SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XVI THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt
Giang
CHÚA
NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN-NĂM C
St 18,1-10a; Cl 1,24-28; Lc 10,38-42
Suy niệm 1:
Cuộc
sống của chúng ta thường bị cuốn hút vào những lo toan, bộn bề công việc như
Mátta. Chúng ta dễ dàng bị phân tâm bởi những thứ vật chất, những trách nhiệm
hằng ngày mà quên đi điều cốt yếu nhất là: lắng nghe tiếng Chúa và dành thời
gian cho Ngài. Maria đã chọn phần tốt nhất, đó là ngồi dưới chân Chúa Giêsu để
lắng nghe Lời Ngài. Đây chính là lời mời
gọi mỗi người chúng ta hãy dành thời gian cho Chúa, lắng nghe và suy gẫm Lời
Ngài trong cuộc sống của mình.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta ơn biết lắng nghe Lời Chúa và thực thi ý Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
Tin mừng Lu-ca hôm nay vẽ lên một bức tranh thật trong sáng, hài hòa về chân
dung của hai người thiếu nữ:
- Cô chị Macta nồng nhiệt đón rước Chúa Giêsu và các môn đệ vào nhà mình, rồi tất bật với công việc phục vụ nhằm chuẩn bị cho một bữa ăn thật thịnh soạn để thết đãi
khách quý.
- Cô em Maria thì ngược lại, rất
tế nhị và sâu lắng, ngồi im lặng bên chân Chúa để chăm chú lắng nghe từng lời giáo huấn của Chúa Giêsu.
+ Hai cách đón tiếp khác nhau, nhưng cả hai đều thể hiện được nét đẹp của
sự đón tiếp theo cách thế của người Á đông: hiếu khách, tận tâm lo phục vụ sao
cho vừa lòng khách đến. Bên cạnh đó cũng hết sức tinh tế, gần gủi thân tình,
chịu khó lắng nghe và chia sẻ, với mong muốn được vui lòng khách đi.
- Mọi chuyện tưởng như sẽ êm xuôi nếu như cô chị Macta không lên tiếng than
trách đứa em Maria. Có lẽ với nét mặt khó chịu, chị ta hướng nhìn về Chúa Giêsu
rồi lên tiếng: "Thưa
Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo
nó giúp con một tay." (c.
40).
Cứ ngỡ là Chúa Giêsu đồng tình với quan điểm của
chị. Nhưng không, Chúa Giêsu lại dịu dàng quở trách chị ta: "Macta!
Macta, chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện qúa! (c 41). Chỉ
có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất, và
sẽ không bị lấy đi" (c. 42).
Như thế, có phải Chúa Giêsu xem trọng việc lắng
nghe lời Chúa hơn là việc phục vụ Chúa không? Chắc chắn là Chúa Giêsu không
muốn đặt hai việc này lên bàn cân để xem việc nào nặng hơn. Nhưng trên hết,
Người muốn Macta biết dung hòa hai việc ấy lại với nhau. Sở dĩ Chúa Giêsu quở
trách Macta, bởi vì: chị ta quá xem điều chị đang làm là quan trọng, còn việc
lắng nghe lời Chúa của Maria chỉ là thứ yếu.
Theo triết lý Á đông thì có cái nhìn trung dung
hơn trong mọi vấn đề. Nên các nhà tu đức cho rằng: đạo đức thì ở giữa chiêm
niệm và hoạt động.
Trong bài huấn dụ trước hơn 50.000 tín hữu và du
khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin tại Quảng trường Thánh Phêrô
trưa Chúa Nhật 21/ 07/ 2013, Đức Thánh Phanxicô cũng đã nói: “Anh chị em thân
mến, cả trong cuộc sống Kitô của chúng ta cầu nguyện và hành động luôn luôn
hiệp nhất với nhau một cách sâu xa”.
Đức Thánh Cha giải thích thêm điểm này: “Một lời
cầu nguyện mà không đưa tới hành động cụ thể đối với người anh em nghèo,
bệnh tật, cần giúp đỡ, người anh em đang gặp khó khăn, là một lời cầu nguyện
cằn cỗi và không trọn vẹn. Nhưng đồng thời trong việc phục vụ Giáo Hội khi người
ta chỉ chú ý tới việc làm, chỉ đặt trọng lượng nơi các sự vật, các nhiệm vụ,
các cơ cấu, mà quên đi trọng tâm là Chúa Kitô, không dành thời giờ cho việc đối
thoại với Chúa trong lời cầu nguyện, thì có nguy cơ phục vụ chính mình chứ
không phục vụ Thiên Chúa nơi người anh em cần sự giúp đỡ”.
Thánh Biển Đức tóm gọn kiểu sống mà thánh nhân chỉ
cho các tu sĩ của người trong hai từ "ora et labora"; "cầu
nguyện và lao động". Chính từ việc chiêm niệm, từ một tương quan tình
bạn mạnh mẽ với Chúa nảy sinh ra nơi chúng ta khả năng sống và đem tình yêu của
Thiên Chúa, lòng thương xót và sự hiền dịu của Chúa đến cho người khác.
Cả công việc của chúng ta đối với người anh em cần
được giúp đỡ, công việc bác ái của chúng ta trong các công tác thương xót, đưa
Chúa đến với chúng ta, bởi vì chúng ta nhìn vào chính Chúa nơi người anh chị em
cần được trợ giúp.
Cuối cùng, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu hãy
hướng về Mẹ Maria, mẫu gương tuyệt hảo của cầu nguyện và hoạt động mà nêu gương
bắt chước: “Xin Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của sự lắng nghe và phục vụ, dậy chúng
ta biết suy niệm trong lòng Lời của Con Mẹ và cầu nguyện với lòng trung thành,
để luôn luôn chú ý tới các nhu cầu của các anh chị em khác một cách cụ thể
hơn”. Amen.
Suy niệm 2: ĐÓN TIẾP CHÚA VỚI TRÁI TIM LẮNG NGHE
Tôi
xin được bắt đầu bài chia sẻ hôm nay bằng một câu chuyện nhỏ.
Có
một họ đạo nhỏ vùng quê tổ chức hội chợ bác ái gây quỹ giúp người nghèo. Cả họ
đạo rộn ràng: người dựng lều, người nấu nướng, người phụ trách âm thanh, trang
trí… Ai nấy đều bận rộn với công việc của mình. Giữa đám đông ấy, xuất hiện một
người đàn ông ăn mặc đơn sơ, gương mặt khắc khổ, chân đi dép rách. Ông lặng lẽ
chào hỏi vài người nhưng hầu như không ai để ý. Có người còn tránh né, sợ bị
làm phiền. Chỉ có một bà cụ già, thấy ông lạ mặt, liền lấy dĩa cơm đưa cho ông
và mời ngồi nghỉ dưới bóng cây. Ông mỉm cười và nói: “Cảm ơn bà, bà không chỉ
cho tôi bữa ăn, mà còn cho tôi cả tấm lòng.”
Cuối
ngày hôm đó, cha sở bước lên sân khấu và nói: “Anh chị em có biết không, sáng
nay tôi nhờ một người bạn linh mục cải trang làm người ăn xin, đến giữa chúng
ta để thử lòng hiếu khách anh chị em. Không ai nhận ra ngài, nhưng chỉ có một
bà cụ đã khiến ngài xúc động vì lòng tốt và sự kính trọng chân thành. Ngài bảo:
‘Tôi cảm thấy như được Chúa hiện diện nơi tấm lòng của bà cụ ấy’.”
Câu
chuyện ấy làm chúng ta lắng lòng. Bởi vì Chúa có thể đến với ta trong dáng vẻ đơn sơ, khiêm tốn, nghèo hèn. Nếu
không có một trái tim lắng nghe và mở rộng, ta có thể bỏ lỡ chính Chúa đến thăm
viếng ta.
Thưa
anh chị em,
Các
bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại thái độ đón tiếp Thiên Chúa – không chỉ bằng hành động, mà bằng cả trái
tim. Bốn khuôn mặt mà phụng vụ hôm nay nói đến là: Ápraham, Martha, Maria, và
thánh Phaolô – như những nét chấm phá vẽ nên chân dung của một đời sống đức tin
trưởng thành.
1. Ápraham – mẫu gương của lòng hiếu khách và đức tin
Bài
đọc I kể lại câu chuyện rất đẹp: tổ phụ Ápraham đã đón tiếp ba vị khách lạ với
tất cả sự trân trọng, quảng đại và chu đáo, dù ông không biết đó chính là Thiên
Chúa hiện thân. Nhờ tấm lòng ấy, ông được Chúa chúc phúc: vợ ông – bà Sara – sẽ
sinh con dù tuổi đã già.
Khi mở lòng đón tiếp tha nhân, là ta đang đón tiếp
chính Thiên Chúa. Đó là đức tin sống động, không lý thuyết, nhưng
thể hiện trong sự sẵn sàng phục vụ, kính trọng và hy sinh.
2. Martha và Maria – mẫu gương phục vụ và lắng nghe
Bài
Tin Mừng đưa ta đến một căn nhà khác – nhà của hai chị em Martha và Maria.
Martha tất bật lo việc bếp núc, còn Maria thì ngồi dưới chân Chúa Giêsu để lắng
nghe lời Người.
Chúa
Giêsu không chê trách việc phục vụ, nhưng Ngài nhấn mạnh: “Maria đã chọn phần tốt nhất.” Lắng nghe Lời Chúa là nền tảng của mọi hành động có giá trị thiêng liêng.
Không có sự kết hợp giữa cầu nguyện và hành động, ta dễ rơi vào mệt mỏi, lo âu
và đánh mất chính Chúa giữa những bận rộn thường ngày.
3. Thánh Phaolô – mẫu gương dung hòa giữa chiêm niệm và hành động
Trong
bài đọc II, thánh Phaolô chia sẻ: “Tôi
vui mừng trong những gian khổ vì anh em… Tôi đã trở nên người phục vụ Tin
Mừng.” Phaolô rao giảng không ngừng, chịu khổ vì Chúa, nhưng mọi hành động
của ngài xuất phát từ một mối tương quan sâu xa với Đức Kitô ngự trong lòng
ngài. Trong thư gửi tín hữu Galata, ngài đã xác quyết mạnh mẽ rằng: “Tôi sống, nhưng không
còn là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.”
(Gl 2,20). Thánh Phaolô đã thể hiện một lối sống dung hòa trong
đức tin, vừa là Martha – không ngừng dấn thân phục vụ Chúa bằng việc rao giảng
Tin Mừng; vừa là Maria qua việc kết hiệp mật thiết với Chúa trong tâm hồn.
Thưa
cộng đoàn,
Những
khuôn mặt trên mời gọi chúng ta soi chiếu lại đời sống đức tin của mỗi chúng ta
hôm nay:
-
Hãy như Ápraham: sẵn lòng tiếp
đón Chúa qua tha nhân – bằng một ánh mắt cảm thông, một lời hỏi thăm chân thành,
một cử chỉ chia sẻ bác ái.
-
Hãy như Maria: biết dừng lại để
lắng nghe Lời Chúa – trong giờ cầu nguyện, trong thánh lễ, trong Kinh Thánh.
-
Và hãy như Phaolô: hoạt động làm
việc phát xuất từ một đời sống kết hiệp mật thiết với Chúa– để việc ta làm
không chỉ là “làm việc nhà Chúa” mà thực sự là “làm theo ý Chúa.”
Trong
một thế giới đầy tiếng ồn, bận rộn, và vội vã, người tín hữu dễ bị cuốn vào
“làm nhiều việc cho Chúa”, mà quên mất việc “ở lại với Chúa” để lắng nghe, múc
lấy sức mạnh của Chúa ta sẽ dễ lạc lối và tự mãn về những thành công thế gian.
Chúa Giêsu hôm nay nhắc nhở chúng ta: Hãy chọn phần
tốt nhất – đó là lắng nghe và ở lại bên Chúa. Từ đó, hành động của chúng ta
mới có sức sống, có hướng đi, và sinh nhiều ích lợi thực sự cho tha nhân và cho
nước trời.
Xin Chúa cho chúng ta biết quảng đại tiếp đón mọi người như Ápraham, có niềm say mê Lời Chúa như Maria, nhất là luôn nhiệt tâm loan báo Tin Mừng như thánh Phaolô. Amen.
Suy niệm 3: LỄ THIẾU NHI
Tin Mừng hôm nay cho ta biết Chúa Giêsu đến thăm một gia đình có ba người bạn
thân: Mácta, Maria và Ladarô. Trong lúc Chúa nói chuyện, có một người ngồi chăm
chú lắng nghe, còn một người thì loay hoay chạy tới chạy lui, chuẩn bị đồ ăn,
nước uống. Hai người, hai thái độ, ai đúng hơn nhỉ? Chúng ta cùng nghe Lời Chúa
hôm nay để khám phá điều đó nhé!
Các
em thân mến,
Khi
Chúa Giêsu đến nhà của chị Mácta, chị ấy rất vui và vội vàng nấu nướng, dọn dẹp
để tiếp đãi Chúa. Còn cô em Maria thì ngồi ngay dưới chân Chúa, chăm chú lắng
nghe từng lời Người nói. Mácta thấy vậy thì... bực lắm! Chị đến nói với Chúa: “Chúa ơi, em con không giúp con gì cả, chỉ
ngồi đó thôi. Chúa bảo em giúp con đi!”
- Nhưng Chúa Giêsu trả lời thế nào?
Ngài
không trách Maria, mà nhẹ nhàng nhắc Mácta: “Mácta,
Mácta ơi, con lo lắng nhiều chuyện quá! Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không
bị lấy đi đâu.”
Vậy
điều Chúa muốn nói với chúng ta là gì? Việc phục vụ cũng rất tốt, nhưng lắng
nghe và ở gần Chúa thì còn tốt hơn. Chúng ta không chỉ bận rộn lo chuyện đời,
mà còn phải dành thời gian cầu nguyện, học hỏi Lời Chúa và sống thân thiết với
Chúa mỗi ngày.
-
Câu chuyện: “Chiếc bình và những viên đá” sau đây
giúp các em hiểu hơn về điều Chúa Giêsu muốn nói:
Một hôm, thầy giáo mang đến lớp một chiếc bình thủy
tinh to. Sau đó, thầy bỏ những viên đá to vào cho đến khi đầy miệng bình. Thầy
hỏi:
– Các em thấy bình đã đầy chưa?
Cả lớp đồng thanh: – Dạ rồi ạ!
Thầy mỉm cười, rồi đổ thêm sỏi nhỏ vào, lắc nhẹ,
những viên sỏi lọt vào các kẽ trống. Thầy hỏi tiếp:
- Bây giờ thì đầy chưa?
- Dạ, giờ thì chắc chắn đầy rồi ạ!
Nhưng thầy lại đổ thêm cát, rồi nước… Cuối cùng,
thầy nói: Các em biết bài học hôm nay là gì không?
Nếu thầy đổ nước, cát, sỏi từ đầu, thì không thể
bỏ được những viên đá to vào nữa. Cuộc sống cũng vậy. Những "viên đá
lớn" chính là những điều quan trọng nhất như: cầu nguyện, học hành, giúp đỡ người khác...
Nếu các em không đặt chúng vào trước, thì sẽ chẳng còn chỗ cho những điều quan
trọng nữa!
Maria
là người đã chọn “viên đá lớn” là Chúa Giêsu trước tiên. Chị ngồi bên Chúa,
lắng nghe và để trái tim mình được tình yêu của Chúa lấp đầy.
-
Vậy, trong tuần này, chúng ta hãy cùng nhau sống như chị Maria nhé, đó là:
1.
Dành thời gian mỗi ngày cầu nguyện với Chúa, có thể chỉ cần 3 phút thôi!
2.
Nghe Lời Chúa qua các bài học giáo lý, qua thánh lễ thiếu nhi.
3.
Và nếu có việc phải làm như Mácta, thì cũng đừng quên mời Chúa cùng làm với
mình nhé!
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết yêu thích cầu nguyện, chăm chỉ học giáo lý, và luôn chọn Chúa là điều quan trọng nhất trong cuộc sống của chúng con. Amen.
Suy niệm 4: NHƯ MARTHA VÀ MARIA-CẦU NGUYỆN VÀ PHỤC VỤ
* Câu chuyện 1: Chiếc điện thoại không sạc pin
Có một bạn nhỏ tên là An. Ngày nào bạn cũng đi học, làm bài, chơi thể thao, giúp mẹ nấu
cơm, dọn dẹp nhà cửa… Bạn An là người rất chăm chỉ, ai cũng khen.
Thế nhưng, có một điều An thường quên: không cầu nguyện, không đọc Lời Chúa, không
đi lễ.
Một hôm, điện thoại của bạn hết pin mà An chẳng
sạc từ hôm qua. Bạn cần gọi cho mẹ mà máy thì “cạn sạch pin”, không lên nổi.
- An buồn bã nói: Nếu mình sạc pin đều mỗi ngày
thì đâu có chuyện này xảy ra…
- Mẹ An liền mỉm cười nói: Tâm hồn con cũng vậy đấy! Nếu con không cầu nguyện, không gặp Chúa, thì
giống như cái điện thoại cạn pin: làm sao hoạt động tốt được?
- An hiểu ra: chăm làm việc là tốt, nhưng phải sạc pin tâm hồn bằng cách cầu nguyện,
gặp Chúa mỗi ngày nữa!
Bài học: Đừng để tâm hồn mình “hết pin”! Hãy cầu nguyện như Maria, để có sức mạnh làm việc như Martha!
* Câu chuyện 2: Bánh mì và lời chào
Một hôm, trong sân trường, có bạn Nam mang theo hai ổ bánh mì để ăn
sáng. Khi đang ngồi ăn, có một ông cụ ăn xin đi ngang qua.
- Ông cụ rụt rè đến gần, mỉm cười và nói: Cháu có
thể cho ông xin một miếng bánh không?
- Nam ngập ngừng, không muốn chia sẻ, nhưng nhớ
đến lời dạy của Chúa Giêsu: “Khi ta
đói, các con đã cho ăn”, nên Nam bẻ đôi ổ bánh, đưa một phần cho ông cụ.
- Ông cụ vừa nhận, vừa nói: Cảm ơn cháu! Cháu đã
làm một việc đẹp lòng Chúa lắm đó!
- Buổi trưa hôm đó, Nam kể lại cho mẹ nghe. Mẹ
cười và nói: Con đã đón tiếp Chúa nơi
người nghèo, giống như Martha đón Chúa vào nhà. Nhưng con cũng nhớ lắng
nghe Chúa mỗi ngày, để biết việc gì cần làm nhé!
Bài học: Chúng ta gặp Chúa không chỉ trong nhà thờ, mà cả nơi những người cần giúp đỡ. Hãy giống Maria lắng nghe Chúa, và giống Martha phục vụ anh em.
Các con thiếu nhi
thân mến,
Hôm nay, chúng ta nghe một câu
chuyện rất hay trong Tin Mừng. Đó là chuyện Chúa Giêsu đến thăm hai chị em là Martha
và Maria.
Khi Chúa đến, chị Martha lo nấu
nướng, dọn bàn, chuẩn bị cơm nước thật chu đáo để đón Chúa. Còn cô em Maria thì
ngồi ngay bên chân Chúa, chăm chú lắng nghe từng lời Chúa dạy. Martha thấy vậy
thì hơi buồn và than phiền: “Chúa ơi, em
con không giúp gì hết, xin Chúa bảo nó phụ con một tay”.
Chúa Giêsu đã nhẹ nhàng nói: “Martha, Martha, con
lo lắng bối rối nhiều chuyện quá! Chỉ có một điều cần thôi. Maria đã chọn phần
tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”.
Vậy Chúa muốn dạy chúng ta điều gì?
Chúa không nói Martha làm sai, vì
việc nấu ăn và tiếp khách cũng rất tốt, thể hiện lòng yêu mến. Nhưng Chúa muốn
nhắc rằng: nghe lời Chúa, cầu
nguyện với Chúa là điều quan trọng hơn hết. Vì khi ta ở gần
Chúa, tâm hồn ta được bình an, được đầy tràn tình yêu để rồi ta mới có sức mạnh
đi làm những việc tốt khác.
Các con thân mến,
Trong đời sống hằng ngày, có khi chúng ta cũng giống như chị
Martha: lo học bài, làm việc nhà, chơi thể thao, đi sinh hoạt, v.v... Những
việc ấy tốt chứ! Nhưng nếu ta bận rộn đến mức quên cầu nguyện,
quên đọc Kinh Thánh, không dự lễ Chúa Nhật, thì coi chừng mình quên mất “phần tốt nhất” mà Chúa muốn ta chọn.
Vậy phải làm sao?
Chúng ta hãy là cả Martha và Maria!
- Giống Maria, ta dành thời gian để
cầu nguyện mỗi ngày, đọc lời Chúa, nói chuyện với Chúa.
- Giống Martha, ta siêng năng giúp đỡ
cha mẹ, sống lễ phép, học hành chăm chỉ, biết chia sẻ với bạn bè.
Các con hãy nhớ điều này nhé:
- Có Chúa trong lòng, mọi việc ta làm đều trở nên đẹp hơn.
- Cầu nguyện không phải chỉ khi rảnh, mà là cần thiết mỗi ngày.
- Khi mệt mỏi hay buồn phiền, hãy nói chuyện với Chúa – như Maria
ngồi bên chân Chúa vậy.
Cha hỏi các con nè:
- Sáng nay con đã cầu nguyện chưa?
- Tối qua con có đọc kinh với gia đình không?
- Con có từng giúp mẹ dọn cơm hay rửa chén chưa?
Nếu có, con đang sống như Maria và Martha,
và Chúa Giêsu rất vui lòng đấy!
Kết luận: Chúa Giêsu
muốn mỗi người chúng ta biết dành thời gian cho Chúa, biết yêu thương
và phục vụ người khác. Cầu nguyện là lúc ta đổ đầy “bình yêu
thương”; phục vụ là lúc ta rót yêu thương ấy cho người khác.
Vậy con có muốn vừa
là Martha siêng năng, vừa là Maria thánh thiện không?
Nếu có, hãy bắt đầu từ hôm nay:
- Dành vài phút thinh lặng bên Chúa mỗi ngày.
- Siêng năng đọc kinh, tham dự Thánh Lễ.
- Và biết sống yêu thương, giúp đỡ mọi người.
Cha cầu chúc các con luôn giữ Chúa trong lòng và sống vui tươi như những thiên thần nhỏ của Chúa!
Suy niệm 5:
Bài đọc 1: trình thuật lại câu chuyện tổ phụ Abraham tiếp đón ba vị khách, trong đó có Thiên Chúa. Abraham không chỉ thể hiện lòng hiếu khách mà còn nhận được lời hứa từ Ngài. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của lòng hiếu khách và sự cởi mở với những gì Thiên Chúa gửi đến trong cuộc sống của chúng ta.
Lòng hiếu khách của
Abraham dạy cho chúng ta bài học về việc mở lòng với người khác. Liệu tôi có sẵn
sàng mở cửa trái tim và ngôi nhà của mình cho người khác không?
Qua sự gặp gỡ
này, chúng ta có thể thấy Thiên Chúa luôn hiện diện trong những điều bình dị và
chúng ta cần chú ý đến những gì Ngài muốn nói với chúng ta qua hoàn cảnh của cuộc
sống.
Bài đọc 2: Thánh Phaolô nói về những đau khổ mà Ngài
chịu đựng cho Giáo hội và về kế hoạch của Thiên Chúa trong việc cứu độ nhân loại
qua Chúa Giêsu Kitô. Ngài cảm thấy vinh dự khi được cộng tác trong sứ vụ rao giảng
Tin Mừng.
Câu hỏi đặt ra
là: Tôi có sẵn lòng chịu đựng và hy sinh vì sứ vụ của Thiên Chúa không?
Chúng ta được kêu
gọi để trở thành những công cụ của Thiên Chúa trong việc rao giảng Lời Ngài và
chia sẻ hy vọng với những người xung quanh.
Bài Tin Mừng: Trong đoạn này, Chúa
Giêsu đến thăm nhà Marta và Maria. Marta bận rộn phục vụ, trong khi Maria ngồi
lắng nghe Lời Chúa. Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Marta phản ánh sự cân bằng
giữa việc hành động và việc lắng nghe.
Cảnh tượng này
làm nổi bật sự cần thiết của việc lắng nghe Lời Chúa. Chúa Giêsu khẳng định rằng
việc lắng nghe và tiếp nhận lời Ngài là điều cần thiết hơn cả.
Trong cuộc sống bận
rộn ngày nay, chúng ta có thể dễ dàng bị cuốn vào những công việc thường nhật
và quên mất việc dành thời gian cho Thiên Chúa. Tôi cần đặt ra thời gian để cầu
nguyện và lắng nghe tiếng Chúa trong cuộc sống của mình.
Maria chọn phần tốt
nhất, và điều đó không thể bị lấy đi. Làm thế nào tôi có thể chọn phần tốt nhất
trong các lựa chọn của mình hàng ngày?
* Ba bài đọc này đều mời gọi chúng ta suy ngẫm về việc mở lòng với Thiên Chúa và với người khác, về sự hy sinh trong sứ vụ, và đặc biệt là tầm quan trọng của việc lắng nghe và tiếp nhận Lời Chúa.
Chúng ta hãy cầu xin ơn Thánh Thần để biết lựa chọn phần tốt nhất trong cuộc sống của mình, luôn hướng về Thiên Chúa và phục vụ anh chị em với tâm tình yêu thương và khiêm nhường.
Suy niệm 6: ĐÓN TIẾP CHÚA VỚI TRÁI TIM LẮNG NGHE – GIEO HY VỌNG GIỮA ĐỜI
CÂU CHUYỆN CHIẾC GHẾ TRỐNG
Tại một vùng quê nước Anh, có một cụ già sống một
mình trong căn nhà nhỏ. Ông không còn ai thân thích bên cạnh. Ngày nọ, cha xứ
đến thăm và thấy bên cạnh chiếc ghế ông cụ đang ngồi có một chiếc ghế trống kê sát lò sưởi. Khi
được hỏi, ông cụ mỉm cười nói:
- “Thưa cha, chiếc ghế này con để dành cho Chúa
Giêsu. Mỗi ngày, con ngồi đối diện với chiếc ghế ấy và thưa chuyện với Chúa như
với một người bạn. Con chẳng thấy Người đáp lời, nhưng lạ thay, con luôn cảm
thấy bình an và hy vọng.”
- Vài tuần sau, ông cụ qua đời rất thanh thản. Người ta thấy tay cụ đặt nhẹ lên chiếc ghế trống bên cạnh như thể cụ đã đặt tay mình vào tay Chúa, để bước vào cuộc gặp gỡ vĩnh hằng…
Anh
chị em thân mến,
Câu
chuyện ấy không chỉ cảm động, mà còn chất chứa một sứ điệp quan trọng: cuộc sống này sẽ tràn đầy hy vọng nếu ta biết
dành “một chỗ” cho Chúa trong tâm hồn của mình mỗi ngày, ngang qua thái
độ lắng nghe, đối thoại, và ở lại với Chúa. Đó cũng chính là nội dung mà sứ
điệp Lời Chúa hôm nay muốn nói với chúng ta.
- Bài đọc 1, sách Sáng Thế cho ta biết
được tấm lòng hiếu khách của tổ phụ Abraham. Khi thấy ba vị khách lạ đi ngang,
ông vội vã chạy ra đón, cúi mình, nài xin họ nghỉ lại, rồi đích thân chuẩn bị
bữa ăn thịnh soạn cho ba vị khách lạ đỗ nhà.
Chính trong hành động đón tiếp nồng nhiệt và trân
trọng này, ông đã được Chúa ban cho một lời hứa bất ngờ: bà Sara vợ
ông sẽ sinh con, dù tuổi đời đã cao. Lời hứa ấy đã bừng lên trong ông tia sáng
hy vọng giữa cảnh đời tưởng chừng như bế tắt, cạn kiệt.
Qua đó, Chúa muốn nói với chúng ta rằng: mỗi lần ta
đón tiếp người khác cách trân trọng, mỗi lần ta mở lòng để đón nhận Chúa nơi
tha nhân là mỗi lần ta mở ra cho chính mình một tương lai đầy tràn ánh sáng hy
vọng.
- Bài đọc 2, trong thư gửi tín hữu Cô-lô-sê,
Thánh Phaolô chia sẻ một điều nghịch lý: “Tôi vui mừng khi được chịu đau khổ
vì anh em…” Vì, trong đau khổ ấy,
Thánh Phaolô cảm nghiệm được sự hiện
diện sống động của Chúa Kitô, Đấng là niềm hy vọng vinh quang. Đó không
phải là niềm hy vọng ảo tưởng, mà là một mầu nhiệm sâu xa vì: Chúa đang ở giữa chúng ta, giữa những
thử thách, giữa dấn thân phục vụ, giữa những gì ta đang hy sinh vì Tin Mừng.
Cho
nên dù có vất vả, thánh Phaolô vẫn hăng say loan báo Tin Mừng, để mọi người
được bước vào niềm hy vọng ấy.
- Nhưng nổi bật nhất
trong phần phụng vụ lời Chúa hôm nay, vẫn là hình ảnh của hai chị em Martha và Maria mà Tin Mừng nói
đến. Khi Chúa Giêsu đến nhà, Martha tất bật chuẩn bị mọi thứ bên ngoài
để phục vụ Chúa và các môn đệ; còn Maria thì lại ngồi bên chân Chúa để lắng nghe lời Người.
Khi
Martha phàn nàn về cô em, Chúa Giêsu lại nhẹ nhàng đáp: “Chị lo lắng nhiều
chuyện, nhưng chỉ có một điều cần thiết. Maria đã chọn phần tốt nhất.”
Có
lẽ không phải Chúa Giêsu xem thường những việc làm của Martha, nhưng Người muốn
nhấn mạnh cho ta biết rằng: mọi hành
động chỉ có giá trị một khi nó được bắt nguồn từ một tâm hồn gắn bó với Chúa.
Trong
thế giới ngày nay, nhiều người sống như Martha: bận rộn, căng thẳng, lo âu…
nhưng lại thiếu đi điều cốt lõi: một
trái tim biết dừng lại để lắng nghe và để cho Chúa hiện diện trong tâm hồn
mình.
Cộng
đoàn phục vụ hân mến,
Trong
Năm Thánh Hy Vọng này, Lời Chúa nhắc nhở mỗi chúng ta:
-
Hãy dành một “chiếc ghế trống” mỗi ngày
cho Chúa hiện diện, như cụ ông của câu chuyện trên.
-
Hãy khôn ngoan chọn phần tốt nhất như
cô Maria, đó là: ngồi bên chân Chúa, để lắng nghe lời Người dạy bảo và hướng
dẫn.
-
Hãy chân thành đón tiếp tha nhân như tổ
phụ Abraham, với mong muốn gieo niềm hy
vọng cho nhữn ai lỡ bước.
-
Hãy tích cực dấn thân phục vụ Tin mừng
với niềm tin tưởng vững vàng vào ơn ban của Chúa như tông đồ Phaolô, dẫu đời
mình có chịu nhiều gian lao, thử thách.
- Hãy tin rằng: một khi có Chúa hiện diện trong đời
mình, thì mọi bận rộn sẽ trở nên ý nghĩa, mọi hy sinh sẽ trở nên phong phú, và
ngay cả những khổ đau cũng được Chúa biến đổi thành niềm hy vọng.
Xin Chúa cho chúng con biết lại bên Chúa để lắng
nghe lời Chúa dạy bảo như cô Maria, vì đó phần tốt nhất, không ai lấy mất đi.
Giữa những bộn bề lo toan của cuộc sống, xin cho
chúng con biết dành cho Chúa một chỗ trong lòng mình, để Chúa ban ơn, nân đỡ và
biến đổi chúng con trở nên những chứng nhân cho tình yêu Chúa, đem đến niềm
vui, bình an và hy vọng cho mọi người. Amen.
Thứ hai: Xh 14,5-18; Mt 12,38-42.
Suy niệm 1:
Kinh nghiệm cho thấy: "Người buồn
cảnh có vui bao giờ". Việc thay đổi con người không hệ tại ở hình thức bên
ngoài, nhưng trước hết là phải thay đổi tận cõi lòng, thay đổi não trạng và cái
nhìn.
Mặc dù chứng kiến bao là phép lạ Chúa Giêsu đã
làm; mặc dù đã nhiều lần vỗ tay ca ngợi những lời hay ý đẹp của Chúa Giêsu,
nhưng rốt cùng nhiều người Do Thái, đặc biệt là nhóm người Pha-ri-sêu và Biệt
phái vẫn không tin.
Như hết cách, Chúa Giêsu đành phải thốt lên: “Thế
hệ này là một thế hệ gian ác, chúng xin điềm lạ. nhưng chúng sẽ không thấy được
dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Gio-na”. Như một cố gắng cuối cùng, Chúa
Giêsu đã dùng lại hai câu chuyện ngày xưa với hy vọng họ suy nghĩ lại mà thay
đổi não trạng.
- Nhắc lại chuyện Giona ngày xưa, nhằm lưu ý họ
rằng: Ngày xưa dân thành Ninivê chỉ nghe lời rao giảng miễn cưỡng của Ngôn sứ
Giona. Vậy mà cả thành, từ vua đến dân, từ già đến trẻ, từ người đến súc vật
đều ăn chay sám hối và khẩn xin sự tha thứ của Chúa. Vậy mà hôm nay có Người
còn hơn Giona. Đấng mà Giona loan báo đã đến và rao giảng, vậy mà họ lại không
để tâm ăn năn hối cải. Thật đáng buồn!
- Nhắc lại câu chuyện nữ hoàng Phương nam vượt
đường xa vạn dặm, bất chấp khó khăn, tốn kém đến để diện kiến vị vua khôn ngoan
là Salomon. Bà ta đã toại nguyện, hết lòng cảm phục sự khôn ngoan của nhà vua.
Nhưng ở đây còn trọng hơn vua Salomon nữa, vì Người chính là sự khôn ngoan của
Thiên Chúa và là vua trên hết các vị vua. Thế mà họ chẳng thèm nghe. Thật đau
lòng!
Chính lòng tự mãn làm cho họ trở nên mù quáng nên
đã làm hỏng hết mọi ơn phúc, vì thế không còn cách nào để tự chữa mình được
nữa.
Xin cho chúng ta đừng như thế hệ Do Thái xưa, mù
quáng và tự mãn. Nhưng hãy trở nên giống dân thành Ninivê và nữ hoàng Phương
nam có cái nhìn ngay chính để nhận ra chân lý mà theo đuổi; cũng như biết khiêm
tốn nhận mình còn nhiều khiếm khuyết, thiếu sót, tật xấu và tội lỗi, để theo sự
khôn ngoan của Chúa hướng dẫn mà sửa đổi đời sống mỗi ngày nên tốt hơn.
Suy niệm 2: TIN TƯỞNG NGAY CẢ KHI CHƯA THẤY DẤU LẠ
Cuộc
sống chúng ta nhiều lúc tưởng như không còn lối thoát: bệnh tật, tai ương, thất
bại, thử thách chồng chất… Trong những lúc ấy, chúng ta thường hay thốt lên:
“Chúa ở đâu? Sao Chúa không làm phép lạ?”
Lời
Chúa hôm nay nhắc chúng ta: có những
lúc Thiên Chúa không ban ngay dấu lạ, vì chính niềm tin khi chưa thấy mới là
phép lạ lớn nhất.
Có một người lính trẻ bị kẹt lại sau một trận giao
tranh. Anh chạy trốn quân địch và ẩn mình trong một hang động nhỏ. Khi đã vào
trong hang, anh cầu nguyện tha thiết: “Lạy Chúa, xin cứu con. Con tin Chúa có
thể làm bất cứ điều gì. Xin che giấu con khỏi quân thù!”
Lát sau, một con nhện nhỏ xuất hiện và bắt đầu
giăng tơ ở ngay cửa hang. Người lính bực mình nghĩ: “Con cầu xin Chúa cho con
một phép lạ như thiên thần chặn cửa hang mà Chúa lại gửi đến… một con nhện!”
Nhưng rồi, quân địch đuổi tới. Khi đi qua cửa
hang, thấy lớp tơ nhện mỏng manh còn nguyên, họ kết luận: “Chắc không ai vào
hang này đâu!” Và họ bỏ đi.
Sau này, anh lính viết trong nhật ký: “Ở nơi tưởng
như là đường cùng, Chúa đã dùng một con nhện để mở cho tôi con đường sống. Nếu
có Chúa, tơ nhện cũng trở thành bức tường thép. Nếu không có Chúa, bức tường
thép cũng chẳng bảo vệ nổi tôi.”
-
Bài đọc I hôm nay nêu bật lên ý tưởng ấy. Khi dân Israel kẹt giữa Biển Đỏ và
đạo quân Ai Cập. Họ hoảng sợ và kêu trách Môsê. Nhưng Môsê nói với họ một câu
tuyệt đẹp: “Anh em hãy đứng vững, rồi sẽ
thấy ơn cứu độ của Đức Chúa.”
Thật
vậy, chính tại nơi tưởng là tận cùng, Thiên Chúa mở ra con đường kỳ diệu giữa
biển khơi. Không phải vì dân có công, mà vì họ dám đứng vững trong đức tin.
-
Còn bài Tin Mừng cho biết người Pharisêu đòi Chúa Giêsu làm dấu lạ. Nhưng Chúa
cảnh báo: ai không tin từ trong lòng,
dù thấy phép lạ cũng chẳng hoán cải. Và Ngài tuyên bố: dấu lạ lớn nhất
là “dấu lạ ngôn sứ Giôna”, tức là chính sự chết và phục sinh của
Ngài. Đó là một dấu lạ âm thầm nhưng mạnh mẽ, chiến thắng cả sự chết và tội
lỗi.
Anh
chị em thân mến,
Cuộc
đời chúng ta có những lúc cũng như người lính trong hang, hay như dân Israel
bên bờ biển: không thấy đường, không thấy phép lạ, chỉ thấy bóng tối. Nhưng
Thiên Chúa vẫn đang âm thầm hành động. Đức
tin thật sự là dám bước tới, dù chưa thấy gì cả.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta một niềm tin vững vàng, không phải tin vì thấy dấu lạ, mà tin vì biết Chúa yêu thương và đồng hành với ta, kể cả khi mọi sự tưởng như vô vọng.
Suy niệm 3: TIN TƯỞNG VÀ SÁM HỐI: CON
ĐƯỜNG VƯỢT QUA THỬ THÁCH
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến sức mạnh của niềm tin và sự cần thiết của lòng sám hối như
hai phương thế giúp chúng ta vượt qua thử thách trong đời sống đức tin.
- Bài đọc 1, dân Israel rơi vào tình
cảnh hiểm nghèo: trước mặt là Biển Đỏ, sau lưng là quân Ai Cập truy đuổi. Họ
hoảng sợ và kêu trách, nhưng Môsê mời gọi họ tin tưởng vào Thiên Chúa. Chính nhờ niềm tin đó mà họ đã chứng
kiến bàn tay quyền năng của Thiên Chúa chiến đấu và giải cứu họ.
- Bài Tin Mừng cho biết các luật sĩ và biệt phái đòi Chúa Giêsu làm dấu lạ, dù đã chứng kiến nhiều phép lạ trước
đó. Sự cứng lòng của họ khiến Chúa chỉ nhắc đến "dấu lạ Giona" , hình
ảnh báo trước cái chết và phục
sinh của chính Người. Dấu lạ ấy không chỉ biểu lộ quyền năng, mà
còn là lời mời gọi sám hối và trở
về với Thiên Chúa.
Chúa cũng nhắc đến nữ hoàng phương Nam và dân thành Ninivê, đó là những
người biết tìm kiếm chân lý và sẵn
sàng hoán cải, trái ngược với sự thờ ơ và cố chấp của nhiều người như
họ.
Lời Chúa hôm nay như cảnh tỉnh mỗi người chúng ta:
- Có khi nào chúng ta
tìm kiếm những dấu lạ lớn lao mà bỏ qua sự hiện diện của Chúa trong những điều
bình thường mỗi ngày?
- Chúng ta có dám sám hối, tin tưởng và để Lời Chúa hướng dẫn đời sống mình?
Trong mọi hoàn cảnh, dù khó khăn hay nghi nan, hãy bước đi trong ánh sáng đức tin, để Đức Giêsu, Đấng cao trọng hơn Giona và Salômôn trở nên ánh sáng và sức mạnh dẫn chúng ta qua mọi thử thách, với một tâm hồn tin tưởng và sám hối chân thành.
Thứ ba: Dc 3,1-4a; Ga 20,1-2.11-18
Kính Thánh Nữ Maria Magđalêna
Ngày 23 tháng 7 năm 2006, Đức Giáo hoàng
Bê-nê-đic-tô XVI đã nói về Maria Ma-da-le-na trong thông điệp của ngài trước Kinh
Truyền Tin. Ngài gọi thánh nữ là "một môn đệ của Chúa, đã đóng vai trò
hàng đầu trong các sách Phúc Âm".
Ngày 10/6/2016, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô quyết định nâng việc cử hành lễ nhớ của Thánh nữ Maria Ma-da-le-na lên hàng
lễ kính trong phụng vụ.
Đức Tổng Giám mục Roche cho hay: "Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã đưa ra quyết định này trong bố cảnh Năm Thánh của Lòng Chúa Thương Xót nhằm nói lên tầm quan trọng của người phụ nữ này. Bà đã dành một tình yêu lớn lao và lòng mến Chúa Kitô nồng nàn. Ngài nhắc lại lời Thánh Tô-ma A-qui-nô gọi Thánh nữ Maria Ma-đa-lê-na là "Tông đồ của các Tông Đồ" (A-pos-to-lo-rum A-pos-to-la), kể từ khi bà loan báo cho các tông đồ sự sống lại của Chúa, để từ đó các ông tiếp tục công bố tin vui này cho toàn thế giới. "Vì vậy thật là chính đáng để nâng lễ này lên bậc lễ kính trong phụng vụ ngang hàng với việc cử hành lễ của các Thánh Tông đồ, hầu làm nổi bật sứ vụ của người phụ nữ này, như là một tấm gương và kiểm nẫu cho nữ giới trong Giáo Hội".
Nếu
chỉ dùng một từ để diễn tả con người và sứ vụ của thánh nữ
Maria-Mađalêna, thì từ "tình yêu" là từ phù hợp và sâu sắc nhất.
Vì sao là "tình yêu"?
- Tình yêu được tha thứ:
Thánh nữ là người đã được Chúa Giêsu tha thứ và chữa lành (Lc 8,2), và từ
đó, bà yêu mến Chúa cách nồng nàn.
- Tình yêu trung tín:
Khi mọi môn đệ bỏ trốn, bà vẫn đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25).
- Tình yêu kiếm tìm:
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi trời còn tối, bà đã vội đến mộ Chúa
(Ga 20,1).
- Tình yêu loan báo:
Chính bà là người đầu tiên được Chúa phục sinh hiện ra và được sai đi loan báo
Tin Mừng Phục Sinh. Nên thánh nữ xứng danh là “Tông đồ của các Tông đồ” (Ga
20,17-18).
Tóm lại:
"Tình yêu" là từ bao trùm trọn vẹn cuộc đời, hoán cải, lòng trung thành và sứ vụ loan báo Tin Mừng của thánh Maria-Mađalêna.
Suy niệm 1: Dựa trên những gì Tin Mừng nói đến, chúng ta có
thể gạch vài đầu dòng về thánh nữ Maria Magđalênna mà Giáo hội mừng kính hôm
nay:
- Tên của thánh nữ xuất phát từ tên của thị trấn
nguyên quán là Mác-đa-la (Mag-da-la), xứ Ga-li-lê.
- Theo Tin mừng thánh Luca thì Thánh Maria
Magđalêna sống cùng thời với Chúa Giêsu. Bà đã từng bị bệnh và bị quỷ ám, nhưng
được Chúa Giêsu chữa lành và giải thoát khỏi 7 quỷ. Bà đã nhập đoàn với các bà
đạo đức đi theo Chúa Giêsu để giúp đỡ Ngài trên hành trình truyền giáo.
(x. Lc 8,2-3).
- Bà đã theo Chúa Giêsu đến giây phút cuối
cùng, nên đã chứng kiến cuộc thương khó và cái chết của Chúa Giêsu trên thập
giá. (Mc 15,40).
- Bà cũng đã cẩn trọng để ý xem ông Giô-xếp hạ
xác, tẩm liệm và an táng Chúa Giêsu trong mộ đá như thế nào. (x. Mc
15,46-47).
- Đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay cho biết bà rất
yêu Chúa Giêsu.
Chính tình yêu thúc đẩy nên bà đã ra thăm mộ Chúa
từ sáng sớm của ngày thứ nhất trong tuần.
Vì lòng mến yêu Chúa, bà đã hốt hoảng và khóc nức
nở khi thấy ngôi mộ trống và không nhìn thấy xác Chúa đâu.
Và cũng vì yêu Chúa, bà đã tìm đủ mọi cách để tìm
lại Người như: trình bày nỗi lòng với hai Thiên Thần: "Người ta đã
lấy mất Chúa tôi rồi”; cũng như hỏi xem hai Thiên Thần có biết
Chúa Giêsu ở đâu không?.
Dù lệ rơi có làm cho đôi mắt bà trở nên lờ mờ
không nhận ra Chúa. Nhưng với con tim nhạy bén, bà vẫn đủ sáng suốt và nhạy cảm nhận ra
tiếng Chúa gọi: “Maria!” Trong niềm vui sướng và với lòng yêu
mến chân thành, bà muốn giữ Chúa ở lại mãi bên mình. Nhưng Chúa Phục sinh bảo
bà: "Đừng giữ Thầy lại...", mà hãy ra đi để gặp gỡ
và chia sẻ về những điều mà mình đã thấy và kể lại những điều Người đã nói!
Như vậy dựa vào những trình thuật của Tin Mừng, ta
có thể rút ra 3 bài học quan trọng sau đây:
1. Thánh nữ có một tình yêu nồng nàn dành cho Chúa
Giêsu: gia nhập vào nhóm phụ nữ đạo đức đi theo phục vụ Chúa Giê-su và các tông
đồ trên hành trình rao giảng Tin Mừng; trung thành theo Chúa Giê-su đến giây
phút cuối cùng và đã hiện diện dưới chân thập giá cũng như khi tẩm liệm xác
Chúa Giê-su trong mộ đá.
2. Thánh nhân có lòng quảng đại: ngoài việc sẵn
sàng bỏ lại tất cả để đi theo phục vụ Chúa trên hành trình rao giảng Tin Mừng,
thánh nữ cũng không tiếc trút cạn bình dầu cam tùng hảo hạng để xức lên chân
Chúa và lấy tóc mình mà lau.
3. Thánh nhân đã cảm nhận phần nào mầu nhiệm phục
sinh ngay còn tại thế: Được Chúa Giê-su trừ bảy quỷ, chữa bệnh và tha thứ tội
lỗi nên Maria Ma-da-le-na-đã được phục hồi lại nhân phẩm và bắt đầu lại cuộc
sống mới. Chị đã cảm nhận được niềm vui được phục sinh như thế nào sau những
ngày dài tăm tối của quá khứ đầy tội lỗi. Hơn ai hết, chị đã có được kinh nghiệm
niềm vui phục sinh như thế nào; nên sứ vụ loan báo Tin Mừng phục sinh cho các
tông đồ được Chúa trao phó cho chị thật là xứng hợp.
Mong rằng mỗi chúng ta cũng có được tình yêu Chúa
một cách nồng nàn như thánh nữ Maria Ma-đa-lê-na.
Ước chi mỗi chúng ta cũng có lòng quảng đại, dám
hy sinh thời giờ, sức khỏe, khả năng và tiền của để phục vụ Chúa trong sứ vụ
loan báo Tin Mừng; nhất là sẵn sàng trung thành bước theo Chúa trong mọi cảnh
huống của cuộc đời, theo gương thánh nữ Maria Ma-đa-lê-na.
Xin cho chúng ta cũng biết thao thức được ở
gần bên Chúa, Đấng đã yêu thương và sẵn sàng hiến mình cho chúng ta được sống
và sống dồi dào. Biết noi gương thánh nữ Ma-ri-a Ma-đa-lê-na nhiệt tâm ra đi
loan báo niềm vui phục sinh đến cho mọi người, nhất là những ai còn đang sống
trong cảnh đau buồn, thất vọng vì nghèo khổ và tôi lỗi; đó chính là cách thức
thể hiện tình yêu dành cho Chúa cách hiệu quả và cụ thể nhất.
Suy niệm 2: TIỀN HÔ
Hôm nay (22/7), Giáo Hội cử hành lễ kính Thánh nữ Maria Madalena, ngài là một trong những phụ nữ được đề cập đến trong Tân
Ước.
Tên của thánh nhân xuất phát từ tên của thị trấn
nguyên quán là Mácđala (Magdala), xứ Galilê.
- Kinh Thánh giới thiệu thánh nhân như là một
trong những người phụ nữ đã được Chúa Giêsu trừ quỷ và chữa bệnh. “Đó
là bà Maria gọi là Maria Mácđala, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ”.
(Lc 8, 2).
- Một số học giả xác định Maria Madalena là người
phụ nữ tội lỗi đã xức dầu lên chân của Chúa Kitô ngay tại nhà của ông Simon
người Pharisiêu (Lc 7, 36-50).
- Có một nhân vật khác tên là Maria, người em gái
của Mácta và Ladarô (Lc 10, 38-42; Ga 11).
Như thế, một số người tin rằng, ba người tên Maria
mà Tân Ước đề cập, đó chỉ là một người, trong khi lại có người cho rằng, họ là
ba nhân vật khác nhau.
Những gì mà Kinh Thánh quả quyết về Maria
Magdalena: cô là một người đã đi theo Chúa Kitô và đồng hành trong hoạt động
sứ vụ của Ngài (Lc 8, 2-3). Phúc Âm còn ghi chép Maria Madalena như là một
trong những phụ nữ hiện diện tại nơi Chúa Kitô bị đóng đinh vào thập giá.
Ngoài ra, cô là người đầu tiên chứng kiến sự Phục
Sinh của Chúa. Bốn Tin Mừng đều mô tả Maria Madalena là người đi đến mộ vào
rạng sáng ngày Chúa Phục Sinh. Khi cô nhìn thấy ngôi mộ trống không, cô đã đứng
bên ngoài và khóc lóc. Chúa Giêsu hiện ra với cô và hỏi, "Này bà,
sao bà khóc? Bà tìm ai?" (Ga 20,15). Cô không nhận ra Người mà
nghĩ rằng đó là người làm vườn, cho đến khi Người gọi tên cô: “Maria!” (Ga
20,16). Khi nghe thấy vậy, Maria đã nhận Người. Cô quay trở về nơi các môn đệ
đau buồn thông báo cho họ thông điệp Phục Sinh.
Ngày 23 tháng 7 năm 2006, Đức Giáo hoàng Benedict
XVI đã nói về Maria Madalena trong thông điệp của mình trước Kinh Truyền Tin.
Ngài gọi thánh nữ là "một môn đệ của Chúa, đã đóng vai trò hàng đầu trong
các sách Phúc Âm".
Đức Giáo hoàng tưởng nhớ lại sự hiện diện của
Maria Madalena “dưới chân Thập giá” vào Thứ Sáu Tuần Thánh, cũng như cách mà
“cô đã khám phá ra ngôi mộ trống" vào rạng sáng Phục Sinh.
"Câu chuyện của Maria thành Mácđala nhắc nhở
tất cả chúng ta một sự thật hiện hữu", Đức Giáo hoàng Benedict nói.
"Thánh nữ là một trong những môn đệ của Chúa Kitô, trong kinh nghiệm yếu
đuối của con người, ngài đã khiêm nhường cầu xin Chúa thương xót, và đã được
Chúa tha thứ, để rồi tiếp tục đi theo Chúa mà trở thành một nhân chứng về điều
này: tình thương xót của Chúa mạnh hơn tội lỗi và sự chết".
Suy niệm 3: TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ
Hôm
nay, Giáo Hội long trọng kính nhớ Thánh nữ Maria Mađalêna, người phụ nữ đã từng
sống trong bóng tối tội lỗi, nhưng nhờ gặp được Đức Kitô, đã bước vào ánh sáng
của tình yêu và trở thành nhân chứng đầu tiên loan báo Tin Mừng Phục Sinh.
Thánh nhân là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta về hoán cải, yêu mến và loan
báo Đức Kitô.
1. Người phụ nữ được yêu thương và thứ tha
Truyền
thống Giáo Hội vẫn thường đồng hóa Maria Mađalêna với người phụ nữ tội lỗi đã
khóc dưới chân Chúa Giêsu và được tha thứ (x. Lc 7,36-50). Dù các học giả ngày
nay có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng rõ ràng Tin Mừng cho thấy: bà là người đã được Chúa trừ bảy quỷ, nghĩa là
từng rơi vào tột đỉnh của sự khống chế bởi tội lỗi và sự dữ. Và cũng chính vì
thế, bà đã yêu mến Chúa cách nồng nàn.
“Ai được tha nhiều thì yêu nhiều” (Lc
7,47) . Câu nói này ứng nghiệm nơi Mađalêna.
Không
ai trong chúng ta là hoàn hảo. Nhưng điều quan trọng không phải là quá khứ, mà
là chúng ta để cho tình yêu Chúa chữa
lành và biến đổi hôm nay như thế nào.
2. Người phụ nữ trung thành và can đảm
Khi
các môn đệ bỏ trốn, Maria Mađalêna là một trong số ít người ở lại dưới chân thập giá. Bà đã khóc Chúa, đi tìm Chúa, và ở lại bên mồ,
dù không biết điều gì sẽ xảy ra. Trong Tin Mừng hôm nay, bà là người đầu tiên
thấy mồ trống, và cũng là người đầu tiên được gặp Chúa Phục Sinh.
Điều
kỳ diệu là: Người yêu nhiều thì sẽ được
gặp Chúa trước tiên!
Nước
mắt của tình yêu, của sự mất mát, đã trở thành ánh sáng dẫn đến cuộc gặp gỡ vinh quang với Đấng Phục Sinh.
3. Từ người tội lỗi đến "Tông đồ của các tông đồ"
Sau
cuộc gặp gỡ, Chúa Giêsu nói với bà: “Hãy đi và loan báo cho anh em Thầy...”
, một sứ mạng không phải dành cho các tông đồ đầu tiên, mà dành cho bà
Mađalêna.
Từ
một người từng bị khinh chê, giờ đây bà trở thành người đầu tiên loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Vì thế bà được gọi là “Tông đồ của các
tông đồ”.
Chiêm
ngắm thánh nữ Maria Mađalêna nhắc ta
hiểu rằng:
-
Không ai là quá tội lỗi để không được
Chúa yêu thương.
-
Ai thực sự yêu Chúa sẽ được biến đổi và
trở nên môn đệ đích thực.
-
Tình yêu dẫn đến lòng trung thành, và trung thành dẫn đến ơn gọi loan báo Tin Mừng.
Trong
một thế giới ngày càng lạnh lẽo và dửng dưng, gương của Thánh nữ mời gọi chúng
ta: “Hãy yêu mến Chúa hết lòng, ở lại với Ngài trong thử thách, và hãy ra đi
loan báo rằng: Chúa đang sống!”
Xin cho mỗi người chúng ta, nhờ lời chuyển cầu của Thánh Maria Mađalêna, biết mở lòng để được Chúa chữa lành, biết ở lại với Chúa trong thinh lặng cầu nguyện, và biết lên đường loan báo Chúa bằng chính đời sống yêu thương và phục vụ của mình. Amen.
* Mùa thường niên: Mt 12,46-50
Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta biết những điều kiện cơ bản
cần thiết để xứng đáng trở nên thành viên trong gia đình của Người.
Nhờ tích tích rửa tội chúng ta trở thành con Chúa và là thành viên trong
GH. Nên ngoài gia đình tự nhiên liên hệ bằng huyết thống, chúng ta ta còn có
một gia đình thiêng liêng nhờ được sinh ra trong đức tin. Vì thế, Tin mừng hôm nay, Chúa
Giêsu khẳng định: thành viên trong gia đình của Chúa chính là những người
biết “làm theo ý Cha trên trời”.
Nếu điều kiện căn bản để trở thành người con ngoan trong gia đình tự nhiên
theo huyết thống, ta phải lắng nghe và thi hành điều tốt mà cha mẹ và anh chị
hướng dẫn, chỉ bảo. Cũng vậy để trở thành con ngoan của Thiên Chúa và anh chị
em thật sự với nhau trong gia đình thiêng liêng của đức tin, ta phải lắng nghe
và thực hành Lời Chúa cùng với sự hướng dẫn của GH.
Hơn ai hết Đức Maria là người luôn để tâm lắng nghe và mau mắn thi hành
thánh ý Chúa trong suốt cuộc đời mình. Nên Đức Maria trở nên kiểu mẫu cho đời
sống cho chúng ta.
Khi khám phá những giọt máu trong chiếc khăn liệm thành Turin, các nhà khoa
học đã chứng minh cho biết đó là loại máu B. (B là bái ái, bao dung và bình
an).
Xin cho chúng ta mang lấy dòng máu của Chúa Giêsu
để ta cũng biết sống bác ái, bao dung với mọi người và luôn kiến tạo sự bình an
cho mình và tha nhân nhờ việc lắng nghe và thực thi lời dạy của Chúa. Có như
vậy ta xứng đáng trở thành người thân của Chúa trong gia đình thiêng liêng.
Thứ tư:
23/07: Nhớ thánh Bi-ghít-ta, nữ tu- Thụy Điển
Danh hiệu: Nữ tu, Đấng sáng lập Dòng Đấng
Cứu Chuộc (Ordo Sanctissimi Salvatoris – O.Ss.S)
Thánh quan thầy của: Thụy Điển, châu Âu, các bà mẹ,
các góa phụ, người hành hương.
1. Tiểu sử vắn tắt
- Sinh năm 1303 tại Uppland, Thụy Điển,
trong một gia đình quý tộc.
- Kết hôn với ông Ulf Gudmarsson, sinh được tám người con, trong đó có Thánh Catarina Thụy Điển.
- Sau khi chồng qua đời, thánh nữ chọn đời sống tu
trì, sống khổ hạnh và chiêm niệm sâu sắc.
- Được Chúa ban nhiều thị kiến và mặc khải, đặc
biệt về cuộc thương khó của Chúa Kitô và các mầu nhiệm cứu độ.
- Thành lập Dòng
Đấng Cứu Chuộc (Brigidines) với linh đạo kết hợp chiêm niệm và hoạt
động, sống đời sống đan tu nhưng vẫn hướng ra phục vụ Hội Thánh.
- Qua đời tại Roma năm 1373, hưởng thọ 70 tuổi. Di hài được chuyển về Thụy Điển.
- Được Đức
Giáo hoàng Bonifaciô IX phong thánh năm 1391.
- Năm 1999, Thánh
Gioan Phaolô II đặt thánh nữ làm Thánh
bổn mạng của châu Âu cùng với Thánh nữ Catarina Siena và Thánh nữ Têrêsa
Bênêđicta Thánh Giá.
2. Linh đạo và gương sáng
- Một phụ nữ mạnh mẽ, đầy nghị lực,
dấn thân giữa lòng Giáo Hội trong thời đại đầy khủng hoảng.
- Vừa là người mẹ, vừa là nhà thần
bí, vừa là nhà cải cách Giáo Hội và chính trị.
- Đời sống thánh nữ là sự kết hợp
sâu xa giữa chiêm niệm – hành động, cầu nguyện – dấn thân.
- Các mặc khải của thánh nữ nhấn
mạnh đến lòng thương xót của Chúa Giêsu
chịu thương khó, lòng yêu mến Thánh Thể và lòng đạo đức Đức Mẹ.
3. Lời nguyện trong phụng vụ (tóm lược)
"Lạy Chúa là Đấng nguồn ơn soi sáng, Chúa đã
dạy thánh nữ Bighitta nhận ra và bước theo thập giá Con Chúa. Xin nhờ lời thánh
nữ chuyển cầu, cho chúng con biết vui mừng vác thập giá mình mỗi ngày mà theo
Chúa Kitô..." (St).
Suy niệm 1: MẢNH ĐẤT TÂM HỒN CỦA THÁNH NỮ BIGHITTA
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể dụ ngôn người gieo giống. Hạt giống là Lời
Chúa, và tâm hồn con người là những mảnh đất khác nhau: có đất đá sỏi, có chỗ
đầy gai góc, nhưng cũng có mảnh đất tốt – nơi Lời Chúa sinh hoa kết trái.
Thánh
nữ Bighitta Thụy Điển là một tấm
gương sống động của một mảnh đất màu mỡ,
nơi Lời Chúa được đón nhận, suy gẫm và đem ra thực hành cách triệt để. Từ thời
niên thiếu, thánh nữ đã có lòng yêu mến Lời Chúa, sống đạo sâu sắc. Trong bậc
sống gia đình, bà là người vợ và người mẹ thánh thiện. Khi trở thành góa phụ,
bà dấn bước vào con đường chiêm niệm và dấn thân phục vụ Hội Thánh. Qua các thị
kiến và mặc khải, thánh nữ luôn khát khao Giáo Hội được canh tân, và các tâm
hồn trở về với Chúa.
Nhìn
vào cuộc đời Thánh nữ, ta thấy rõ: để trở thành "đất tốt", không chỉ
cần nghe Lời Chúa, mà còn phải biết chiêm
niệm, đón nhận trong cầu nguyện, và can đảm thực hành dù phải hy sinh, chịu đau
khổ. Chính nơi thập giá, Lời Chúa sinh hoa kết trái.
Hôm nay, khi mừng lễ Thánh nữ Bighitta,
chúng ta được mời gọi:
-
Xét lại tâm hồn mình là mảnh đất nào?
Có sẵn sàng để Lời Chúa bén rễ và sinh hoa trái không?
-
Có can đảm sống chứng tá giữa thế gian, như thánh nữ đã sống trong gia đình,
ngoài xã hội và giữa lòng Hội Thánh không?
Xin Chúa cho tâm hồn chúng ta trở nên mảnh đất
tốt, như tâm hồn thánh nữ Bighitta. Xin cho Lời Chúa được gieo vào đời sống
chúng ta mỗi ngày, và sinh hoa kết trái bằng lòng tin, lòng mến và đời sống bác
ái phục vụ. Amen.
Suy niệm 2:
Chúa Giêsu thường dùng những hình ảnh rất gần gũi
và quen thuộc để nói lên thực tại của cuộc sống. Cụ thể bài Tin mừng hôm nay
Chúa dùng hình ảnh người nông phu ra đi gieo hạt giống.
Với hình ảnh người ra đi gieo hạt, Chúa Giêsu muốn
nói đến lòng quảng đại hào phóng của một vị Thiên Chúa. Ngài sẵn sàng gieo vãi
hạt giống Lời Chúa vào bất cứ nơi đâu, dẫu biết rằng những nơi ấy có thể
không sinh hoa kết quả.
Với hình ảnh môi trường mà hạt giống được gieo
vào, Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến tâm hồn của con người. Môi trường ấy, Chúa
Giêsu cho biết có nhiều loại. Có loại lề đường, có loại sỏi đá, có thứ gai
góc..., nhưng cũng có loại đất tốt.
Hạt giống Lời Chúa thì luôn tốt, có khả năng phát
triển và sinh nhiều bông hạt. Người gieo vãi hạt giống ấy là Thiên Chúa thì
luôn hào phóng và quảng đại không so đo tính toán. Điều quan trọng còn lại là
môi trường lòng người có chuẩn bị sẵn sàng để tiếp nhận hạt giống Lời Chúa hay
không?
Nếu tâm hồn mỗi người chúng ta chính là mảnh đất
tiếp nhận hạt giống Lời Chúa. Thì giờ đây
ta cần xét xem mảnh đất tâm hồn của ta là loại đất nào?
Nếu tâm hồn ta còn mang
nặng những thành kiến, cố chấp, bảo thủ, ngại thay đổi bản thân theo lời dạy
của Chúa và Giáo Hội, thì mảnh đất tâm hồn ta đang thuộc dạng vệ đường.
Nếu tâm hồn chúng ta còn
có những bất hòa, phân biệt, chia rẻ đánh mất tình hiệp thông với tha nhân
thì mảnh đất tâm hồn chúng ta vẫn còn nhiều gai gốc.
Nếu tâm hồn chúng ta còn
sống ích kỉ, kiêu căng, bất công, thiếu bác ái với tha nhân là mảnh đất tâm hồn
của ta còn nhiều sỏi đá.
Xin Chúa cho mảnh đất tâm
hồn của chúng con được nên màu mở để hạt giống Lời Chúa gieo vãi vào có cơ may
mọc lên, phát triển vững mạnh và sinh được nhiều bông hạt tốt tươi qua những
việc làm tốt lành của chúng con.
Suy niệm 3: LỜI CHÚA-LƯƠNG THỰC NUÔI DƯỠNG NIỀM TIN
- Bài đọc 1: Dân Israel than phiền vì đói khát trong sa mạc, và
Thiên Chúa đã ban man-na từ trời
để nuôi dân hằng ngày, như dấu chỉ của tình thương và sự quan phòng không ngừng
của Người.
- Bài Tin Mừng: Dụ ngôn người gieo giống ngầm ý cho ta biết: hạt
giống là Lời Chúa, gieo vào các
loại đất khác nhau, và chỉ nơi "đất tốt" thì mới sinh hoa kết quả dồi
dào.
Như
vậy cả hai bài đọc hôm nay đều nhấn mạnh đến một điều cốt lõi: Thiên Chúa luôn ban ơn nuôi dưỡng con người
không chỉ bằng cơm bánh vật chất, mà nhất là bằng Lời hằng sống của Người.
1. Thiên
Chúa nuôi dưỡng dân Người:
Dân
Israel vừa ra khỏi Ai Cập đã gặp gian nan nơi hoang địa. Họ kêu trách vì sợ
chết đói, nhưng Thiên Chúa không trừng phạt. Ngài kiên nhẫn và yêu thương, ban manna và chim cút, mỗi ngày một ít,
để họ học tin tưởng và sống lệ thuộc vào Người.
Chúa
vẫn đang ban “manna” mỗi ngày cho chúng ta qua Thánh Thể, Lời Chúa, các bí
tích, và cả trong những điều nhỏ bé ta thường coi nhẹ. Nhưng ta có biết nhận ra
không?
2. Lời
Chúa như hạt giống được gieo vào lòng người:
Chúa
Giêsu dùng dụ ngôn rất quen thuộc để nói về hiệu quả của Lời Chúa trong đời sống con người: hạt giống (Lời
Chúa) rất tốt, nhưng kết quả thế nào lại tùy vào tâm hồn người nghe. Có thể như vệ đường, sỏi đá, bụi gai hay đất
tốt.
Vì
thế, nếu tâm hồn ta đầy lo toan, ích kỷ, hoặc hời hợt, thì Lời Chúa sẽ khó mọc
rễ. Chỉ khi ta để Chúa “cày xới” tâm hồn, can đảm loại bỏ gai góc và cứng cỏi,
Lời Chúa mới có thể trổ sinh hoa trái.
-
Câu chuyện minh họa:
Một người nông dân già
mỗi ngày đều đọc Kinh Thánh, nhưng con trai ông hoài nghi:
- Cha đọc hoài mà có nhớ được gì đâu, đọc làm gì?
Ông cụ lặng lẽ lấy chiếc giỏ tre cũ kỹ, đưa cho
con và nói:
- Con hãy dùng cái giỏ này lấy nước từ suối về.
Người con thử, nhưng nước tuôn hết qua các kẽ giỏ.
Anh bảo:
- Cha thấy đó, không giữ được gì!
Ông cụ mỉm cười:
- Nhưng con có thấy cái giỏ bẩn đã sạch hơn nhiều
không? Đó chính là điều Lời Chúa làm cho tâm hồn ta: dù ta không nhớ hết, nhưng mỗi lần nghe, đọc, và sống, tâm hồn ta được
thanh luyện và biến đổi.
Chúa vẫn hằng ban Lời hằng sống để dưỡng nuôi linh hồn chúng ta. Xin cho chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa với tâm hồn khiêm nhường và khao khát, biết để cho Lời Chúa thấm sâu và biến đổi đời sống chúng ta mỗi ngày nên thanh sạch và tươi mới hơn. Amen.
Thứ năm: Xh 19,1-2.9-11.16-20b; Mt 13,10-17
Suy niệm 1:
Khi muốn nói điều gì khó nói, người ta hay dùng
cách ví von.
Khi muốn thổ lộ tâm tình sâu kín, người ta hay nhờ
đến câu chuyện.
Khi muốn diễn tả chân lý tròn đầy, Chúa Giêsu lại
dùng đến dụ ngôn.
Dụ ngôn chính là cách diễn đạt chân lý về
"mầu nhiệm nước trời" dễ hiểu nhất.
Do dụ ngôn mang ý tưởng so sánh và diễn đạt khía
cạnh khó hiểu nên chỉ những ai cố công tìm hiểu mới có thể nhận ra được giá trị
chân lý siêu việt mà Chúa Giêsu muốn nói đến. Nhưng hình như những lời
giảng dạy của Chúa Giêsu bằng dụ ngôn không được dân chúng đón nhận cách tích
cực. Đa phần họ nghe cho vui tai thôi chứ không ra công tìm hiểu. Vì thế Chúa
Giêsu đã không ngần ngại nói thẳng: "Họ nhìn mà không nhìn, nghe
mà không nghe, không hiểu". Duy chỉ có các tông đồ là những người tích
cực chủ động muốn nghe và tìm hiểu lời giảng dạy của Chúa, nên họ được mạc khải
cho biết về mầu nhiệm nước trời. Chắc chắn Chúa Giêsu không cố tình dùng dụ
ngôn nhằm gây khó dễ cho người nghe, nhưng là để xác định xem ai là người thiện
chí thì mới xứng đáng hiểu lời vàng ngọc, châu báo của Chúa dạy.
Nhìn thấy Chúa và Nghe được Lời Chúa quả là diễm
phúc lớn lao cho những người sống cùng thời với Chúa Giêsu rồi. Bởi lẽ "nhiều
ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi được thấy điều anh em thấy mà
không được thấy, nghe điều anh em đang nghe mà không được nghe". Tuy
nhiên nếu nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu thì quả là một bất hạnh to
lớn.
Chúng ta là những người thật hạnh phúc vì được
vinh dự được lắng nghe, gặp gỡ và đón nhận Mình Thánh Chúa hằng ngày qua
thánh lễ.
Xin cho chúng ta biết siêng năng tham dự thánh lễ
với lòng khao khát được nghe lời Chúa và đón nhận chính Chúa vào tâm hồn, nhờ
đó ta cảm nếm được niềm hạnh phúc sâu xa trong cuộc đời này.
Suy niệm
2:
Bài
Tin Mừng hôm nay cho ta biết: không phải ai cũng sẵn sàng đón nhận mạc khải của
Thiên Chúa. Có những người tuy có mắt nhưng không thấy, có tai nhưng không
nghe. Vì lòng họ đã ra chai đá, tâm hồn
họ đóng kín.
- Bài đọc 1, trích sách Xuất Hành cho thấy sự
thánh thiêng và uy nghi của cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và dân Israel tại núi
Xi-nai.
Mọi
sự được chuẩn bị: dân phải thanh tẩy, phải đứng xa núi, vì Chúa là Đấng Thánh.
Và rồi, trong tiếng sấm sét, mây dày, tiếng tù và vang vọng, Chúa hiện xuống,
và dân sợ hãi mà kính sợ.
Thiên
Chúa không giấu mình, nhưng Ngài lại tỏ
mình ra một cách mạnh mẽ, rõ ràng qua các dấu chỉ. Để nhận ra Ngài đòi
hỏi dân chúng phải chuẩn bị một tư thế sẵn sàng, một tâm hồn thanh sạch để đón
nhận.
- Bài Tin Mừng: Chúa Giêsu cũng mạc khải mầu
nhiệm nước trời, nhưng theo cách khác: Ngài dùng dụ ngôn, để người nghe nào có lòng khao khát thì hiểu, còn ai hời
hợt thì vẫn mù mờ. Dụ ngôn không nhằm che giấu, nhưng để thử xem lòng người có thực sự tìm kiếm chân lý hay
không.
- Thiên
Chúa vẫn đang mặc khải cho chúng ta mỗi ngày:
qua Kinh Thánh, các bí tích, biến cố đời sống, và nơi tha nhân. Nhưng chúng ta
có đang lắng nghe với một trái tim rộng mở không?
- Nguy cơ lớn nhất không
phải là không được nghe Lời Chúa, mà là nghe
hoài, nghe quen, rồi chai lì, không còn cảm xúc, không còn khao khát.
- Phúc cho ai biết lắng nghe với tâm hồn đơn sơ, biết tìm kiếm chân lý với lòng khiêm nhường, như các môn đệ ngày xưa. Còn ai đóng kín lòng, thì dù có được giảng dạy cả trăm lần, cũng chẳng thấy gì.
Xin Chúa cho chúng ta có một tâm hồn đơn sơ như các môn đệ Chúa: biết khiêm tốn lắng nghe và mở lòng đón nhận Lời Chúa với lòng tin yêu; biết thanh tẩy tâm hồn như dân Israel xưa, để chúng ta có thể gặp Chúa mỗi ngày, không phải trong tiếng sấm sét mà trong tiếng thì thầm của Thần Khí nơi cõi lòng ta. Amen.
- Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu giải thích với các
môn đệ lý do tại sao Người
lại dùng
dụ ngôn để giảng dạy. Người nói: “Anh em thật có phúc, vì mắt anh em được
thấy, tai anh em được nghe. Quả thế, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã
mong mỏi thấy điều anh em đang thấy mà không được thấy, nghe điều anh em đang
nghe mà không được nghe.” (Mt 13,16-17)
-
Còn trong bài đọc 1, sách Xuất Hành cho ta biết: để đón nhận Giao ước và Lề
Luật tại núi Sinai, nơi Thiên Chúa hiện diện trong uy quyền và khói lửa, dân
Israel đã được Thiên Chúa chuẩn bị tâm thế trước cho xứng hợp.
Từ đó, Chúa muốn nói chúng ta rằng:
-
Đức tin là một hồng ân: Chúa Giêsu cho thấy không phải ai cũng được nghe
và hiểu Lời Chúa. Chúng ta được nghe Lời Chúa, được lãnh nhận các bí tích, đó
là một đặc ân lớn lao.
-
Tấm lòng lắng nghe: Lời Chúa không tự động sinh hoa trái nếu ta không mở
lòng đón nhận. Như dân Israel phải thanh tẩy và chuẩn bị tâm hồn trước khi gặp
Chúa, chúng ta cũng cần có thái độ khao khát và sẵn sàng đón nhận Lời Ngài.
- Nguy cơ chai lì tâm hồn: Có những người nghe mà không hiểu, thấy mà không thấy, vì lòng họ khép kín, như lời ngôn sứ Isaia mà Chúa Giêsu nhắc đến. Mỗi người được mời gọi xin Chúa cho mình có trái tim đơn sơ để nhận ra tiếng Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa vì hồng ân được nghe Lời Chúa mỗi ngày. Xin mở mắt con để thấy những điều kỳ diệu trong cuộc sống, xin mở tai con để nhận ra tiếng Chúa đang mời gọi con sống yêu thương và quảng đại. Amen.
Thứ sáu: 2Cr 4,7-15; Mt 20,20-28
KÍNH THÁNH GIA-CÔ-BÊ-TÔNG ĐỒ
Suy niệm 1:
Mừng kính Thánh Gia-cô-bê tông đồ hôm nay, chúng
ta cùng nhau liệt kê vài nét chính liên quan đến con người của thánh nhân mà
tin mừng đã nói đến.
- Thánh
Gia-cô-bê là anh ruột của thánh Gio-an, quê ở làng Bết-sai-đa, cùng quê với
Phê-rô và An-rê. Cha ngài là ông Dê-bê-đê làm nghề chài lưới. Mẹ ngài là bà
Sa-lô-mê, một người phụ nữ đạo đức được nhắc trong thánh kinh.
- Ngài là
một trong 4 môn đệ đầu tiên được Chúa Giêsu kêu gọi theo Ngài trên biển hồ
Tê-bê-ri-a. Không ngần ngại do dự, Gia-cô-bê đã lập tức bỏ lại tất cả để đi
theo Chúa.
- Trong số
12 tông đồ, ngài là một trong ba môn đệ thân tín và gần gũi Chúa Giêsu nhất.
Ngài được diễm phúc chứng kiến Chúa biến hình trên núi Ta-bo, được chứng kiến
Chúa phục sinh con gái ông Gia-ia, được Chúa sai đi sửa soạn bữa tiệc cuối
cùng; ngài cũng được hiện diện cùng với Chúa trong vườn cây dầu và chứng kiến
giây phút sợ hãi nhất của Thầy Giêsu. Nhất là vinh dự được làm tông đồ đầu tiên
hiến mạng sống để làm chứng cho tin mừng.
- Nhắc đến
tông đồ Gia-cô-bê ai trong chúng ta cũng đều nhớ đến hai tính xấu nổi bật nơi
con người ông.
Thứ nhất: ông là một con người nóng tính.
Một lần Chúa
Giêsu cùng các môn đệ lên Giê-ru-sa-lem, vì phải đi ngang qua Sa-ma-ri-a. Do
đường xa nên Chúa Giêsu sai ông cùng Gio-an đi trước để chuẩn bị chỗ ở. Nhưng
những người trong thành quyết liệt từ chối không cho thầy trò nghỉ trọ. Lý do
vì họ không ưa thích người Do Thái. Tông đồ Gia-cô-bê rất tức giận, nên khi trở
lại gặp Chúa Giêsu, ông đã xin Chúa khiến lửa từ trời xuống thiêu đốt cả dân thành
ấy. Nhưng Chúa không làm theo ý của ông. Trái lại Ngài quở trách ông là
"con của sấm sét". Sau đó thầy trò sang đường khác tiếp tục cuộc hành
trình.
Thứ hai: ông là con người đam mê quyền lực.
Mặc
dù Gia-cô-bê đã theo Chúa, được Chúa dạy bảo và huấn luyện nhiều, nhưng
trong đầu ông vẫn còn mang nặng đam mê quyền lực.
Do đó, có
lần chính ông và em ông là Gio-an trực tiếp đến xin Chúa Giêsu cho ngồi hai bên
tả hữu khi nào Chúa thành lập nước Người. Điều đáng trách là việc này xảy ra
ngay sau khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài. Thật là quá
đáng! Càng quá đáng hơn khi hai anh em ông nhờ cậy chính người mẹ mình đi
cửa sau để xin Chúa cho hai anh em ông được ngồi vào hai chiếc ghế quyền lực
bên cạnh Chúa, một khi giang sơn thuộc về tay Chúa.
Nhưng với Chúa Giêsu thì việc phấn đấu để được
hiểu biết hơn, tài giỏi hơn, tốt lành hơn mà phục vụ lợi ích cho mình, cho
người, cho xã hội và Giáo Hội là việc tốt, nên làm. Nhưng nỗ lực tranh đấu
để được đứng đầu mà thống trị mọi người, hay tạo uy thế cho mình nhằm đến tư
lợi và bắt mọi người phục vụ cho quyền lợi cá nhân thì quả là điều đáng lên án.
Mặc khác cũng cần lưu ý và khiển trách đối với những ai có lòng ghen tị một khi
thấy ai đó tài giỏi hơn mình, tốt lành hơn mình, thành công hơn mình là tỏ ra
ghen tị, khó chịu, tức giận… và tìm cách triệt hạ, bôi nhọ, nói xấu... Hạng
người ấy chỉ đáng là kẻ tiểu nhân.
Xin cho chúng ta biết điều hướng tính nóng của
mình không làm điều xấu gây phương hại đến tha nhân, nhưng biết dùng tính nóng
ấy để xả thân làm những việc lành và nhiệt tâm loan báo tin mừng theo gương
thánh Gia-cô-bê tông đồ. Và cũng cho chúng ta hiểu được: làm lớn không
phải là để thống trị hà khắc người khác mà là để phục vụ cách vô vị lợi trong
tinh thần khiêm tốn và yêu mến chân thành. Nhất là đừng vì lòng ghen tị mà tìm
mọi cách để nói xấu, bôi nhọ xúc phạm nhân phẩm đến người khác, hay dùng thủ
đoạn tiểu nhân nhằm triệt hạ uy tín của anh em mình với ý đồ ngăn cản bước tiến
của họ.
Suy niệm
2:
Hôm
nay, Hội Thánh hân hoan mừng kính Thánh Giacôbê Tông đồ. Ngài một trong hai người
con của ông Dêbêđê đã được Chúa Giêsu kêu
gọi làm môn đệ đầu tiên, bên bờ hồ Galilê. Ngài là cũng là người đầu tiên trong
nhóm Mười Hai đã lấy máu mình làm chứng cho Tin Mừng.
1. Lời Chúa nhắn nhủ
Tin Mừng Matthêu hôm nay thuật lại câu chuyện bà mẹ Giacôbê và Gioan xin
cho các con mình được ngồi bên hữu và bên tả Thầy Giêsu trong Nước Trời. Lời
xin ấy dường như “ngây thơ” nhưng lại phản chiếu ước mơ của nhiều người: tìm
kiếm quyền lực, địa vị và vinh quang.
Đức Giêsu nhân cơ hội này dạy cho các ông và chúng ta bài học căn bản: “Ai
muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ, ai muốn làm đầu thì phải
làm đầy tớ.”
Lời dạy này cho thấy, con đường của Nước Trời không phải là bước lên để
thống trị, nhưng là bước xuống để phục vụ, không phải là tìm kiếm vinh quang
cho mình, nhưng là trao ban chính mình cho anh em.
2. Con đường của Thánh Giacôbê
Giacôbê
được gọi ngay từ những ngày đầu Chúa Giêsu rao giảng. Ngài từng là một người
nhiệt thành và có lúc cũng nuôi khát vọng quyền lực. Nhưng theo năm tháng, nhờ
lời Thầy dạy và gương Thầy sống, Giacôbê đã biến đổi để chấp nhận:
-
“Uống chén” cùng với Thầy: Chén ấy là khổ đau, thập giá, và là hiến dâng cả
mạng sống.
- Làm chứng
nhân trung thành, ngay cả phải máu đào: Sách
Công vụ Tông đồ (Cv 12,1-2) kể rằng Giacôbê đã bị vua Hêrôđê Hagrippa xử trảm
vì đức tin. Ngài là
tông đồ đầu tiên tử đạo.
Qua
đó, Giacôbê minh chứng rằng lời cam kết “Thưa,
chúng con uống được” không phải là lời nói suông, nhưng là sự trung thành
đến cùng.
3. Sứ điệp cho chúng ta
Mẫu
gương của Thánh Giacôbê mời gọi mỗi người chúng ta:
- Sống tinh thần phục vụ.
Trong gia đình, nơi giáo xứ, trong xã hội, chúng ta được mời gọi làm “người
phục vụ” hơn là tìm địa vị.
- Can đảm uống chén đắng.
Mỗi người đều có “chén đắng” của mình: những thử thách, hy sinh, đau khổ. Uống
chén ấy với tình yêu và lòng tin sẽ giúp ta hiệp thông sâu xa với Chúa Giêsu.
-
Tin tưởng vào sức mạnh của Thiên Chúa. Như Thánh Phaolô nói: “Kho tàng
ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành” (2Cr 4,7). Chúng ta yếu
đuối, nhưng ơn Chúa đủ sức biến đổi và làm chúng ta kiên trung.
Khi
nhìn vào gương sáng của Thánh Giacôbê, chúng ta được mời gọi làm chứng cho Chúa
trong đời thường bằng việc sống khiêm tốn, phục vụ và trung tín với bổn phận.
Xin Thánh Giacôbê cầu bầu để chúng ta cũng dám “uống chén” của đời mình với tình yêu, để mai sau được chung hưởng vinh quang với các thánh trên Nước Trời. Amen.
* Mùa thường niên: Mt 13,18-23
Chúa Giêsu thường dùng những hình ảnh rất gần gũi
và quen thuộc để nói lên thực tại của cuộc sống. Cụ thể bài Tin mừng hôm nay
Chúa dùng hình ảnh người nông phu ra đi gieo hạt giống.
Với hình ảnh người đi gieo hạt, Chúa Giêsu muốn
nói đến lòng quảng đại hào phóng của một vị Thiên Chúa. Ngài sẵn sàng gieo vãi
hạt giống Lời Chúa vào bất cứ nơi đâu, dẫu biết rằng những nơi ấy có thể không
sinh hoa kết quả.
Với hình ảnh môi trường mà hạt giống được gieo
vào, Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến tâm hồn của con người. Môi trường ấy, Chúa
Giêsu cho biết có nhiều loại. Có loại lề đường, có loại sỏi đá, có thứ gai
góc..., nhưng cũng có loại đất tốt.
Hạt giống Lời Chúa thì luôn tốt, có khả năng phát
triển và sinh nhiều bông hạt. Người gieo vãi hạt giống ấy là Thiên Chúa thì
luôn hào phóng và quảng đại không so đo tính toán. Điều quan trọng còn lại là
môi trường lòng người có chuẩn bị sẵn sàng để tiếp nhận hạt giống Lời Chúa hay
không?
Nếu tâm hồn mỗi người chúng ta chính là mảnh đất
tiếp nhận hạt giống Lời Chúa; thì giờ đây ta cần xét xem mảnh đất tâm hồn của
ta là loại đất nào?
- Nếu tâm hồn ta còn mang nặng những thành
kiến, cố chấp, bảo thủ, ngại thay đổi bản thân theo lời dạy của Chúa và Giáo
Hội, thì mảnh đất tâm hồn ta đang thuộc dạng vệ đường.
- Nếu tâm hồn chúng ta còn có những bất hòa, phân
biệt, chia rẽ, đánh mất tình hiệp thông với tha nhân thì mảnh đất tâm hồn chúng
ta vẫn còn nhiều gai gốc.
- Nếu tâm hồn chúng ta còn sống ích kỉ, kiêu
căng, bất công, thiếu bác ái với tha nhân thì mảnh đất tâm hồn của ta còn nhiều
sỏi đá.
Xin Chúa thương biến đổi mảnh đất tâm hồn chúng
con được nên màu mở để hạt giống Lời Chúa gieo vãi vào có cơ may mọc lên, phát
triển vững mạnh và sinh được nhiều bông hạt tốt tươi qua những việc làm tốt
lành, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho nhiều người.
Thứ bảy: Hc 44,1.10-15; Mt 13,16-17
Nhớ Thánh Gio-an-kim và An-na-song thân Đức Maria và Nhớ
chân phước An-rê Phú Yên, thầy giảng (bổn mạng các giáo lý viên Việt Nam)
* Suy niệm 1: Mt 13,16-17
Hôm nay chúng ta mừng kính thánh Gioa-kim và An-na song thân Đức Maria. Dù
rằng chúng ta không biết gì về đời sống của hai ngài. Nhưng với kinh nghiệm của
cha ông ta: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, hay “Cha nào con
nấy”… Nhất là dưới ánh sáng lời Chúa dạy: “Xem quả thì biết cây”, phần
nào chúng ta nhận ra đôi chút về đời sống của hai ngài qua Đức Maria, người con
của hai ngài.
- Đức Maria sẽ không được mọi đời khen ngợi là người phụ nữ diễm phúc nếu
không được cảm nếm niềm hạnh phúc nơi thánh Gio-an-kim và An-na.
- Đức Maria sẽ không được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế nếu như tâm hồn Mẹ không
được thánh Gio-an-kim và An-na chuần bị xứng hợp.
- Đức Maria sẽ không có tinh thần âm thầm hy sinh phục vụ nếu như không
nhận thấy đời sống hy sinh phục vụ âm thầm của cha mẹ người.
- Đức Maria sẽ không thể có được tinh thần khiêm hạ, nghèo khó nếu như
không được hấp thụ bởi gương sáng từ cha mẹ.
- Đức Maria sẽ không có được tinh thần vâng phục thánh ý Thiên Chúa nếu như
không được cha mẹ truyền thụ lại một nền tảng đức tin vững chắc.
Xin Chúa qua lời chuyển cầu của Đức Maria giúp cho gia đình chúng con biết
noi gương gia đình thánh Gio-an-kim và An-na, luôn vâng nghe lời Chúa và Hội
thánh; biết loại trừ tính hư tính xấu là cỏ lùng độc hại ra khỏi đời sống, để
những giá trị Tin mừng là lúa tốt được triển nở mạnh mẻ nơi gia đình chúng con.
Xin cho các bật làm cha mẹ trở thành gương sáng đời sống đức tin và yêu
thương cho con cái như thánh Gio-an-kim và An-na, nhằm góp phần làm cho mảnh
đất tâm hồn nơi con cái trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành.
* Suy niệm 2: Mt 13,16-17
Trong bài Tin Mừng
của Thánh Lễ kính thánh Gioakim và thánh Anna, Song Thân của Đức Maria hôm nay,
Đức Giê-su nói: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em
thật có phúc, vì được nghe.” (c.16)
Trong bối cảnh phụng
vụ, lời này của Đức Giê-su được ứng nghiệm cho đôi mắt và đôi tai của “ông bà
ngoại” của Người, nghĩa là của thánh Gioakim và của thánh Anna. Tuy nhiên, lời
này của Đức Giê-su cũng liên quan đến đôi mắt và đôi tai của chúng ta.
Thực vậy, qua kinh
nghiệm cuộc sống, nhất là khi chúng ta có dịp đến phục vụ những người tàn tật,
những người mù, những người câm điếc, chúng ta mới nhận ra rằng sự kiện chúng
ta thấy được và nghe được, là một ơn huệ; và khi nhận ra đôi mắt và đôi tai của
chúng ta là một ơn huệ, chúng ta được mời gọi nhận ra Đấng ban ơn để tạ ơn và
ca tụng, và chia sẻ ơn huệ mà chúng ta có cho người khác, nhất là cho những
người tàn tật, không có cùng một ơn huệ như chúng ta.
Tuy nhiên, ngay trước
đó, Đức Giê-su còn nói tới một bệnh mù khác, một bệnh điếc khác: “họ
nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe, không hiểu” (c.13). Như thế,
mối phúc mà Đức Giê-su nói tới, không chỉ là khả năng thể lý nhìn thấy sự vật
và nghe được âm thanh.
1. Phúc vì được thấy
Thật vậy, đôi mắt của
chúng ta được dựng nên, có “ơn gọi” không phải là nhìn thấy những điều hữu
hình, nhưng qua những điều hữu hình, nhận ra những thực tại vô hình. Thực vậy,
chúng ta được mời gọi nhìn thấy sự vật không chỉ như là sự vật, nhưng còn là
những quà tặng, những ơn huệ, những dấu chỉ, nói lên sự hiện diện của ai đó,
của tình thương, nói lên Đấng ban ơn, nói lên chính Đấng tạo dựng.
Và nhất là khi nhìn
thấy một người, đôi mắt của chúng ta không được dừng lại ở vẻ bề ngoài, ở ngoại
hình, ở trang phục, không được coi người người này là đối tượng để mình thỏa
mãn nhu cầu, thỏa mãn lòng ham muốn; nhưng đôi mắt của chúng ta được mời gọi
nhìn người khác trong sự thật, nghĩa là người đó là một ngôi vị tự do và có
lòng ước ao, có ơn gọi riêng, có quá khứ và những vấn đề riêng, có hành trình
riêng cần tôn trọng; nếu sự thật là người ấy có những hành vi phạm lỗi đáng lên
án, thì chúng ta được mời gọi nhận ra một sự thật khác lớn hơn: người ấy còn là
một ngôi vị bất hạnh đang đau khổ, và có khi người này ở trong bất hạnh mà
không biết. Đó là cái nhìn của Người Cha nhân hậu đối với người con hoang đàng,
đó là cái nhìn của Đức Giê-su về người phụ nữ ngoại tình, đó là cái nhìn của Ba
Ngôi Thiên Chúa đối với loài người chúng ta, với từng người chúng ta.
Đôi mắt của thánh Gioakim
và thánh Anna, đôi mắt của các môn đệ và đôi mắt của chúng ta thật là có phúc,
như Đức Giê-su nói: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy”,
bởi vì chúng ta được ơn nhận biết Đức Giê-su Nazareth là Đức Ki-tô, Con Thiên
Chúa Hằng Sống và Ngôi Lời nhập thể. Đôi mắt có phúc là đôi mắt nhận biết Đức
Giê-su Ki-tô; và đôi mắt nhận biết Đức Giê-su Ki-tô là đôi mắt sống đúng với ơn
gọi của mình.
2. Phúc vì được nghe
Cũng vậy đối với đôi
tai của chúng ta: đôi tai của chúng ta được ban cho, có ơn gọi không phải là
nghe tiếng động hay âm thanh, nhưng là nghe ra sự hài hòa của âm thanh, nghe
được giai điệu, kết cấu của âm thanh, truyền đạt cho chúng ta một ý nghĩa, một sứ
điệp, truyền đạt cho chúng ta Ngôi Lời, bởi vì “Nhờ Ngôi Lời vạn vật
được tạo thành” (Ga 1, 3 và St 1):
Trời xanh tường thuật
vinh quang Thiên Chúa,
không trung loan báo
việc tay Người làm. (Tv 19, 2).
Thế mà ý nghĩa và sứ
điệp, được tạo ra bởi sự liên kết hài hòa theo qui luật giữa các âm thanh, thì
hoàn toàn thinh lặng, không có tiếng động. Thiên Chúa nói với con người qua rất
nhiều lời nói: lời trong Kinh Thánh, lời từ các chứng nhân của Thiên Chúa, nhưng
chính Đức Giêsu Nazareth, Ngôi Lời Thiên Chúa làm nên sự hợp nhất của những lời
nói cụ thể này. Như thế, Ngôi Lời không làm cho bất cứ đôi tai nào rung lên,
Ngôi Lời chỉ được thốt lên và chỉ được nghe trong thinh lặng. Thiên Chúa ngỏ sự
thinh lặng của Ngôi Lời cho người biết lắng nghe:
Không trung loan báo
việc tay Người làm.
Ngày qua mách bảo cho
ngày tới,
đêm này kể lại với
đêm kia.
Chẳng một lời một lẽ,
chẳng nghe thấy âm thanh,
mà tiếng vang đã dội
khắp hoàn cầu
và thông điệp loan đi
tới chân trời góc biển (Tv 19, 4-5).
3. Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa
Thánh Phao-lô trong
thư gởi Tín Hữu Roma đã trích Tv 19, nhưng một cách rất lạ lùng. Bởi vì, đối
với thánh nhân “Tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi
tới chân trời góc biển.” (Tv 19, 5) không là gì khác hơn là việc rao
giảng Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô! Thật vậy, ngài đã viết trong thư gởi các tín
hữu Roma:
Có đức tin là nhờ
nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Ki-tô. Nhưng tôi xin hỏi:
Phải chăng họ đã không được nghe giảng?
Có chứ!
“Tiếng các ngài đã
dội khắp hoàn cầu, và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (Rm 10, 17-18).
Theo thánh Phao-lô,
sứ điệp của công trình tạo dựng và sứ điệp của các tác viên Tin Mừng là cùng
một sứ điệp, đó là sứ điệp “Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa”. Như thế,
điều mà thánh Phaolô cảm nhận thì thật là lạ lùng! Trình thuật, lời công bố và
sứ điệp, vốn là lời sáng tạo như là chúng ta nghe được trong sự thinh lặng của
Ngôi Lời, nay bỗng dưng vang vọng trong miệng của thánh nhân, cũng như trong
miệng của mọi tác viên loan báo Tin Mừng, trong đó có chúng ta hôm nay.
Như thế, nếu chúng ta
nghe ra sứ điệp được truyền đạt “ngày này cho ngày kia” và “đêm này cho đêm
kia” kể từ khởi nguyên của thế giới sáng tạo, chúng ta sẽ nghe được sứ điệp Tin
Mừng của Đức Giê-su Ki-tô. Và ngược lại, nếu chúng ta đón nhận sứ điệp Tin Mừng
Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta sẽ nghe được sứ điệp của ngày và đêm. Bởi lẽ, cả
hai, công trình sáng tạo và Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, có cùng một nội dung, đó
là Ngôi Lời Thiên Chúa; và
“Nhờ Ngôi Lời, vạn
vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo
thành.” (Ga 1,3)
Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
* Mùa
thường niên: Mt 13,
24-30.
Qúa khứ có thể tôi là người tội lỗi, nhưng tương
lai có thể tôi là người tốt lành. Bởi vì mỗi ngày có 24 giờ, trong đó có biết
bao thay đổi. Thấu hiểu điều đó nên Thiên Chúa (ông chủ ruộng) đã kêu gọi gia
nhân hãy kiên nhẫn chờ đợi cho cỏ lùng và lúa tốt cùng sống bên cạnh nhau đến
ngày thu hoạch.
Các nhà tu đức đã có lý khi nói: "Thánh nhân
là tội nhân biết ăn năn sám hối". Mang thân phân con người, không ai là vô
tội trước mặt Thiên Chúa, bởi “nhân vô thập toàn”.
Gỉa như TC chiều ý ta mà tiêu diệt tức khắc những
kẻ gian ác, thì thế gian này chắc chắn không ai được cứu rỗi, vì: “Nếu
Chúa chấp tội nào ai rỗi được.” (Tv
130,3). Nhưng thật may mắn, chúng ta lại có một Thiên Chúa là Nười
Cha giàu lòng thương xót. Người "Không muốn kẻ gian ác phải chết
nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống." (Lc 16,19-31).
Xin cho chúng ta luôn biết cảm thông trước những yếu đuối của mình cũng như của tha nhân, vì ý thức rằng: "Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm." (Rm 8,19). Đồng thời cũng biết đáp lại tình thương tha thứ của Chúa mà can đảm loại trừ những mầm móng cỏ lùng độc hại ra khỏi mảnh đất nơi tâm hồn của mình, để mầm lúa tốt trong ta có cơ may phát triển mạnh mẽ. Nhờ thế, hạt giống lời Chúa gieo vải mới sinh được nhiều hoa trái, mang lại mùa bội thu cho nước trời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét