Xin đừng ai
nghĩ rằng tôi muốn tóm gọn nội dung cuốn sách này trong một bài giảng ngắn, vì
cuốn Sách Thánh này chứa toàn bộ những điều bí nhiệm về Chúa. Sách tiên báo
Đấng Em-ma-nu-en sinh bởi Đức Trinh Nữ, Đấng làm những việc lẫy lừng và những
dấu lạ, Đấng đã chết, được mai táng và đã từ âm phủ trỗi dậy : Người là Đấng
cứu độ muôn dân. Tôi nói gì được về môn vật lý, luân lý và luận lý ? Tất cả
những gì thuộc Sách Thánh, những gì miệng con người có thể nói ra, giác quan có
thể cảm nhận, đều được chứa trong sách ấy. Về những mầu nhiệm trong sách đó,
thì chính tác giả làm chứng như sau : Đối với các ngươi, thị kiến toàn
là những lời ghi trong sách niêm phong. Người ta trao sách cho kẻ biết đọc và
bảo : “Đọc đi !” Nhưng hắn nói : “Đọc sao được, sách đã niêm phong rồi !” Lại
đưa sách cho kẻ không biết đọc và nói : “Đọc đi !” Hắn liền bảo : “Tôi nào đâu
biết chữ !”
Nếu ai thấy
điều nói trên là chưa đủ thì hãy nghe thánh Phao-lô tông đồ nói : Về
các ngôn sứ, chỉ nên có hai hoặc ba người lên tiếng thôi, còn những người khác
thì phân định. Nếu có ai ngồi đó được ơn mặc khải, thì người đang nói phải im
đi. Vì lý do gì họ có thể im được, bởi lẽ nói hay im là việc của Thánh Thần
nói qua các ngôn sứ ? Vậy, nếu họ hiểu được những điều họ nói, thì tất cả những
điều đó đều là khôn ngoan và hợp lý ; không phải là tiếng nói chuyển qua không
khí đập vào tai họ, nhưng là tiếng Thiên Chúa nói trong tâm hồn các ngôn sứ,
theo lời một ngôn sứ khác như sau : Thần sứ đang nói với tôi và Chúng
ta được kêu lên trong lòng “Áp-ba, Cha ơi”, lại nữa Tôi lắng nghe điều
Thiên Chúa phán.
(PVGK-GIỜ KINH SÁCH)
Thứ ba: Mt
18, 1-5.10
KÍNH THÁNH
TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊ-SU, TRINH NỮ, TIẾN SĨ HỘI THÁNH. BỔN MẠNG CÁC XỨ TRUYỀN
GIÁO.
Dưới trần gian tranh giành địa
vị, chức quyền đã đành. Trên trời mà còn tranh quyền đoạt lợi quả là một điều
đáng trách. Thế mà các môn đệ xưa kia lại đưa lối suy nghĩ ấy vào chốn vĩnh
cửu, nên các ngài đã không ngần ngại đặt vấn đề với Chúa Giêsu: "ai
là người lớn nhất trong nước trời?".
Chúa Giêsu không trả lời cho các
ông biết ai là người lớn nhất trong Nước Trời, nhưng Chúa lại cho biết điều
kiện cần phải có để được vào Nước Trời. Điều kiện ấy chính là phải trở nên
như trẻ nhỏ. Không phải chúng ta hóa kiếp trở lại làm trẻ nhỏ, nhưng Chúa muốn
chúng ta phải có tinh thần trẻ nhỏ.
Vì trẻ nhỏ có tâm hồn đơn sơ, ngay chính. Chúa muốn chúng ta
cũng có tấm lòng đơn sơ và ngay chính như các trẻ nhỏ. Đừng mưu mô, lọc lừa,
gian tham vì bất cứ lý do nào. Biết rằng sống đơn sơ, ngay chính thời nay phải
chịu rất nhiều thiệt thòi, ngay cả bị cho là dại khờ và bị ngưởi khác xem
thường nữa.
Vì trẻ nhỏ luôn biết tin tưởng, phó thác. Biết mình bé nhỏ,
yếu đuối không có khả năng sống tự lập nên lúc nào trẻ nhỏ cũng tin tưởng phó
thác vào sự che chở, đỡ nâng của người lớn. Chúa cũng muốn chúng ta tin tưởng,
phó thác vào tình thương và quyền năng của Chúa, cho dẫu cuộc sống của ta còn nhiều
gian lao thử thách.
Vì trẻ nhỏ sống khiêm nhường, vâng phục. Trẻ em
tự biết mình còn nhiều thiếu xót nên lúc nào cũng khiêm tốn lắng nghe và
làm theo những lời chỉ dạy của cha mẹ, thầy cô... Chúa cũng muốn chúng ta có
lòng khiêm nhường như Mẹ Maria mở lòng lắng nghe và thực thi thánh ý của
Chúa. Chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa qua tiếng nói lương tâm, qua
những biến cố vui buồn trong đời sống, qua sự hướng dẫn của GH, nhất
là qua việc học hỏi và suy niệm Lời Chúa hàng ngày.
Tóm lại, Chúa muốn chúng ta áp
dụng tinh thần của trẻ thơ vào trong đời sống mình. Ai sống được tinh thần như
thế thì mới được vào Nước Trời và xứng đáng được gọi là người lớn nhất trong
nước Chúa.
Đây cũng là con đường mà chị
thánh Têrêsa Hài Đồng Giê-su đã áp dụng cho trong đời sống mình. Thánh Têrêsa
là một vị thánh rất trẻ, cuộc đời của ngài chỉ vỏn vẹn 24 tuổi thanh xuân. Ngài
đã chọn cho mình con đường nên thánh, đường vào Nước Trời bằng tinh thần thơ ấu
thiêng liêng. Ngài yêu Chúa như một đứa bé yêu mến cha mẹ. Ngài làm những việc
rất ư là tầm thường nhưng với tấm lòng phi thường. Thân xác ngài mỏng manh yếu
đuối, nhiều bệnh tật nhưng tình yêu ngài dành cho Chúa, cho mọi người, đặc biệt
là cho các linh hồn trong luyện ngục thì thật lớn lao vĩ đại. Ngài thánh
hóa tất cả những việc làm bổn phận hàng ngày với tình yêu dâng hiến dành cho
Chúa, cho việc truyền giáo và cho phần rỗi các linh hồn.
Noi gương thánh nữ, chúng ta hãy
sống tinh thần bé nhỏ: luôn tin tưởng cậy trông vào tình thương Chúa; khiêm tốn
nhận ra giới hạn của mình để biết lắng nghe, làm theo ý Chúa; sẵn sàng hy sinh
âm thầm phục vụ mọi người nhất là những người nghèo khổ với lòng yêu mến chân
thành.
Xin cho chúng ta luôn nhớ rằng trước mặt Chúa, chúng ta chỉ là những người con bé nhỏ, không có Chúa ta chẳng làm được việc gì và nếu chúng con có làm được việc gì đi nữa, tất cả cũng là hồng ân Chúa ban. Xin cho chúng ta hằng biết phó thác cả cuộc đời mình vào bàn tay uy quyền của Chúa tựa như đứa bé nương tựa vào lòng mẹ để tận hưởng hơi ấm tình thương và bình an của Chúa trao ban.
* THÁNH TÊRÊSA
HÀI ĐỒNG GIÊSU
“Vâng lời,
cầu nguyện và hy sinh” là chương trình sống của Têrêsa. Thánh nữ có một lòng
khao khát chịu đau khổ vì yêu mến Thiên Chúa. Têrêsa có tinh thần can đảm của
một nữ anh thư đích thực. Thánh nữ viết: “Xin Chúa hãy cho con được chịu tử đạo
hoặc trong tâm hồn, hoặc ngoài thể xác-hoặc tốt hơn, cả hai!”
Thánh nữ Tê-rê-sa
chào đời ngày 2.1.1873 tại Alençon nước Pháp. Trong gia đình có 5 chị em,
Têrêsa là con gái út.
Vào tháng
4.1888, Têrêsa vào đan viện Cát Minh ở Lisieux lúc được 15 tuổi và
nhận tên là Têrêsa Hài Đồng Giêsu.
Chúng ta
biết được con đường nội tâm của thánh nữ nhờ vào quyển “Lịch sử một tâm hồn” và
“Các lời nói” do bà chị ruột cũng là bề trên sưu tập. Têrêxa đi vào cái trọn
vẹn, cái vĩ đại: chị muốn yêu mến Chúa Giêsu hơn bất cứ ai trên thế giới; chị
muốn dâng mình cho tình yêu nhân từ của Chúa như của lễ toàn thiêu; chị muốn
yêu tất cả mọi người, như Chúa Giêsu đã yêu. Chống lại kêu ngạo, chị luôn nhận
thức mình hoàn toàn bất lực và nếu có làm được gì, đó là do sức mạnh tình yêu
của Chúa ban cho.
Chị đã sống
đời khiêm tốn, đơn sơ theo tinh thần Tin Mừng và hoàn toàn phó thác cho Thiên
Chúa theo “con đường thơ ấu”. Chị cũng đã dùng lời nói và gương sáng để
hướng dẫn các tập sinh trong Dòng.
Chị qua đời
ngày 30 tháng 9 năm 1897 trong niềm khao khát được hiến dâng mạng sống để các
linh hồn được ơn cứu độ và Hội Thánh được tăng triển.
Đức Thánh
Cha Piô XI nâng Têrêxa lên hàng hiển thánh năm 1925 và đặt làm thánh quan
Thầy cho các xứ truyền giáo.
Đức Thánh
cha Gioan Phaolô II đã tuyên nhận thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là Tiến sĩ Hội
Thánh năm 1997. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
Thánh nữ Têrêsa Hài
Đồng Giêsu dạy cho chúng ta biết “con đường thơ ấu” của ngài. Để theo con đường
này, mỗi ngày chúng ta hãy vui vẻ dâng những hy sinh nhỏ mọn của chúng ta lên
Đức Chúa Giêsu. Chúng ta hãy vượt qua chính mình để đối xử thật tốt với những người
khó tính. Nếu cảm thấy bị tổn thương, thay vì bực mình khó chịu, chúng ta hãy
dâng lên Đức Chúa Giêsu những bực dọc ấy.
* Mùa thường niên: Lc 9, 51-56
Tin mừng hôm nay nhấn mạnh đến tinh thần của người môn đệ cần phải có khi đi theo Đức Giêsu. Nếu tinh thần của Gia-cô-bê và Gio-an là tinh thần nóng nảy, bất đồng muốn báo thù và tiêu diệt khi bị dân làng Sa-ma-ri-a ngăn chặng không tiếp đón, thì tinh thần mà Chúa Giêsu muốn các tông đồ phải có đó là lòng nhân nhượng, bao dung và cứu sống, bởi lẽ mục tiêu Người đến trần gian là để cứu chữa: "Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta".
Đối với Chúa Giê-su quyền lực và
khả năng Chúa ban cho con người không phải để đối đầu, chấn áp hay giết hại lẫn
nhau cho hả cơn giận, nhưng là để yêu thương phục vụ, bao dung và tha thứ.
Chính vì thế Chúa Giê-su đã không chọn lối ứng xử trả đủa ngay lập tức theo
thói đời như phản ứng của Gia-cô-bê và Go-an. Trái lại, Người mời gọi các ông
phải có lòng nhân từ tha thứ và sáng kiến tìm ra lối đường khác để thực hiện
cho bằng được lộ trình lên Giêsusalem.
Xin cho chúng ta có được tinh
thần quảng đại bao dung của Chúa, nhờ đó mà tránh được những xung đột đáng tiếc
xảy ra trong đời sống hàng ngày; và trước những điều trái không may xảy đến
trong đời sống, xin cho ta biết bình tâm và sáng suốt tìm ra
lối đường giải quyết êm đẹp theo ý Chúa muốn.
Suy niệm 2: CHIẾN LƯỢC NHU MÌ
“Ngài nhất quyết
đi lên Giêrusalem!”.
Sau nội chiến,
miền Nam Hoa Kỳ đã rơi vào thế ‘bên thua cuộc’; đột nhiên, Abraham Lincoln muốn
được đàm phán. Điều này khiến cho nhiều tướng lãnh bất bình. Một người giận dữ,
đập bàn nói, “Quân địch nhất định phải bị tiêu diệt!”. Tổng thống ôn hoà lên
tiếng, “Kẻ địch bị tiêu diệt khi họ trở thành bạn của chúng ta!”. Cuộc chiến
kết thúc với câu nói bất hủ của ông, “Trong nội chiến, không có người thắng!”.
Kính thưa Anh
Chị em,
“Trong nội
chiến, không có người thắng!”. Sẽ rất thú vị khi Tin Mừng hôm nay được đọc dưới
nhãn quan của một nhà quân sự. Như vị tướng tài, Chúa Giêsu chỉ huy trận mạc
cuối cùng, trận Giêrusalem! Tuy nhiên, chiến lược của Ngài không giống bất cứ
ai, một chiến lược mà Ngài cương quyết áp dụng, ‘chiến lược nhu mì’, chiến lược
yêu thương!
Dẫn đầu đoàn
quân tiến về Giêrusalem, Chúa Giêsu đối mặt với quân thù là một thế lực xấu xa,
nguy hiểm tiềm tàng, nhưng lại vô hình! Tuy nhiên, cả khi hành quân vào một
trận chiến sống mái đến thế, Ngài vẫn không sử dụng một chiến lược truyền thống
nào của các mãnh tướng từ cổ chí kim. Ngài tiến vào đó như một con chiên hiền
lành bị dẫn đi làm thịt; vũ khí của Ngài là khiêm tốn. Đúng, Ngài sẽ ném trái
bom “Khiêm Tốn” vào cứ địa của Satan; triệt hạ sự tự hào và kiêu ngạo của nó.
Cuối cùng, ‘chiến lược nhu mì’ của Ngài - đỉnh điểm là cái chết thập giá - đã
toàn thắng bằng sự Phục Sinh vinh hiển!
Giữa một chiến
sự dằng dặc, Giacôbê và Gioan muốn giải quyết nhanh một Samaria cứng lòng,
“Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng không?”, một
điều gì đó xem ra còn tệ hơn cả sự tham quyền mà ‘hai sĩ quan’ đã từng bộc lộ!
Chúa Giêsu khiển trách và định hướng lại chiến lược cho họ, ‘chiến lược nhu
mì’; rằng, vũ khí không phải là lửa, phẫn nộ nhưng là lòng tốt, sự dịu dàng,
bác ái và khiêm nhượng.
Với các tiêu chí
quân sự, vụ việc Samaria được coi là thất bại! Tuy nhiên, đây không phải là
trường hợp của Chúa Giêsu. Với Ngài, càu nhàu hoặc trả đũa nó mới là thất bại.
Thay vào đó, “Thầy trò đi sang làng khác”. Là một vị tướng dày dặn, từng trải,
Ngài tha thứ, quên đi và tiếp tục lên đường. Và kìa, Ngài đã chiến thắng trận
chiến Giêrusalem, thắng luôn trận Samaria, những chiến thắng mà Zacharia báo
trước trong bài đọc hôm nay, “Các nước hùng cường sẽ đến tìm kiếm Chúa các đạo
binh ở Giêrusalem”; và còn hơn thế, “Chúng tôi muốn đi với anh em, vì chúng tôi
đã nghe biết rằng, Thiên Chúa ở với anh em”. Phải, “Thiên Chúa ở cùng chúng
ta!” như lời Đáp Ca, điều Zacharia thấy trước.
Anh Chị em,
“Ngài nhất quyết
đi lên Giêrusalem!”. Ở trong binh đoàn của Chúa Giêsu, nhưng liệu bạn và tôi
dám cương quyết như Ngài! Quan trọng hơn, chúng ta chiến đấu với vũ khí và
phong thái nào? Ngài đã sử dụng ‘vũ khí tự huỷ’ trong phong thái khiêm tốn và
hiền lành. Là môn đệ Chúa Giêsu, chúng ta không có một vũ khí nào khác ngoài vũ
khí của Ngài; với chúng, bạn và tôi sẽ chiến đấu đến cùng. Chiến thắng của
chúng ta là mỗi người được nên giống Chúa Giêsu, nghĩa là nên thánh. Và điều
này có nghĩa là, từng giây phút, bạn và tôi cương quyết từ bỏ ý riêng, tội lỗi,
sự nóng nảy và đó là lên Giêrusalem!
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa, như
Giacôbê và Gioan, con thường thích dùng ‘lửa’ để giải quyết các vấn đề, cho con
nên giống Chúa khi biết áp dụng cho mình ‘chiến lược nhu mì!’”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)
Thứ tư: Xh
23,20-23; Mt 18,1-5.10
Nhớ các
Thiên Thiền Hộ Thủ
Suy niệm
1:
Dựa trên nền tảng Thánh Kinh,
Giáo lý Hội Thánh Công Giáo dạy biết Thiên Chúa dựng nên vũ trụ này gồm
hai thế giới, hữu hình và vô hình. Thế giới vô hình là thế giới thiêng liêng,
mắt phàm không nhìn thấy được, trong thế giới thiêng liêng đó có các Thiên
Thần.
Thiên Chúa dựng nên các Thiên
Thần một mặt để túc trực bên toà Thiên Chúa để đêm ngày thờ phượng, chúc tụng
và tôn vinh Thiên Chúa thay cho muôn vật muôn loài; mặt khác là để thi hành
mệnh lệnh của Thiên Chúa để thông truyền ý muốn Thiên Chúa, bảo vệ và giúp đỡ
con người.
Thiên Chúa dựng nên hằng vô số
các Thiên Thần, trong đó có 3 Tổng Lãnh Thiên Thần là: Mi-ca-en, Gáp-ri-en và
Ra-phen-en mà Hội Thánh đã mừng kính vào ngày 29 tháng 09 vừa qua.
Riêng hôm nay cùng với Hội Thánh,
chúng ta kính nhớ các Thiên Thần Bản Mệnh hay còn gọi là Thiên Thần Hộ Thủ.
Thiên Chúa đã ban cho mỗi người chúng ta một Thiên Thần Bản Mệnh riêng. Vị
Thiên Thần này luôn gìn giữ bảo vệ chúng ta khỏi mọi sự hãm hại của ma quỷ;
giúp chúng ta tránh xa mọi cám dỗ ma quỷ ở mọi nơi mọi lúc.
Vị Thiên Thần Hộ Thủ là một
người bạn đồng hành yêu thương và như một vệ sĩ vô hình luôn ở bên
cạnh chúng ta, đồng hành với chúng ta suốt cuộc đời dương thế cho đến khi chúng
ta nhắm mắt xuôi tay.
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giê-su
nhắc đến vị Thiên Thần này. Từ đó Chúa muốn nhắc nhở chúng ta về phẩm giá cao
quý của con người dù họ là ai và hãy tôn trọng nhân phẩm, giá trị mỗi người,
chớ khinh thường bất cứ ai, nhất là những con người bé nhỏ nghèo hèn, vì mỗi
người đều mang hình ảnh Thiên Chúa, là con Thiên Chúa và được Thiên Chúa ban
cho một vị Thiên Thần bảo vệ, gìn giữ. Đồng thời, qua đó Chúa cũng mời gọi
chúng ta hãy trở nên như trẻ nhỏ. Vì trẻ nhỏ có tâm hồn đơn sơ trong trắng như
Thiên Thần. Trẻ nhỏ biết mình yếu đuối mỏng manh nên luôn tin tưởng phó thác
vào tình thương của Chúa.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa,
vì Chúa đã thương ban cho mỗi người chúng con một vị Thiên Thần Hộ Thủ. Xin cho
chúng con luôn nhớ tới Thiên Thần Hộ Thủ và tích cực cộng tác với
ngài để chống lại những cám dỗ của ma quỷ. Đồng thời xin Chúa cũng giúp chúng
con biết ý thức tôn trọng phẩm giá của con người, nhất là những con
người bé nhỏ nghèo hèn mà sẵn sàng đón tiếp và phục vụ họ vì danh Chúa.
Suy niệm 2: BẠN ĐỒNG HÀNH YÊU THƯƠNG
“Này Ta sai
thiên sứ đi trước con, để giữ gìn con khi đi đường và đưa con vào nơi Ta đã dọn
sẵn!”.
A. Maclaren nhận
định, “Nếu Chúa sai bạn đi trên những con đường đầy đá, Ngài sẽ cung cấp những
đôi giày bền bỉ! Sai bạn đến một nơi xa lạ, Ngài sẽ chuẩn bị một người bạn đồng
hành yêu thương! Và nếu muốn cứu độ chúng ta đời đời, Ngài ban Con Một!”.
Kính thưa Anh
Chị em,
Lời Chúa ngày lễ
Thiên Thần Bản Mệnh cho thấy tình yêu của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng
ta bao la như trời bể. Giáo lý Hội Thánh dạy, để canh giữ hồn xác chúng ta từ
khi chào đời cho đến ngày tắt hơi, Chúa Cha ban cho mỗi người chúng ta một
người ‘bạn đồng hành yêu thương’ như một vệ sĩ vô hình.
Qua bài đọc Xuất
Hành, Thiên Chúa phán, “Này Ta sai thiên sứ đi trước con, để giữ gìn con khi đi
đường và đưa con vào nơi Ta đã dọn sẵn!”. Thánh Vịnh đáp ca khẳng định sự có
mặt của các ngài, “Chúa truyền cho thiên sứ, giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường!”.
Trong Tin Mừng hôm nay, khi đặt một em nhỏ ở giữa các môn đệ, Chúa Giêsu cũng
nói đến sự hiện diện của những người bạn thân thiết này, “Các thiên thần của họ
ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy!”.
Hãy tưởng tượng,
mỗi người có một vệ sĩ vô hình chăm sóc suốt đời! Điều này sẽ gợi lên hai tình
cảm khác biệt. Trước hết, thật ủi an mỗi khi chúng ta nguy khốn, chúng ta sẽ
không đơn độc, nhưng được bảo vệ an toàn. Thế nhưng, sự có mặt của ai đó cũng
có thể làm mất quyền riêng tư. Với một số người, không phải lúc nào điều này
cũng được hoan nghênh. Tại sao? Bởi họ nhìn thấy mọi hành vi, kể cả tội lỗi
chúng ta phạm.
Vậy mà, người
bạn đồng hành Chúa ban cho chúng ta luôn tôn trọng tự do, không phán xét, nhưng
chỉ hành động với tình yêu hoàn hảo. Các ngài giữ bí mật tuyệt đối và chỉ quan
tâm đến sức khoẻ hồn xác của mỗi người! Khi chúng ta sợ hãi, Thiên Thần Bản
Mệnh bảo vệ; khi chúng ta khó khăn, các ngài gỡ rối; khi chúng ta bất an, các
ngài ban lòng can đảm. Cách riêng, khi chúng ta phạm tội, các ngài sẽ ra sức
ngăn cản; nhưng vì tôn trọng tự do của mỗi người, không ít lần, các ngài đành
bất lực! Mối quan tâm duy nhất của các ngài là dẫn chúng ta trở về với Chúa mỗi
khi chúng ta lạc đường. Chỉ khi ở trên thiên đàng, bạn và tôi mới hiểu hết được
chiều kích sâu xa của tình yêu nơi Thiên Chúa vốn tiềm ẩn nơi những người ‘bạn
đồng hành yêu thương’ này.
Anh Chị em,
“Này Ta sai
thiên sứ đi trước con!”. Thiên Chúa như một người
mẹ chu đáo không nỡ để con cái Ngài bơ vơ trên chốn dương gian này. Như thế,
ngày lễ hôm nay đúng nghĩa, là ngày bổn mạng của mỗi người chúng ta. Chúng ta
hãy cảm tạ Chúa vì quà tặng tuyệt vời này; và hãy vui mừng, biết ơn, kính trọng
và lắng nghe những người ‘bạn đồng hành yêu thương’ của mình! Được như vậy,
chắc chắn bạn và tôi sẽ đi đúng hướng để về đến nơi Thiên Chúa đã dọn sẵn. Hãy
xin lỗi các ngài vì sự ơ hờ của chúng ta đối với các ngài! Hãy cầu nguyện với
các ngài, thừa nhận quà tặng vô giá Chúa dành cho chính mình; hãy giao phó hồn
xác chúng ta trọn vẹn hơn cho sự bảo bọc của các ngài!
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng
bao giờ để con làm buồn lòng người ‘bạn đồng hành yêu thương’ Chúa ban, khi con
nhân danh tự do để làm điều xằng bậy!”, Amen.
(Lm Minh
Anh, Tgp. Huế)
Suy
niệm 3: VÂNG NGHE CÁC THIÊN THẦN
“Ma quỉ đã tung ra một mạng lưới
ảo tưởng trên chúng ta, mạng lưới này tuy vô hình, nhưng rất mãnh liệt. Nó làm
cho ta yêu chuộng giây phút chóng qua hơn sự sống vĩnh cửa, khuyến dụ ta chạy
theo sự vô định hơn chân lý, nó bảo ta chỉ có thể yêu mến tạo vật bằng cách thờ
lạy chúng mà thôi” (Triết gia Raissa Maritain).
Khắc tinh của ma quỷ
là các hiệp sĩ thiên thần hộ thủ, những người bạn thân vô hình được Thiên Chúa
sai đến ở bên cạnh, hộ giúp ta đêm ngày. Vai trò của các ngài là giúp ta phá đi
mạng lưới ảo tưởng, đưa ta đến môi trường của sự thật giải thoát của Tin Mừng Nước
Trời. Các ngài nhắc nhở ta cài “phần mềm” sự sống vĩnh cửu trong mọi việc ta
làm, phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân trong mọi dự tính đời ta.
Mời Bạn: Các hiệp sĩ vô hình ấy chu toàn nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó hay không
tùy thuộc nơi thái độ của bạn. Nếu bạn ngoan ngoãn vâng theo sự soi sáng hướng
dẫn của các ngài, dù phải trầy da tróc vẩy, bạn sẽ thoát vòng vây của quỷ ma và
đạt đến cùng đích đời mình là hạnh phúc muôn đời bên Chúa.
Sống Lời Chúa: Tập lắng nghe tiếng nhắc nhở của thiên thần hộ thủ, và ngoan ngoãn làm
theo, dù phải hy sinh ý riêng, sở thích riêng của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã sai các thiên thần hộ thủ nâng đỡ chúng con trên hành trình đi về quê trời. Xin cho chúng con biết vâng theo sự hướng dẫn của các ngài, và cảnh tỉnh trước những hiểm họa do ma quỷ, xác thịt và thế gian đang cản trở bước đường của chúng con. Amen.
Thứ năm: Lc
10,1-12
Suy niệm 1:
Bản chất của Hội Thánh là truyền
giáo, Hội Thánh không còn là Hội Thánh nữa nếu như Hội thánh không truyền giáo.
Chính Chúa Giê-su, trước khi về cùng Thiên Chúa Cha, Người đã trao sứ mạng
truyền giáo cho Hội Thánh mà đại diện là các Tông Đồ.“Anh em hãy đi khắp tứ
phương thiên hạ mà loan báo Tin Mừng”.
Không phải đợi đến khi Chúa về
trời, Người mới trao sứ mạng này cho các Tông Đồ mà ngay trong khi Người còn
đang thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng, Người cũng đã sai phái các môn đệ ra
đi rao giảng Tin Mừng.
Bài Tin Mừng hôm nay, tường thuật
lại việc Chúa Giê-su sai 72 môn đệ đi loan báo Tin Mừng. Khi thi hành sứ vụ loan
báo tin mừng, Chúa muốn các ngài phải đặt mối ưu tư truyền giáo lên hàng đầu,
đừng quá bận tâm những chuyện vật chất khi truyền dạy: “đừng mang theo túi
tiền, bao bị, giày dép; cứ ăn những gì người ta dọn lên”
Trải qua mọi thời, ở mọi nơi, Hội
Thánh không ngừng thực hiện sứ mạng cao cả này. Từ 12 Tông Đồ, Hội Thánh Chúa
đã phát triển và lan rộng đến mọi nơi trên thế giới. Đến nay người Công giáo có
khoảng 1 tỷ 313 triệu người, chiếm tỷ lệ 17,7% dân số thế giới (Phòng Báo
chí Tòa Thánh, 6/3/2019). Cách riêng trên đất nước Việt Nam chúng ta trải
dài từ bắc tới nam đến nay chỉ có 27 giáo phận, 3.288 giáo xứ, 6.951.999 giáo
dân, 5,842 linh mục. Một con số còn rất khiêm tốn, do đó Hội Thánh
rất mong con cái mình biết lưu tâm vào tham gia vào sứ vụ truyền giáo.
Đừng cho rằng truyền giáo là sứ
vụ chỉ dành riêng cho hàng giáo sỹ và những nhà chuyên môn. Không phải như thế!
Mỗi người tín hữu, khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội đều được mời gọi tham dự vào 3
chức vụ của Hội Thánh đó là: ngôn sứ, tư tế và vương giả. Với chức vụ ngôn sứ,
mỗi người tín hữu buộc phải thi hành bổn phận truyền giáo tùy theo bậc sống và
khả năng của mình.
Mục đích truyền giáo là giới
thiệu Chúa cho mọi người, giúp mọi người tin vào Chúa và đón nhận tin mừng cứu
độ của Chúa. Là một tín hữu bình thường, chúng ta phải có sự hiểu biết sâu xa
về Chúa qua việc không ngừng học hỏi thánh kinh, trau dồi kiến thức giáo lý. Vì
làm sao ta có thể giới thiệu một người cho người khác nếu ta không hiểu không
biết Chúa là ai? Bên cạnh việc giới thiệu Chúa cho người khác, chúng ta còn
phải làm chứng cho Chúa bằng chínhh đời sống hằng ngày, đừng để đời sống của
chúng ta phản chứng lại những gì chúng ta loan báo trên môi miệng. Vì ngày hôm
nay người ta cần chứng nhân hơn thầy dạy, mặc dù thầy dạy cũng rất cần.
Vậy trước tiên chúng ta can đảm
tuyên xưng mình là người tin theo Chúa, đừng vì những lợi ích vật chất mà ta
chối bỏ niềm tin của mình.
Tiếp theo, chúng ta can đảm sống
cho những giá trị Tin Mừng như: sự thật, công bằng, bác ái…mặc dù đôi lúc vì
những giá trị này mà chúng ta phải chịu thiệt thòi, hiểu lầm.
Cuối cùng chúng ta phải thực hành
niềm tin của chúng ta. Làm sao người ta có thể tin có Chúa khi thấy một người
Công Giáo không thực hành niềm tin và lòng bác ái. Có ai đó đã thốt lên “Tôi
tin có đạo Công Giáo nhưng tôi không tin người Công Giáo” thật là đau
lòng! Vậy mỗi người trong chúng ta hãy thao thức ưu tư về sứ vụ truyền
giáo. Thao thức lo âu chưa đủ, Chúa còn muốn chúng ta hãy có những hành động cụ
thể tùy theo bậc sống với hết khả năng của mình.
Lạy Chúa, Chúa đã từng băn khoăn
khắc khoải “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”, Chúa muốn mỗi người hãy là
những tay thợ gặt lành nghề. Xin Chúa ban thêm cho chúng con sự can đảm và lòng
hăng say giới thiệu Chúa cho những người chung sống và làm việc với chúng con
bằng chính cuộc sống chứng tá của chúng con. Xin cho chúng con biết cùng cộng
tác với Hội Thánh trong sứ mạng truyền giáo với hết khả năng và sức lực mà Chúa
ban và xem đó như là công việc “sống còn” của chúng con và của Gíao hội.
Suy niệm 2:
Công đồng Vatican II đã khẳng
định rõ rằng: “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành là truyền giáo” (Ecclesia
peregrinans natura sua missionaria est, Ad gentes 2). Sẽ không còn là Giáo Hội
nữa nếu như Giáo Hội không truyền giáo. Chính Chúa Giê-su, trước khi về cùng Thiên
Chúa Cha, đã trao lại sứ mạng truyền giáo cho Giáo Hội qua các tông đồ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin Mừng”(Mc
16,15). Nhưng không phải đợi đến khi về trời, Chúa mới trao sứ mạng này cho các
Tông Đồ, mà ngay khi còn ở tại thế, Chúa đã từng sai phái không chỉ 12 tông đồ
ra đi rao giảng Tin Mừng, mà Người còn chỉ định thêm 72 môn đệ nữa. Vì đây là
sứ mạng quan trọng nên trước khi sai 72 môn đệ lên đường thi hành sứ vụ truyền
giáo, Chúa Giêsu đã căn dặn các ông nhiều điều:
1. Gắn bó mật thiết với Chúa bằng cầu nguyện: Ý thức Thiên
Chúa mới chính là chủ mùa gặt. Nên Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “hãy xin chủ
mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. Bởi vì chỉ có Chúa mới đánh động lòng người
và làm cho người ta tin vào Chúa; chứ con người không có khả năng làm được điều
đó.
2. Tin tưởng và phó
thác vào Chúa: Khi thi hành sứ vụ loan báo tin mừng, Chúa muốn các môn đệ phải tuyệt
đối tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa, đừng quá nương tựa vào tiền bạc vật
chất: “Ðừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép…”. Cũng đừng
quá sợ hãi khi phải đối mặt với những hiểm nguy “như chiên con đi vào giữa
bầy sói”.
3. Sống tinh thần siêu thoát: Bằng lòng với cuộc sống hiện tại, không so đo tính toán,
đứng núi này trông núi nọ: “Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức
gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Ðừng đi hết nhà
nọ đến nhà kia”. Sẵn sàng cắt đứt mọi liên hệ với những ai không đón
tiếp mà không hề vương vấn hay tiếc nối: “vào bất cứ thành nào mà người ta
không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: Ngay cả bụi trong thành
các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên
các ông phải biết điều này: Triều Ðại Thiên Chúa đã đến gần”.
4. Khiêm tốn cộng tác với nhau: Để loại trừ tính kiêu
căng tự mãn, nhưng biết khiêm tốn đón nhận và hợp tác làm việc với anh em trong
tinh thần hiệp thông, Chúa đã “sai các ông cứ từng hai người
một”. Chính nhờ biết sống hiệp nhất với nhau nên lời chứng của các môn
đệ đáng tin cậy và có sức mạnh lay động người nghe.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã từng băn
khoăn khắc khoải khi nhìn thấy “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Hôm nay,
cánh đồng truyền giáo vẫn còn bao la bát ngát. Vì thế, Chúa cũng muốn sai mỗi
người chúng con ra đi khỏi vùng ngoại biên đi đến vùng đất mới, môi trường mới
và gặp gỡ những con người mới để loan báo niềm vui tin mừng. Xin cho chúng con
ý thức được những điều mà Chúa đã căn dặn các môn đệ xưa kia mà áp dụng vào đời
sống chúng con hôm nay, khi thi hành sứ mạng truyền giáo.
Suy niệm 3: MỖI NGƯỜI ĐỀU LÀ NHÀ THỪA SAI
Loan báo Tin Mừng là
sứ mạng của hết mọi người chứ không chỉ dành riêng cho các linh mục hay tu sĩ.
Hình ảnh 72 môn đệ được Đức Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng cho thấy tính phổ
quát của sứ vụ này.
Khi được sai đi loan
báo Tin Mừng, người thừa sai cần hiểu rõ một nguyên tắc căn bản về sứ vụ tông
đồ là: việc Tông đồ là của Chúa. Người tông đồ là người được sai đi để thi hành
ý muốn của Thiên Chúa. Mục đích là làm sao cho muôn người được ơn cứu độ.
Tuy nhiên, không phải
ai được sai đi cũng đều thành công trong sứ mạng, bởi lẽ người tông đồ sẽ bị
những thử thách, khó khăn do ngoại cảnh gây nên, và đôi khi do chính sự yếu
đuối của bản thân, nên dẫn đến tình trạng buồn chán, thất vọng và buông xuôi…
Vì vậy, bài Tin Mừng
hôm nay, Đức Giêsu đã hướng dẫn các môn đệ về tư cách, phương pháp và tinh thần
của người thừa sai, để các ông ra đi và hy vọng mang lại nhiều hoa trái.
Trước tiên: người môn
đệ phải noi gương Thầy của mình, đến để cứu độ bằng con đường thập giá. Vì thế,
can đảm đón nhận những khó khăn, trở ngại do hiểu lầm, kỳ thị, ghen tức và hóa
giải nó trong yêu thương là tinh thần của người môn đệ. Khó khăn này được ví
như: “Chiên giữa bầy sói”.
Thứ đến: người môn đệ
phải sống cuộc sống thanh thoát, nhẹ nhàng trong sự thiếu thốn. Không quá lo
lắng về cơm áo gạo tiền cách thái quá. Không bị của cải, sự sung sướng và an
thân níu kéo bước chân người thừa sai. Bởi vì của cải vật chất không đương
nhiên đem lại hạnh phúc cho con người, trái lại nó luôn có nguy cơ tha hóa và
nô lệ hóa con người. Của cải vật chất vốn dễ làm cho con người trở nên mù quáng
đối với bản thân cũng như trong tương quan với tha nhân; và khi đã trở thành mù
quáng, con người tôn của cải vật chất lên làm cứu cánh và tự giam mình trong vỏ
ích kỷ. Cần cảm nghiệm được tình yêu của Chúa trên cuộc đời mình qua sự chăm
sóc của Ngài, vì thợ thì đáng được thưởng công. Vì thế: không bị, không tiền,
không mang hai áo … là tinh thần của người thừa sai.
Tiếp theo: hãy noi
gương Đức Giêsu, Đấng đến để cho chiên được sống và sống dồi dào, còn bản thân
Ngài thì lại hóa mình ra không đến nỗi trở nên của ăn cho người khác. Vì thế,
người môn đệ cần nhạy bén để khước từ cám dỗ là tìm mọi cách để thay đổi điều
kiện sống cho mình, nhằm an thân và sung túc, trong khi đó sứ vụ thì bỏ bê. Như
thế, không cẩn thận sẽ dẫn đến tình trạng: “Đi hết nhà này đến nhà kia” mà sứ
vụ thì không sinh hoa trái.
Mặt khác: hội nhập
văn hóa là điều cần thiết để Lời Chúa thấm nhập vào truyền thống, văn hóa, được
chuyển tải bằng những thứ ngôn ngữ của chính người bản địa. Những sinh hoạt
hằng ngày như ăn uống, nghỉ ngơi cũng cần thích nghi. Được như thế, người thừa
sai sẽ không bị cuốn theo bản năng để chỉ lo cho bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu
“hạ đẳng” của chính mình. Vì vậy: “Vào bất cứ thành nào mà người ta tiếp đón
thì cứ ăn những gì mà người ta dọn cho anh em”.
Hơn nữa: truyền giáo
phải đi đôi với bác ái. Nếu lời giảng dạy là để giới thiệu Đức Giêsu như một vị
Thiên Chúa nhân từ, yêu thương, đứng về phía người nghèo, áp bức, bất công để
giải thoát con người cách toàn diện, thì việc bác ái chính là một chứng minh cụ
thể về tình thương, sự liên đới do lòng thương xót của Thiên Chúa cho con
người. Vì thế, người môn đệ cần: an ủi kẻ âu lo, nâng đỡ kẻ yếu đuối… để làm
chứng cho: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”.
Cuối cùng: nhà truyền
giáo phải là người thấm thía sự bình an của Chúa. Nếu không có bình an thì
không thể trao ban cho người khác bình an được. Cuộc đời sứ vụ của người thừa
sai mà thiếu đi yếu tố này, thì hẳn chính bản thân cũng bất hạnh, và như thế,
chỉ còn gieo rắc sự thất vọng mà thôi. Tuy nhiên, bình an là một ơn ban của
Thiên Chúa, kèm theo sự cộng tác của con người. Vì vậy: “Nếu ở đấy có con cái
sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự
bình an lại trở về với các con”.
Lạy Chúa Giêsu, lúa
chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Xin Chúa sai những người thợ lành nghề để ra
đi thu lúa về cho Chúa. Xin Chúa cũng ban cho chính chúng con, là những người
cũng được mời gọi tham gia vào sứ mạng truyền giáo ngày lãnh Bí tích Rửa Tội,
luôn biết làm gương sáng, chu toàn bổn phận và trung thành với đời sống bác ái
yêu thương. Amen.
Ngọc Biển SSP
Thứ sáu: G 38,1.12-21;40,3-5; Lc 10,13-16
Nhớ Thánh
Phan-xi-cô-Át-xi-di
Suy niệm
1:
Ngày nay người ta hay nói đến “tư duy ngược”, nghĩa là cách tiếp cận
vấn đề, sự việc hay biến cố…bằng một lối tư duy không theo lối mòn thông thường
đã được ấn định. Ví dụ: nước không hẳn chảy từ trên cao xuống; cầu không chỉ
bắt trên mặt nước; hay cha mẹ không phải chỉ phục vụ cho con cái...
Khi nhìn vào đời sống của Thánh Phanxico-Assisi, ta cũng nhận ra ngài cũng có lối tư duy ngược. Ngài không cho rằng tạo vật, muôn loài được Chúa dựng nên là để con người chà đạp và khai thác vô tội vạ nhưng ngài xem đó là anh, là chị là mẹ của mình (thông điệp Laudato-Si của Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở chúng ta điều đó); ngài cũng không xem người khác là đối tượng để phục vụ cho lợi ích mình nhưng mình phải có bổn phận phục vụ người khác trong tình anh em con cùng một Cha trên trời (thông điệp Fratelli Tutti-tất cả là anh em của Đức Thánh Cha Phanxico nhắc nhở chúng ta chân lý ấy); ngài cũng không xem hạnh phúc là thu tóm nhiều của cải, tiền bạc và quyền lực những là buông bỏ và khó nghèo (đó là con đường 8 mối phúc thật chính Chúa Giêsu đã vạch ra và mời gọi chúng ta đi trên nẻo đường ấy). Đặc biệt trong lời Kinh Hoa Bình do ngài sáng tác, xem ra là những tư duy nghịch lại với xu hướng tự nhiên của con người, nhưng đó lại là lối đường phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa, đúng như lời Chúa đã phán qua miệng tiên tri Isaia: “tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta, Chúa phán như vậy. Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng Ta cũng vượt trên tư tưởng các ngươi thế ấy.” (Is 55,6-9).
Xin cho chúng ta biết đón nhận những tư duy xem ra ngược lại với thế gian mà noi theo lối sống của ngài, nhờ đó ta mới tìm được nguồn bình an đích thực trong tâm hồn.
Thánh Phanxicô Assisi chỉ sống
cuộc đời trần thế có 45 năm. Nhưng cuộc đời của Ngài là một bản tình ca tuyệt
vời. Thánh nhân sinh ở Assisi khoảng năm 1182. Cha Ngài là ông Bê-na-đô là một
thương gia tơ sợi nổi tiếng và mẹ Ngài là bà Pi-ca,một người đạo đức, thánh
thiện. Có thể nói Phanxicô Assisi là một vị thiếu gia bởi lẽ đời sống của
ngài không thiếu thốn bất cứ điều gì về tình yêu, sự nghiệp và danh vọng. Nhưng
tận bên trong tâm hồn, ngài lại không cảm thấy hạnh phúc.
Năm 1206 (24 tuổi) thánh nhân
quyết định rũ bỏ bụi trần, từ bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu trở thành người
tu sĩ nghèo khó, ngày ngày cầm bình bát đi khất thực dù rằng bị người cha
già hết sức phản đối. Tuy ngài rất thương cha nhưng lại không muốn làm trái ý
Chúa. Bởi chỉ khi sống khó nghèo theo tinh thân của Phúc âm thì ngài mới cảm
thấy được an vui.
Thánh nhân đã phân phát tất cả
của cải mình có cho những người nghèo, Ngài chỉ giữ lại một chiếc áo choàng cũ
kỹ, rồi ra đi rao giảng Tin Mừng và đã thành lập Dòng anh em hèn mọn. Thời gian sau đó, Ngài lui về Al-ver-ne, một
nơi thật cô liêu phía Bắc Assisi để ăn chay, cầu nguyện và sống tình thân với
Thiên Chúa.
Chúa yêu thương ngài cách đặc
biệt, nên trong lúc Ngài xuất thần nhìn thấy Tổng Lãnh Thiên Thần Séraphim và
một ảnh chuộc tội. Tỉnh dậy, Ngài đã được Chúa in năm dấu thánh trên người vào
năm 1224. Hai năm sau đó, ngài lâm trọng bệnh và qua đời vào ngày 4.10.1226.
Trước khi ra đi về với Chúa, thánh nhân khuyên nhủ anh em trong Dòng hãy giữ
đức khó nghèo tuyệt đối và trung thành với Giáo Hội Chúa Kitô. Thánh nhân được
Ðức Thánh Cha Grê-gô-ri-ô đã tôn Ngài lên bậc hiển thánh.
Chính khi trải cảm nghiệm được
hạnh phúc trong đời sống nghèo khó theo tinh thần phúc âm, thánh Phanxicô mới
có thể viết lên những ý từ tuyệt mỹ, mang triết lý sâu xa trong lời Kinh Hoà
Bình như thế!
- chính lúc thứ tha, là khi được
tha thứ;
- chính lúc “quên mình”, là
lúc “gặp lại bản thân”;
- chính khi hiến thân, là khi
được nhận lãnh;
- chính lúc chết đi, là khi
vui sống muôn đời…
Thánh Phanxicô hiểu rằng, trong
cuộc sống này, nếu có con đường dẫn tới đau khổ, thì cũng có con đường dẫn tới
hạnh phúc. Mà con đường dẫn tới hạnh phúc là chính là ta dám ban tặng không
tính toán, là cảm thông tha thứ không lên án, là chia sẻ trao ban không giữ lại
cho riêng mình. Bởi thế, đối với thiếu gia Phanxicô, hạnh phúc là một chọn
lựa. Chọn lựa trao ban thì không tính toán; chọn lựa từ bỏ thì không bám víu,
lựa chọn quên mình thì sẽ gặp lại bản thân, lựa chọn hiến thân thì mới sẽ được
nhận lãnh, và lựa chọn theo Chúa thì sẽ cảm nhận được hạnh phúc đích thực.
Tin mừng hôm
nay cho biết Chúa Giê-su xuống thế làm người, sau 30 năm sống ẩn dật, Người ra
đi rao giảng Tin Mừng, mạc khải Thiên Chúa Cha, kêu gọi mọi người sám hối và
tin vào Tin Mừng. Những thành như Corozain, Bethsaiđa hay Capharnaum là những
thành được diễm phúc nghe lời giáo huấn của Chúa, được chứng kiến những phép lạ
Chúa làm. Nhưng những người ở đây lại lòng chai dạ đá, cứng đầu cứng cổ, không
chịu ăn năn sám hối, canh tân đời sống mà lại khước từ những lời giáo huấn của
Chúa. Thế là Chúa phải thốt lên những lời quở trách xem ra rất nặng nề: “khốn
cho ngươi”. Giả như Chúa đến rao giảng cho những thành dân ngoại như Tyrô
và Siđon thì hẳn họ đã chú tâm lắng nghe mà ăn năn sám hối từ lâu rồi. Vì thế
mà Chúa cho biết trong ngày phán xét những thành đó sẽ được xét xử khoan hồng
hơn những thành đã được Chúa rao giảng Tin Mừng và kêu gọi sám hối.
Vì sao dân chúng ở những thành
này lại không chịu ăn năn sám hối và tin theo Chúa. Có thể vì họ quá biết về
Chúa Giê-su. Một người xuất thân từ một gia đình nghèo ở một làng quê hẻo lánh,
là con của một bác thợ mộc tầm thường... Do bởi cái nhìn định kiến như thế nên
họ đã không nhận ra Đức Giê-su là Con Thiên Chúa. Cũng rất có thể họ tự hào
mình là dân riêng của Thiên Chúa, là con cháu của tổ phụ Abraham, đương nhiên họ
sẽ được Thiên Chúa nâng lên đến tận trời.
Có thể những lời khiển trách của
Chúa Giê-su dành cho những thành như Corozain, Bethsaiđa hay Capharnaum cũng là
những lời dành cho chúng ta hôm nay. Bởi nhờ bí tích Rửa Tội,
chúng được Chúa chọn làm dân riêng của Chúa, được diễm phúc lắng nghe
Lời Chúa chỉ dạy, nhất là được đón nhận chính Mình và Máu Chúa vào trong cung
lòng. Thế nhưng đời sống của chúng ta nhiều khi chẳng khác gì một người không
biết Chúa, có khi còn tệ hơn nữa. Lắm khi ta cũng bon chen, tranh giành, lọc
lừa, mưu mô xảo quyệt theo kiểu người đời, cũng như dễ dàng khước từ những lời
giáo huấn của Chúa và GH để sống theo ý riêng của mình.
Xin Chúa cho chúng ta biết nhận
ra những lầm lỗi, thiếu sót của mình để khiêm tốn đón nhận những lời hướng dẫn
của Chúa qua giáo huấn của GH và các vị mục tử mà thật tâm sám hối về những
thiếu sót, tội lỗi của mình để đời sống sao cho phù hợp với thánh ý của Chúa.
Suy nệm 2: TRẢI NGHIỆM BỊ TỪ CHỐI
“Ai khước từ Thầy là khước từ
Đấng đã sai Thầy!”.
Một nhà giáo dục nói, “Điều quan
trọng nhất mà cha mẹ có thể giúp trẻ sáng tạo là dạy chúng không sợ thất bại.
Để sáng tạo, trẻ cần khám phá và thử thách với những điều mới. Ngoài ra, cần
học cách chịu đựng khi bị cười nhạo, sẵn sàng chấp nhận sự chỉ trích và không
ngại khác biệt! Đó là một trải nghiệm cần thiết, trải nghiệm bị từ chối!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng hôm nay cho thấy không
phải lúc nào Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài cũng thành công! Họ còn phải
“học cách chịu đựng khi bị cười nhạo, chấp nhận chỉ trích và không ngại khác
biệt”. Họ cần học biết thế nào là một ‘trải nghiệm bị từ chối!’.
Chúng ta đang sống trong một nền
‘văn hoá thành công!’. Đôi khi giá trị của một người có thể được đánh giá qua
mức độ thành công của người ấy ‘chỉ ở một mặt’ nào đó. Và Chúa Giêsu, một người
rất dễ chấp nhận người khác, dường như thường bị người khác chối từ.
Tin Mừng kể tên ba thành mà Ngài
đã công khai quở trách, Ngài nhắc cho dân của những thành này rằng, họ sẽ lãnh
lấy hậu quả nếu từ chối Ngài, “Khốn cho ngươi hỡi Chorazin!
Bethsaida!”, và “Khốn cho ngươi hỡi Capharnaum!”.
Trong bối cảnh sai các môn đệ đi
truyền giáo, Chúa Giêsu đề cập sự khước từ này. Phải chăng, Ngài đang chuẩn bị
cho họ điều chắc chắn sẽ xảy đến với bất cứ ai trong tư cách sứ giả của ‘một
Thiên Chúa bị từ chối!’. Ngài không ngần ngại tuyên bố mạnh mẽ sự thật sâu sắc
của nó, “Ai nghe các con là nghe Thầy; và ai khước từ các con là khước
từ Thầy!”; chưa hết, “Mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy!”.
Là những người có đức tin, không
ít lần, bạn và tôi cũng trải qua sự ê chề này. Đức tin của bạn, việc làm của
bạn, Phúc Âm mà bạn cố sức rao giảng bằng cả cuộc sống… không phải lúc nào cũng
được đón nhận nồng nhiệt. Đối tượng của bạn không chỉ là những người không biết
Chúa, nhưng còn là những anh chị em trong cộng đoàn, gia đình; hoặc thậm chí
với những người có trách nhiệm nhất trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Vì một
lý do nào đó, có thể họ sẽ coi thường hoặc không tiếp nhận những gì mà một số
người đã cống hiến, cho dù đó là những gì tốt đẹp nhất, thiết yếu nhất, những
công việc mà không phải ai cũng muốn làm, dám làm và có khả năng làm!
Anh Chị em,
“Ai khước từ Thầy là khước từ
Đấng đã sai Thầy!”. Nhân loại đã khước từ Con Thiên Chúa, “Ngài
đã đến nhà của Ngài, và người nhà của Ngài đã không tiếp nhận Ngài”. Sự
khước từ thê thảm nhất, ‘trải nghiệm bị từ chối’ tột cùng nhất của Chúa Giêsu
là cái chết trên thập giá. Vậy mà, sự từ chối Ngài và Tin Mừng của Ngài không
bao giờ có tiếng nói cuối cùng. Thiên Chúa có thể tác động một cách mạnh mẽ để
thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài thông qua những trải nghiệm như vậy theo
những cách mà không phải lúc nào con người cũng có thể hiểu một cách đầy đủ. Vì
thế, tất cả những gì Thiên Chúa yêu cầu là bạn và tôi cứ trung thành với lời
chứng của mình, bất kể nó được đón nhận như thế nào.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, dạy con học chịu đựng
khi bị cười nhạo, chấp nhận sự chỉ trích và không ngại khác biệt, miễn sao con
mải miết làm vui lòng Chúa và những gì Chúa muốn!”.
Lm Minh Anh,
Tgp. Huế
* THÁNH PHANXICÔ ASSISI: MỘT DI SẢN
VƯỢT THỜI GIAN
Thánh Phanxicô Assisi, vị thánh bảo trợ của Italia, đã để lại một dấu ấn sâu
sắc trong lịch sử nhân loại. Thông qua quan niệm về sự bình đẳng giữa con người
và mọi thụ tạo, cùng với triết lý sống đơn sơ, khiêm nhường, ngài đã mang đến
một luồng gió mới cho tư tưởng nhân loại.
1. Mọi thụ tạo đều là anh chị em
Quan
điểm độc đáo nhất của Thánh Phanxicô là việc ngài xem mọi sinh vật, từ con
người đến muông thú, cây cỏ, đều là anh chị em. Điều này không chỉ thể hiện một
tình yêu thương vô bờ bến đối với thiên nhiên mà còn là một cách nhìn nhận sâu
sắc về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ.
Quan điểm này dựa trên niềm tin
rằng mọi sự vật đều được tạo ra bởi một Đấng Tạo Hóa duy nhất. Vì vậy, tất cả
chúng ta đều là anh em dưới một mái nhà chung.
Quan niệm này đã ảnh hưởng sâu
sắc đến cách thức con người đối xử với môi trường và động vật. Nó là tiền đề
cho các phong trào bảo vệ môi trường và nhân quyền sau này.
2. Triết lý sống khó nghèo, buông bỏ
Bên
cạnh tình yêu đối với thiên nhiên, Thánh Phanxicô còn được biết đến với lối
sống cực kỳ đơn giản, khiêm nhường. Ngài sẵn sàng từ bỏ mọi của cải vật chất để
sống một cuộc đời hoàn toàn phụ thuộc vào ân ban của Thiên Chúa.
- Thánh Phanxicô coi khó nghèo là
một con đường để đến gần Chúa hơn. Bằng cách từ bỏ những ham muốn vật chất, tiền
bạc, tiện nghi để có thể tập trung vào những giá trị tinh thần, thiêng liêng cao
cả hơn.
- Ngài khôn chỉ buông bỏ tài sản vật chất mà còn buông bỏ
những chấp niệm, những ràng buộc của cuộc sống. Điều này giúp con người đạt
được sự tự do nội tâm và hạnh phúc đích thực.
3. Lời kinh hòa bình
Một trong những di sản nổi tiếng nhất của Thánh Phanxicô là lời kinh hòa bình. Lời kinh này thể hiện mong muốn thiết tha của ngài về một thế giới hòa bình, nơi mọi người sống trong tình yêu thương và hiệp nhất với nhau.
Lời kinh hòa bình không chỉ là một lời cầu nguyện
mà còn là một lời kêu gọi hành động. Nó nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm của
mỗi người trong việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
4. Di sản vượt thời gian
Thánh
Phanxicô Assisi đã sống cách đây hàng ngàn năm (ngài
sinh năm 1182) nhưng những tư tưởng của ngài vẫn còn nguyên giá
trị đến ngày nay. Quan điểm về tình yêu thương, sự khiêm nhường và hòa bình của
ngài luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi người, bất kể tôn giáo hay quốc tịch
nào.
* Những
bài học từ Thánh Phanxicô:
- Yêu thương mọi sinh vật: Hãy mở rộng trái tim để yêu
thương tất cả mọi người và mọi sinh vật.
- Sống đơn giản:
Hãy tập trung vào những giá trị tinh thần và giảm thiểu sự phụ thuộc vào vật
chất.
- Buông bỏ:
Hãy học cách buông bỏ những chấp niệm, những ràng buộc để tìm thấy sự tự do nội
tâm.
- Hướng tới hòa
bình: Hãy làm mọi điều có thể để xây dựng một thế giới hòa bình
và yêu thương.
Thánh Phanxicô
Assisi
là một tấm gương sáng về tình yêu thương và lòng bác ái. Cuộc đời và những lời
dạy của ngài vẫn luôn là nguồn cảm hứng cho những ai đang tìm kiếm ý nghĩa cuộc
sống.
Lạy Chúa, xin hãy biến con thành khí cụ của bình an.
Ở nơi có hận thù, xin con gieo tình yêu thương.
Ở nơi có thương tổn, xin con gieo sự tha thứ.
Ở nơi có nghi ngờ, xin con gieo đức tin.
Ở nơi có tuyệt vọng, xin con gieo niềm hy vọng.
Ở nơi có bóng tối, xin con gieo ánh sáng.
Ở nơi có buồn sầu, xin con gieo niềm vui.
Lạy Chúa, xin cho con được an ủi người khác, hơn là được
người khác an ủi.
Xin cho con được hiểu, hơn là được hiểu.
Xin cho con được yêu thương, hơn là được yêu.
Vì khi con cho đi, chính là lúc con nhận lại.
Khi con tha thứ, chính là lúc con được tha thứ.
Khi con chết cho chính mình, chính là lúc con được sống lại. Amen. (St).
* KINH HÒA BÌNH
Lm. Nguyễn Trung Tây
Kinh Hòa Bình do
thánh Phanxicô thành Assisi viết. Người này, theo như ngôn từ của ngày hôm nay,
là một vị thiếu gia. Là con của một gia đình buôn bán gấm vóc thành Assisi,
thiếu gia Phanxicô không thiếu thốn bất cứ điều gì, tình yêu, sự nghiệp và danh
vọng. Nhưng thiếu gia lại biết sâu thẳm trong tâm hồn, anh chàng không hạnh
phúc. Mà nếu mình không hạnh phúc, thì mình biết, Trời biết và Đất cũng biết.
Ngày rồi cũng
tới, thiếu gia Phanxicô quyết định trả lại bố mẹ tất cả những gì thuộc về anh
ta: y phục trên người, địa vị thiếu gia, và sự nghiệp buôn bán. Thế là thiếu
gia Phanxicô trở thành người hành khất. Ngày ngày tu sĩ bình bát đi ăn xin vào
tấm lòng tử tế của thiên hạ. Thế đấy, thật là không thể ngờ, khi buông bỏ tất
cả, chỉ còn sở hữu một bộ tu phục và một bình bát, thiếu gia một thời Phanxicô
chạm được niềm hạnh phúc. Và cũng qua chính kinh nghiệm của bản thân, thánh
Phanxicô mới biết,
- khi cho đi, đó cũng chính là lúc nhận được;
- khi
“quên mình”, đó cũng chính là lúc “gặp lại bản thân”;
- khi hiến tặng cuộc sống, đó cũng là lúc “nhận lãnh” tràn đầy trên đôi
bàn tay trống rỗng của đời tu sĩ khất thực.
Nói một cách
khác, tu sĩ bình bát Phanxicô hiểu rằng, trong cuộc sống này, nếu có con đường
dẫn tới đau khổ, thì cũng có con đường dẫn tới hạnh phúc. Con đường dẫn tới
hạnh phúc theo như thánh Phanxicô là ban tặng mà không tính toán, là cảm thông
mà không lên án, là chia xẻ mà không giữ lại tính toán cho riêng mình.
Bởi thế, đối với người hành khất Phanxicô, hạnh phúc là một chọn lựa. Khi tôi chọn lựa ban tặng mà không tính toán, tôi không còn chọn lựa đau khổ nữa, nhưng tôi đang thật sự chọn lựa hạnh phúc.
* THÁNH
PHAN-XI-CÔ ÁT-XI-DI
Linh mục
Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Cuộc đời của bất cứ vị thánh nào
trong Giáo Hội cũng đều bắt đầu bằng cuộc sám hối. Sám hối của các thánh có
nghĩa là nhìn vào Chúa để bắt chước Chúa hơn là nhìn vào mình để ngao ngán,
chán nản mà không muốn vươn tiến. Mỗi thánh đều có một cung cách sống, đều có
một hướng đi riêng biệt, muôn vẻ,muôn mầu, muôn sắc, nhưng tựu trung, tất cả
đều có một mẫu số chung là trở nên giống Chúa Kitô. Thánh Phanxicô Átxidi là vị
sáng lập Dòng Anh Em Hèn Mọn cũng không đi ra ngoài đường lối của Chúa. Ngài
phó thác, tin,cậy, yêu mến Chúa để càng ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng
với Chúa Giêsu.
- Một Cuộc
Ðời Ngắn Ngủi-Một Con Người Giống Chúa
Thánh Phanxicô Átxidi chỉ sống
cuộc đời trần thế có 45 năm. Nhưng cuộc đời của Ngài là cả một bài ca. Một bản
nhạc với những dòng nhạc, với những cung bậc, hòa nên một bản trường ca tình
yêu tuyệt vời.
Người ta trong nhiều thế kỷ đã
không ngớt ca ngợi thánh nhân vì con người lạ lùng của thánh nhân giữa cuộc
đời. Ngay anh em trong Dòng cũng không nhận ra Ngài có gì đặc biệt mà sao lạ
lùng thu hút mọi người.
Thánh nhân đã rất khiêm nhượng,
sự khiêm tốn của một tâm hồn thánh thiện đã nhìn ra con người đầy khiếm khuyết,
đầy tội lỗi của mình và có làm được gì là do ân huệ nhưng không của Chúa, đã
biến cái tầm thường nên cái phi thường, đã biến cái đơn sơ, nhỏ bé nên cái vĩ
đại khôn lường. Vì thế, tình yêu của Phanxicô Átxidi là một tình yêu mang tính
cụ thể, thánh nhân yêu mọi người, mọi vật, Ngài biến mọi sự vật, mọi thụ tạo
nên sinh động và có nhân tính. Ngài yêu tất cả vì Ngài thấy Thiên Chúa nơi tất
cả mà trung tâm là Chúa Giêsu. Thánh nhân yêu thương mọi người với tất cả con
tim của mình, với cả cuộc đời mình vì chính Chúa đã chết cho nhân loại trong đó
có cả Phanxicô Átxidi. Tình yêu của Phanxicô Átxidi là tình yêu mang tính vui
tươi, thoải mái, Ngài sống trong niềm vui vì lúc nào Ngài cũng mang Chúa trong
con người của mình, Ngài đồng hóa mọi sự và nhân cách hóa tất cả để tất cả ca
ngợi Chúa trong niềm vui.
Thánh nhân sinh ở Átxidi khoảng
năm 1182. Cha Ngài là ông Bê-na-đô là một thương gia tơ sợi nổi tiếng và mẹ
Ngài là bà Pi-ca,một người đạo đức, thánh thiện đã hun đúc Ngài nên một vị
thánh thời danh. Cuộc nổi loạn của những người lê dân chống lại những nhà quí
tộc. Thánh nhân bị bắt và bị giam cầm trong suốt một năm trời ròng rã. Ngài bị
một căn bệnh hiểm nghèo và được Chúa cứu chữa, ngài được khỏi bệnh và Chúa đã
cảm hóa Ngài với câu: " Lạy Cha chúng tôi ở trên trời ".
Năm 1206 (24 tuổi) thánh nhân
quyết định rũ bỏ bụi trần, từ bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu, dù rằng bị người
cha già hết sức phản đối, thánh nhân rất thương cha nhưng không dám làm trái ý
Chúa. Thánh nhân phân phát tất cả của cải mình có cho những người nghèo, Ngài
chỉ giữ lại một chiếc áo choàng cũ kỹ, rồi ra đi rao giảng Tin Mừng. Ðược Chúa
thúc đẩy, soi sáng, thánh nhân đã lập Dòng
anh em hèn mọn.
Thời gian sau đó, Ngài lui về
Alverne, một nơi thật cô liêu phía Bắc Átxidi để ăn chay, cầu nguyện và sống
tình thân với Thiên Chúa. Chúa yêu thương Ngài cách đặc biệt, nên trong lúc
Ngài xuất thần, Ngài nhìn thấy Tổng Lãnh Thiên Thần Séraphim và một ảnh chuộc
tội. Tỉnh dậy, Ngài đã được Chúa in năm dấu thánh trên người lúc đó là năm
1224. Chỉ hai năm sau đó, Ngài lâm trọng bệnh. Trước khi ra đi về với Chúa,
thánh nhân khuyên nhủ anh em trong Dòng giữ đức khó nghèo tuyệt đối và trung
thành với Giáo Hội Chúa Kitô. Thánh nhân qua đời vào ngày 4.10.1226. Ðức Thánh
Cha Grê-gô-ri-ô đã tôn Ngài lên bậc hiển thánh.
- Thánh Phan-Xi-Cô
Át-Xi-Di Nói Gì Cho Ta?
Cuộc đời của thánh nhân là mẫu gương của tình yêu. Ngài là vị
thánh của tình yêu, một tình yêu cụ thể, tận tình và vui tươi. Thánh nhân đã
làm toát lên hương thơm nhân đức. Sự khó nghèo Ngài thực hiện nơi cuộc đời của
Ngài hoàn toàn phù hợp với mối phúc thứ nhất của Chúa Giêsu. Ngài đã sống tận
cùng cái khó nghèo như hy lễ tạ ơn Thiên Chúa. Thánh nhân đã sống cái điên rồ
của thập giá. Ngài không thích mặt nạ mà mọi sự luôn phải theo ý của Chúa. Ngài
luôn trung thành với Tin Mừng, với giáo lý chân chính của Chúa và của Hội
Thánh. Ngài sống cái tầm thường của cuộc đời nhưng nó là cái lớn lao của nước
trời. Thánh nhân đã biết biến cuộc đời khó nghèo của mình trở thành hồng phúc
cho mình và cho mọi người. Thánh nhân đã nói lên tất cả tình yêu của mình cho
mọi người, một tình yêu không bôi sáp mà là tình yêu, trung thực, hy sinh, quên
mình. Thánh nhân đã gửi cho nhân loại một sứ điệp dễ chấp nhận nhất: sứ điệp
của tình yêu, sứ điệp thập giá.
"Lạy Chúa, Chúa đã soi sáng
cho thánh Phanxicô chọn cuộc đời hèn mọn khó nghèo để trở nên hình ảnh sống
động của Ðức Kitô. Xin cho chúng con hằng noi gương thánh nhân để lại mà thiết
tha gắn bó cùng Chúa, và hăm hở bước theo Ðức Kitô, lòng chan chứa an vui và
đầy tràn yêu mến" (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Phan-xi-cô Át-xi-di ngày
4/10).
Thứ bảy: Lc
10, 17-24
Các môn đệ trở về sau khi ra đi
loan báo Tin Mừng, lòng đầy hớn hở vui mừng vì thành quả đã đạt được. Nhưng
Chúa bảo các ngài chớ vội mừng về những thành quả đó. Vì sao vậy? Có thể Chúa
chưa hoàn thành sứ mạng cứu chuộc nhân loại mà Thiên Chúa Cha giao phó nên
quyền lực ma quỷ và sự dữ vẫn còn hoành hành thế gian; cũng có thể Chúa không
muốn các môn đệ tự cao tự mãn về những gì các ngài làm được. Chúa muốn các ngài
hãy vui mừng vì phần thưởng dành cho các ngài ở trên trời.
Thật vậy! Quê thật của chúng ta,
đích điểm của cuộc đời chúng ta là ở Nước Thiên Đàng. Cuộc sống ở trần gian chỉ
là một cuộc lữ hành. Cho dù ở trần gian này có hạnh phúc thế nào đi nữa, rồi
cũng sẽ qua, của cải vật chất có nhiều bao nhiêu, tất cả cũng sẽ hết khi ta
nhắm mắt xuôi tay. Của cải trần gian chỉ là phương tiện cho ta sử dụng, ta phải
sử dụng làm sao để đạt được Nước Trời mai sau.
Tất cả những điều trên, không
phải ai cũng hiểu được. Chỉ những ai có tâm hồn đơn sơ bé nhỏ mới hiểu được
những mạc khải của Thiên Chúa. Không phải Thiên Chúa không mạc khải cho những
nhà thông thái, nhưng vì họ tự cho họ hiểu biết hết mọi sự, họ không cần ai dạy
bảo và hướng dẫn. Ơn Thiên Chúa ban giống như mưa từ trời, ai biết đem đồ ra
hứng thì mới lấy được nước mưa. Một ly nước đã đầy làm sao có thể đổ thêm nước
vào nữa, có đổ vào thì nó cũng tràn ra ngoài; tâm hồn của một người đã bị lấp
đầy những sự hiểu biết thế gian và đầu óc con người bị nhét đầy bởi tính tự cao
tự mãn thì làm sao hiểu được những điều cao siêu mà Thiên Chúa mạc khải.
Các môn đệ là những người có
phúc. Vì các môn đệ đang sống với Chúa, lắng nghe những lời giáo huấn của Chúa.
Chúa Giê-su chính là mạc khải cuối cùng và là mạc khải trọn vẹn của Thiên Chúa
dành cho nhân loại. Điều mà các ngôn sứ và vua chúa thời xưa hằng mong ước.
Ngày xưa, trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa mạc khải cho dân Ít-ra-en qua các ngôn
sứ, các ngôn sứ chỉ loan báo Đấng Cứu Thế là Chúa Giê-su sẽ xuất hiện trong
tương lai và các ngài hằng ao ước Đấng Cứu Thế sẽ đến vào thời các ngài. Nhưng
mơ ước cũng chỉ là ước mơ.
Phúc của các môn đệ cũng là phúc
của mỗi người chúng ta. Ngày hôm nay chúng ta sống trong thời Tân Ước, chúng ta
không còn phải chờ đợi một mạc khải nào nữa từ Thiên Chúa. Chính Chúa Giê-su đã
đến, Người chính là mạc khải trọn vẹn và cuối cùng của Thiên Chúa và Người đã
mạc khải Thiên Chúa cho chúng ta, như có lần Người đã từng phán: “Ai thấy Thầy
là thấy Chúa Cha”. Thế mà nhiều khi chúng ta lại còn đi tìm kiếm những
mạc khải khác, chúng ta tin vào những ma thuật bói toán, những tiên đoán này,
nọ vì niềm tin của chúng ta đặt nơi Thiên Chúa chưa thật vững mạnh.
Lạy Chúa, xin Người củng cố và
gia tăng thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con cảm thấy hạnh phúc được gọi
Thiên Chúa là Cha, cảm nhận Chúa thật gần gũi và luôn hiện diện với chúng con
trong cuộc sống hằng ngày. Còn gì hơn, khi chúng con được nghe chính Chúa dạy
dỗ và hướng dẫn, được chính Chúa nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Chúa mỗi khi tham
dự thánh lễ, điều mà bao người mơ ước mà không được. Xin Chúa cũng soi lòng mở
trí giúp chúng con hiểu rằng cuộc sống ở trần gian này chỉ là tạm bợ, chóng
qua, đích điểm và mục đích cuối cùng của chúng con chính là phần thưởng Nước
Trời, để chúng con luôn biết sống theo thánh ý Chúa.
SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXVI THƯỜNG NIÊN
TGM Giuse Ngô Quang
Kiệt
Thứ hai: Chúa là tất cả
Thế giới đảo điên vì
tranh chấp hơn thua. Con người khổ đau vì cái được cái mất. Vì thế châm ngôn
Pháp nói: sống là đấu tranh. Đấu tranh để có địa vị hơn, giầu có hơn người. Não
trạng thế tục len lỏi vào cả các môn đệ của Chúa. Nên các ông tranh giành địa
vị cao thấp.
Chúa nhân cơ hội dạy
dỗ các ông. Tinh thần trong Nước Chúa phải ngược với tinh thần thế tục. Ai muốn
làm lớn phải trở nên bé nhỏ. Ai muốn chỉ huy phải phục vụ. Chúa chẳng nói
suông. Chính Chúa đã làm trước. Chính Chúa rất giầu sang đã trở nên khó nghèo.
Rất cao sang đã trở nên thấp hèn. Chúa là Thầy là Chúa nhưng đã quì xuống rửa
chân cho các tông đồ. Ai trở nên bé nhỏ là trở nên chính Chúa. Chúa đi ngược
với trần gian. Ai theo đuổi trần gian sẽ mất Chúa. Ai từ bỏ trần gian sẽ được
chính Chúa. Được Chúa là được tất cả: “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy,
là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Đấng đã sai Thầy. Thật
vậy, ail à người nhỏ nhất trong tất cả an hem, thì kẻ ấy là người lớn nhất”.
Đó là điều thánh Gióp
đã cảm nghiệm. Ma quỉ theo thói thế gian tưởng của cải, danh vọng, chức quyền
là tất cả. Nên chiếm hết của thánh Gióp để lung lạc ông. Để ông bỏ Chúa mà đi
theo ma quỉ. Không ngờ thánh Gióp có đức tin kiên vững. Là tôi tớ trung tín của
Chúa. Càng đau khổ càng gắn bó với Chúa. Ông tuyên xưng đức tin: “Thân trần
truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho,
Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa”. Ma quỉ chịu thua. Chúa
trả lại cho ông tất cả. Con cái. Của cải. Danh vọng. Hạnh phúc. Còn hơn gấp bội
những gì ngài có trước kia. Ngài càng xác tín: Chúa là tất cả. Có Chúa là có
tất cả (năm chẵn).
Đó cũng chính là điều
Da-ca-ri-a thay mặt Chúa khẳng định. Khi dân phản bội Chúa thì họ mất tất cả.
Nhà tan cửa nát. Thân phận lưu đày nô lệ. Họ mơ một cuộc sống an bình nơi quê
nhà. Họ mơ chiều chiều được ngồi trong quảng trường đền thánh. Ông già bà cả
được thảnh thơi nghỉ ngơi. Lên đền thờ cầu nguyện. Sống lâu trăm tuổi. Đó là
điều không thể được với tình hình lực lượng thua kém của họ. Nhưng Chúa quả
quyết đó là điều có thể được đối với quyền năng của Chúa. Vì Chúa là tất cả. “Ta
sẽ dẫn chúng về…Chúng sẽ là dân của Ta; Ta sẽ là Chúa của chúng” (năm lẻ).
Xin cho con biết từ
bỏ thế gian. Chỉ chọn một mình Chúa thôi.
Thứ ba: Con đường đau khổ
Chúa Giê-su rao giảng
tại Ga-li-lê. Người lên Giê-ru-sa-lem để hoàn tất quãng đời dương thế. Đó là cao
điểm. Lu-ca nói Người đi về trời để được vinh quang. Da-ca-ri-a đã loan báo
trước vinh quang của Chúa. Mọi dân tộc sẽ nhận biết Chúa. Sẽ trở về với Chúa.
Sẽ đi theo con đường của Chúa: “Các nước và dân cư trong các thành phố lớn
vẫn còn tuôn đến. Dân thành này sẽ đến thành khác mà nói rằng: “Nào ta cùng đi
làm cho nét mặt Đức Chúa dịu lại và tìm kiếm Đức Chúa các đạo binh; cả tôi nữa,
tôi cũng đi!…Trong những ngày ấy, mười người đàn ông thuộc mọi ngôn ngữ trong
các dân tộc sẽ níu lấy áo của một người Giu-đa mà nói: “Chúng tôi muốn đi với
anh em, vì chúng tôi đã nghe biết rằng Thiên Chúa ở với anh em”(năm lẻ).
Nhưng con đường
vinh quang phải trải qua đau khổ. Đau khổ lớn lao chưa từng có ai chịu nổi. Đau
khổ không ai có thể chịu đựng được. Chúa bị phản bội, bị bỏ rơi bởi các môn đệ.
Bị xét xử nhiều lần. Bị kết án. Bị nhục mạ. Bị đánh đòn. Bị vác thánh giá. Bị
đóng đinh. Chết giữa những tên trộm cướp. Đau đớn nhất là Người cảm thấy như bị
Chúa Cha ruồng bỏ. Thánh Gióp là người chịu đau khổ phần nào giống Chúa. Ông
trong sạch. Ông trung thành thờ phượng Chúa. Nhưng ông bị thử thách. Mất hết
của cải, con cái. Bản than bị lở loét, sâu bọ đục khoét. Vừa đau đớn vừa hôi
thối. Nhưng đau đớn hơn nữa ông bị bạn bè kết án. Và nhất là người vợ thân
thương cũng khinh khi miệt thị. Và nhất là ông cảm thấy như bị Chúa ruồng bỏ.
Nên ông đau buồn than khóc. “Bấy giờ, ông Gióp mở miệng nguyền rủa ngày ông
chào đời. Ông Gióp lên tiếng nói: “Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi đã chào
đời…Sao lại ban ánh sang và sự sống cho kẻ chẳng biết mình đi đâu, cho kẻ bị
Thiên Chúa giam hãm tư bề?”(năm chẵn).
Việc người Sa-ma-ri
không đón tiếp Chúa chỉ là bắt đầu. Rồi Chúa sẽ chịu nhiều đau khổ nhục nhã lớn
lao hơn nữa. Cho đến chết. Các tông đồ muốn trừng phạt họ. Nhưng Chúa mắng các
ông. Vì các ông không hiểu. Chính Chúa tự nguyện đi vào con đường đau khổ để
được vinh quang. Chấp nhận chịu bạc đãi để đem lại yêu thương. Chấp nhận thân
phận tội lỗi để qui tụ muôn người về với Chúa Cha. Chấp nhận chết đi để được
sống lại.
Các môn đệ tuy chưa hiểu.
Nhưng vì yêu mến Chúa, các ngài sẵn sang đi vào con đường của Chúa. Xin cho
chúng ta cũng biết noi gương các ngài. Gắn bó với Chúa. Đi theo Chúa. Cùng chịu
đau khổ để cùng vinh quang với Chúa. Cùng chịu chết để được sống lại với Chúa.
Thứ tư: Chúa Kitô là tất cả
Trong đời thường có
những giá trị cao quí. Như lòng yêu mến tôn kính ông bà tổ tiên. Lòng gắn bó
với quê cha đất tổ. Đó là những giá trị văn hoá dân tộc rất đáng khích lệ.
Những người có lý trí đều trân trọng những giá trị này. Chính vì thế, khi thấy
Nơ-khê-mi-a buồn phiền vì phần mộ tổ tiên bị hoang phế. Quê hương bị điêu tàn.
Vua Ác-tắc-sát-ta, một vị minh quân, đã cho phép ông trở về tái thiết quê hương
và phần mộ tổ tiên. Thực ra Nơ-khê-mi-a mượn cớ xây mộ tổ tiên để tái thiết Đền
Thờ Giê-ru-sa-lem. Và ông thờ kính Thiên Chúa hơn cả ông bà tổ tiên. Nên trước
khi cầu xin vua trần gian, ông đã “cầu xin Thiên Chúa các tầng trời”. Và
ông biết “Vua ban cho tôi như thế, vì bàn tay nhân lành của Thiên Chúa tôi
che chở tôi” (năm lẻ).
Mọi quyền năng trên
đời thuộc về Chúa. Đó là điều các thánh tổ phụ hằng tin tưởng. Đặc biệt thánh
Gióp, bị thử thách, vẫn tin tưởng vào Thiên Chúa. Vì Người nắm giữ vận mạng
phàm nhân và vũ trụ: “Người chuyển núi dời non mà chúng không hay… Người ra
lệnh là mặt trời không mọc…Duy mình Người trải rộng các tầng trời, đạp lên trên
ba đào biển cả”. Chính vì thế thái độ duy nhất đúng là vâng phục và xin
Chúa xót thương: “Chẳng lẽ tôi lại tranh cãi, hay tìm lý để chống đối Người
sao? Cho dù tôi có lý, tôi cũng không tranh cãi, nhưng sẽ xin Đấng xét xử tôi
thương xót” (năm chẵn).
Đến thời Chúa Giê-su,
chân lý này được minh nhiên công bố. Chúa Ki-tô là tất cả. Nhưng để đạt tới
Người ta phải siêu thoát khỏi những dính bén trần tục. Người là quê hương. Đi
theo Người là đi về quê hương đích thực. Người là gia đình đích thực. Vì nơi
Người có Thiên Chúa là Cha của mọi người cha. Và là gia đình rộng lớn. Vì bất
cứ ai nghe và giữ Lời Chúa đều là anh em với nhau. Người là tình yêu. Mọi tình
cảm trên đời đều phát nguồn từ nơi Người.
Người là tất cả. Nên
khi ta từ bỏ tất cả trần gian vì Người, ta lại được lại tất cả. Ở trần gian
Người không có chỗ tựa đầu. Nhưng khi trần gian tan biến hết thì Người vẫn tồn
tại và Người có cả vũ trụ là nhà. Ta bỏ tình cảm gia đình vì Chúa. Nhưng trong
Chúa tình gia đình lại càng sâu xa bền chặt hơn. Vì chính Chúa là tình yêu sẽ
làm cho tình yêu tầm thường của ta thành vĩnh cửu.
Thứ năm: Triều đại Thiên Chúa
Triều đại Thiên Chúa.
Đó là điều muôn đời ngàn dân trông đợi. Vì đời sống trần gian khổ cực đau thương.
Chưa hề có triều đại nào đem lại hạnh phúc cho người dân. Chưa có chế độ nào
hoàn toàn được tín nhiệm. Chưa có hệ thống ý thức hệ nào thực sự tạo nên thiên
đường.
Dân Ít-ra-en cảm nhận
được tất cả những nỗi khổ đau, nhục nhã khi bị lưu đầy. Nên khi được trở về.
Được thờ phượng Chúa. Được nghe Lời Chúa. Lòng họ tràn đầy niềm vui. “Ông
Ét-ra mở sách… Bấy giờ ông Ét-ra chúc tụng đức Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và
toàn dân giơ tay lên đáp rằng: “Amen! Amen!” Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy
Đức Chúa….Các thầy Lê-vi thì trấn an mọi người như sau: “Anh em đừng khóc nữa,
vì hôm nay là ngày thánh!…” Bấy giờ toàn dân đi ăn uống, rồi gửi các phần ăn,
và liên hoan tưng bừng”. Họ sống một cuộc sống hạnh phúc vì tuân theo Lề
Luật. Vì Thiên Chúa hướng dẫn họ.
Chúa Giê-su là Đấng
phải đến. Quả thực Triều đại Thiên Chúa đã đến. Đó là tin vui lớn lao. Cần loan
báo cho cả địa cầu. Vì thế Chúa không chỉ sai 12 tông đồ. Mà còn sai 72 môn đệ
đi loan báo.
Triều đại được chứng
nghiệm bằng việc xua trừ ma quỉ. Chữa lành bệnh tật. Giải phóng con người khỏi
mọi ách nô lệ ràng buộc của ma quỉ và sự dữ. Và đem bình an cho mọi
người.
Tuy nhiên chính người
loan báo phải chứng tỏ Triều đại Thiên Chúa bằng một thái độ siêu thoát: “Đừng
mang theo túi tiền, bao bị, giày dép”.
Sứ điệp quan trọng.
Thời giờ cấp bách. Nên “đừng chào hỏi ai dọc đường”. Tập trung vào sứ
mạng. Không chú ý đến những gì phụ thuộc ở đời này như ăn uống, ngủ nghỉ: “người
ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó”. Khi người môn đệ siêu
thoát, nghèo khó, chính Thiên Chúa ngự trong họ sẽ làm việc. Họ sẽ có sức mạnh
của Thiên Chúa.
Chính vì hi vọng
Triều Đại Thiên Chúa đến mà thánh Gióp, trong cơn đau khổ cùng cực, vẫn hi vọng
tin tưởng đợi chờ. Luôn gắn bó với Chúa: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi
vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị
tiêu huỷ, thì với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa… Lòng tôi
những tha thiết mong chờ” (năm chẵn).
Phần chúng ta hãy làm
cho Triều Đại Thiên Chúa mau đến ngay trong bản thân mình. Bằng đời sống siêu
thoát. Bằng tin tưởng vượt qua mọi gian khổ như thánh Gióp. Và bằng lời loan
báo tin vui cho mọi người.
Chúa Giê-su buồn
phiền. Vì chính những nơi được nghe rao giảng Tin mừng, được chứng kiến nhiều
phép lạ, lại không ăn năn sám hối. Chúa đặt Ca-phác-na-um làm trung tâm rao
giảng Tin mừng. Chúa thường xuyên đi lại Kho-ra-din và Bết-xai-đa. Tại
Bết-xai-đa có vài môn đệ theo Chúa. Nhưng đa số dân chúng cứng lòng không tin.
Trong khi đó tại vùng dân ngoại Tia và Xi-đôn có người phụ nữ, dù bị Chúa xua
đuổi, vẫn kiên trì tin tưởng.
Chúa buồn
không phải vì người ta chối từ Chúa. Nhưng vì người ta chối từ Chúa Cha. Chối
từ tình yêu thương vô cùng sâu thẳm và bao la của Chúa Cha. “Thiên Chúa đã
yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Người”. Còn tình yêu nào lớn lao hơn thế.
Còn tấm lòng nào quan tâm hơn thế. Nhưng buồn là buồn cho chính họ. Chúa Cha là
nguồn mạch sự sống. Khi chối từ nguồn mạch sự sống, họ đánh mất sự sống. Họ đi
vào chỗ chết.
Đó chính là điều tiên
tri Ba-rúc thú nhận. Trong thời kỳ lưu đầy, Ít-ra-en nhà tan cửa nát. Phải lưu
đầy biệt xứ. Phải làm nô lệ. Vừa khổ cực vừa nhục nhã. Nhưng vị tiên tri phải
thú nhận dân Ít-ra-en bị như thế là xứng đáng. Vì họ đã chối từ Thiên Chúa yêu
thương. Thiên Chúa sức mạnh. Thiên Chúa ban sự sống. “Chúng tôi, những người
Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem, các vua và thủ lãnh, tư tế và ngôn sứ cũng như
các bậc cha ông, chúng tôi phải hổ ngươi bẽ mặt như ngày hôm nay thì cũng đáng,
vì tất cả chúng tôi đã phạm tội trước nhan Đức Chúa, đã bất tuân, không nghe
tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, không vâng theo các mệnh lệnh Đức Chúa
đã đề ra trước mắt chúng tôi” (năm lẻ).
Chúa là nguồn mạch sự
sống của toàn thể vũ trụ cũng như con người. Chúa đã chất vấn thánh Gióp. Và
thánh Gióp không thể trả lời: “Có bao giờ ngươi đã đến tận nguồn biển cả và
lang thang ở đáy vực sâu? Có ai từng mở cho ngươi lối vào âm phủ và ngươi thấy
được cửa dấn tới âm ty? Có khi nào ngươi hiểu mặt đất rộng chừng nào? Nếu ngươi
biết hết mọi điều đó thì cứ nói đi”. Và thánh Gióp chỉ biết thưa lại: “Vâng,
con đây tầm thường bé nhỏ, biết nói chi để trả lời Ngài?” Thánh Gióp chỉ
biết vâng theo ý Chúa. Chính vì thế ngài được Chúa yêu thương ban muôn hồng
phúc (năm chẵn).
Chúng ta hãy noi
gương thánh Gióp nhận biết Thiên Chúa là sự sống và là tất cả của chúng ta. Để
luôn biết đón nhận Người. Đón nhận mệnh lệnh Người. Để chúng ta được sống.
Niềm vui chỉ có trong
Chúa. Đó là sứ điệp Lời Chúa hôm nay.
Ba-rúc tràn đầy nỗi
buồn. Vì con cái Ít-ra-en thờ lạy ma quỉ. Ma quỉ thiêu đốt dục vọng. Khiến
người ta mê mải đuổi bắt hạnh phúc. Càng đuổi càng xa. Càng chiếm đoạt càng
buồn bã. Buồn cho bản thân. Buồn cho những người thân. Buồn cho cả Thiên Chúa.
Buồn cho cả thiên đàng. “Xưa tôi vui mừng nuôi dưỡng chúng, nay đành phải
buồn sầu ứa lệ để cho chúng ra đi. Chớ ai vui mừng vì thấy tôi goá bụa, bị mọi
người bỏ rơi; tôi phải sốn đơn đôc như thế này chỉ vì con cái tôi phạm tội, lìa
bỏ Lề Luật của Thiên Chúa”. Vì thế tiên tri không ngừng kêu gọi con cái trở
về để được Chúa xót thương. Để được hưởng niềm vui. Niềm vui vĩnh cửu (năm lẻ).
Bài Tin Mừng hôm nay
chứa chan niềm vui. Các môn đệ hớn hở sau một đợt sứ vụ. Về tường trình với
Chúa những chiến thắng lẫy lừng. Ma quỉ phải chịu khuất phục vì các ngài kêu
Danh Cực Thánh Giê-su. Chúa Giê-su tràn đầy niềm vui. Vì Chúa Cha đã ban cho
các môn đệ được biết mầu nhiệm Nước Trời. Các ngài vốn là những người bé nhỏ
nghèo hèn. Thất học. Chính vì không có gì. Không ham hố gì. Không hi vọng gì
nơi trần gian. Tâm hồn các ngài hoàn toàn trong trắng. Thuộc trọn về Chúa. Nên
Chúa ngự trong các ngài. Có Chúa các ngài khuất phục được ma quỉ. Có Chúa các
ngài có tất cả. Đó là thiên đàng. Là thuộc trọn về Chúa. Chúa là niềm vui. Nên
khi không có gì. Chỉ có Chúa. Các ngài tràn đầy niềm vui. Các ngài đã tới cõi
phúc. Được gặp chính Chúa. Đó là điều mọi người mơ ước mà không được. Đó chính
là niềm vui đích thực, Chúa Giê-su mặc khải cho các ngài: “Anh em chớ mừng
vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi
trên trời”.
Thánh Gióp nêu gương
cho ta. Dù trong thịnh vượng. Dù trong thử thách. Lúc nào cũng gắn bó với Chúa.
Rồi Chúa lại ban thưởng niềm vui. Niềm vui trong đời sống sung túc. Niềm vui
trong con cái đông đúc. Niềm vui được sống tới tuổi thọ hiếm có. Tất cả những
niềm vui đó chỉ là hình ảnh diễn tả niềm vui có Chúa. Có Chúa là có tất cả. Khi
thánh Gióp hoàn toàn từ bỏ mình. Trở nên người nghèo khổ nhất. Không có gì. Kể
cả danh dự. Kể cả niềm an ủi. Nhưng ngài có Chúa. Nên ngài có tất cả. Ngài có
niềm vui. Làm cho những người chung quanh được vui. Và nhất là Thiên Chúa vui
tươi. Thiên đàng cũng mừng vui (năm chẵn).
SUY NIỆM LỜI
CHÚA TUẦN XXVI THƯỜNG NIÊN
Lm Minh Anh, Tgp
Huế
CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN-B
Ds 11,25-29; Gc
5,1-6; Mc 9,38-43.45.47-48
Suy niệm 1:
Xã hội luôn lên án mạnh mẻ tính cục bộ và loại trừ những
ai có đầu óc bè phái. Đoàn kết nội bộ là điều đáng quý, nhưng kỳ thị và loại
trừ những người khác là điều không nên. Chúng
ta hãy lắng nghe lời Chúa dạy hôm nay để ta biết cách cư xử thế nào cho đúng ý
muốn của Chúa.
Linh mục Anthony De Mello, chuyên viên huấn luyện tu
đức, đã tưởng tượng câu chuyện dí dỏm như sau: "Đức Giêsu hay than phiền
với các môn đệ là Ngài chưa một bao giờ được xem bóng đá, một hôm có người đưa
Người đến sân bóng để xem trận đấu giữa hai đội tuyển Tin Lành và Công Giáo.
Vào trận không bao lâu, đội Công Giáo bắt đầu mở tỉ số
trước 1-0, Đức Giêsu liền vỗ tay hoan hô vang dội và tung cả mũ lên trời. Nhưng
chỉ vài phút sau, trong một đợt phản công đẹp mắt, đội Tin Lành chọc thũng lưới
đội Công Gíao, khi ấy Đức Giêsu cũng lại vỗ tay reo hò và tung mũ cả lên trời y
như lần trước.
Một khán giả ngồi bên cạnh tỏ vẻ khó chịu trước thái
độ của Đức Giêsu, ông ta quay sang hỏi Người:
- Này ông ông, ông là cổ động viên của đội bóng nào
vậy ? Đức Giêsu liền trả lời:
- Tôi à ? “Tôi chẳng ủng hộ đội nào cả. Tôi đến đây là
để thưởng thức trận đấu mà thôi".
Người khán giả ấy càng tỏ ra khó chịu hơn về thái độ
của Đức Giêsu, ông ta quay sang nói nhỏ với người bên cạnh: "Hắn ta chắc
là một gã vô thần!".
Trên đường về nhà, một môn đệ nói với Đức Giêsu:
- “Thưa Thầy, những người có tôn giáo thật là buồn
cười, họ tưởng rằng Thầy chỉ đứng về phe họ và chống lại tất cả những ai không
cùng một tôn giáo với họ".
Đức Giêsu gật đầu tỏ ý đồng tình và bảo:
- “Đó là lý do tại sao Thầy không ủng hộ đội bóng Tin
Lành hay đội bóng Công Giáo, mà chỉ ủng hộ các cầu thủ nào đá hay thôi, dù họ
thuộc đội nào đi nữa".
Câu chuyện trên
làm cho chúng ta liên tưởng tới chủ đề của Lời Chúa hôm nay.
- Bài đọc 1 trích sách dân số, kể lại câu chuyện xảy ra từ thời ông Mô-sê, nghĩa là
trước Chúa Giêsu giáng sinh khoảng 1250. Khi ấy Chúa bảo Mô-sê chọn trong dân
70 người để xin Thiên Chúa đổ ơn Thánh Thần xuống trên họ. Nhờ đó mà họ được ơn
nói tiên tri. Đang khi ấy có 2 người khác tên là El-đad và Mê-đad đang ở trong
lều trại lại không hiện diện cùng họ, nhưng hai người này cũng nói tiên tri. Một
đứa bé thấy vậy chạy báo cho Mô-sê và người phụ tá của ông là ông Giô-suê biết
sự việc ấy. Khi biết được điều đó, ông Giô-suê đề nghị với Mô-sê hãy ra lệnh
nghiêm cấm 2 người đó không được nói tiên tri. Bởi lẽ họ không ở cùng với nhóm
họ. Nhưng Mô-sê không hề khó chịu, trái lại có cái nhìn bao dung và tích cực, nên
nói với Giô-sê: “Ngươi phân bì giùm ta
làm chi? Chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban Thần Trí Người cho họ”.
Câu chuyện trên
cho ta biết rằng, ngay từ thời xa xưa, con người đã mang tính ganh tị và óc cục
bộ rồi. Và tính xấu ấy đã được tiếp diễn đến thời các tông đồ.
Bài tin mừng hôm nay cho biết: có một số người không thuộc nhóm 12 tông đồ. Những người
này thấy Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ và các tông đồ cũng làm được những phép
lạ nữa, thế là họ cũng nhân danh Chúa Giêsu làm phép lạ giống như các tông đồ.
Thấy vậy, ông Gioan bực tức, đã ra sức ngăn cấm họ, ông còn tố cáo sự việc này cho
Chúa Giêsu biết. Gioan cứ tưởng việc cấm đoán như vậy là đẹp lòng Chúa, nhưng
Chúa Giêsu lại bảo ông đừng ngăn cấm họ bởi vì với Chúa Giêsu thì : “ai không chống lại ta thì thuộc về Ta”.
Sau đó, Chúa
Giêsu nhắc nhở các môn đệ cần phải ý thức tránh xa mọi hành vi gây ra gương mù,
gương xấu cho người khác, nhất là phải quyết liệt loại trừ tội lỗi ra khỏi đời
sống mình.
Như vậy, lời
Chúa hôm nay xác định cho chúng ta biết rằng: tính ghen tỵ và đầu óc bè phái đã
có sẵn trong con người chúng ta ngay từ thuở xa xưa và nó vẫn tiếp diễn đến
thời các tông đồ. Tính xấu ấy có cả nơi những người lãnh đạo như Giô-suê (sau
này ông thay Mô-sê lãnh đạo dân Chúa tiến vào đất hứa); cũng như nơi những
người ở gần bên Chúa và được Chúa yêu như tông đồ Gioan. Chắc chắn lòng ghen
tỵ, óc bè phái cũng sẽ có nơi mỗi người chúng ta. Vì thế, Chúa cũng muốn mời
gọi mỗi chúng ta:
1. Hãy mặc lấy tinh thần bao dung và hợp tác theo lời dạy của Chúa Giêsu: “Đừng ngăn cản người ta” làm điều tốt, việc lành có ích cho đời,
cho người.
2. Hãy loại trừ óc bè phái và lợi ích nhóm ra khỏi tâm trí mình. Đoàn kết nội bộ là điều cần
nhưng chưa đủ, ta còn phải hiệp nhất và sống hài hòa với những người khác và
nhóm khác nữa. Vì đó là điều Chúa muốn nơi mỗi chúng ta, là môn đệ Ngài.
Xin Chúa giúp chúng ta biết loại trừ phương châm của
thế gian: “Ai không theo ta tức là nghịch ta” ra khỏi cuộc sống mà nổ lực thực
hiện phương châm: “Ai không chống đối ta, tức là ủng hộ ta” của Chúa Giêsu chỉ
dạy.
Suy niệm 2: THÓI HƯ CỦA SỰ SOI MÓI
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Thời gian vừa qua khi MTTQ Việt Nam công
khai hơn 14.000 trang thông tin sao kê danh sách các tổ chức, cá
nhân ủng hộ đồng bào miền Bắc bị ảnh hưởng bởi lũ lụt tính
đến ngày 13/9/2024.
Công chúng cũng kiểm tra thông tin về số
tiền ủng hộ của nhiều nghệ sĩ và người nổi tiếng. Từ những trang sao
kê công khai, nhiều tài khoản mạng xã hội bị cộng đồng mạng lên án
là “phông bạt”, cắt ghép thay đổi số tiền chuyển khoản từ
vài chục nghìn lên vài chục triệu đồng, thậm chí cả tỷ đồng nhằm khoe mẽ.
Thế là nhiều người lại có dịp bốc phốt và lên
án lẫn nhau. Tuy nhiên, cũng có người cho rằng việc họ sống ảo, khoe mẽ vì lý
do gì không cần quan tâm, nhưng chắc chắn họ cũng hơn chúng ta là họ có đóng
góp một phần của họ cho việc chia sẻ với anh chị em bất hạnh. Mình không làm gì
cho anh em mình thì cũng đừng bận tâm soi mói, kết án người khác.
Thực ra, khi chúng ta còn soi mói chuyện
người khác là vì bản thân chúng ta chưa thoát khỏi những “tham, sân, si”.
Tham là sự ham muốn, đam mê một điều gì đó; lòng tham con người nằm chủ
yếu ở 5 nhu cầu chính, gồm tài sản, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống,
giải trí. Sân là hờn giận, giận dữ, hơn thua, ghét bỏ, nóng nảy, thù hận.
Si là si mê, vô minh, ngu tối.
Nếu chúng ta không còn hơn thua sân si với
người khác thì chúng ta sẽ chẳng bận tâm soi mói việc họ làm là động cơ gì?
Chúng ta sẽ có cái nhìn bao dung và khích lệ nhau làm việc thiện hơn là ngồi đó
mà nghi kỵ, kết án, dèm pha nhau.
Năm xưa các môn đệ của Chúa cũng từng
sân si nên tìm cách ngăn cản người khác nhân danh Chúa trừ quỷ, và Chúa
Giêsu nhẹ nhàng khuyên bảo họ: “Ai không
chống đối các con là ủng hộ các con.” Chúa mời gọi các môn đệ hãy có lòng
khoan dung với nhau, đừng tìm cách phán xét hay loại trừ nhau mà hãy chung sống
hiệp nhất để chung tay xây dựng thế giới tốt đẹp hơn. Chúa mời gọi chúng ta
hãy biết mở lòng, đón nhận những người xung quanh, kể cả những người có
thể không giống như mình trong suy nghĩ hay cách thức phục vụ, miễn là họ
đang làm điều tốt.
Chúa còn nâng những việc lành dù nhỏ nhặt
thành những công đức vô lượng trước mặt Chúa, đến nỗi dù chỉ là cho một
chén nước lã. Tích tiểu thành đại, Thiên Chúa trân trọng ngay cả
những việc nhỏ nhất chúng ta làm vì lòng yêu mến Ngài. Việc lành phúc
đức không cần phải làm những điều vĩ đại, mà chỉ cần sống mỗi ngày với tình
yêu thương chân thành dành cho nhau.
Những tham – sân – si dẫn đến lỗi công bình
bác ái, lỗi với giới luật Chúa còn là một gương xấu thật đáng ghê tởm trước mặt
Chúa. Chúa Giêsu sử dụng hình ảnh quyết liệt như việc chặt tay, chân hay
móc mắt để tránh xa tội lỗi, để nói lên tính nghiêm trọng của tội và
sức mạnh của cám dỗ.
Nguyện xin Chúa ban cho mỗi người chúng
ta lòng can đảm và sự kiên trì để sống theo lời Ngài dạy, để mỗi ngày tôi
được lớn lên trong tình yêu và sự thánh thiện mà Chúa mời gọi. Xin cho mỗi
người chúng ta biết sống bao dung như Ngài, để không bao
giờ phán xét hay loại trừ những ai làm điều tốt, dù họ khác biệt với con.
Cho con biết nhìn thấy Chúa trong mọi người và trong mọi việc tốt lành dù nhỏ
bé.
Nguyện xin Chúa ban cho con một trái tim
quảng đại, biết sống yêu thương, cho đi mà không mong nhận lại, vì con tin rằng
Ngài luôn ở bên con và ban thưởng cho con điều tốt đẹp nhất. Amen.
LOẠI TRỪ AI HAY CÁI GÌ?
Lm.
Nguyễn Xuân Trường
Khi thấy người khác làm điều
tốt đẹp, ta có thái độ nào? Khi bản thân mình làm điều xấu xa, ta phải làm gì?
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta câu trả lời: Đừng loại trừ người khác làm điều tốt,
nhưng cần loại trừ tội lỗi nơi bản thân mỗi người chúng ta.
1. Đừng loại trừ người khác. Con người có tính xã hội
nên trong đời sống người ta thường tham gia những hội nhóm để chia sẻ nâng đỡ
nhau. Tuy nhiên hội nhóm lại có nguy cơ thành phe nhóm ích kỷ chỉ lo cho mình,
nên dễ sinh ganh tị đố kị với nhóm khác, dẫn đến chê bai, loại trừ nhau. Lời
Chúa cho thấy Giô-suê muốn ngăn cản người khác làm ngôn sứ; Gio-an cố ngăn cản
người khác trừ quỷ vì họ không thuộc nhóm mình.
Trong đời sống kinh tế chính trị lại càng thấy rõ các phe
nhóm tìm mọi cách loại trừ nhau. Thế gian là vậy. Còn Chúa Giêsu lại bảo rằng: “Đừng ngăn cản người ta” phát triển ơn
Chúa, làm những điều ích lợi cho tha nhân. Chúa muốn loài người mở rộng cộng
tác chứ đừng ích kỷ loại trừ nhau. Bất cứ ai làm điều tốt đẹp đều thuộc về
Thiên Chúa là Đấng Chân, Thiện, Mỹ.
2. Hãy loại trừ tội mình. Chúa bảo đừng loại trừ người
khác, mà hãy loại trừ cái ác một cách quyết liệt nơi chính mình, khi Ngài bảo
hãy: “chặt tay, chặt chân, móc mắt” nếu
những thứ đó làm cớ cho ta sa ngã trong tội lỗi. Có người nói vui nếu cứ làm
theo Lời Chúa cắt chặt thế này thì chúng ta bị khuyết tật hết, không chỉ cụt
tay cụt chân, mà còn cụt nhiều thứ khác! Chúa nói thế để muốn chúng ta phải quyết
liệt triệt để loại trừ, cắt bỏ những thứ khiến ta phạm tội sa hỏa ngục đời đời.
Muốn cứu sống bệnh nhân nhiều khi cũng cần phải cắt bỏ những
khối u hay phần hoại tử gây nguy hiểm cho thân thể. Cũng vậy, muốn cứu sống
linh hồn, con người cũng phải cắt bỏ những thứ sinh tội lỗi gây nguy hiểm cho sự
sống đời đời. Cắt bỏ gây đau đớn nhưng đời sẽ đẹp đẽ. Amen.
Thứ hai : Lc 9,46-50
Nhớ thánh Giê-rô-ni-mô, linh mục, tiến sĩ Hội
Thánh.
VĨ ĐẠI
“Ai tiếp đón em nhỏ này vì
danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy!”.
“Khiêm tốn không phải là khom lưng cho đến
khi bạn nhỏ hơn chính mình, nhưng là đứng ở ‘độ cao thực’ so với một tính cách
cao hơn nào đó. Điều này cho thấy sự ít ỏi thực sự của cái được gọi là vĩ đại
nơi bạn. Vậy mà, càng nên bé nhỏ, bạn càng vĩ đại!” - Phillip Brooks.
Kính thưa Anh Chị em,
Tư tưởng của Brooks được gặp lại qua Lời
Chúa hôm nay, “Càng nên bé nhỏ, bạn càng vĩ đại!”. Ai ‘hạ mình’ trước Chúa, ai
‘nhún mình’ trước người; kẻ ấy ‘vĩ đại!’.
Như một em bé, Gióp hạ mình trước Chúa,
Đấng đem Gióp ra khoe với Satan và đây là đầu dây mối nhợ của câu chuyện dài -
bài đọc một. Chúa ném Gióp trước Satan, “Ngươi có để ý đến Gióp, tôi tớ của Ta?
Chẳng ai trên đời này giống như nó: vẹn toàn, ngay thẳng, kính sợ Chúa và lánh
xa điều ác!”. Satan dể duôi, “Ngài cứ thử đưa tay đánh vào mọi tài sản của nó
xem, hẳn nó sẽ nguyền rủa Ngài thẳng mặt!”. Phóng lao theo lao, Chúa phó mọi
tài sản của Gióp vào tay Satan, trừ mạng sống ông. Vậy là tai ương dồn dập ập
xuống Gióp. Nhưng Gióp chẳng một lời trách móc; trái lại, thêm lòng cậy trông,
“Xin Chúa lắng tai và nghe tiếng con cầu!” - Thánh Vịnh đáp ca. Hú hồn! Chúa
toàn thắng. Ngài ban cho Gióp nhiều hơn trước. Gióp trở nên ‘vĩ đại!’.
Trong Tin Mừng hôm nay, biết các môn đệ
nghĩ trong lòng ai là người lớn nhất, Chúa Giêsu đã thực hiện một cử chỉ ấn tượng
- đặt một đứa trẻ bên cạnh mình. Đừng ngạc nhiên! Chúng ta không làm điều tương
tự sao? Ham muốn địa vị, quyền lực luôn tiềm ẩn trong máu mỗi người. Ai lại
không ấp ủ tham vọng trở thành một “ai đó”, được ngưỡng mộ, hơn là trở nên
“không ai?”. Một đứa trẻ tiết lộ cho chúng ta nhiều điều. Trong thế giới cổ đại,
trẻ em ở dưới cùng bậc thang xã hội, phục vụ người lớn như một tôi tớ; trẻ
không có quyền, vị trí hoặc ưu tiên. Đặt một đứa trẻ bên cạnh mình cho thấy sự
tôn trọng của Chúa Giêsu. Ngay cả ngày nay, chủ nhà vẫn để vị khách danh dự ngồi
bên phải. Ai là người lớn nhất? Đó là kẻ mang thân phận của một tôi tớ!
Anh Chị em,
“Lạy Chúa, cho con biết xấu hổ khi ‘nhón
lên’ một tính cách cao hơn nào đó so với độ cao thực của con. Giúp con hiểu rằng,
‘vĩ đại’ hệ tại việc con biết xoá mình!”, Amen.
Thứ ba: Mt 18, 1-5.10
KÍNH THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊ-SU, TRINH NỮ, TIẾN
SĨ HỘI THÁNH, BỔN MẠNG CÁC XỨ TRUYỀN GIÁO.
HẠT MẦM YÊU THƯƠNG
“Nếu anh em không trở lại mà
nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời!”.
Sau khi hoàn tất bộ phim “Tiểu Sử
Têrêxa”, L. Younce trở lại đạo! Cô viết, “Điều tôi khám phá ở Têrêxa là niềm
vui phát sinh từ đau khổ khi bạn dâng nó lên Chúa. Tôi cảm phục sự nhịn nhục và
phục vụ ân cần của Têrêxa - một hạt mầm yêu thương - với nữ tu già Augustine
khó thương; Têrêxa yêu quý bà và biến hành vi ấy nên của lễ cứu độ!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Cả hai bài đọc lễ thánh Têrêxa Hài Đồng
Giêsu nói đến những em bé. Và một em bé - như Têrêxa - là một mảnh đất bí ẩn, mảnh
đất của những ‘hạt mầm yêu thương!’.
Isaia mô tả tình yêu Thiên Chúa, “Mẹ
Giêrusalem”, dành cho dân Ngài - bài đọc một. Têrêxa mất mẹ lúc 4 tuổi, mất
luôn ‘người mẹ thứ hai’ - chị Pauline vào dòng - lúc 9 tuổi. Èo uột “như một cọng
hành”, may thay, hạt mầm Têrêxa cảm nhận tình mẹ của Thiên Chúa vốn cho phép
Têrêxa “bú sữa, được ẵm vào lòng, được nâng niu trên đầu gối”. Hạt mầm ấy càng
bí ẩn khi Têrêxa là một nữ tu ở tuổi 15. Và dẫu kết thúc chỉ sau 9 năm, Têrêxa
đã nên mảnh đất của những ‘hạt mầm yêu thương!’.
Nếu Têrêxa không vâng lời mẹ Bề trên -
chị ruột Agnes - để viết “Một Tâm Hồn”, không ai biết Têrêxa. Đọc nó, bạn thấy
“Bông Hoa Nhỏ” không chỉ toả hương đơn sơ, phó thác, nhưng còn man mát cả những
tham vọng, tự tôn, can đảm, lãng mạn và cả bướng bỉnh. Têrêxa ước bay lên mặt
trời chói lọi Ba Ngôi; “Em muốn như các thánh, làm những chuyện ngông cuồng cho
Ngài!”; “Ôi Giêsu, cho con được tử đạo trong lòng hay nơi thân xác; tốt hơn, cả
hai!”. Như một người tình, Têrêxa thả hồn rong ruổi Tình Quân, “Khi tâm hồn bị
cuốn hút bởi làn hương say đắm của Ngài, nó không chạy một mình; tất cả những
người nó yêu đều được cuốn theo!”. Như chú bọ ngựa vênh váo, Têrêxa sánh mình với
cây cọ ba xu để Chúa vẽ nên những kiệt tác, “Phần cây cọ, nó đâu tự hào về một
kiệt tác là do nó; nhưng nó biết, ‘Người Nghệ Sĩ’ không bối rối mà còn bỡn cợt
với những khó khăn; và đôi khi, cần một dụng cụ yếu đuối và bất toàn như nó!”.
Têrêxa thông minh, hài hước, lắm tưởng
tượng, “Archimède cần một điểm tựa bên ngoài để bẩy trái đất lên, ông không tìm
ra! Các thánh thì khác, Chúa cho họ một điểm tựa, chính Ngài. Đòn bẩy là kinh
nguyện bốc cháy yêu thương, cầu nguyện là cách thức các thánh nâng vũ trụ lên,
nâng cho tới tận thế, ‘Các thánh tương lai’ cũng sẽ nâng!”. Têrêxa có những biện
minh lạ lùng, “Con không nản chí vì những lỗi lầm của mình, vì trẻ con thường
ngã luôn, nhưng vì chúng bé quá, nên không thấy đau mấy!”.
Anh Chị em,
“Trẻ con thường ngã luôn, nhưng không thấy
đau mấy vì quá bé!”. Chấp nhận mình bé nhỏ, nhiều khuyết điểm, ít tài năng; nhiều
thất bại, ít thành công; nhiều tội lỗi, ít thánh thiện… là những đòn bẩy nâng bạn
và tôi lên. Chớ gì biết rõ mình là ai, chúng ta đặt trọn tin yêu vào Chúa; trở
nên mảnh đất cho những ‘hạt mầm yêu thương’ mà Chúa Thánh Thần không ngừng gieo
vãi. Như Têrêxa, chúng ta tham vọng bẩy lên thế giới bi luỵ bằng cầu nguyện, chống
lại tội lỗi và sự dữ. Được vậy, chúng ta có thể hát lên “Hồn con xin Chúa giữ
gìn, nép mình bên Chúa an bình thảnh thơi!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cho con biết dâng Chúa những
đau khổ người khác gây ra cho con, và những hành vi ấy cũng sẽ biến nên của lễ
cứu độ!”, Amen.
* Mùa thường niên: Lc 9, 51-56
Tin mừng hôm nay nhấn mạnh đến tinh thần của người môn đệ cần phải có khi
đi theo Đức Giêsu.
Nếu tinh thần của Gia-cô-bê và Gio-an là tinh thần nóng nảy, bất đồng muốn
báo thù và tiêu diệt khi bị dân làng Sa-ma-ri-a ngăn chặng không tiếp đón, thì
tinh thần mà Chúa Giêsu muốn các tông đồ phải có đó là lòng nhân nhượng, bao
dung và cứu sống, bởi lẽ mục tiêu Người đến trần gian là để cứu chữa: "Con
Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta".
Đối với Chúa Giê-su quyền lực và khả năng Chúa ban cho con người không phải
để đối đầu, chấn áp hay giết hại lẫn nhau cho hả cơn giận, nhưng là để yêu
thương phục vụ, bao dung và tha thứ. Chính vì thế Chúa Giê-su đã không chọn lối
ứng xử trả đủa ngay lập tức theo thói đời như phản ứng của Gia-cô-bê và Go-an.
Trái lại, Người mời gọi các ông phải có lòng nhân từ tha thứ và sáng kiến tìm
ra lối đường khác để thực hiện cho bằng được lộ trình lên Giêsusalem.
Xin cho chúng ta có được tinh thần quảng đại bao dung của Chúa, nhờ đó mà
tránh được những xung đột đáng tiếc xảy ra trong đời sống hàng ngày; và trước
những điều trái không may xảy đến trong đời sống, xin cho ta biết bình tâm
và sáng suốt tìm ra lối đường giải quyết êm đẹp theo ý Chúa muốn.
Thứ tư: Xh 23,20-23; Mt 18,1-5.10
BẠN ĐỒNG HÀNH
“Này Ta sai thiên sứ đi trước
con, để giữ gìn con khi đi đường và đưa con vào nơi Ta đã dọn sẵn!”.
“Nếu Chúa sai chúng ta đi trên những con
đường đầy đá, Ngài sẽ cung cấp những đôi giày bền bỉ! Sai chúng ta đến một nơi
xa lạ, Ngài sẽ chuẩn bị một người bạn đồng hành! Và nếu muốn cứu độ chúng ta đời
đời, Ngài ban Con Một!” - A. Maclaren.
Kính thưa Anh Chị em,
Gặp lại ý tưởng của Maclaren, Lời Chúa
ngày lễ Thiên Thần Bản Mệnh cho thấy tình yêu Thiên Chúa dành cho mỗi người
chúng ta bao la như trời bể. Giáo lý Hội Thánh dạy, để canh giữ hồn xác chúng
ta từ khi chào đời cho đến ngày tắt hơi, Chúa Cha đã ban cho mỗi người một người
‘bạn đồng hành’ yêu thương như một vệ sĩ vô hình.
Ngài phán, “Này Ta sai thiên sứ đi trước
con, để giữ gìn con khi đi đường và đưa con vào nơi Ta đã dọn sẵn!” - bài đọc một.
Thánh Vịnh đáp ca xác tín sự có mặt của các ngài, “Chúa đã lệnh cho các thiên
thần săn sóc bạn, để chư vị đó gìn giữ bạn trên khắp nẻo đường!”. Trong Tin Mừng
hôm nay, khi đặt một em bé giữa các môn đệ, Chúa Giêsu cũng nói đến sự hiện diện
của những người bạn thân thiết này, “Các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng
chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy!”.
Hãy tưởng tượng, mỗi người có một vệ sĩ
vô hình đồng hành chăm sóc suốt đời! Điều này sẽ gợi lên hai tình cảm khác biệt.
Trước hết, thật an ủi lúc chúng ta gặp nguy khốn, bạn và tôi không đơn độc,
nhưng được bảo vệ an toàn; tuy nhiên, sự có mặt thường xuyên của ‘ai đó’ cũng
có thể làm mất quyền riêng tư. Với một số người, điều này không luôn luôn được
chấp nhận. Tại sao? Bởi lẽ, có một ‘ai đó’ luôn nhìn thấy mọi hành vi chúng ta
làm, kể cả những tội lỗi chúng ta phạm.
Vậy mà, người ‘bạn đồng hành’ dễ thương
đó luôn tôn trọng tự do của chúng ta; ngài không phán xét, nhưng chỉ hành động
với tình yêu hoàn hảo. Các ngài giữ bí mật tuyệt đối và chỉ quan tâm đến sức
khoẻ hồn xác của mỗi người! Khi chúng ta sợ hãi, Thiên Thần Bản Mệnh bảo vệ;
khi chúng ta khó khăn, các ngài gỡ rối; khi chúng ta bất an, các ngài ban lòng
can đảm. Cách riêng, khi chúng ta phạm tội, các ngài sẽ ra sức cản ngăn; nhưng
vì tôn trọng tự do, không ít lần, các ngài bất lực! Mối quan tâm duy nhất của
các ngài là dẫn chúng ta trở về với Chúa mỗi khi chúng ta lạc đường. Chỉ khi ở
trên thiên đàng, bạn và tôi mới hiểu hết được chiều kích sâu xa của tình yêu
Thiên Chúa vốn tiềm ẩn nơi những người ‘bạn đồng hành’ tuyệt vời này.
Anh Chị em,
“Này Ta sai thiên sứ đi trước con!”.
Thiên Chúa như một người mẹ chu đáo không nỡ để con cái Ngài lẻ loi trên con đường
‘đầy đá’ dẫn đến một nơi khá ‘xa lạ’ - quê trời, Ngài ban cho chúng ta một
Thiên Thần Bản Mệnh. Như thế, ngày lễ hôm nay đúng nghĩa, là ngày bổn mạng của
mỗi người. Hãy cảm tạ Chúa vì quà tặng cao quý này; hãy vui mừng, biết ơn, kính
trọng và lắng nghe các ngài! Được như vậy, chắc chắn bạn và tôi sẽ đi đúng hướng
để về đến nơi Chúa dọn sẵn. Hãy xin lỗi các ngài vì sự ơ hờ và vô ơn của chúng
ta! Hãy cầu nguyện với các ngài và giao phó hồn xác trọn vẹn hơn cho sự bảo bọc
của các ngài!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con làm buồn lòng người
‘bạn đồng hành’ âm thầm Chúa ban khi con nhân danh tự do để làm điều mất lòng
Chúa!”, Amen.
Thứ năm: Lc 10,1-12
NGUY HIỂM NHẤT
“Thầy sai anh em đi như
chiên con đi vào giữa bầy sói!”.
“Ta là Mục Tử, sẽ thuần hoá những con
thú dữ, sẽ biến sói thành chiên, biến những kẻ ngược đãi nên người trợ giúp những
ai bị ngược đãi. Ta sẽ biến những kẻ làm hại các sứ giả của Ta thành những người
chia sẻ các kế hoạch đạo đức của chúng. Ta tạo ra và phá huỷ mọi thứ. Không gì
có thể chống lại ý muốn của Ta!” - Cirillô Alexandria.
Kính thưa Anh Chị em,
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu sai
72 môn đệ đi truyền giáo “như chiên con
đi vào giữa bầy sói”. Điều này có thể đáng lo ngại khiến chúng ta tự hỏi liệu
Ngài đang sai họ vào một tình huống mà họ sẽ gặp nguy hiểm? Vậy điều ‘nguy hiểm
nhất’ là gì?
Bình luận điểm này - như thánh Cirillô -
thánh Ambrôsiô giải thích, “Không có lý do gì để các môn đệ phải sợ hãi, vì
Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành luôn bảo vệ đàn chiên!”. Thật hữu ích khi suy gẫm
về các loại nguy hiểm mà các môn đệ sẽ gặp phải trong sứ mệnh và tất cả các sứ
mệnh trong tương lai; đồng thời, đối chiếu các mối nguy hiểm đó với hình thức
‘nguy hiểm duy nhất’ - ‘nguy hiểm nhất’ - chúng ta phải sợ.
Vì vậy, khi sai môn đệ “như chiên con đi
vào giữa bầy sói”, Chúa Giêsu hoàn toàn nhận thức sự ngược đãi mà họ sẽ phải chịu;
dẫu vậy, Ngài vẫn sai họ đi, vì Ngài biết, cả khi cuối cùng họ phải chịu sự ngược
đãi và cái chết, đức tin và lòng can đảm của họ giữa những điều đó sẽ giúp họ
có được công trạng trong cuộc sống vĩnh hằng; họ sẽ trở thành công cụ ân sủng
cho những người khác trong đời sống đức tin - “Máu của các vị tử đạo là hạt giống
sinh người có đạo!”. Ngài không muốn họ sợ cái chết của thể xác hoặc danh tiếng
thế gian - chỉ sợ cái chết của linh hồn - mà Ngài, với tư cách Mục Tử Nhân
Lành, đã hết sức bảo vệ.
Anh Chị em,
“Như chiên con đi vào giữa bầy sói!”. Giữa
bầy sói, bạn đừng ngạc nhiên nếu gặp phải sự khắc nghiệt, sự phán xét và thậm
chí là sự ngược đãi dưới nhiều hình thức khác nhau. Hãy đáp lại bằng đức hạnh;
giữ vững đức tin, niềm hy vọng và lòng bác ái luôn sống động trong cuộc sống và
đừng sợ những kẻ có thể làm hại bạn theo những cách không tồn tại mãi mãi. Thay
vào đó, hãy vững vàng trong sứ mệnh yêu thương, chia sẻ lòng thương xót và chân
lý của Chúa trong thế giới, bất kể hậu quả ra sao. Làm như vậy, bạn và tôi sẽ
mang lại vô vàn phước lành bên trong của ân sủng và sẽ cho phép Thiên Chúa sử dụng
chúng ta như một công cụ của ân sủng Ngài theo những cách vượt xa những gì bạn
có thể hình dung.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con sợ bất cứ điều gì
trong hành trình sứ vụ. Dạy con biết sợ điều ‘nguy hiểm duy nhất’ - ‘nguy hiểm
nhất’ - đó là tội lỗi!”, Amen.
Thứ sáu: G 38,1.12-21;40,3-5; Lc 10,13-16
Nhớ Thánh Phan-xi-cô-Át-xi-di
TỰ MÃN
“Khốn cho ngươi, hỡi
Chorazin, Bethsaida!”; “Khốn cho ngươi, hỡi Capharnaum!”.
“Satan pha loãng đại dương của sự vô tín
bằng một ấm trà bốc hơi nghi ngút đạo đức Kitô giáo; và mọi người lội xuống, đầy
tự mãn, nhưng không biết rằng, họ đang tắm trong sự vô tín. Bạn không thể pha
loãng một đại dương lạnh lẽo của sự vô tín bằng một chút nước ấm của lòng sùng
đạo hoặc những nỗ lực tốt của con người!” - Barnhouse.
Kính thưa Anh Chị em,
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu lên
án mạnh mẽ chống lại các thành ‘tự mãn’, ‘vô tín’, những nơi Ngài đã thường
xuyên rao giảng rộng rãi - Chorazin, Bethsaida và đặc biệt, Capharnaum.
Chorazin nằm gần biển Galilê. Bethsaida,
quê hương của một số môn đệ, nằm trên bờ biển phía đông bắc của biển Galilê.
Capharnaum nằm ở bờ biển phía bắc, thường xuất hiện trong các câu chuyện Phúc
Âm và đây là trung tâm mà Chúa Giêsu đã thực hiện phần lớn công việc truyền
giáo. Những lời Ngài dạy, những phép lạ Ngài làm hẳn đã rất quen thuộc với những
con người ở đó. Vậy mà, vô tín vẫn xảy ra!
Ngài còn nói đến các thành ngoại bang
Tyrô và Siđon - ngày nay là Lebanon - rằng, nếu những con người ở đó đã chứng
kiến những gì Ngài nói, Ngài làm thì họ đã ăn năn từ lâu như những người ngoại
giáo Ninivê đã ăn năn khi nghe Giôna rao giảng. Tyrô và Siđon hầu như chỉ được
Ngài đến thăm một lần trong thời gian rất ngắn; vì vậy dân thành ở đó không có
cơ hội chứng kiến những phép lạ Ngài làm hoặc lời Ngài dạy, không như những người
thuộc các thành được đề cập ở trên.
Chúa Giêsu còn đi xa hơn, “Ai nghe anh
em là nghe Thầy; ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là
khước từ Đấng đã sai Thầy!”. Nói cách khác, lắng nghe các sứ giả của Chúa Giêsu
là lắng nghe chính Ngài; từ chối các sứ giả của Ngài là từ chối Ngài và từ chối
Thiên Chúa.
Trong thời đại của chúng ta, có lẽ nên
nhấn mạnh rằng, những “sứ giả” đó không chỉ là Giám mục, Linh mục và tu sĩ,
nhưng bao gồm tất cả Kitô hữu, những người chân thành rao giảng Phúc Âm bằng lời
nói và cuộc sống mình. Vậy sẽ không hại gì khi chúng ta lắng nghe những lời cảnh
báo - “Khốn cho ngươi!” - dành cho mình. Thử tự hỏi, bạn và tôi đã thực sự đáp
lại lời kêu gọi của Ngài trong Phúc Âm tốt thế nào; chúng ta cởi mở đến đâu để
lắng nghe thông điệp Tin Mừng đến với mình từ những người khác? Chúng ta cam kết
chấp nhận, sống và chia sẻ Phúc Âm đó với người khác làm sao? Và có đúng không
khi nói rằng, biết bao nhiêu người ở những nơi khác trên thế giới, trên đất nước
chúng ta, xã hội chúng ta, nếu được ban cho những gì chúng ta đã được, được
nghe những gì chúng ta đã nghe, hẳn họ đã đáp lại rộng lượng hơn nhiều so với
những gì chúng ta đã làm?
Anh Chị em,
“Khốn cho ngươi!”. Chúa Giêsu khiển
trách các thành và cả chúng ta chỉ vì sự ‘tự mãn’. ‘Tự mãn’ không bao giờ có chỗ
trong đời sống Kitô hữu. Chúng ta đã được ban cho quá nhiều, nên cũng được kỳ vọng
nhiều hơn. Như Ngài đã nói ở những nơi khác, chúng ta có thể sẽ rất ngạc nhiên
khi thấy những người khác - những người chưa bao giờ có cơ hội trực tiếp nghe
Phúc Âm - đi trước chúng ta vào Vương Quốc của Ngài.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con bị Satan đánh lừa
khi con trở nên ‘tự mãn’, vô tín. Cho con biết quỳ gối cảm tạ hồng ân Chúa mỗi
ngày!”, Amen.
Thứ bảy: Lc 10, 17-24
LÝ DO VUI MỪNG
“Hãy mừng vì tên anh em đã
được ghi trên trời!”.
John Wesley - nhà truyền giáo nước Anh -
ngay trước khi qua đời ở tuổi 88, đã ngồi dậy, nhìn những người thân yêu bên
giường bệnh và nói, “Sao lại khóc, hãy vui mừng chứ? Điều tuyệt vời nhất cũng
là lý do vui mừng nhất là Chúa ở cùng chúng ta!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Nói rằng, “Chúa ở cùng chúng ta!” hay
nói rằng, “Tên anh em đã được ghi trên trời!” có chung một ý nghĩa. Đó là những
‘lý do vui mừng’ đích thực mà cả Wesley và Chúa Giêsu nói với những người thân
yêu.
Tin Mừng hôm nay cho biết, sau chuyến truyền
giáo tốt đẹp, các môn đệ trở về, lòng đầy hân hoan. Họ bộc lộ với Chúa Giêsu,
“Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con!”. Tốt!
Nhưng với Chúa Giêsu, còn có một điều gì đó hơn thế, Ngài tiết lộ cho họ một lý
do căn bản hơn: tên họ được ghi trên trời!
Tự hào về công việc là điều tự nhiên, đặc
biệt khi chúng ta cảm thấy đã làm tốt công việc đó. Chúa Giêsu không phủ nhận sự
thành công của các môn đệ, nhưng Ngài tập trung vào một điều lớn hơn: mối quan
hệ của họ với Thiên Chúa. Đây mới là nguồn vui đích thực! Chính mối quan hệ đó
làm cho công việc của họ có kết quả. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu tiếp tục
nói, “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy!”.
Điều đáng mừng hơn cả là các môn đệ ‘đã
thấy, đã nghe’ và nhất là nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Thầy mình. Họ
đã cảm nhận một mối quan hệ đặc biệt của Ngài với Thiên Chúa và họ đã để mình
‘được lôi kéo’ vào mối quan hệ đó. Tin Mừng nhắc nhở chúng ta rằng, sự chia sẻ
của chúng ta trong mối quan hệ của Chúa Giêsu với Thiên Chúa mới là niềm vui và
là kho tàng đích thực, và đó là ‘lý do vui mừng’ lớn nhất chứ không phải là sự
thành công hay nói cách khác, những gì chúng ta làm.
Chính hồng ân chia sẻ mối quan hệ này
cho phép chúng ta nhìn và nghe những điều mà nhiều tiên tri và vua chúa mong ước
được thấy được nghe, đây là lý do thực sự để tạ ơn và vui mừng. Ngay cả khi
công việc của chúng ta ngừng lại - thậm chí là thất bại - vì bất cứ lý do gì,
dù là tuổi tác, sức khoẻ kém hay thiếu cơ hội… thì hồng ân chia sẻ mối quan hệ
của chính Chúa Giêsu với Thiên Chúa Cha vẫn tồn tại.
Anh Chị em,
“Hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên
trời!”. Chúa Giêsu không quan tâm những chiến thắng trước Satan. Điều quan trọng
với Ngài là “Chúa ở cùng chúng ta” và “chúng ta ở cùng Chúa” trên thiên đàng.
Kitô giáo không chỉ đơn thuần là đánh bại ma quỷ. Đức tin của chúng ta là đức
tin cực kỳ tích cực, được thiết kế để giúp mỗi người phát triển tình yêu dành
cho Thiên Chúa noi theo các nhân đức của Chúa Kitô. Đó là một bài tập về tình
yêu. Đức tin này không có giới hạn, luôn mời gọi chúng ta ‘yêu mến Chúa’, làm
nhiều hơn cho người khác và cho Chúa Kitô. Tình yêu không có giới hạn, vì vậy
chúng ta không nên nghĩ rằng mình “đã đến đích”. Tôi có hiểu rằng tôi được kêu
gọi để sống mối tương quan với Chúa và sống tình yêu của Ngài cho đến giây phút
cuối đời?
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cho con hiểu rằng, thành công của con trước hết và trên hết là sống thân tình mối tương quan giữa con với Chúa, mọi chuyện khác đều là phụ tuỳ!”, Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét