SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN
XXXII THƯỜNG NIÊN
Lm.
Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG
NIÊN-A
Kn 6,12-16; 1Tx 4,13-18; Mt
25,1-13
Suy niệm 1: ĐONG ĐẦY DẦU TÌNH YÊU
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tỉnh thức, sẵn sàng chờ đợi Chúa đến rước chúng ta về Nước Trời, là Quê hương thật của chúng ta. Chúa sẽ đến thình lình, vào lúc chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết, nên cần phải tỉnh thức chuẩn bị sẵn sàng. Nhiều lúc chúng ta mãi mê làm ăn sinh sống mà quên việc quan trọng này.
Xin Chúa ban cho chúng ta ơn khôn ngoan để ta biết tỉnh thức, chuẩn bị sẵn sàng cho ngày Chúa đến đưa ta vào nước trời tham dự bàn tiệc vui muôn đời.
Tin mừng hôm
nay, Chúa Giêsu tiếp tục nhắc nhở chúng ta phải tỉnh thức sẵn sàng trong thời
gian chờ đợi ngày Chúa đến, để khi Chúa đến bất ngờ, ta mới có thể ra đón Người
và theo Người vào hưởng niềm vui nước trời.
- Hình ảnh
10 cô trinh nữ trong dụ ngôn được Chúa Giêsu nói đến trong bài tin mừng hôm nay
ám chỉ mọi người kitô hữu chúng ta. Trong đó có những người khôn ngoan, nhưng
cũng có những người khờ dại.
- Hình ảnh
chú rể tượng trưng cho Chúa Kitô.
- Sự chậm
trễ tượng trưng cho thời gian Chúa đến không biết lúc nào. Chúa có thể đến sớm
hay chậm, đêm hay ngày đó là quyền của Chúa.
- Đèn tượng
trưng cho đức tin.
- Dầu tượng
trưng cho tình yêu.
- Còn phòng
cưới thì tượng trưng cho bàn tiệc nước trởi.
Có lẽ khi
nghe dụ ngôn quen thuộc này, ai trong chúng ta cũng mong muốn mình là người
khôn ngoan chứ không ai muốn mình trở thành kẻ khờ dại. Nhưng làm thế nào để ta
nên người khôn ngoan?
Xin thưa đó
là biết sẵn sàng. Năm cô khôn ngoan là
những người biết chuẩn bị sẵn sàng. Các cô không chỉ mang đèn mà còn mang theo
dầu đầy bình. Còn năm cô khờ dại thì không biết dự phòng. Các cô chỉ mang đèn
mà nhưng lại không mang theo dầu. Nên trong thời gian chờ đợi chàng rể đến
chậm, đèn các cô khờ dại đã hết dầu nên đèn đã tắt lịm. Khi giờ đã điểm thì đèn
các cô khờ dại đã tắt và trong lúc đó các cô này không thể cậy dựa vào ai được,
nên các cô đành phải chấp nhận số phận bị loại ra bên ngoài, bởi cửa phòng cưới
đã đóng lại. Còn các cô khôn ngoan thì vui mừng cầm đèn sáng trong tay và hớn
hở ra đón chàng rể cùng hân hoan bước vào phòng cưới trong niềm vui và hạnh
phúc.
Xin Chúa cho
chúng con hiểu rằng ngày Chúa đến rất bất ngờ, không ai biết trước được. Vậy
xin Chúa đong đầy dầu tình yêu của Chúa vào trong tâm hồn chúng con để ngọn đèn
đức tin của chúng con luôn cháy sáng mãi cho đến khi ngày Chúa đến.
Tin Mừng theo thánh
Matthêô cho biết, nhiều lần thánh nhân đã sử dụng phương pháp đối kháng trong
cách viết của mình. Chẳng hạn: lúa tốt-cỏ lùng; chiên-dê; nhà xây trên đá-nhà
xây trên cát…
Dụ ngôn hôm nay,
thánh nhân cũng cho thấy sự đối kháng ấy trong lời dạy của Chúa Giêsu bằng hai
từ: khôn ngoan và khờ dại. Trong
ngôn ngữ đời thường, khôn và dại là hai tính từ chỉ hai tình trạng đối lập
nhau. Tuy vậy, để kết luận một người nào đó khôn hay dại lại không dễ dàng chút
nào.
Một người buổi sáng khôn
ngoan với hành vi thận trọng, bỗng buổi chiều trở thành dại khờ vì có phát ngôn
không chuẩn.
Khôn dại cũng được nhận
định theo cảm nhận chủ quan của mỗi người. Ranh giới giữa khôn và dại thật mỏng
manh, lượng giá xem dại hay khôn thật khó đoán. Vì thế mà cổ nhân mới nói:
“Khôn ba năm dại một giờ” là vậy.
Một hành vi sai trái có
thể làm cho người khôn nên dại; một cử chỉ đúng đắn có thể biến người dại nên khôn.
Một phút dại khờ có thể làm một người khuynh gia bại sản, một giây khôn ngoan
có thể làm cho một người trở nên giàu sang, phú quý.
Sự khôn ngoan được nói tới
trong Phụng vụ hôm nay hoàn toàn khác với quan niệm thông thường ở đời.
Bài đọc I
nói với
chúng ta về Đức Khôn Ngoan. Đức Khôn Ngoan ở đây được trình bày như một con
người, một Đấng đang hiện hữu giữa chúng ta.
“Ai tìm Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan cho gặp… Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan
ngồi ngay trước cửa nhà”.
Dưới ánh sáng của mạc khải
Kitô giáo, chúng ta nhận ra Đức Khôn Ngoan được diễn tả trong Cựu ước chính là
Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể. Nơi Đức Giêsu, Đức Khôn Ngoan của Cựu ước đã được
“ngôi vị hóa”.
Qua mầu nhiệm Nhập thể,
Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người để đến gặp gỡ thân
thiện với con người trần gian. Những ai nghe Đức Giêsu giảng dạy đều thán phục
và trầm trồ khen ngợi, “vì người giảng
dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc 1,22). Bằng
cuộc sống và giáo huấn của Người, Đức Giêsu dạy cho con người thay đổi quan
niệm về khôn-dại theo nghĩa trần gian.
Người khôn ngoan không chỉ
là người có “chỉ số IQ” cao như ngày nay người ta thường nhận định, nhưng là
người biết sống vì tha nhân, biết quan tâm đến những người xung quanh mình.
Chúng ta hãy đón nhận giáo huấn của Chúa. Hãy để Lời Chúa thanh luyện để chúng
ta đạt được sự khôn ngoan đích thực.
Cuộc sống người Kitô hữu
chính là hành trình tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, tức là tìm kiếm Đức Kitô. Lịch sử
đã chứng minh: ai gặp được Đức Kitô thì tìm được hạnh phúc. Biết bao người nam
cũng như nữ suốt bề dày lịch sử đã can đảm chọn Chúa là gia nghiệp duy nhất và
chấp nhận mất tất cả để đánh đổi lấy sự Khôn Ngoan. Họ là những vị thánh, được
tôn vinh vì sự chọn lựa cao cả tuyệt vời ấy.
Hôm nay, Đức Khôn Ngoan
vẫn đang hiện diện giữa chúng ta để đồng hành với chúng ta trong hành trình
kiếp người. Ai thành tâm thiện chí tìm kiếm thì sẽ gặp được Người.
- Nhưng làm
thế nào để ta gặp Đức Khôn Ngoan trong cuộc đời này?
Chúa Giêsu kể cho chúng ta
nghe câu chuyện dụ ngôn về mười cô trinh nữ đi đón chàng rể theo phong tục tập
quán của người Do Thái. Năm cô trinh nữ mang đèn mà không đem theo dầu bị kết
án là những người dại dột. Các cô sống mà không có định hướng cho tương lai.
Các cô chỉ a dua theo người ta đến đám cưới.
Quan niệm về cuộc sống của
các cô chỉ mang tính nhất thời, thiếu sâu sắc. Các cô quá chú ý đến việc trang
điểm và y phục bề ngoài, mà quên rằng chàng rể có thể đến sớm và cũng có thể
đến muộn. Các cô cũng quên rằng việc mang theo đèn có dầu thắp sáng là một điều
kiện để theo chàng rể vào phòng tiệc.
Như trên đã nói, khái niệm
khôn-dại mà Phụng vụ đề cập hôm nay hoàn toàn không giống như cách suy nghĩ của
người đời. Theo quan niệm của người đời, người khôn là người biết làm lợi cho
bản thân; nhưng theo quan niệm của Thánh Kinh, người khôn là người biết hy sinh
cho kẻ khác. Cũng một sự kiện Đức Giêsu chịu treo trên thập giá, Người có đức
tin nhận ra tình thương bao la của Thiên Chúa; người vô tín chỉ thấy thất bại
nhục nhã và khổ đau.
Khôn ngoan và dại dột
không chỉ là hai hạng người hiện hữu trong cuộc sống, nhưng đó còn là hai thái
cực đồng thời tồn tại trong cùng một con người. Nơi mỗi người luôn có sự khôn
ngoan, nhưng đồng thời cũng vẫn còn sự dại dột, vì thế mà chúng ta phải thận
trọng trong ngôn từ cũng như trong hành động, nhờ đó mà chúng ta trở nên người
khôn ngoan.
Chúng ta vừa long trọng
mừng lễ Các Thánh. Chúng ta cũng đang cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện
ngục trong suốt tháng 11 này. Cuộc đời của các thánh giúp chúng ta suy nghĩ về
sự khôn ngoan đích thực, giống như năm cô khôn ngoan trang bị đủ dầu. Số phận
các linh hồn nơi luyện ngục lại nhắc ta phải tỉnh thức, để tránh rơi vào tình
trạng bi thảm của năm cô khờ dại vì thiếu dầu.
Dừng chân bên nấm mộ,
chúng ta cảm nhận rõ hơn sự mong manh của phận người.
Suy tư về sự chết, chúng ta nhận ra đâu mới là những giá trị tồn tại vĩnh viễn, giúp chúng ta đạt được sự sống đời đời. Như vậy, khôn ngoan hay dại khờ là do chính chúng ta chọn lấy cho mình. (St)
Suy niệm 3:
Cùng với GH, chúng ta bước
vào những tuần cuối cùng của năm phụng vụ. Lời Chúa hôm nay nhắc nhở cho ta về
ngày giờ Chúa đến bết ngờ vào giờ ta không biết. Vậy xin cho chúng ta biết thức
tỉnh và chuẩn bị sẵn sàng cho ngày đó, bằng cách xa lánh tội lỗi, chu toàn tốt bổn
phận hàng ngày với niềm tin yêu, phó thác và cậy trông vào tình yêu Chúa. Được
vậy, chúng ta mới xứng đáng được Chúa đón nhận vào tham dự bàn tiệc nước trời.
Dụ ngôn 10 cô phù dâu, năm cô khờ và năm cô khôn mà bài Tin mừng hôm nay trình
thuật, rất quen thuộc với chúng ta và đã được quý cha chia sẻ ở nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau rồi, nên tôi chỉ muốn cùng quý cộng đoàn giải đáp một thắc
mắc nhỏ hơi khó hiểu một chút là: tại sao các cô khôn ngoan lại không chia sẻ 1
ít dầu cho những cô khờ dại? Làm như vậy có ích kỉ quá không? Chúa dạy phải thực
thi tình bác ái chia sẻ mà sao những cô khôn ngoan này không thực hiện thì làm sao xứng đáng được tham dự tiệc cưới cùng với chàng
rể là Đức Giêsu trong nước trời?
Đúng vậy, nếu chỉ xét về chuyện dầu đèn thuần tuý thì thắc mắc như vậy là chính đáng, không sai chút nào. Tuy nhiên dụ ngôn này không dừng lại ở chuyện dầu đèn nhưng hướng ta đến những điều cao xa hơn.
Trong thực tế cho chúng ta hiểu rằng không phải chuyện gì ta cũng chi sẻ được. Có những thứ ta rất muốn chia sẻ nhưng không thể được. Ví dụ: Mặc dầu ta rất cảm thông nỗi đau của người bệnh, nhưng ta không thể nào chia sẻ sức khoẻ của mình cho họ được; hay như người thân của ta đang hấp hối, ta rất muốn ‘chuyển khoản’ cho họ một ít thời gian để họ đi với ta thêm một đoạn đường nữa, nhưng đành bất lực…
Một
câu chuyện quen thuộc sau đây giúp ta hiểu hơn về chân lý này:
Chuyện kể rằng: có một phú gia kia cưới đến 4 bà vợ.
- Ông ta rất thương bà vợ thứ nhất, mỗi khi kiếm được
tiền là ông liền mua sắm cho bà đủ thứ áo quần sang trọng, dẫn bà đi ăn tại các
nhà hàng trứ danh. Không những thế, ông còn tung tiền mua sắm cho bà đủ thứ hột
xoàn, trân châu. Bà muốn gì ông cũng chiều chuộng. Ông cưng bà như cưng trứng,
hứng bà như hứng hoa!
- Còn mỗi lần đi họp, hay đi kinh doanh, ông đều sung
sướng và hãnh diện mang theo bà vợ thứ hai. Ông luôn khoe bà với bà con lối
xóm, với đồng nghiệp, khách hàng. Bà là niềm hãnh diện của đời ông !
- Mỗi khi gặp khó khăn, cho dù lớn hay nhỏ, ông đều thủ
thỉ, tâm sự với bà vợ thứ ba. Ông tin tưởng bà lắm, vì bà luôn là người cố vấn tuyệt
vời cho ông, một người cố vấn khôn ngoan, trung tín và đầy trách nhiệm. Bà thật
là người bạn đời tri kỷ có một không hai trên đời !
- Còn bà vợ thứ tư lại rất thương ông, thương ông tha
thiết, thương ông nồng nàn, thương ông chứa chan. Nàng dành hết cả cuộc đời
mình để lo cho cuộc sống của ông, sự nghiệp của ông. Nàng không từ chối một hy
sinh nào cho ông cả. Ngay cả những khi ông lầm lỗi, bà cũng can đảm nhắc nhở,
khuyên lơn, và rộng lòng tha thứ. Thế nhưng! Ông lại chẳng mấy khi để ý đến
nàng.
Rồi một ngày kia, ông phát bệnh ung thư giai đoạn cuối
cùng, các bác sĩ đều bó tay. Biết mình chẳng còn sống được bao lâu, ông bèn cho
gọi các bà vợ đến để nói lời cuối cùng.
Bà thứ nhất mặc xiêm y lộng lẫy, nữ trang óng ánh, nước
hoa lan tỏa khắp phòng, đến bên chồng đang hấp hối. Khi ấy ông nói với nàng :
- Em, anh sắp chết rồi. Em là người anh yêu mến nhất,
chăm sóc cho em từng li từng tí. Em có muốn theo anh về bên kia thế giới để
chung sống, để lo lại cho anh không?
- Không! Nàng lạnh lùng đáp, Anh đi đường anh, em đi đường
em. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi. Nói
xong, nàng ngoảnh mặt, vội vã bước ra khỏi phòng. Lời bà như một nhát dao đâm
thấu tim ông!
Người phú gia vừa cố gắng nắm tay bà vợ thứ hai, vừa run
run hỏi:
- Em, suốt đời anh, em là niềm hạnh phúc, là niềm kiêu
hãnh của anh. Giờ đây anh sắp chết, em có muốn theo anh về bên kia, như hào
quang chói sáng cho anh, như người tiến cử anh vào cuộc sống huy hoàng không?
- Không! Anh chết rồi, tôi sẽ cưới lấy người khác. Tôi
phải thuộc về người khác chứ! Ai lại theo kẻ chết xuống mồ bao giờ. Nói xong, nàng trở gót bỏ đi. Mỗi tiếng gót giày nàng
nện xuống thềm nhà, là một nhát búa đóng đinh xuyên thấu tim chàng.
Đau buốt, nát tim, người phú gia quay nhìn bà vợ thứ ba
và ân cần hỏi:
- Em, trong suốt cuộc đời, em là người luôn sát cánh
cùng anh. Không có chuyện gì mà anh không chia sẻ cùng em. Em luôn bên cạnh
anh, lúc vui cũng như lúc buồn. Giờ đây, anh sắp chết, em có chịu theo anh
không?
- Anh yêu, em biết anh yêu em lắm, và em cũng yêu anh.
Nhưng cùng lắm, em chỉ có thể theo anh ra nghĩa trang, nhìn anh đi vào lòng đất
lạnh, rồi thắp cho anh những nén hương lòng. Em sẽ nhớ anh thật nhiều, nhưng
theo anh, em không thể nào làm được. Nói
xong, nước mắt nàng tuôn trào.
Bỗng đâu, một giọng nói yếu ớt vang lên:
- Em sẽ theo anh về bên kia thế giới. Anh yêu, cho em
theo anh. Đừng bỏ em !
Chàng phú gia lấy hết sức tàn ngồi chổm dậy, nhìn về
phía phát xuất ra giọng nói. Và kià! Người vợ thứ tư của chàng đang ôm mặt khóc
nức nở. Thân hình nàng qúa mảnh khảnh tựa hồ dễ bị cuốn theo chiều gió. Một người
vợ yêu chàng tha thiết, nhưng đã bị chàng bỏ bê gần như suốt cả cuộc đời. Trước cái chết, chàng phú gia mới chân nhận ra giá trị
tình yêu của bốn bà vợ đời mình.
- Mình đã quá yêu bà vợ thứ nhất, là thân xác mình. Cho
dù mình có mặc cho nó đủ thứ lụa là gấm vóc, nuôi dưỡng bằng cao lương mỹ vị,
mình cũng chẳng đem theo được về bên kia thế giới.
- Mình đã từng hãnh diện với chức tước, địa vị, bà vợ
thứ hai, nhưng chức tước ấy sẽ thuộc về người khác khi mình giã từ cõi thế.
- Họ hàng, gia đình mình, bà vợ thư ba, cũng chỉ theo
mình ra tận nghĩa trang, hằng năm lo kỵ giỗ cho mình, nhưng nào có ai theo mình
xuống huyệt.
- Còn cái linh hồn của mình, bà vợ thứ tư, mà mình đã
vì quá chăm lo cho thể xác, chạy theo tiền tài danh vọng, bon chen chức tước cao
quyền trọng, trong khi lại ít buồn nghĩ đến thì linh hồn lại theo mình đi vào cõi
thiên thu.
Cho
nên người khôn ngoan đích thực là người biết gìn giữ linh hồn mình, chăm sóc linh
hồn mình, nuôi dưỡng linh hồn bằng những việc lành phúc đức. Bởi lẽ một khi chết
đi thì hồn ta không thể vay mượn, mua bán, hay đổi chác gì được; phần rỗi đời đời
chẳng ai thế cho ta được. Tốt nhất là phải lo tự giữ lấy hồn mình. Bởi như lời Chúa
nói: “Được lời
lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì” (Lc 9, 25 ).
Dụ ngôn còn nói chúng ta rằng: giờ Chúa đến rất bất ngờ, không ai
biết trước được nên cần phải tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng cho ngày ấy, bởi lẽ
ngày Chúa đến thì mọi cánh cửa đều bị đóng lại, vì thế mà mọi phương thế lãnh nhận ân sủng cũng coi
như chấm dứt.
Xin Chúa cho chúng ta biết lưu tâm đến việc châm dầu ân sủng và yêu thương của Chúa vào tâm hồn mình mỗi ngày qua việc siêng cầu nguyện, sốt sắng tham dự thánh lễ, năng lãnh nhận các Bí tích, tích cực học hỏi lời Chúa, được vậy thì ngọn đèn đức tin của chúng ta mới được thắp sáng luôn luôn.
Chúa chính là nguồn dầu ân sủng và tình yêu vô tận, chúng ta hãy kết nối với Người để đời ta luôn được thắp sáng qua đời sống tốt lành, thánh thiện, chu toàn tốt bổn phận hàng ngày và nhiệt tâm thi hành đức bác ái... Thắp sáng đời mình như thế ta không phải lo sợ ngày Chúa đến bất ngờ, bởi ta tin rằng Chúa sẽ đưa dẫn ta vào dự tiệc vui muôn đời trong nhà Cha trên trời. Amen. (St)
Thứ
hai: Lc 17, 1-6
Tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta về hai bổn phận trong đời sống tương quan với mọi người. Thứ nhất có vẽ tiêu cực, đứng làm cớ vấp phạm hay gây gương mù gươn xấu cho người khác, nhất là những trẻ nhỏ. Thứ hai mang tính tích cực là hãy bao dung tha thứ cho những ai gây cớ xúc phạm đến ta. Để thực hiện hai điều này không dễ chút nào! Chỉ những ai có đức tin thì mới có thể thực hiện được.
Khi bàn về thiện ác, hay tính xấu tốt nơi con người thì Mạnh
Tử cho rằng: "Nhân tri sơ tính bổn thiện". Tuân Tử lại nói: "Nhân tri
sơ tính bổn ác". Cùng bàn về tính thiện ác trong con người, một nhà triết
học phương Tây là Honbach cũng đưa ra quan điểm: “con người khi sinh ra vốn
không thiện cũng không ác. Thiện hay ác là do hoàn cảnh tạo nên”. Còn Chúa
Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay thì không bàn về tính thiện- ác nơi con người.
Ngài cũng không theo quan điểm trung dung, nhưng khuyên chúng ta đừng làm gương
mù, gương xấu mà làm ảnh hưởng đến tha nhân, nhất là với những người bé nhỏ.
Gương
xấu là gì? Gương xấu là một lời nói hay một hành động không thích hợp làm cớ,
tạo dịp cho người khác vấp phạm, sa ngã, phạm tội.
Có
hai hình thức gây gương mù, gương xấu: Trực tiếp và gián tiếp. Trực tiếp là một
hành động hay lời nói chủ ý, cố tình làm vậy để tạo dịp cho người khác sa ngã.
Gián tiếp là hành vi hay lời nói vô ý, sơ suất có thể làm cho người khác hiểu
lầm mà sa ngã, nhưng thực chất người làm không muốn. Dù trực tiếp hay gián tiếp
làm gương xấu thì cả hai hình thức này đều phải tránh vì nó lôi kéo người khác
vào những sai lầm, tội lỗi.
Chúa
Giêsu lên án rất mạnh mẻ về việc làm này. Án phạt mà Chúa Giêsu đưa ra cho
những ai cố tình làm gương xấu là tử hình “Cột cối đá mà quăng xuống
nước”.
Để
tránh gây gương mù gương xấu cho tha nhân không là điều dễ dàng nên Chúa Giêsu
đòi hỏi cần phải có lòng tin. Lòng tin chính là sức mạnh vượt thắng những khó
khăn trong đời. Sống lòng tin mọi nơi mọi lúc, ta mới có thể hóa giải được
những khuynh hướng xấu nơi chính bản thân. Nhờ đó ta tránh gây ra những nguyên
cớ làm thiệt hại cho tha nhân.
Xin
Chúa ban thêm lòng tin nơi chúng con để chúng con đủ can đảm thi hành những
điều tốt lành Chúa chỉ dạy, nhờ đó chúng con loại trừ được những hành vi và lời
nói xấu xa, tội lỗi gây chia rẽ bất hòa trong đời sống.
Thứ ba: Lc 17, 7-10
Dụ ngôn là cách thế mà Chúa Giêsu hay dùng trong lời rao giảng, nhằm dạy các môn đệ cũng như chúng ta về chân lý của lẽ sống.
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng câu chuyện dụ ngôn về người đầy tớ vô dụng để dạy chúng ta về thái độ khiêm tốn phải có trong bổn phận phục vụ.
Dụ ngôn này không nhằm đến thái độ của ông chủ, nhưng nhấn mạnh đến thái độ của người đầy tớ, đó là thái độ khiêm tốn phục vụ. Phục vụ với tinh thần khiêm tốn chính là dấu chỉ thước đo đức tin của người môn đệ.
Như
người đầy tớ, sau khi chu toàn bổn phận ngoài đồng là đi cày hay đi chăn chiên xong, khi trở về nhà còn phải lo chu toàn tốt bổn phận phục vụ bữa ăn tối cho chủ nữa rồi sau đó mới được ăn. Bởi đó chính là việc phải làm của người đầy tớ, cho nên không được kêu ca hay phản kháng.
Chúng
ta cũng vậy, một khi đã cố gắng làm tất cả những gì theo ý Chúa, chúng ta cũng hãy nói : "Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã
chỉ làm việc bổn phận đấy thôi" (Lc 17,10). Vì xét cho cùng, tất cả những gì
chúng ta “có” và chúng ta “là” đều do ơn ban của Chúa: sự sống, sức khỏe, tài
năng, điều kiện hoàn cảnh…, ngay cả những thành quả chúng ta gặt hái được trong mọi công việc đều là nhờ bởi ơn Chúa mà thôi. Đúng như lời Chúa đã phán : “Không có Thầy, anh
em không làm được gì.” (Ga 15,5).
Tạ ơn Chúa vì chúng ta được Chúa tin tưởng trao phó cho nhiệm vụ phụng thờ Chúa và phục vụ anh em. Xin Chúa ban cho chúng ta có được tấm lòng khiêm tốn trước Chúa, trước anh em và lòng mình trong khi thi hành những bổn phận hàng ngày. Để cho dù thành công chúng ta cũng không kêu căng tự mãn đòi hỏi công sức; hay khi thất bại, chúng ta cũng không chán nản, buồn tủi bỏ cuộc vì ý thức được mình chỉ là đầy tớ vô dụng trước mặt Chúa.
Thứ
tư: Lc 17, 11-19
Người
mắc bệnh cùi thời Chúa Giêsu phải chịu nhiều đau khổ.
-
Đau về thể xác:
Vì
không có thuốc chữa trị, nên bệnh cùi hành hạ thân xác rất nhức nhối.
Vi
trùng cùi Hansen ăn vào da thịt dần mòn làm lỡ loét mặt mày, tay chân đau buốt.
Gân
cốt tay chân thường bị co vấp lại, không còn khả năng làm việc như người bình
thường. Tình cảnh họ rất là đau thương.
-
Khổ về tâm hồn:
Quan
niệm bệnh là do tội lỗi lỗi gây nên. Cùi là bệnh nan y thời bấy giờ chứng tỏ
tội của người cùi phải rất nặng.
Người
cùi bị mọi người xem thường, khinh bỉ và xa lánh vì sợ lây uế. Người cùi bị
buộc phải sống tách biệt với cộng đồng và bị xã hội đẩy ra bên lề cuộc sống.
Người
bị bệnh cùi luôn phải sống nương tựa vào người khác nên bị xem là thành phần ăn
bám của xã hội. Thật chua xót!
Việc
Chúa Giêsu chữa lành bệnh cùi chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa quyền năng và giàu
lòng thương xót.
Việc
Chúa Giêsu chữa lành bệnh cùi đồng nghĩa với việc Chúa phục hồi phẩm giá làm
người của họ, trả lại cho họ tình trạng tốt đẹp thuở ban đầu mà Thiên Chúa đã
tác tạo.
Việc
Chúa chữa lành bệnh cùi, tạo điều kiện cho họ hòa nhập vào xã hội. Đó cũng
chính là sứ điệp mời gọi mọi người hãy mở rộng vòng tay đón nhận nhau trong
tình anh em, dù họ là ai.
Việc
Chúa chữa lành bệnh cùi còn là mời gọi tha thiết đối với những ai đang mang
nặng những nỗi đau về thể xác hay những vết thương nơi tâm hồn hãy mạnh dạn đến
với Chúa để kêu xin ơn cứu chữa của Ngài; qua đó giúp họ tự tin can đảm hòa
nhập vào cộng đồng xã hội tận hưởng niềm vui, nguồn an ủi sẻ chia tình người.
Có
lẽ chúng ta không mắc phải bệnh cùi về thể lý vì ngày nay đã có thuốc đặc trị.
Nhưng rất có thể chúng ta lại mắc phải bệnh cùi về tâm linh:
Cùi
tâm linh là khi chúng ta vô ơn đối với Thiên Chúa. Sống xa cách Chúa, không
quan tâm đến thánh lễ Chúa nhật, không còn biết cám ơn Chúa qua giờ kinh
sáng-tối nơi gia đình, không để tâm học hỏi Thánh kinh và giáo lý….
Cùi
tâm linh là khi chúng ta tự tách rời khỏi anh em trong các sinh hoạt của họ
đạo. Có thể vì mặc cảm hay vì tự cao mà ta sống cu ki một mình, không còn khả
năng hòa nhập với cộng đoàn họ đạo.
Cùi
tâm linh là khi chúng ta vô tâm, thờ ơ, dửng dưng, ích kỷ, tư lợi mà không biết
chạnh lòng thương trước nỗi đau của người khác. Những thứ đó chính là triệu
chứng bệnh cùi tâm linh rất nguy hiểm.
Vậy
mỗi người chúng ta hãy ý thức về bệnh cùi tâm linh của mình và xin Chúa cứu
chữa.
Xin
Chúa cho chúng con biết khiêm tốn nhận ra bệnh tình nguy hiểm mà ta đang mang
trong người. Và xin Chúa thương cứu chữa cho lành sạch. “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ
lòng thương chúng tôi!”.
Tất
cả những gì chúng ta “có” chúng ta “là” đều do ân ban của Chúa. Nên thái độ
xứng hợp của chúng ta là phải biết tạ ơn Chúa, tri ân nhau và cám ơn
đời. Cám ơn là cách chúng ta nhận thêm ơn. Xin cho chúng ta luôn ý thức về
những ơn ban cao quý của Chúa mà sử dụng cho thật tốt hầu mang lại nhiều lợi
ích cho mình cho người... Đó chính là sứ điệp quan trọng mà phụng vụ lời
Chúa muốn nói với chúng ta.
Có
thể nói lòng biết ơn là một trong những tình cảm
cao quý nhất của con người. Lòng biết ơn luôn được cha ông chúng ta
trân quý và đề cao trong lãnh vực đạo hiếu. Không thiếu những câu ca dao tục
ngữ nói về lòng biết ơn: “ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn; công
cha nặng lắm ai ơi, nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang…”.
Khi
Đức Giêsu đến trần gian, một trong những tấm gương quan trọng mà Ngài để lại
cho nhân loại đó chính là tâm tình tạ ơn. Ngài tạ ơn Chúa Cha trước
khi phục sinh Ladarô. Tạ ơn Chúa Cha trước khi hoá bánh ra nhiều. Tạ ơn Chúa
Cha khi lập Bí tích Thánh Thể. Cả cuộc đời của Đức Giêsu luôn là
lời kinh tạ ơn không ngưng nghỉ. Vì thế, Ngài muốn chúng ta cũng phải biết
sống tâm tình tạ ơn.
Bằng
chứng là Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cảm thấy đau buồn trước sự vô ơn
của 9 người Do Thái có đạo, khi Ngài đặt ra những câu hỏi liên tiếp: "Không phải tất cả mọi người đều được lành sạch cả
sao ? Còn chín người kia đâu ?" Không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên
Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?
Sở
dĩ Đức Giêsu rất coi trọng lòng biết ơn chỉ vì ích lợi cho chúng
ta. Người Samaria (ngoại giáo) sau khi được Chúa chữa lành bệnh hủi phần
xác, thì liền ngay đó Chúa lại ban thêm ơn đức tin cho anh ta
khi Chúa nói: “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của con đã cứu chữa con.”
(Lc 17,19). Bởi vì anh ta biết trở lại tạ ơn Chúa. Như thế, tạ ơn chính là cơ
hội để nhận thêm ơn.
Trong
lời tiền tụng chung thứ IV sách lễ Rô-ma GH ý thức chúng ta về
điều đó: “việc tạ ơn chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng mang lại ơn cứu độ cho chúng
ta”.
Nhưng
tiếc thay, trong thực tế lại có rất ít người biết ơn Chúa. Những trang tin
mừng minh chứng điều đó: khi Đức Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho
bao ngàn người ăn no nê dư đầy, vậy mà khi Chúa vác Thánh giá lên đồi Can-vê té
ngã nhiều lần, chỉ có một người đứng ra vác đỡ Thánh giá Chúa,
đó lại là ông Xi-mong thành Ky-rê-nê, ngoại giáo.
Suốt
3 năm Đức Giêsu rao giảng tin mừng ban bao nhiêu là lời chân lý có
sức cứu độ, cũng như rất nhiều phép lạ Chúa làm để thi ân giáng phúc cho nhiều
người. Vậy mà khi Chúa vừa tắt thở trên cây Thánh Giá, thì chỉ có một người lớn
tiếng tuyên xưng đức tin: “Đúng ông này là Con Thiên Chúa” (Mt
27,54); mà người đó lại là viên sĩ quan ngoại giáo. Thử hỏi những người
thụ ơn Chúa ở đâu cả rồi, sao không thấy ai đến dâng lời tạ ơn
Chúa; cũng chẳng thấy ai đứng ra bênh vực Chúa trong lúc Ngài chịu đau khổ?
Thật đáng buồn!
Nói
người lại nghĩ đến ta, có thể trong cuộc sống rất nhiều lần chúng ta hửng hờ trước
biết bao hồng ân của Chúa thương ban. Chúng ta được sinh ra và lớn
lên là sự nâng đỡ, che chở và trợ giúp bao người: Miếng cơm chúng ta ăn, manh
áo chúng ta mặc… đều có sự đóng góp công sức của nhiều người. Chúng ta có làm
được ông này, bà nọ cũng nhờ công ơn sinh thành của cha mẹ, dạy dỗ của thầy
cô. Tất cả những gì chúng ta đang hưởng dùng như: tiền bạc, nhà cửa,
tài năng, sức khỏe, thời giờ…đều là hồng ân Thiên Chúa ban tặng một cách trực
tiếp hay gián tiếp cách này hay cách khác. Hai tiếng cám ơn phát xuất từ tấm
lòng chân thành sẽ nâng cao giá trị, nhân cách của con người chúng ta.
Lòng
biết ơn không chỉ qua loa trên môi miệng, mà trên hết phải được thể
hiện ra bằng cả cuộc sống. Đức Giêsu không chỉ là mẫu mực về lòng
biết ơn mà Ngài còn dạy chúng ta thể hiện lòng biết ơn ấy khi lập Bí tích Thánh
Thể: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Kể từ đó Thánh lễ chính
là lời tạ ơn cao trọng và quý giá nhất. Bởi vì, Giáo hội cậy nhờ công nghiệp
của Đức Giêsu mà tạ ơn Thiên Chúa Cha. Vậy chúng ta hãy siêng năng tham dự
thánh lễ để nói lên tâm tình tạ ơn Chúa.
Mẹ
Maria đã cảm nghiệm được lòng Chúa thương xót khi Mẹ cất lên lời kinh tạ
ơn: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, vì Ngài đã làm cho tôi biết bao
điều cao cả” (Lc 1,46-49). Và rồi Mẹ đã dành cả cuộc đời để tạ ơn
Chúa.
Thánh
Inhaxiô nói : “Tội lớn nhất là tội vô ơn”.
Chín
người phong cùi Do thái không biết cám ơn, sau khi được khỏi bệnh thể
xác. Còn Người phong cùi Samaria lại biết cám
ơn, nên anh không những khỏi bệnh về phần xác mà anh ta còn được
Chúa ban thêm ơn về phần hồn, khi tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa,
là vị lương y cao cả đầy quyền năng giàu lòng thương xót và là Đấng
cứu độ duy nhất.
Vậy để thể hiện lòng biết ơn Thiên Chúa, điều quan trọng nhất là biết siêng năng tham dự Thánh lễ sốt sắng, vì thánh lễ còn được gọi một cái tên khác chính xác hơn đó là "Lễ Tạ Ơn". Lòng tạ ơn Chúa còn được thể hiện qua việc đặt trọn vẹn niềm tin tưởng vào quyền năng của Chúa và biết cao rao tình thương của Người. (St)
Chúng ta có thể chia bài
Tin mừng thành ba đoạn nhỏ:
1. Nhận biết phận mình: Mười người phong cùi đến với Đức Giêsu xin
Ngài cứu chữa. Nhận biết phận mình là những người bị xã hội loại bỏ, nên không
dám đến gần Đức Giêsu mà chỉ “đứng đàng xa” mà kêu xin.
2.
Đức Giêsu thử thách họ: Ngài không chữa cho họ ngay mà chỉ bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế”. Nếu
có đức tin thì họ sẽ đi ngay và sẽ được khỏi.Trường hợp này họ có đức tin vì
đang đi trên đường thì họ được khỏi.
3. Kết quả: Mười người đều được khỏi bệnh: 9 người cùi Do thái không
trở lại tạ ơn, vì họ đã quen được ơn Chúa nên coi đó là việc bình thường. Còn
người cùi xứ Samaria trở lại tạ ơn, vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được ơn,
thế mà lại được.
Người đời thường nói: “Uống nước nhớ nguồn” hay “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Biết ơn là một chuyện xem ra rất bình
thường trong cuộc sống con người, nhưng lại là một bổn phận mà ít ai làm cho
trọn.
Cuộc đời của
mỗi chúng ta đều được đan dệt với vô vàn hồng ân của Thiên Chúa. Hồng ân
này đan xen với những ân huệ khác. Ý thức điều đó nên Thánh Phaolô và Thánh
Têrêsa Hài đồng Giêsu đều thốt lên: “Tất cả là hồng ân”. Có những
hồng ân Thiên Chúa ban gián tiếp qua người này người kia hay qua những biến cố trước mắt ta dễ nhận ra. Tuy nhiên có những
hồn ân Chúa ban cách trực tiếp nhưng ẩn khuất chúng ta khó nhận ra và có khi cả đời chúng ta cũng không cảm nhận được. Nhưng với cái nhìn đức tin thì tất cả những gì “ta có”,
những gì “ta là” và ngay chính bản thân ta, tất cả đều là ân ban của Thiên Chúa.
Chúa cho con đôi mắt, con
nhìn bao kỳ công,
Chúa cho con đôi tai, con nghe đủ
âm thanh,
Chúa cho con đôi môi, con hé mở nụ
cười,
Chúa cho con hai tay, bưng chén
cơm, cầm bút,
Chúa cho con đôi chân, dẫn con
khắp nẻo đường,
Chúa cho con khối óc, phân biệt
điều thực hư,
Những điều con có đó, tưởng tầm thường
nhưng thật vĩ đại, thật cao cả.
Mà đã lần nào con nhớ đến những
thứ ấy để cám ơn Chúa.
Chắc đợi đến khi mắt mù,
tai điếc, chân què, con mới nhận ra những thứ ấy thật cao quí biết bao!
Biết ơn thì xứng đáng nhận ơn, cám ơn là thêm cơ hội để nhận ơn. Biết nói lời cám ơn cho thấy mình rất quý trọng điều đã lãnh nhận và đó cũng là cách biểu tỏ xứng hợp làm vui lòng cho những người ban ơn cho ta.
Đối với Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành rồi, nên Người không cần
chúng ta phải tạ ơn Người, nhưng việc tạ ơn lại cần thiết cho chính ta vì có lợi cho ta như kinh
Tiền tụng Thánh Thể IV đã xác quyết: “Lạy Chúa là Cha chí
thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc,
thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con. Tuy Chúa không
cần chúng con ca tụng, nhưng việc chúng con cảm tạ Chúa lại là một hồng ân Chúa
ban, vì những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho
chúng con ơn cứu độ, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con…”.
Thánh lễ còn có tên gọi chính xác là Lễ Tạ Ơn. Ngay từ ban đầu khi thành lập Giáo hội, các tín hữu đã qui tụ nhau lại với nhau hằng tuần để cử hành tiệc “Thánh Thể” (Cv 2, 42). Chữ “Thánh Thể” có nguồn gốc từ tiếng Hy lạp là “Eucharistos” có nghĩa là “Biết ơn-Tạ ơn”. Nên Thánh lễ được gọi đúng tên là Lễ Tạ Ơn. Cho nên khi ta tham dự Thánh lễ là ta thể hiện tâm tình tạ ơn Thiên Chúa cách đúng đắn nhất hữu hiệu và đẹp lòng Chúa nhất.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng ta rất nhiều điều. Nhưng xin
ban cho chúng ta một điều nữa là cho chúng ta có được con mắt đức tin để nhạy
bén nhận ra những ân huệ Chúa trong cuộc sống hàng ngày mà không ngừng cảm tạ
tri ân Chúa qua việc siêng năng tham dự Thánh Lễ. Amen. (St)
Thứ
năm: Lc 17, 20-25
Bao
giờ triều đại Thiên Chúa đến và đến ở đâu? Đó không chỉ là thắc mắc của người
Pha-ri-sêu mà là của tất cả chúng ta.
Qua
câu trả lời, Chúa Giê-su như muốn nói với ta rằng: Bao giờ triều đại Thiên Chúa
đến hay đến ở đâu không quan trọng. Quan trọng là làm sao chúng ta cảm nhận
được triều đại Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta.
Làm
thế nào chúng ta cảm nhận được triều đại Thiên Chúa đang ở giữa hay ở nơi chúng
ta?
-
Phải sống yêu thương.
Thánh
Gioan định nghĩa: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Như vậy ai sống yêu thương thì
người ấy giống Thiên Chúa; giống Thiên Chúa thì tất nhiên được ở trong triều
đại của Chúa; mà ở trong triều đại Chúa có nghĩa là triều đại Thiên Chúa đang
đến ở giữa người đó. Linh mục Vinh Hạnh đã sáng tác một bài hát “Đâu có tình
yêu thương” rất hay. Lời của bài hát viết rằng: “Đâu có tình yêu thương ở đấy
có Đức Chúa trời”. Vậy nơi nào có tình yêu, thì Đức Chúa Trời hiện diện nơi đó.
Và nơi đó chính là triều đại của Thiên Chúa đang đến.
-
Phải đặt niềm tin vào Đức Giêsu.
Trong
cuộc đàm luận với ông Nicôđêmô, Chúa Giê-su đã khẳng định: "Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến
thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ tin vào Con của Người,
mà được cứu độ." (Ga 3,1-21). Vì thế, những ai tin tưởng vào Đức Giê-su, Thiên
Chúa làm Người sẽ đón nhận được ơn cứu độ. Đón nhận được cứu độ cũng đồng nghĩa
với triều đại Thiên Chúa đang đến giữa họ.
- Phải sống công chính.
Thánh Phao-lô xác định mạnh mẽ: “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần." (Rm 14,17) Do đó, ai biết sống đời công chính, kiến tạo bình an và gieo rắc niềm vui trong Chúa Thánh Thần, người ấy xứng đáng là công dân của nước Chúa. Là công dân nước Chúa thì tất nhiên triều đại Thiên Chúa đang đến ở giữa họ.
Tóm
lại: Niềm tin, tình yêu, công chính... là những điều kiện nền tảng mà mỗi người
chúng ta phải nỗ lực thực hiện trong đời sống hàng ngày thì mới mong đón nhận được triều đại Thiên Chúa
đang đến và ở giữa chúng ta.
Xin
Chúa củng cố niềm tin, tình yêu và sự công chính của Chúa nơi mỗi chúng ta, ngõ
hầu chúng ta cảm nhận được bình an, hạnh phúc và niềm vui nơi tâm hồn. Khi đó, chúng ta sẽ nhận thấy triều đại Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta. Amen.
Thứ
sáu: Lc 17, 26-37
Nhớ
Thánh nữ Ê-li-sa-bét Hung-ga-ri
“Bao giờ
triều đại Thiên Chúa đến?” (Lc 17, 20) hoặc bao giờ
đến ngày tận thế? Đó không chỉ là nỗi quan tâm của những người Pharisêu mà còn
là của các môn đệ Chúa Giêsu: “Thưa thầy, ở đâu vậy?” (Lc
17,37). Trãi qua mọi thời đại, con người lúc nào cũng quan tâm đến vấn đề này.
Vào
những thời kì đầu của Giáo Hội, các tín hữu Thessalonica đã nghe theo những
luận điệu tuyên truyền sai lạc về ngày tận thế sắp đến. Do đó họ tỏ ra chán
nản, lười biếng buông xuôi hết mọi thứ, không còn lo làm việc nữa. Đến nổi
thánh Phaolô phải viết thư khuyên họ, đừng tin theo những luận điệu sai lạc ấy.
Ta
vẫn còn nhớ khi bước vào năm 2000, nhiều người cho rằng ngày tận thế sẽ đến, họ
lo lắng và chuẩn bị đủ mọi chuyện: dự trữ lương thực, mua đèn cầy để xin làm
phép, lo đi xưng tội, cố gắng sống tốt... nhằm chờ đón ngày tận thế đến.
Cũng
vậy, cách đây vài năm, người ta đồn đoán rằng: theo lịch Maya, thì vào ngày
21/12/2012 là ngày tận thế, do đây là ngày kết thúc niên lịch của họ. Nhưng tất
cả những đồn đoán ấy đều qua đi, mà không hề xảy ra ngày tận thế.
Vậy
bao giờ thì tận thế?
Không
ai biết trước được. Cả Chúa Giêsu cũng không mạc khải về thời giờ cụ thể của
ngày này, chỉ có Chúa Cha biết thôi: “Còn về ngày hay giờ đó, thì dù
các thiên sứ trên trời, hay cả Con Người đi nữa, cũng không ai biết được trừ
một mình Chúa Cha mà thôi”(Mc 13, 32). Chúa Giêsu chỉ nói sẽ có ngày tận
thế. Ngày ấy đến một cách rất là nhanh chóng và bất ngờ như “ánh chớp
chói lòa chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia” (Lc 17,
24).
Và
để minh họa cho tính bất ngờ của ngày tận thế ấy, bài tin mừng hôm nay, Chúa
Giêsu dùng hai sự kiện cụ thể trong thời cựu ước đó là: lụt Đại Hồng Thủy thời
Nô-e và Mưa lửa, Diêm sinh từ trời xuống thời ông Lót để mời gọi chúng ta phải
có thái độ sẵn sàng cho ngày ấy.
Cũng
như ngày tận thế đến bất ngờ và nhanh chóng thế nào, thì cái chết cũng đến với
mỗi chúng ta cũng mang tính cách bất ngờ như vậy. Vì thế, điều quan trọng là
hãy nghe theo lời dạy của Chúa mà chuẩn bị sẵn sàng. Có sẵn sàng thì cho dù cái
chết có đến bất ngờ, ta cũng không hề sợ hãi; trái lại, ngày ấy sẽ là ngày hân
hoan vui mừng của ta, vì triều đại Thiên Chúa thuộc về ta.
Lạy
Chúa, sống trên đời này, ai trong chúng con cũng tất bật lo cho cơm áo gạo
tiền; cũng như muốn vui chơi hưởng thụ. Nhưng xin Chúa đừng để chúng con quá
ham mê của cải và đam mê hưởng thụ mà quên đi nhiệm vụ chính yếu là chuẩn bị
sẵn sàng cho ngày Chúa đến.
Thứ
bảy: Lc 18, 1-8
Phải
nói rằng cầu nguyện chính là biểu lộ của đức tin. Có tin mới cầu xin. Tin ít
thì cầu xin ít, tin nhiều cầu xin nhiều. Tin vững vàng thì cầu xin kiên trì.
Vì
thế, chúng ta mới hiểu tại sao Chúa Giêsu phải thốt lên: “khi Con Người
ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”. Nói cách
khác là liệu Ngài có còn thấy con người cầu nguyện khi ngày Ngài ngự đến nữa
chăng?
Với
hình ảnh bà góa trong bài tin mừng hôm nay, chúa Giêsu muốn dạy chúng ta phải
kiên trì trong cầu nguyện để biểu lộ đức tin mạnh mẻ của mình.
Kiên
trì là gì?
Kiên
trì là: bền bỉ, giữ vững, không bỏ.
Bền
bỉ cầu xin như người đàn bà góa bất hạnh trong bài tin mừng hôm nay. Như thánh
nữ Mônica hơn 20 năm cầu nguyện cho chồng, cho con….
Nếu
bà góa kiên vững đặt hết niềm tin và lời cầu xin của mình vào ông quan tòa bất
chính, thì chúng ta càng phải kiên gan giữ vững niềm tin với lời nguyện xin của
chúng ta vào Thiên Chúa là người Cha chúng ta.
Nếu
ông quan tòa bất chính còn đáp lại nguyện vọng của người đàn bà góa nhờ sự kiên
trì không chán nản bỏ cuộc của bà ta, thì Thiên Chúa, người cha nhân ái chắc
chắn sẽ không bao giờ làm ngơ trước lời cầu xin liên tục của con cái mình.
Nhưng liệu lòng tin chúng ta có đủ mạnh để kiên trì cầu xin hay là chúng ta dễ
dàng nản lòng bỏ cuộc?
Lạy
Chúa, xin cho con luôn biết biểu lộ lòng tin của mình cách mạnh mẻ bằng việc
cầu nguyện kiên trì. Để khi vui hay lúc buồn, thành công hay thất bại, mưa hay
nắng, mạnh khỏe hay đau yếu… lúc nào con cũng gắn kết với Chúa qua việc cầu
nguyện. Xin cho con cũng ý thức cầu nguyện là nhu cầu rất cần thiết cho đời sống
đức tin như hơi thở cần cho sự sống vậy!
SUY
NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXXII THƯỜNG NIÊN
Lm. Minh Anh. Tgp. Huế
THỨ HAI: KẺ
BÉ NHỎ
“Khốn cho kẻ làm cớ
cho người ta vấp ngã!”.
John Newton nhận xét, “Hiếm khi Satan tấn công ai một
cách thô bạo. Một khúc gỗ tươi có thể an toàn đứng cạnh một ngọn nến; nhưng chỉ
với một vài mảnh vụn, một vài que củi, bạn có thể biến khúc gỗ tươi thành tro,
và lửa của nó có thể thiêu rụi một cánh rừng. Cũng thế, gương xấu của bạn là những
que củi có thể dẫn đến việc hỏng cả một thế hệ!”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Chỉ một vài mảnh vụn, vài que củi, một cánh rừng có thể
bị thiêu rụi!”. Cũng thế, cớ vấp phạm của bạn và tôi, tuy nhỏ, vẫn có thể đốt
cháy cuộc đời của những ‘kẻ bé nhỏ’; và có thể, cả một thế hệ. ‘Kẻ bé nhỏ’ ở
đây còn là tất cả những ai dễ bị tổn thương.
Trước hết, cần làm rõ rằng, tội lỗi là sự lựa chọn tự
do của mỗi người, và mỗi người sẽ chịu trách nhiệm về tội lỗi của mình. Điều
Chúa Giêsu chỉ ra ở đây là mặc dù mỗi người chịu trách nhiệm về hành động của
mình, nhưng bạn và tôi còn phải chịu trách nhiệm về cách hành động như kẻ cám dỗ
người khác. Là những tội nhân, chúng ta có thể cám dỗ người khác phạm tội.
Chúng ta cám dỗ họ bằng cách trêu giận họ hoặc bằng cách làm gương xấu. Ngược lại,
chúng ta còn có khả năng “dụ dỗ” người khác hướng tới đức hạnh; nói đúng hơn,
chúng ta truyền cảm hứng và khuyến khích họ, những ‘kẻ bé nhỏ’.
Là Kitô hữu, chúng ta được kêu gọi để nên thánh và giúp
người khác nên thánh; đang khi gương xấu làm sai lệch thiên chức và sứ mệnh của
mỗi người. Ai trong chúng ta cũng có những ‘kẻ bé nhỏ’ được giao phó; trẻ em,
người thân, những người mà đức tin nơi họ còn non yếu… Nếu chúng ta phạm tội; đến
lượt họ, họ cũng có thể dạy người khác phạm tội, cho đến khi ‘đoàn tàu tội lỗi’
chuyển động mà không có điểm dừng. Không lạ, Chúa Giêsu nói, “Thà buộc cối đá lớn
vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi cho nó hơn!”.
Vậy thì trong cuộc sống của bạn, ai là ‘những kẻ bé nhỏ’
dễ bị tổn thương, tội lỗi, bối rối, đang lạc lối vào thời điểm này; ai đang vật
lộn với giận dữ, nghiện ngập hoặc đang sống một lối sống tội lỗi? Đây có thể là
một đứa trẻ, cũng có thể là một người nào đó đang đứng trên bờ vực tuyệt vọng
hoặc bất kỳ một tội lỗi nghiêm trọng. Đâu là thái độ của bạn. Bạn có hay phán
xét, lên án, coi thường, hoặc bạn cám dỗ họ sa sâu hơn vào tội mà họ đang phạm
phải trong tình trạng dễ bị tổn thương, từ đó dẫn họ vào đàng tội lỗi sâu hơn?
Anh Chị em,
“Chỉ vài mảnh vụn, vài que củi, một cánh rừng có thể bị
thiêu rụi!”. Lời Chúa mời gọi bạn và tôi cam kết yêu thương sâu sắc tất cả những
‘kẻ bé nhỏ’ và tìm cách phục vụ họ với trái tim của Chúa Kitô. Đây là không chỉ
là việc của ân sủng, nhưng còn là việc của cả một cuộc đời mà nếu không có ơn
Chúa, chúng ta không làm gì được. Bài đọc Khôn Ngoan hôm nay nói, “Hãy suy tưởng
ngay lành về Đức Chúa, và thành tâm kiếm tìm Ngài!”; “Vì Ngài thấu suốt tâm
can, dò xét lòng dạ đến nơi đến chốn”. Thánh Vịnh đáp ca là một lời van xin sâu
sắc nhắc chúng ta hãy bền bỉ cậy trông vào Chúa, “Lạy Chúa, xin dẫn con theo
chính lộ ngàn đời!”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng bao giờ để con làm cớ cho ai vấp ngã,
dù là một trẻ nhỏ. Vì như thế, con có thể ‘đốt cháy cả một cánh rừng’, làm hỏng
cả một thế hệ!”, Amen.
THỨ BA
SUY NIỆM 1: THƯỚC ĐO ĐỨC
TIN
“Chúng tôi là những đầy
tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi!”.
Tại một miền quê khá yên tĩnh, một mục sư tận tuỵ phục
vụ, dù con số giáo dân thật ít ỏi. Năm này qua năm khác, sứ vụ của ông xem ra
khá đơn điệu. Chỉ sau nhiều năm, ông mới biết, một trong những người mà ông đã
chinh phục cho Chúa Kitô là Charles Spurgeon, mệnh danh “Hoàng Tử của Các Nhà
Truyền Giáo”. Spurgeon đã đem về cho Chúa hàng vạn linh hồn. “Không có giới hạn
nào cho những điều tốt mà một người có thể làm, nếu người ấy không quan tâm đến
phần thưởng!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Sứ điệp Tin Mừng hôm nay không dựa trên thái độ của ‘chủ’
nhưng dựa trên thái độ của ‘tớ’, thái độ phục vụ! Chúa Giêsu cho biết, đó chính
là ‘thước đo đức tin’ của người môn đệ. ‘Tớ’ phải hoàn thành nhiệm vụ mà không
mong đợi phần thưởng của ‘chủ’.
Chúa Giêsu tiết lộ điều này bằng một dụ ngôn, mà thoạt
đầu, gây bối rối: một ông chủ hống hách và thờ ơ. Nhưng chính thái độ khô khốc
‘chủ tớ’ của ông lại làm nổi bật sự nhu mì nơi người đầy tớ. Đây là cách bày tỏ
đức tin bạn và tôi cần có đối với Chúa: khiêm tốn phục vụ, không tính toán hay
viện cớ mình đã làm được điều này điều kia.
“Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng” diễn tả sự khiêm
nhường và sẵn lòng, mang lại nhiều lợi ích cho Giáo Hội và thế giới từ những
con người thầm lặng. Nếu tôi tớ phải hoàn thành bổn phận của họ, thì chúng ta,
môn đệ Giêsu, phải hoàn thành sứ mệnh Ngài trao biết bao! Chúng ta sẽ làm tất cả
cách hân hoan, vui vẻ; vì lẽ, bất cứ điều gì chúng ta có, chúng ta là, đều đã
là quà tặng của Thiên Chúa và chúng đến từ Ngài.
Đối với những người có đức tin, mọi sự đều là dấu chỉ;
đối với những người yêu thương, mọi thứ đều là quà tặng! Làm việc cho Vương Quốc
đã là một phần thưởng lớn lao; do đó câu nói “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng”
không nên được giải thích với sự chán nản hay buồn bã, nhưng đó phải là tâm tình
của một môn đệ đầy tràn niềm vui thực sự khi biết mình được mời cộng tác với
Chúa trong tiến trình cứu độ của Ngài. Thánh Vịnh đáp ca thật sâu lắng, “Tôi sẽ
không ngừng chúc tụng Chúa!”. Thế thôi!
Đức Bênêđictô 16 nói, “Nếu chúng ta phục vụ ý muốn của Thiên
Chúa với lòng khiêm tốn, không đòi hỏi bất cứ điều gì từ Ngài, thì chính Chúa
Giêsu lại phục vụ chúng ta, giúp đỡ chúng ta, khích lệ chúng ta; Ngài ban cho
chúng ta sức mạnh và sự thanh thản!”. Bài đọc khôn ngoan hôm nay viết, “Ai trung thành, sẽ được Chúa yêu thương và
cho ở gần Người, vì Người ban ân phúc và xót thương những ai Người tuyển chọn!”.
Sự trung thành tin yêu đó là ‘thước đo đức tin’ của người môn đệ!
Anh Chị em,
“Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi!”. Phục vụ
Thiên Chúa, bạn và tôi đừng bao giờ nghĩ mình đang ‘làm ơn’ cho Ngài! Đó không
phải là một hành động ‘rộng lượng’ từ phía chúng ta mà là ‘rộng lượng’ từ phía
Ngài! Chúa chẳng hề nợ ai! Như Mẹ Maria, bạn và tôi xem những gì Chúa trao là một
ân phúc trọng đại; và coi đó là ‘phương tiện’ nhanh nhất Chúa ban để chúng ta cất
bước trên lộ trình hướng tới đỉnh trọn lành. Hiểu được Chúa là ai, chúng ta sẽ
không bao giờ ngần ngại làm tôi tớ, thậm chí là nô lệ Ngài.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, thông thường, ‘chưa làm, con đã đòi thưởng’.
Dạy con làm điều tốt một cách không giới hạn, chẳng màng quan tâm đến việc thưởng
khen chốn bụi trần này!”, Amen.
SUY NIỆM 2: NÔ LỆ KHÔNG ĐÒI GÌ
“Đối với anh em cũng vậy: Khi đã làm tất cả theo lênh phải làm,
thì hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm những việc
bổn phận đấy thôi.” (Lc. 17, 10)
Đức
Giêsu dùng nhiều thí dụ cụ thể trong đời sống thường ngày để loan báo sứ điệp
của Người. Hôm nay Người tiếp tục giáo huấn về đức hạnh của các phần tử của Hội
thánh.
Chỉ lo phục vụ chủ mình:
Biệt
phái quan niệm giao ước như là một bản hợp đồng về những luật lệ của Thiên Chúa
đối với con người. Khi người ta hoàn tất những giới răn như luật dạy, Thiên
Chúa mắc nợ với con người: người ta có quyền đòi con nợ của mình. Quan niệm này
là nền tảng cho kiêu ngạo và tự mãn của họ.
Trong
khi dạy các phần tử của Hội thánh sống khiêm tốn và nương tựa hoàn toàn vào
Thiên Chúa, Đức Giêsu đối lập lại với thái độ của biệt phái. Người kể gương
người nông phu đã nêu cao tinh thần phục vụ lên hàng đầu, vừa đi cày về, còn
mau mau dọn cơm cho chủ ăn. Ở đây, Đức Giêsu không muốn dạy bài học luân lý.
Người muốn hơn nữa: không những vô vị lợi mà còn chỉ cho con người phải sống
như đầy tớ của Thiên Chúa. Đấng sáng tạo vũ trụ vạn vật.
Người
đầy tớ làm ruộng như một nông nô không có quyền gì với ông chủ của nó. Nó phải
làm điều chủ đòi nó làm. Nó không được chờ đợi bất cứ điểm tốt nào hay bất cứ
một lời cảm ơn gì. Cũng thế, con người ta là một đầy tớ cùng khốn đối với Thiên
Chúa. Nó không được quyền gì để cho mình có giá trị. Thiên Chúa không phải trả
công hay tưởng thưởng nó. Nó chẳng đáng gì, ngoài ra phải làm phận sự đầy tớ
của mình, vì chính Thiên Chúa đã ban đời sống cho nó, gìn giữ nó sống và nâng
cao đời sống nó lên.
Không một phần thưởng
Các
tông đồ bỏ tất cả theo Đức Giêsu và chấp nhận mọi yêu sách cốt yếu nhất của
Chúa. Như Phê-rô đã hỏi: “Vậy chúng con sẽ được gì?”. Cả các ông cũng chỉ là
những đầy tớ vô dụng ư? Câu đáp của Đức Giêsu là các anh đã chỉ làm việc bổn
phận mình thôi. Các anh không có quyền đòi cung cấp chi hết. Do lòng thương yêu
của Chúa, Chúa đã tặng không mọi sự cho con người, con người phải làm vinh danh
và nhớ ơn Thiên Chúa.
Giáo
huấn của Đức Giêsu muốn duy trì sự bình an trong Giáo hội. Mỗi người là một đầy
tớ vô dụng, được kêu gọi làm theo lệnh Chúa, với tinh thần hoàn toàn khiêm tốn.
Không ai có thể dành riêng cho mình một địa vị ưu tiên nào, vì Thiên Chúa là
chủ mọi ân huệ và phân phát cho ai tùy Ngài muốn.
RC
SUY NIỆM 3: ĐẾN ĐỂ PHỤC VỤ
Qua
những nguồn tin trên các trang mạng, chúng ta thấy: Đức Thánh Cha Phanxicô đang
được cả thế giới tôn vinh và khen ngợi. Nhân loại ca ngợi ngài không phải ở khả
năng tri thức vượt trội, cũng không phải vì những triết thuyết cao siêu, hay uy
tín vốn được gắn với tước vị Giáo hoàng từ bao đời…! Nhưng người ta kính nể vì
Đức Giáo Hoàng là một con người bình dân. Ngài sẵn sàng xuống đường để ôm hôn
một người dị tật, lắng nghe một em bé đang muốn tâm sự. Ngài cũng khước từ
những điều sang trọng cần có đối với một vị lãnh tụ tinh thần của Giáo Hội.
Ngài cũng không ngần ngại đứng xếp hàng để nhận cơm tại một quán ăn và cũng
không có khoảng cách khi cùng ngồi ăn với những công nhân sửa ống nước tại
Vatican. Ngài còn là một người sống tinh thần nghèo khó khi lựa chọn những
phương tiện đơn giản nhất, hoặc công cộng để di chuyển…
Tất
cả những điều đó cho thấy: Đức Giáo Hoàng Phanxicô không ưa được dành quyền đặc
lợi cho mình, mà sẵn sàng trong thái độ của người phục vụ… Ngài đã làm những
chuyện đó là vì ngài muốn làm mọi việc cho vinh quang Chúa chứ không phải cho
mình được nổi trội.
Thực
ra trong thế giới hôm nay, sự mong muốn được an thân, khao khát được sung sướng
và thái độ cầu an cũng như mong muốn được phục vụ đang kéo dần người Kitô hữu
đi theo như cơn lũ bão… Nhưng thử hỏi: liệu những cung cách đó có làm cho khuôn
mặt của Đức Giêsu được sáng tỏ hay không? Phải chăng nó đã làm cho Ngài bị lu
mờ qua những cái bóng của sự tự kiêu, ích kỷ…
Sứ
điệp lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cố gắng sống tốt đúng với tư cách là
môn đệ của Chúa. Luôn noi gương Chúa đến để phục vụ chứ không phải để được
người khác phục vụ. Luôn yêu mến đời sống đơn giản vì ích lợi cho mình và người
khác. Luôn chu toàn bổn phận của mình trong tư cách là người tôi tớ.
Cần
nhớ một điều rằng: chỉ khi nào chúng ta từ bỏ mình, sống tinh thần phục vụ,
chúng ta mới trở nên mình hơn và giống hình ảnh của một vị Thiên Chúa đến để
phục vụ vì ích lợi của con người.
Chính
Công Đồng Vaticanô II trong Hiến chế “Vui mừng và hy vọng” đã để lại một châm
ngôn đáng được chúng ta suy niệm và đem ra thực hành: “Con người chỉ tìm gặp
lại bản thân bằng sự hiến thân vô vị lợi mà thôi”. Điều này cũng được thánh
Phanxicô Assisi đã tâm nguyện qua kinh hòa bình: “Chính khi hiến thân là khi
được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ý thức được
vai trò của người môn đệ, và xin cho chúng con biết can đảm lựa chọn trong tinh
thần của người tôi tớ. Amen.
Ngọc Biển SSP
THỨ TƯ: ĐỈNH
CAO TẠ ƠN
“Thấy mình được khỏi,
anh liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa”.
“Hãy đặt trái tim vào những gì bạn đang tận hưởng, dẫu
trọn vẹn hay không trọn vẹn; cho dù những thứ ấy chỉ là những thứ thuộc về thời
gian. Nhưng những lời ngợi khen, cảm tạ dâng lên Đấng Ban Ơn là những gì vượt
quá thời gian; và nếu tháp nhập với Đức Kitô, nó sẽ trở thành ‘đỉnh cao tạ
ơn!’” - Elisabeth Elliot.
Kính thưa Anh Chị em,
“Tháp nhập với Đức Kitô, nó sẽ trở thành ‘đỉnh cao tạ
ơn!’”. Ý tưởng của Elliot được gặp lại qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay! Một
trong những người cùi được lành quay trở lại tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa.
Trong tiếng Hy Lạp, để biểu lộ lòng biết ơn ai, người
ta nói “EuXaristia”, “Tạ Ơn”; “EuXaristia” còn có nghĩa là “Thánh Thể”. Như thế,
cử hành Thánh Thể hay tham dự Thánh Thể là hành vi tạ ơn đúng nghĩa nhất, cao cả
nhất; Thánh Thể là ‘đỉnh cao tạ ơn’ vậy!
Lu-ca nói đến mười người phong cùi nghèo hèn, những con
người mà hy vọng duy nhất còn lại của họ là lòng thương xót của Thiên Chúa, “Lạy
Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!”. May thay, lời họ cầu xin được nhậm,
Chúa Giêsu chữa lành tất cả. Và họ ‘tiếp tục bước đi trên con đường của họ’,
lòng hỷ hoan với quà tặng vừa lãnh nhận. Tuy nhiên, một người trong họ quay trở
lại để tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa; và điều này khiến Chúa Giêsu vừa ngạc
nhiên, vừa thất vọng, “Không phải cả mười
người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu?”. Ngài lấy làm tiếc,
không phải vì đã trót làm phúc cho chín người hờ hững; nhưng tiếc vì họ không
hiểu rằng, biết tạ ơn, họ sẽ được nhận nhiều hơn!
Sẽ được nhận nhiều hơn! Một chi tiết thú vị cần lưu ý
là, khi chữa lành họ, Chúa Giêsu nói, “Hãy đi trình diện với các tư tế!”; nói
như thế, khác nào nói, “Hãy đi dâng lễ!”. Tuyệt vời! Chỉ một người đã khôn
ngoan quay trở lại ‘trình diện’ Ngài, Tư Tế Tối Cao thánh thiện nhất. Và ngay lúc
ấy, Chúa Giêsu nâng anh lên một cấp độ cao hơn, cấp độ vốn cho anh khả năng nhận
được nhiều hơn. Nhiều hơn ở đây là: Anh được cứu! Được cứu bởi lòng thương xót,
giờ đây, anh có khả năng lớn lên hơn nữa trong sự thông hiệp với Ngài!
“Communion”, “Hiệp Thông” còn có nghĩa là “Rước Lễ”. Biết đâu, người ngoại này
sẽ là môn đệ của Chúa Giêsu; “EuXaristia”, “Hiệp Thông với Thánh Thể” là ‘đỉnh
cao tạ ơn’ vậy!
Anh Chị em,
“Anh liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên
Chúa”. Như những người cùi, bạn và tôi có thể là những người đang lở loét
thiêng liêng được Chúa Giêsu chữa lành. Và nếu lãnh nhận quà tặng của Ngài mà
không biết tạ ơn, chúng ta khác nào những người ‘tiêu thụ ân sủng’ đơn thuần mà
không có khả năng ‘cho lại’ bất cứ thứ gì. Chúa Giêsu muốn cứu chúng ta khỏi
tình trạng ‘thiếu khôn ngoan’ đó. Ngài muốn chúng ta tạ ơn, “EuXaristia!” mặc dầu
“những lời ca tụng của chúng con không thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại ơn cứu độ
cho chúng con”. Vì nhờ đó, Ngài mới có thể nâng chúng ta lên cấp độ thiết thân,
sâu nhiệm hơn. Sống trong môi trường tạ ơn, ‘môi trường Thánh Thể’, chúng ta sẽ
kín múc nhiều ơn lành hơn cho linh hồn mình, cho gia đình, cho cộng đoàn và cho
thế giới.
Chúng ta có thể cầu
nguyện,
“Lạy Chúa, dìm con sâu
hơn vào Thánh Thể, cho con yêu thích ngụp lặn trong ‘môi trường’ này; tháp nhập
với Chúa, con hưởng nhận nhiều hơn những gì vượt quá thời gian!”, Amen.
THỨ NĂM: KHI
NÀO, NƠI NÀO & THẾ NÀO?
“Triều Đại Thiên Chúa
đang ở giữa các ông!”
Mỗi khi người Anh muốn tìm hiểu một sự việc quan trọng nào
đó, họ thường đặt ba câu hỏi: “When, Where & How?”; “Khi nào, Nơi nào &
Thế nào?”.
Kính thưa Anh Chị em,
Thật thú vị, trong Tin Mừng hôm nay, các Biệt phái mới
chỉ hỏi Chúa Giêsu “Khi nào Triều Đại
Thiên Chúa đến?”.
Không chỉ trả lời nó đến “Khi nào”, nhưng Ngài còn cho
họ biết triều đại ấy sẽ đến “Nơi nào” và đến “Thế nào!”.
- “Khi nào?”. Vì quan niệm không đúng về
Triều Đại Thiên Chúa, các Biệt phái trông chờ một Messia ‘thế tục’, vốn sẽ đánh
đổ ngoại bang và khôi phục chủ quyền Israel. Đang khi Vương Quyền của Chúa Kitô
thì quan tâm đến linh hồn và cuộc chiến bên trong của nó; cuộc chiến giữa thiện
và ác, trời và đất, Thiên Chúa và thế gian. Vì ngộ nhận, họ từ chối Ngài.
Ấy thế, hai ngàn năm sau, cả chúng ta, cũng có thể mắc
phải sai lầm của các Biệt phái! Một đức tin èo uột khiến chúng ta không nhận ra
Triều Đại Thiên Chúa trong Chúa Kitô mãi cho đến khi chúng ta chấp nhận Ngài là
Vua linh hồn mình; cho phép Ngài làm chủ và sắp đặt cuộc sống mình. Chỉ lúc ấy,
Triều Đại Ngài mới ngự trị. “Khi nào?” chính là lúc này, thời điểm để tôi gặp
Chúa Kitô, để Ngài là Vua của linh hồn tôi!
- “Nơi nào?”. Không chỉ các Biệt phái,
các môn đệ của Chúa Giêsu cũng phải vật lộn để hiểu ngọn nguồn của Triều Đại
Ngài. Nó ở đâu? Họ tìm biết “Ngày của Con
Người”; đúng hơn, tìm biết Triều Đại Kitô Giêsu, Thầy họ, Đấng sẽ thu tóm mọi
quyền lực thế gian, thống trị thế giới, nơi mà Giacôbê và Gioan ước mong được một
chỗ bên hữu, bên tả. Đang khi Chúa Kitô đến, trước hết, để ngự trị trong lòng mỗi
người, trong lòng họ, kể cả những người rốt hèn nhất, “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông!”.
- “Thế nào?”. Nếu Triều Đại Thiên Chúa ở
đây, giờ này, trong lòng chúng ta, thế thì làm sao để chúng ta có thể hoàn toàn
thuộc về Vương Quốc Ngài? Ngài cho biết, hãy vào đó theo phong cách của Vua
Kitô! Ngài đã vào đó qua cánh cửa khổ đau và thập giá, “Phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ”. Cũng bằng cách
này, qua cánh cửa khổ đau và thập giá, bạn và tôi làm cho Triều Đại Kitô trở
nên những gì là của mình ngày càng hơn; và cuối cùng, chính Triều Đại và Đức
Vua sẽ tỏ mình uy linh cho chúng ta như “ánh
chớp chói loà chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia”.
Anh Chị em,
“Triều Đại Thiên Chúa
đang ở giữa các ông!”. Ai trong chúng ta cũng có một đất nước, một quê hương. Tuy
khác nhau về địa lý, bạn và tôi có cùng một nguồn cội trong ‘bản đồ’ Nước Trời;
đúng hơn, trong cung lòng Chúa Cha. Chỉ cần chúng ta nhận thức mình là công dân
của Nước ấy bằng cách cho phép Chúa Kitô chiếm chỗ nhất trong cuộc sống. Ngài sẽ
tỏ mình cho chúng ta và qua chúng ta, cho người khác. Quốc tịch của chúng ta là
Nước Trời, hiến pháp của chúng ta là Bát Phúc, đó là hiến chương của một Vương
Quốc “Phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu” như bài đọc Khôn Ngoan nói đến. Bởi lẽ,
chúng ta tin “Lời Ngài bền vững đến muôn đời!” như lời Thánh Vịnh đáp ca tuyên
xưng.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, ước gì Triều Đại Chúa là ‘chính Chúa’, trở
nên cuộc sống, tình yêu và ước muốn của con; và con không cần đặt vấn đề nó ở
đâu, khi nào và thế nào!”, Amen.
THỨ SÁU: PHÓ
CHO NGÀI
“Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất;
còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống!”.
“Amen”, một từ ngữ giàu ý nghĩa, đầy cảm xúc! “Amen” có nghĩa là “tin”,
“trung thành”, “chắc chắn”. Một người tin Chúa sẽ tuyên xưng “Amen”; và khi
Thiên Chúa đưa ra một lời hứa, phản ứng của người tin là “Amen”, “Sẽ như vậy!”.
Thưa lên “Amen”, chúng ta tin Thiên Chúa, Đấng tạo thành muôn loài; Đấng luôn
chân thật và thành tín. Ai khôn ngoan, người ấy ‘phó cho Ngài’ trọn cuộc sống,
trọn thân xác, trọn linh hồn!
Kính thưa Anh Chị em,
Sẽ khá ngạc nhiên khi Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta thưa lên một lời
“Amen” với những gì Chúa Giêsu tiết lộ,
“Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình,
thì sẽ bảo tồn được mạng sống!”. Nói lên sự thật này, Chúa Giêsu thúc giục
bạn và tôi hãy “Amen”, ‘phó cho Ngài’ mọi sự, hiện tại, tương lai, kể cả mạng sống!
Hãy chiêm ngắm Chúa Giêsu! Ngài tín thác và đầu phục Chúa Cha tuyệt đối;
làm đẹp lòng Cha mọi đàng trong mọi sự, cho đến chết, “Lạy Chúa, con phó linh hồn
con trong tay Cha!”. Cũng thế, nếu chúng ta tìm cách định hướng cuộc sống mình
bằng những nỗ lực riêng, mọi thứ sẽ không diễn ra. Noi gương Chúa Giêsu, bạn và
tôi phó thác toàn thân cho Thiên Chúa, buông bỏ mọi ước muốn, để Ngài tự do tiếp
quản và toàn quyền định đoạt mọi sự, ‘phó cho Ngài’ tất cả… Ngài sẽ dẫn dắt
chúng ta theo ý muốn thánh thiện nhất của Ngài. Và này, Thiên Chúa cũng sẽ ‘tôn
vinh’ chúng ta như đã tôn vinh Đức Kitô Giêsu, Con Một Ngài! Và đây là cách duy
nhất để Ngài cứu sống chúng ta!
Thoạt tiên, mức độ tín thác và đầu phục này sẽ rất khó khăn; vì thật
không dễ để đạt đến một mức độ tin cậy hoàn toàn vào Chúa! Nhưng nếu làm được
điều đó, bạn sẽ phải ngạc nhiên trước thực tế là, đường lối và kế hoạch của
Thiên Chúa cho cuộc sống chúng ta tốt hơn nhiều so với những gì chúng ta có thể
tưởng tượng. Khôn ngoan của Ngài là khôn lường; giải pháp của Ngài cho mọi vấn
đề là hoàn hảo. Ngài là Chúa Tể Càn Khôn, thấu suốt mọi sự, tạo tác mọi loài,
hiểu biết tâm tưởng con người đến từng gang tấc. Bài đọc Khôn Ngoan nói, Ngài
là “Đấng sáng tạo mọi loài, tác giả của muôn vẻ đẹp”; từ đó, cả “Trời xanh tường
thuật vinh quang Thiên Chúa!” như lời Thánh Vịnh đáp ca chúc khen!
Anh Chị em,
“Amen”, một lời tuyên xưng niềm tin hoàn toàn vào sự bảo đảm của Thiên
Chúa! Khác với một chiếc máy trong siêu thị vốn được người bán bảo hành trong một
thời hạn, bạn và tôi được Chúa bảo hành trọn đời và đời đời. Ngài bảo hành vô
thời hạn vì Ngài là tác giả, là Chủ của sự sống mọi loài; Ngài điều khiển, vận
hành mọi sự. Vì thế, trả lại cho Chúa những gì là của Ngài, để Ngài toàn quyền
quyết định tất cả là tuyệt đỉnh khôn ngoan. Mỗi chúng ta nằm trong kế hoạch
ngàn đời xót thương của Ngài, Ngài là “Amen” đời đời của chúng ta. Tuyệt vời
thay! Đấng quyền năng vô song đó lại là Cha của chúng ta. Vì thế, đừng ngần ngại
‘phó cho Ngài!’. Hãy bắt đầu ngay bây giờ, từ những tân toan, từ những công việc
nhỏ nhặt nhất cho đến mọi kế hoạch, kể cả tương lai và mạng sống!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con tin ai ngoài một mình Chúa! Con đầu phục Chúa!
Con ‘phó cho Ngài’ vận mệnh của con, con ‘phó cho Ngài’ từng hơi thở của con!”,
Amen.
THỨ BẢY: ĐƯỢC TUYỂN CHỌN
“Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét
cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao!”.
Một phụ nữ hỏi Campbell Morgan, “Ngài có nghĩ chúng ta nên cầu nguyện cả
về những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống?”. Tiến sĩ Morgan, theo cách nói nhẹ
nhàng của người Anh, trả lời, “Thưa cô, trong cuộc sống của cô, cô có thể nghĩ
ra điều gì lớn lao đối với Chúa?”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Có điều gì lớn lao đối với Chúa!”. Chỉ sợ chúng ta không đủ kiên nhẫn để
cầu nguyện cả về những gì chúng ta cho là ‘lớn lao!’. Qua dụ ngôn Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta, những người con ‘được tuyển chọn’, cứ kiên trì cầu
nguyện với Chúa Cha.
Một thẩm phán không sợ người, chẳng sợ trời, còn phải nhượng bộ một bà
goá vì bà này cứ quấy rầy ông. Huống hồ Cha chúng ta trên trời! Vậy mà trong cuộc
sống, không ít lần chúng ta có thể trở nên mệt mỏi khi cầu nguyện. Điều này xảy
ra khi chúng ta có một quan niệm sai lạc về cầu nguyện, hoặc đã có những quan
điểm trần thế xói mòn sự đánh giá cao các ưu việt của cầu nguyện, hay đơn giản,
chúng ta thích ‘gặm nhấm’ những trải nghiệm được cho là thất bại khi cầu nguyện.
Đang khi cầu nguyện là một quà tặng của Thánh Thần, một hành động của tình yêu,
một hành vi của đức tin. Cầu nguyện không phải là bấm máy hay đọc một câu thần
chú; nhưng là phó mình cho Chúa, để Ngài tự do hành động. Và nguyên việc liên lỉ
kiếm tìm Ngài, đã là hoa trái tốt nhất của cầu nguyện!
Nếu cầu nguyện là phó mình và lệ thuộc nhiều hơn vào Chúa, thì vấn đề là
tôi hiểu Thiên Chúa thế nào. Tôi chỉ phụ thuộc vào những người tôi tin tưởng,
và tôi chỉ tin tưởng những người đã chứng minh được tình yêu và khả năng hỗ trợ
tôi. Tôi có thực sự tin rằng Thiên Chúa là Đấng tốt lành, đầy yêu thương và
toàn năng không? Tôi có tin Ngài quan tâm đến tôi? Với chúng ta, Thiên Chúa là
một thẩm phán; nhưng còn hơn thế, Ngài trước hết là một người Cha nhân ái, Đấng
Cứu Độ, một người tận tâm, tận tình và tận tuỵ vô điều kiện. Ngài muốn chúng ta
tin cậy Ngài tuyệt đối và tựa nương vào chỉ một mình Ngài.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng còn là người. Qua miệng Isaia, Chúa Cha
đã nói về Ngài, “Này là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn, Ta hài
lòng về người”. Những lời này được xác quyết một lần nữa sau khi Ngài được
Gioan ban phép rửa, “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con!”. Vì thế,
trọn cuộc sống dương gian, Chúa Giêsu đã phó dâng cho Cha tất cả và Ngài chỉ
tìm làm điều đẹp lòng Cha.
Anh Chị em,
“Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét
cho những kẻ Người đã tuyển chọn?”. Xác tín mình ‘được tuyển chọn’ như Chúa Giêsu, bạn và tôi cũng hãy phó
thác toàn thân, toàn trí, toàn tri cho Ngài. Vấn đề là chúng ta hiểu biết Thiên
Chúa thế nào? Ngài là Đấng có Lời toàn năng “tựa chiến sĩ can trường xông vào
giữa miền đất bị tru diệt” như sách Khôn Ngoan hôm nay diễn tả! Ngài muốn sự
tin cậy mỗi người dành cho Ngài hơn là dành cho bất kỳ một ai khác, một ngẫu tượng
nào khác. Vì thế, cầu nguyện còn là ‘hồi hương, về lại với ký ức’, “Hãy nhớ lại những việc kỳ diệu Chúa làm!”,
Thánh Vịnh đáp ca thật sâu lắng!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, Đấng mà không có gì là lớn lao đối với Ngài, dạy con kiên tâm
cầu nguyện, không chỉ với những gì con nghĩ là ‘lớn lao’, nhưng với cả những điều
nhỏ nhặt!”, Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét