SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXXIII THƯỜNG NIÊN
Lm Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT XXXIII THƯỜNG NIÊN A
KÍNH TRỌNG THỂ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Kn 3,1-9; 2Cr 4,7-15; Mt 10,17-22
Suy niệm 1:
Hôm nay Hội Thánh
mừng trọng thể 117+ vị thánh tử đạo Việt Nam. Các ngài thuộc đủ
mọi thành phần trong Giáo Hội, gồm các giám mục, linh mục, thầy giảng, chủng
sinh và rất nhiều giáo dân. Các ngài là những công dân hiền hòa, sống đời gương
mẫu, nêu cao lý tưởng trung kiên với Thiên Chúa và một lòng mến yêu tổ quốc.
Bị bắt bớ, tra tấn
và tù đày, nhưng không một người nào trong các ngài có ý định cầm khí giới để
chống trả; trái lại, các ngài cam chịu vì Đức Kitô, cầu nguyện cho mọi người và
thật lòng tha thứ cho những kẻ bách hại mình.
Ngày nay, trước
những thách đố của chủ nghĩa duy vật vô thần, duy tương đối, não trạng hưởng
thụ ích kỷ, lối sống gian dối và lừa lọc.... Muốn trung thành với tinh thần
Phúc Âm, chúng ta phải liên lỉ lựa chọn, từ bỏ trong đau đớn không kém gì những
khổ hình như các thánh tử đạo Việt Nam trước đây. Sống Phúc Âm trong thời đại
này đúng là một cuộc tử đạo liên tục. Xin các thánh tử đạo VN cầu bầu
cùng Chúa: Cho đồng bào Việt Nam ngày càng tin theo Chúa nhiều
hơn. Cho chúng ta biết noi gương các ngài, trung thành bền đỗ theo Chúa
đến cùng.
Đặc biệt là cho quý
vị trong Ban Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ đã nhận các Thánh Tử Đạo Việt Nam làm bổn
mạng của mình, biết luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh. Tích cực chu
toàn tốt bổn phận Chúa và Giáo Hội trao phó; nhất là sẵn sàng hy sinh phục vụ
tha nhân bằng một tình yêu quảng đại nhưng không, nhằm trở nên những chứng nhân
đích thực của “Niềm Vui Tin Mừng” trong thời đại hôm nay, theo gương của các
thánh Tử Đạo Việt Nam cha ông của chúng ta.
Cùng GH, hôm
nay chúng ta mừng kính trọng thể các thánh tử đạo VN, kỉ niệm sự kiện ngày Đức
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong 117 vị tử đạo VN lên bậc hiển thánh.
Xin các thánh tử đạo VN cầu bàu cùng Chúa cho chúng ta, đặc biệt là cho quý vị trong Ban Hội Đồng Mục Vụ Giáo
Xứ biết sống kiên cường trong đức tin, trung tín trong ơn gọi và hăng say trong sứ vụ
cao quý của mình, hầu trở nên những chứng nhân tình yêu của
Chúa Kitô trong thời đại hôm nay, theo gương các thánh Tử Đạo Việt
Nam.
Đọc lại lịch sử GHVN, ta biết được hạt giống Tin Mừng của Chúa đã được gieo vải trên vùng đất hình
chữ S của chúng ta vào khoảng năm 1533.
Do Tin mừng của Chúa
rất phù hợp với quan niệm và tâm thức của người Việt, nên Tin
mừng ấy đã nhanh chóng thấm nhập và lan tỏa
khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam chúng ta.
Nhưng hạt giống Tin
mừng ấy bén rể và mọc lên chưa được bao lâu thì đến khoảng năm
1580, các vua quan đất Việt lại lo sợ mất ảnh hưởng và uy tín trên
dân chúng nên đã ra những chiếu chỉ cấm cách và
bắt hại đạo gắt gao.
Từ khoảng năm
1580-1888 (khoảng 300 năm) đã xảy ra những cuộc bách hại khốc liệt
cho GH Việt Nam. Đó là thời kỳ của Chúa Trịnh: Trịnh Doanh, Trịnh
Sâm, Cảnh Thịnh; và các vua thời nhà Nguyễn: Thiệu Trị, Minh
Mạng, Tự Đức. Ước tính trong thời gian này có chừng 400.000 người bị lưu
đầy, phát lưu và phân sáp. Trong đó có khoảng 130.000 tín hữu đã
phải chịu chết vì đạo, dưới nhiều hình thức giết người dã man khác nhau như:
Gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói, cho voi giầy, trói ném
xuống sông, đổ dầu vào rốn rồi đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng,
chặt đầu, thắt cổ, thiêu sống, tùng xẻo và bá đao.
Trong rất nhiều
tín hữu tử đạo ấy có 117 vị đã được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
tôn vinh lên bậc hiển thánh vào ngày 19/06/1988. Bao gồm: 8 vị GM, 50
LM, 1 Chủng sinh, 15 thầy giảng và 44 giáo dân.
* Với bao nhiêu cực
hình đau đớn không thể tưởng ấy dành cho các vị tử đạo Việt Nam. Lắm lúc
ta ngồi tự hỏi: nhờ đâu mà các ngài lại đủ sức mạnh dũng khí để vượt
thắng được những nỗi sợ hãi kinh hoàng như vậy?
- Khi suy nghĩ về
điều đó, chúng ta mới thừa nhận rằng: chỉ có sức mạnh của đức
tin và tình yêu mới làm nên điều kỳ diệu nơi các ngài như vậy.
1. Sức
mạnh đức tin đã tạo nên chỗ dựa thiêng liêng vững mạnh
cho các ngài. Tin Chúa là đấng quyền năng và giàu lòng thương xót. Tin vào Chúa
đã sáng tạo vũ trụ và tác tạo nên con người. Nên sự sống, sự chết thuộc trọn
quyền Thiên Chúa. Chính niềm tin kiên vững vào Thiên Chúa quyền năng nên bà mẹ
và 7 người con của bà được ghi lại trong sách Macabê II đã can đảm vượt qua nỗi
sợ hãi của cái chết mà trung thành với niềm tin của mình.
2. Sức mạnh
tình yêu đã làm nên năng lực vô biên giúp các
thánh tử đạo vượt qua những cực hình đau đớn thể xác mà an vui đón nhận cái
chết đau thương. Hơn ai hết, các ngài hiểu rằng: chỉ vì yêu nhân loại lỗi
lầm mà Chúa Giêsu đã tự nguyện hiến dâng mạng sống mình chịu chết trên thập
giá, đền tội thay cho con người để cho con người “được sống và sống dồi
dào”. Nên tình yêu đó đã thúc bách các ngài sẵn sàng chấp nhận cái
chết chỉ vì tình yêu mới đền đáp tình yêu.
Nhìn vào các chiến
sĩ tự nguyện xông pha vào chiến trường chiến đấu với ngoại bang để gìn giữ và
bảo vệ tổ quốc. Trong đó có bao chiến sĩ đã hy sinh mạng sống mình, ta hiểu
được sức mạnh của tình yêu. Cũng thế, khi nhìn vào biết bao gương hy sinh của
những người cha, người mẹ đã không ngại hy sinh, gian khổ, ngay cả tính mạng để
cho con mình được lớn lên trong an vui và hạnh phúc. Ta hiểu thế nào là sức
mạnh của tình yêu. Đúng là “tình yêu mạnh hơn sự chết”.
Là con cháu của các
thánh tử đạo, chúng ta phải nguyện sống sao cho xứng đáng với những hy sinh lớn
lao mà các bậc cha ông cúng ta để lại. Các ngài không đòi buộc chúng ta phải tử
vì đạo như xưa. Nhưng có lẽ điều các ngài mong muốn nơi chúng ta là sống đạo
theo gương của các ngài. Đó là sống đức tin kiên trung và tình yêu nồng nàn với
Chúa và với nhau.
- Noi gương các
ngài, chúng ta phải ra sức gìn giữ và bảo vệ đức tin tinh tuyền mà các ngài đã
đổ máu trao lại cho chúng ta. Can đảm sống và làm chứng niềm tin của mình
cho mọi người và mọi nơi theo gương các ngài cho dẫu phải đối mặt với muôn vàn
thách đố trong cuộc sống hôm nay.
- Luôn hằng yêu mến
Chúa bằng đời sống cầu nguyện, siêng năng tham dự thánh lễ, lắng nghe và tích
cực thi hành giáo huấn của Chúa chỉ dạy. Nỗ lực làm việc bác ái giúp đỡ mọi
người nhất là những người nghèo khổ chung quanh chúng ta.
Xin các thánh tử đạo
Việt Nam chúc lành và cầu bàu cùng Chúa cho chúng ta để ta luôn sống xứng danh
là con cháu của các ngài. Amen.
Suy niệm 2: TỬ ĐẠO LÀ CAN ĐẢM SỐNG ĐẠO
Các thánh tử đạo tại Việt Nam là những bậc cha ông của
chúng ta. Khi xưa, cho dẫu các ngài đã phải bị các vua quan triều đình bắt bớ,
xiềng xích, tra tấn và tống ngục… buộc phải chối Chúa, bỏ đạo, nhưng các ngài đã
can đảm tuyên xưng đức tin mà không hề sợ hãi, đó là nhờ các ngài đã đặt trọn
niềm tin vào Thiên Chúa quyền năng và tình yêu.
Hãy nhớ
rằng, Thiên Chúa mà chúng ta tin thờ là Thiên Chúa Tình Yêu và đạo của
chúng ta cốt lõi là Đạo của Yêu Thương. Vì thế mà thánh Gioan đã nhắc nhở chúng
ta rằng: “Các
con thân mến, chúng ta phải thương yêu nhau, vì tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra.
Vì hễ ai thương yêu, thì đã sinh ra bởi Thiên Chúa, và nhận biết Thiên Chúa.
Còn ai không thương yêu, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.”
(1Ga 4,7-8) Đúng vậy, Đạo Chúa là Đạo Yêu Thương. Cho
nên điều luật quan trọng nhất trong Đạo
Công Giáo chúng ta được tóm gọn trong một chữ duy nhất là “YÊU”. Mến Chúa và
yêu người. Thánh Phao-lô cũng đã dạy rằng: “Ai yêu thương là
chu toàn mọi điều luật dạy.” (Rm 13, 8). Yêu thương chính là dấu chỉ để mọi người nhận biết
chúng ta là môn đệ của Chúa, ai không yêu thương thì tự loại trừ mình
ra khỏi hàng ngũ những người môn đệ Chúa, theo như lời Chúa Giê-su phán dạy: “Người
ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, đó là anh em yêu thương
nhau.” (Ga 13, 35).
Ông bà anh chị em thân mến, ngày nay có rất nhiều
thế lực mạnh mẽ lôi kéo, xô đẩy chúng ta từ bỏ Đạo yêu thương. Vậy đó là
những thế lực nào?
1. Đó là thế lực vô cảm: Người
vô cảm là người sống theo chủ nghĩa mặc kê nô: thờ ơ, dửng dưng,
không quan tâm đến những người chung quanh, không cảm thông với những nỗi đau
thương, bất hạnh của người khác...Khi ta vô cảm, không thương xót người hoạn
nạn, đau khổ… là ta đã từ bỏ điều cốt lõi của Đạo yêu thương.
2. Đó là thế lực ghen ghét, hận thù: Lòng ghen ghét và hận thù sôi sục trong
lòng con người, nó làm chủ suy nghĩ, hành vi lời nói của
ta, xui khiến ta chửi mắng, đánh đập, nói hành nói xấu, gây thiệt hại cho người
khác. Nếu để lòng giận hờn
ghen ghét làm chủ tâm hồn là ta, là ta đang tự loại trừ mình ra khỏi hàng ngũ
những người môn đệ Chúa.
3. Đó là thế lực của tham lam ích kỉ: Lòng tham lam thái quá đã thúc đẩy rất nhiều người gây ra
tội ác, như: tham ô, trộm cướp, giết người… gây ra vô vàn thiệt
hại cho đất nước, cho đồng bào, cho cả những người ruột thịt thân yêu trong gia
đình dòng họ của mình.
Ngoài ra, còn rất nhiều thế lực khác, tuy vô hình, nhưng có
sức mạnh lớn lao, đã hoặc đang xâm chiếm tâm hồn ta, làm chủ cuộc sống ta, luôn
tìm cách lôi kéo, xô đẩy ta ra khỏi Đạo yêu thương của Chúa. Đây là những cơn bách hại lâu dài, mạnh mẽ… còn tiếp
tục kéo dài suốt cuộc đời ta và suốt dòng lịch sử nhân loại. Nếu không quyết
tâm chiến đấu chống lại, chúng ta phải thua trận và trở thành người chối bỏ Đạo
yêu thương lúc nào không hay biết.
Hậu quả khủng khiếp của người bỏ Đạo yêu thương phải gánh lấy, đó là đến ngày phán xét, họ sẽ bị Chúa Giêsu lên án: “Hỡi quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó"… vì ngươi không có lòng yêu thương, cứu giúp những người chung quanh (x. Mt 25, 34.41).
Xin Chúa cho chúng ta biết noi gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam luôn trung thành sống đạo yêu thương Chúa dạy cho dẫu phải đối mặt với muôn vàn gian lao thử thách; bằng cách can đảm khướt từ mọi cám dỗ đi ngược lại với luật tình yêu Chúa dạy, đừng bao giờ chà đạp lên tình người, lên danh dự và tính mạng của người khác. Bởi vì làm như thế là ta đang loại trừ Thiên Chúa Tình Yêu và chối bỏ Đạo Yêu Thương ra khỏi đời mình. Hậu quả mà ta phải gánh chịu là đánh mất đi hạnh phúc thiên đàng. Amen. (St)
Suy niệm 3:
Câu
Chuyện : Thánh Nữ I-Nê Đê.
Trong
số 117 vị thánh Tử đạo tại Việt nam, chỉ có một phụ nữ là thánh
nữ I-NÊ LÊ THỊ THÀNH (hay cũng gọi là bà thánh I-NÊ ĐÊ). Bà là mẹ
của 8 người con
Trước
khi trở thành thánh tử đạo, bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu.
Cô con gái út của bà đã khai về mẹ mình trước tòa phong thánh rằng
: “Thân mẫu chúng tôi rất quan tâm giáo dục con cái. Người dạy chúng
tôi học chữ và học giáo lý. Về sau còn dạy chúng tôi cách thức dự
lễ và xưng tội rước lễ”.
Bà
Đê đã dùng căn nhà của mình làm nơi trú ẩn cho các linh mục thừa
sai, để tránh sự ruồng bắt của vua quan. Vào buổi sáng lễ Phục Sinh
năm 1861, tổng đốc Nam Định đã sai quân đến nhà bắt giữ bà. Bấy giờ
bà đang trong tuổi lục tuần. Bà đã bị tra khảo tàn nhẫn để buộc
phải khai báo nơi trú ẩn của các linh mục thừa sai. Nhưng bà tỏ ra
kiên cường, không hề hé môi nói nửa lời. Sau đó bà lại bị bắt ép
khiêng qua cây Thánh giá, bị bỏ rắn độc vào người. Khi con gái bà
đến thăm và tỏ vẻ đau lòng thấy quần áo của mẹ mặc bị loang lổ
những vết máu đỏ tươi, thì bà đã an ủi con rằng : “Con ơi, đừng khóc
nữa. Mẹ mặc áo hoa hồng đấy. Mẹ chịu khổ vì Danh Chúa Giêsu thì sao
con lại phải khóc?”
Sau
ba tháng chịu đủ mọi cực hình, người đàn bà kiên cường ấy đã từ
giã cuộc đời, để lại cho hậu thế một tấm gương anh dũng trung thành
với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng.
1.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là ai?
+
Các ngài là những giáo dân Việt Nam không rõ hết
được danh tánh, các ngài đã sẵn lòng chịu chết để làm
chứng cho Chúa. Các Ngài đã bị bách hại và bị giết chết dưới
thời phong kiến, vào khoảng năm 1580-1888 (khoảng 300 năm), trong
các thời kỳ của Chúa Trịnh: Trịnh Doanh, Trịnh Sâm, Cảnh
Thịnh; và các vua thời nhà Nguyễn: Thiệu Trị, Minh Mạng, Tự Đức.
Ước tính có khoảng 130.000 tín hữu đã phải chịu chết vì đạo, dưới
nhiều hình thức khác nhau như: Gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn,
bỏ đói, cho voi giầy, trói ném xuống sông, đổ dầu vào rốn rồi đốt, bị đóng đinh
vào ván rồi đem phơi nắng, chặt đầu, thắt cổ, thiêu sống, tùng xẻo và bá đao.
2.
Các thánh tử đạo Việt Nam bao gồm thành phần nào?
Trong
130.000 tín hữu ấy gồm các thành phần khác nhau với đủ mọi lứa tuổi: Có
người làm linh mục như cha Philíp-phê Minh, làm thầy
giảng như thày Anrê Phú Yên, là nữ tu như 270 dì phước dòng
Mến Thánh Giá, là chủng sinh như chú Tôma Thiện 18 tuổi, là quan
chức triều đình như Hồ Đình Hy, là quân lính như
Trần Văn Trông, là trùm họ như Nguyễn Đích, là công
chức như Nguyễn Huy Mỹ, là lái buôn như Lê Văn
Gẫm, là nông dân như Đaminh Ninh... Hầu như mọi thành
phần, lứa tuổi hay nghề nghiệp đều có đại diện.
GH
VN đã thống kê có 58 các vị giám mục và linh mục thừa sai, 25 linh
mục Việt Nam, 340 thầy giảng, 270 nữ tu và khỏang trên 100 ngàn giáo
dân đã chết vì đạo. Trong số đó, vào ngày 19 tháng 06 năm 1988, Đức
Thánh Cha Gioan Phao-lô II đã tôn phong lên bậc hiển thánh 117 vị và sau
đó tới lượt thày giảng Anrê Phú Yên được phong lên bậc Chân Phước hay Á
thánh ngày 05.3.2000.
Đây chỉ là
những vị có đầy đủ hồ sơ chứng minh đã anh dũng chịu chết vì đức
tin. Còn hằng hà sa số các tín hữu đã bị giết chết với nhiều cách
khác nhau, nhưng do thiếu hồ sơ cụ thể để xin phong thánh, nên vẫn còn
chờ sẽ được tôn phong sau này.
+
Tử đạo chính là làm chứng cho Chúa : Đức Giê-su đã
sai các Tông đồ đi rao giảng Tin mừng và tiên báo các khó khăn sẽ gặp
phải như sau : “Anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan
quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” (Mt
10,18). Người cũng truyền cho các Tông đồ phải làm chứng nhân cho Người
: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong
khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv
1,8). Các thánh Tử đạo Việt Nam đã chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa
bằng việc chấp nhận chịu chết vì đức Tin. Còn chúng ta hôm nay tuy không có cơ
hội chịu chết vì Danh Chúa như xưa, nhưng chúng ta vẫn có thể làm
chứng cho Chúa bằng một lối sống hy sinh quên mình, khiêm nhường vị tha
và luôn yêu thương phục vụ tha nhân vô vụ lợi. Ngày
nay ma quỷ không dùng cực hình đau khổ thể xác để bắt buộc người tín hữu bỏ đạo
như vua chúa xưa, nhưng chúng dùng tiền bạc và đầu độc người tín hữu nhất là
giới trẻ bằng những băng đĩa phim ảnh đồi trụy, các video games bạo lực dâm
đãng, hút chích ma túy, rượu chè bài bạc… khiến các thanh thiếu niên chán
ngại đọc kinh lần hạt, bỏ dự lễ Chúa Nhật... Rồi do không được nghe giảng
Lời Chúa và thiếu ơn Chúa nên họ chỉ còn biết tìm kiếm tiền bạc và lao đầu vào
việc hưởng thụ mà không nghĩ đến đời sau… và cuối cùng sẽ mất đức tin lúc
nào không hay.
+
Ý nghĩa của tử đạo trong cuộc sống hôm nay :
Tử
đạo ngày hôm nay trước hết là sống Đức Tin bằng sự hy sinh quên
mình phục vụ, sẵn sàng chấp nhận thua thiệt, kể cả hy sinh mạng sống của mình
noi gương các thánh Tử Đạo. Sứ mệnh của người tín hữu là phải trở thành muối
mặn ướp đời khỏi hư hỏng, thành nắm men tin yêu làm cho thúng bột xã
hội dậy lên men tình yêu của Chúa (x. Mt 5,13), nên đuốc sáng chiếu soi
cho u tối trần gian như lời Chúa dạy : “Ánh sáng của anh em phải
chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc tốt đẹp anh em
làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
+
Phải làm chứng cho Chúa như thế nào? Hôm nay nếu ta
chọn làm theo ý riêng ích kỷ là chúng ta đã gián tiếp chối bỏ đức tin;
Khi ta chọn làm những việc xấu xa, lỗi phép công bằng và đức bác ái,
là ta đang chối Chúa cách gián tiếp và bước qua Thánh giá Chúa bằng chính
cuộc sống không tốt của mình. Trái lai, nếu ta năng cầu nguyện dự lễ, kèm
theo lối sống công minh chính trực, sẵn sàng dấn thân quên mình và khiêm tốn
phục vụ tha nhân vô vụ lợi là ta đang làm chứng cho Chúa noi gương các thánh Tử
Đạo Việt Nam. (St)
Suy
niệm 4: ĐỪNG SỢ!
“Anh
em đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn.” (Mt
28, 33).
Nếu
có ai giết được linh hồn thì Đấng đó phải là Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa không
bao giờ làm như vậy. Người chỉ cứu rỗi chứ không bao giờ hành hạ con người. Chỉ
có con người mới tàn sát nhau thôi. Mà con người dẫu có hành hạ nhau dã man
cách mấy, vẫn chỉ là hành hạ nhau trên thân xác.
Lời
Chúa dạy “Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được
linh hồn”, trở thành lời an ủi, động viên niềm tin, niềm hy vọng của
ta vào Chúa Giêsu: Người là Thiên Chúa, đến trần gian cứu chuộc và loan
báo tin mừng cho mọi người biết chính Người là Đấng Cứu Thế, vậy mà
loài người còn không tha, thì huống hồ là loài người với nhau.
Người
Do thái nghĩ rằng, khi giết Chúa Giêsu, họ đã khử trừ được một thứ tôn giáo
mới. Và do cái chết thê thảm đó, sẽ làm cho các môn đệ thoái chí, buộc lòng
phải giải tán. Nhưng họ lầm. Họ lầm vì họ không biết rằng, họ chỉ có thể giết
được thân xác của Giêsu, chứ không giết được linh hồn Người. Họ lầm vì họ chỉ
có thể giết được thân xác Giêsu, nhưng chính Thiên Chúa nơi con người Giêsu ấy,
làm sao giết được! Họ lầm vì họ không ngờ rằng, cái thân xác mà họ treo trên
cây thập giá đó đã sống lại chỉ trong một thời gian ngắn, trên dưới 40 tiếng
đồng hồ.
Bởi
loài người không thể giết Thiên Chúa, nên Kitô giáo vẫn tồn tại, đạo Chúa Kitô
vẫn không ngừng phát triển.
Các
thánh Tử Đạo Việt Nam cũng vậy. Một lòng trung kiên kính thờ Thiên Chúa. Sợ
Thiên Chúa chứ không sợ “những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được
linh hồn”. Trước mặt vua quan, các ngài đã khẳng khái tuyên xưng đức tin của mình,
sẵn sàng chấp nhận mọi thiệt thòi, quyết không để đức tin bị khinh miệt, bị xúc
phạm.
Các
thánh Tử Đạo biết rõ mất mạng sống là không còn có mặt trong cuộc đời nữa,
nhưng vì đức tin: tin vào Chúa Giêsu, Đấng đã chết và sống lại, các thánh không
sợ chết, quyết tâm dâng hiến mạng sống để tôn thờ Chúa đến cùng.
Còn
vua quan, cũng giống những người Do thái trước kia: tưởng giết Chúa Giêsu là
xong chuyện. Vua quan tưởng rằng bách hại và giết chết người có đạo là xóa được
một tôn giáo mới, nhưng họ cũng lầm y như những người Do thái xưa
kia vậy: Vì họ chỉ có thể giết được thân xác chứ không giết được linh hồn
người có đạo. Họ chỉ có thể giết được người có đạo chứ không thể giết chính
Thiên Chúa của người có đạo. Các vua, các quan càng ra sức bách hại và cấm đạo
triệt để bao nhiêu, thì trong hoàn cảnh trốn tránh hết sức khó khăn, đức tin
của người tín hữu lại càng lớn mạnh, kiên vững và lan tỏa.
Gần
3 thế kỷ bắt đạo, có lúc gay gắt, có lúc nới lỏng, trong vòng 3 thế kỷ hãi hùng
ấy, các triều đại phong kiến đã giết chết khoảng 130 ngàn đến trên 250 ngàn
người Việt Nam Công Giáo. Điều đó chứng tỏ trong khó khăn, đức tin không lùi
bước mà sẵn sàng đương đầu với khó khăn đó.
Con
số 118 vị tử đạo được tuyên phong trên bàn thờ chỉ là một phần nhỏ, chỉ là con
số tượng trưng. Ba thế kỷ bách hại, đạo Công Giáo không mất mà vẫn tồn tại, và
đang phát triển. Cho nên Lời Chúa nói: “Anh em đừng sợ” đúng vô cùng, bởi lời
ấy trở nên lời hy vọng, niềm tin tưởng, sức mạnh và tình yêu để mỗi người Việt
Nam nói chung và người Công Giáo Việt Nam trong hiện tại nói riêng hãnh diện
bước tới và trung kiên gìn giữ đức tin, cũng như sống đức tin của mình.
Mừng
lễ các thánh tử đạo Việt Nam hôm nay, bạn và tôi tự hào vì mình là
con cháu các thánh. Tự hào là con cháu các thánh, nên bạn và tôi càng
phải sống đức tin trung kiên như lời Chúa dạy: “Anh em đừng sợ”. Cái “đừng sợ”
của chúng ta hôm nay là thực hiện đức tin của mình bằng những việc
làm hết sức nhỏ bé hằng ngày như “làm dấu thánh giá trang
nghiêm trước khi ăn, cho dù nơi đó là nơi công cộng, trung thành kinh
hôm kinh mai, siêng năng cầu nguyện và tham dự thánh lễ, dám hy sinh phục vụ và
chia sẻ tình thương...
Tại
sao có những việc lớn lao ta lại làm được, còn những việc rất nhỏ bé như thế
lại không thể được? Bao hàm trong cái không thể đó, là sự sợ hãi: sợ người khác
thấy, sợ người khác biết mình có đạo, sợ bị chê cười… Những cái sợ không đáng
sợ lại là thực tế của người Công Giáo hôm nay.
Ngày
xưa tuyên xưng đức tin như thế, các thánh Tử Đạo đã trả bằng giá máu, nhưng các
ngài vẫn kiên tâm, không sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh
hồn. Ngày nay có ai giết ta đâu tại sao ta lại không giữ nổi những điều căn bản
nhất mà cha ông đã làm?
Qua
tất cả những gì ta có thể thực hiện đức tin từ việc nhỏ nhất như hành vi tuyên
xưng đức tin bằng dấu Thánh giá, đến việc sống đức tin trong suốt cuộc đời của
mình, bạn và tôi đã làm được điều mà các thánh Tử Đạo đã từng làm: chọn đức tin
làm lẽ sống và chọn Chúa Kitô làm gia nghiệp đời mình. Giữa bao nhiêu cạm bẫy
và cám dỗ trong cuộc đời, sẽ dễ làm đời ta mất phương hướng, nghi
nan, chao đảo, có khi còn mất cả đức tin, nếu ta không có một chọn lựa dứt
khoát đứng về phía đức tin.
Đặc
biệt sống đức tin hôm nay ta còn nhiệm vụ chuyển tải những giá
trị tin mừng của Chúa như: công bằng, tình thương, bao dung, tha thứ, hy sinh
phục vụ tha nhân bằng tình yêu mến chân thành và quảng đại. Sống như thế ta mới
xứng danh là con cháu của các thánh tử đạo Việt Nam, bậc cha ông chúng ta.
(Viết theo tư tưởng
của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Suy niệm 5: SỐNG
CHỨNG NHÂN TIN MỪNG
Hôm nay Giáo
Hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam vì 3 lý
do:
- Hân hoan và hãnh diện vì các thánh là người Việt Nam, không
gì vui mừng và hãnh diện, tự hào hơn, khi đất nước ta có những vị thánh góp mặt
với Giáo Hội toàn cầu.
- Hân hoan và hãnh diện vì số lượng đông đảo các Thánh Việt
Nam. Với 117 vị Thánh. Giáo Hội Việt Nam được xếp nhất nhì trong Giáo Hội hoàn
vũ về số lượng các Thánh.
- Hân hoan
và hãnh diện vì các Ngài là những chứng nhân anh hùng quả cảm.
Đọc lại tiểu
sử các Ngài ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các Ngài. Vì trung
thành với Chúa, các Ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức
quyền danh vọng và nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì
đức tin.
Có những vị
như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan Án Phạm trọng Khảm,
là những vị có chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng
hơn mất đức tin. Vì Chúa, các Ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi
trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.
Có những vị
như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng
đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.
Có những vị
đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn
dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các Ngài đã cương quyết khước từ tất
cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho đức tin chân chính.
Là người
Công Giáo Việt Nam. Chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các Ngài, ta cảm thấy một
dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái
chết cao đẹp, anh dũng của các Ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như
các Ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.
Làm sao ta
có thể có được cái chết cao đẹp như các Ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo,
bắt đạo, giết người có đạo như thời vua quan ngày xưa. Ngày nay ta không còn hy
vọng chết vì đạo. Ta chỉ còn một cách bắt chước, noi gương các vị tiền nhân anh
hùng, đó là sống vì đạo.
Ngày nay, ta
ít gặp những khốn khó như bị bắt bớ giam cầm, giết chết vì đạo. Nhưng để sống
đạo trong xã hội hôm nay, ta gặp không ít khó khăn. Xin kể ra 2 khó khăn tiêu
biểu.
1. Khó
khăn thứ nhất đó là chủ nghĩa cá nhân ngày càng phát triển. Ai
cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đình của mình. Ai cũng lo làm ăn. Học
hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Những nhu cầu
của bản thân ngày càng nhiều. Rõ ràng là ngày nay người ta kiếm được nhiều tiền
hơn trước, có nhiều tiện nghi hơn trước, xe cộ tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn. Nhưng
chưa bao giờ người ta thấy thỏa mãn, đầy đủ. Vì thế càng ngày người ta càng
đóng kín vào bản thân, không có thời giờ nghĩ đến người khác. Trong khi đó
những người nghèo thì càng nghèo hơn, những người yếu càng mệt hơn, những người
bệnh càng khổ hơn. Họ không đủ sức chạy theo cuộc tranh đua quyết liệt của chủ
nghĩa cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra phía sau. Họ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Để lựa
chọn sống theo Phúc Âm, để trung thành với Lời Chúa dạy, ta phải bỏ quên một
phần thân mình, gia đình mình để nghĩ đến, giúp đỡ, vực dậy những anh em kém
may mắn. Đó là điều không dễ.
2. Khó
khăn thứ hai là kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Đồng
tiền đang trở thành một thước đo gía trị con người. Đồng tiền đang trở thành
một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền,
và để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một phương cách nào: lường
gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn thuốc phiện, tham nhũng, hối lộ. Tiền bạc quả
là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn phá những giá trị, biến chất
con người.
Đứng trước
nhu cầu và ham mê tiền bạc, người Công Giáo muốn trung thành với Phúc Âm, muốn
sống trọn vẹn đức tin, bắt buộc phải có sự lựa chọn. Thà cam chịu nghèo khổ còn
hơn nhận những đồng tiền phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu thiếu thốn còn hơn
đánh mất đức tin. Thà lao động cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn
là chạy theo những đồng tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm và Luật Chúa.
Quả thực xã
hội mới, đang tạo ra những cơn bắt bớ mới. Để trung thành với Chúa, với Phúc Âm
ta cũng phải lựa chọn quyết liệt. Những chọn lựa đó làm cho chúng ta đau đớn
không kém gì những khổ hình. Những hy sinh vì Phúc Âm đó cũng khiến lòng ta rỉ
máu không kém gì chịu tử hình.
Các Thánh tử
đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn chúng ta chết mòn mỏi mỗi ngày trong những chiến
đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúc Âm trong thời đại mới đúng là một cuộc tử
đạo liên tục.
Sống vì đạo
như thế cũng cao đẹp và anh hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế,
ta cũng góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì đạo.
Lạy các
Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu
đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy
sinh sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Suy niệm 6: Ga 15,18-21
Bài
đọc I, trích
sách Macabê quyển thứ hai, trình thuật cho chúng ta thấy
đức tin vững mạnh của bà mẹ và bảy người con thật đáng khâm phục. Họ can đảm
chịu khổ và chết để làm chứng cho Chúa, vì tin rằng họ sẽ được sống lại vinh
hiển. Cũng vậy, các Thánh tử đạo Việt-Nam đã chấp nhận cực hình phần xác và hy
sinh cả mạng sống vì đức tin vào Thiên Chúa.
Bài đọc II, trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma, nói lên điều
mà thánh nhân xác tín, đó là: Thiên Chúa
yêu thương chúng ta vô cùng, và không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình
yêu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu. Bằng cớ là Ngài đã ban chính Con Một Ngài
cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, thì Ngài còn
tiếc gì với chúng ta nữa?
Tin Mừng hôm
nay cho biết: Chúa Giêsu báo trước cho chúng ta là môn đệ Người về những thử
thách và bách hại trong tương lai khi làm chứng nhân cho Chúa. Vì thế gian đã
bắt bớ Thầy thì họ cũng sẽ bắt bớ anh em, bởi lẽ họ không tin Người và tin vào Chúa
Cha là Ðấng đã sai Người đến trần gian để cứu chuộc nhân loại.
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam hân hoan và hãnh
diện mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam vì 3 lý do:
- Trước hết vì các thánh là người đã chết trên đất nước
Việt Nam thân yêu của chúng ta. Tertulianô sử gia của La Mã thuở xưa đã nói:
“Hạt máu của những vị tử đạo là hạt giống nảy sinh ra những người Kitô hữu
khác"
-
Thứ đến là vì con số lượng lớn lao đông đảo các Thánh tại VN của chúng ta đã có
mặt trong Lịch sử của Giáo Hội. Với 118 vị đã được Giáo Hội phong lên hàng hiển
thánh, Giáo Hội VN được xếp nhất nhì trong sổ bộ các thánh đã được Giáo Hội
tuyên phong.
-
Và cuối cùng tự hào vì các Ngài là những chứng nhân anh hùng quả cảm cho lòng
tin vào Thiên Chúa.
Đọc
lại tiểu sử GHVN, chúng ta không khỏi không cảm phục về đức tin kiên cường của
các Thánh tử đạo VN. Lịch sử ghi lại những hình phạt kinh khủng mà con
người đã nghĩ ra để trừng phạt những người theo đạo như sau:
-
Nhẹ nhất là bị gông cùm, b xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ
đói cho tới chết.
-
Nặng hơn một chút thì bị voi dày, bị trói rồi bị ném xuống sông, bị chôn sống,
bị đổ dầu vào rốn rồi đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng cho đến chết.
-
Quyết liệt hơn một chút thì bị xử trảm, xử giảo (= bị thắt cổ) và thiêu sống.
-
Ác liệt nhất là bị xử lăng trì (phân thây ra từng mảnh) hay bá đao (bị tùng xẻo
đi từng mảnh thịt cho tới chết)
Nhìn
lại cái chết của các thánh Tử Đạo VN, chúng ta thấy gian khổ có cao, hình phạt
có nặng nhưng lòng trung thành của các Ngài còn còn cao hơn. Cái chết của các
Ngài thật đáng làm cho chúng ta phải tự hào.
Đức
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ II trong bài giảng ngày lễ tôn phong 117 vị
anh hùng tử đạo Việt Nam lên hàng hiển thánh đã nói: "Từ năm 1533 tức là
từ khi cuộc rao giảng Tin Mừng Kitô bắt đầu tại vùng Đông Nam Á, Giáo Hội Việt
Nam trong suốt 3 thế kỷ đã phải chịu những cuộc bách hại liên tiếp nhau với một
vài giai đoạn lắng dịu giống như các cuộc bách hại mà Giáo Hội tại Tây Phương
đã chịu trong 3 thế kỷ đầu tiên. Đã có hàng ngàn (130.000) tín hữu Kitô chịu tử
đạo và rất nhiều người khác đã chết trong rừng núi, những vùng ma thiêng nước
độc, nơi mà họ bị lưu đày tới". Tổng số có khoảng 400.000 người. Trong những
số đó Đức Thánh Giáo Hoàng đã tuyên phong 117 vị lên hiển Thánh vào ngày
19/06/1988.
Việc
mừng lễ hôm nay làm chúng ta tạ ơn Chúa vì khi nhìn lại những năm tháng Giáo
hội bị bách hại khốc liệt và thì sau đó lại có những cuộc trở lại đạo hàng
loạt. Đúng như những điều mà sử gia Tertulianô đã nhận định:
"Những hạt máu của những vị tử đạo là những hạt giống làm nảy sinh ra
những người Kitô hữu khác".
Chúng
ta phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng ta có được những con người anh hùng như
thế. Đồng thời chúng ta cũng phải biết ơn các Ngài vì chính nhớ các Ngài
mà hạt giống Đức tin đã làm nảy mầm và lớn lên trong chúng ta và lan toả trên quê
hương đất nước thân yêu của chúng ta.
Vui
mừng hãnh diện là điều cần nhưng chưa đủ, điều quan trọng là chúng ta phải sống thế nào cho xứng danh là con
cháu của các ngài.
Châm
ngôn VN có câu rất hay: "Con nhà tông không giống lông cũng giống
cánh". Phải sống xứng đáng để những thế hệ mai sau khi nhìn vào chúng ta,
họ cũng cảm thấy tự hào. Chúng ta được thừa hưởng một di sản vô cùng quý giá do
Cha Ông chúng ta để lại. Cách trả ơn tốt nhất đối với các Ngài là tiếp nhận và
trung thành truyền lại cho các thế hệ mai sau bằng chính cuộc sống mà tổ tiên
của chúng ta đã sống:
1. Noi gương các
ngài sống trung thành với niềm tin.
Đức
tin là ơn ban nhưng không củaThiên Chúa cho
chúng ta. Hãy bảo vệ lấy, đừng để cho nó bị hao mòn đi. Phao-lô Mợi bị bắt, bị
giải đến quan.
-
Quan đã dụ dỗ: Anh đạp ảnh đi, tôi sẽ cho anh một nén bạc.
+
Phaolô Mợi im lặng không trả lời.
-
Vậy một nén vàng!
+
Bẩm quan chưa đủ.
-
Vậy anh muốn bao nhiêu?
+
Bẩm quan lớn, quan phải cho tôi đủ vàng để mua được một linh hồn khác.
*
Thánh Nguyễn Văn Lựu khi bị thuyết phục bỏ đạo, chối Chúa cũng đã nói:
"Đạo đã nhập vào xương tủy tôi, làm sao tôi có thể bỏ được".
2. Noi gương các
ngài can đảm sống niềm tin.
Chúa
Giêsu đã nói : “Nước Trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy". Đúng
vậy, không có chiến thắng cho những kẻ chưa lâm trận đã đầu hàng. Không có
vinh quang cho những kẻ hèn nhát. Phần thưởng càng lớn, vinh quang càng cao thì
cái giá phải trả cho nó càng đắt. Phải sử dụng sức mạnh mới chiếm hữu được Nước
Trời.
Trong
thư Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Rô-ma trong thời gian bắt bớ đạo khốc liệt.
Ngài muốn dùng những lời này để khích lệ các tín hữu, để họ can đảm, để họ tin
tưởng vào chiến thắng cuối cùng: "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi
tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian gian truân, khốn khổ, đói rách,
hiểm nguy, bắt bỏ, gươm giáo? Ngài nói tiếp như một xác tín: Trong
mọi thử thách, chúng ta sẽ toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta".
Và
Ngài kết luận: "Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống,
thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh
nào, chiều dài hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì
tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô
Chúa chúng ta" (Rm 8,35-39).
Chúng ta chung lời tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo
Hội Việt Nam có những chứng nhân anh hùng Tử đạo là mẫu gương sống đức tin sáng
ngời. Xin Chúa qua lời chuyển cầu của các Ngài mà ban cho chúng ta là con cháu
biết noi gương các Ngài trung thành sống đức tin, can đảm làm chứng cho
Chúa trong thời đại hôm nay. Amen. (St)
Thứ hai: Lc 18,
35-43
Tin mừng hôm nay
thuật lại phép lạ Chúa Giêsu chữa cho đôi mắt mù loà của anh chàng ăn xin bên vệ
đường, gần thành Giêricô được sáng, nhờ vào đức tin kiên vững và lời kêu xin
tha thiết của anh ta: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít. Xin dủ lòng thương
tôi” và “xin cho tôi được xem thấy”.
Chúng ta cũng bắt
chước anh mù này, tha thiết xin Chúa chữa lành đôi mắt tâm hồn chúng
ta, để chúng ta nhận ra Chúa chính là cứu Chúa, nhận ra mọi người là anh em,
nhất là nhận ra hình ảnh của Chúa nơi những người nghèo khổ bất hạnh.
Anh mù được Tin mừng
hôm nay nhắc đến rất đổi quen thuộc. Địa chỉ thường trú của anh là ở gần thành
Giêricô. (Thánh Maccô còn cho biết tên đích danh của anh ta là Báctimê. Anh là
con của ông Timê, chẳng xa lạ gì. Bởi lẽ hằng ngày anh thường quanh quẩn nơi đó
để xin ăn).
Mà đã mang kiếp
"cầm ca”, thì không ai muốn đến gần, cũng chẳng ai muốn nhìn đến làm gì
cho vướng bận, tốn hao. Cung giọng bi ai của anh ngày nào cũng trỗi vang bên
đường nên trở thành âm thanh khó nghe đối với những ai đi qua con đường đó.
Người đời thường nói
“có tật, có tài”. Cho dù mọi nguời xa tránh làm ngơ, nhưng anh mù biết Đức
Giêsu sẽ không ngoảnh mặt làm ngơ trước số phận bi đát của anh. Hơn nữa, cho
dẫu mọi người hôm đó không nhận ra sứ mạng Thiên Sai của Đức Giêsu, nhưng
anh mù lại nhận ra sứ mạng bí mật Thiên Sai nơi Đức Giêsu. Do đó, anh đã không
ngần ngại tha thiết kêu xin Người. “Lạy ông Giêsu, con vua Đavit. Xin
dủ lòng thương tôi”.
Với con mắt tâm hồn
nhạy bén, anh mù đã nhận ra quyền năng chữa lành nơi Đức Giêsu. Nên cho dù bị
mọi người cản ngăn, cấm đoán anh vẫn không ngừng kêu xin…
Bằng còn mắt
đức tin trong sáng, anh mù còn thấy được nơi Đức Giêsu có một kho báu rất quý
giá mà trần gian không ai có được, đó là quyền năng cứu chữa. Vì thế, anh ta đã
không ngần ngại xin Chúa Giêsu cứu chữa đôi mắt của anh được sáng:“xin cho
tôi được sáng”. Chứ không hề xin Người tiền bạc, cơm gạo, bánh trái…
như mọi ngày.
Nhờ nổ lực cảm nhận
thế giới và con người bằng đôi mắt tâm hồn nhạy bén và đức tin trong sáng và
rồi cố gắng hết sức mình thực hiện điều cảm nhận đó, nên anh mù đã được Chúa
đoái thương chữa lành.
Hằng ngày các
môn đệ vẫn thấy, vẫn nghe Chúa Giêsu nói và chứng kiến những việc Người làm,
nhưng vì mơ tưởng địa vị cao sang, chức cao quyền trọng nên đôi mắt họ đã bị
che mờ, không còn nhận ra sứ mạng Messia nơi Chúa Giêsu.
Cũng như các môn đệ
và đám đông hôm ấy, chúng ta đã được Chúa ban cho đôi mắt thể lý sáng ngời,
nhưng vì quá bận tâm đến quyền lợi bản thân đã làm cho đôi mắt tâm hồn chúng ta
trở nên mù lòa không có khả năng nhìn thấy những nhu cầu và nỗi đau của tha
nhân để đồng cảm, xót thương và trợ giúp họ.
Xin Chúa ban cho
chúng ta có được đôi mắt tâm hồn trong sáng để đừng bao giờ hành xử vô duyên
đối tha nhân, nhất là đối với những người thiếu may mắn như đám đông dân chúng
khi xưa. Trái lại, xin cho chúng ta biết sẵn sàng hy sinh phục vụ tha nhân quên
mình. Nhất là đừng bao giờ có thái độ và hành vi ngăn cản những người yếu đuối,
sa ngã đến với Chúa.
Thứ ba: Dcr 2,14-17;
Mt 12,46-50
Nhớ Đức Mẹ dâng mình
trong đền thờ
Cùng với GH hôm nay
chúng ta dâng thánh lễ kính nhớ Đức Maria dâng mình trong đền thánh. Với lòng
yêu mến Chúa và trung thành với luật Do Thái nên ngay từ nhỏ, Đức Mẹ đã sẵn
sàng dâng mình vào đền thánh để phụng sự Chúa. Chính tình yêu mến và lòng thiết
tha gắn kết với Chúa qua việc lắng nghe và thực thi thánh ý của Chúa trong đời
sống, mà Mẹ Maria xứng đáng trở nên thành viên thân thiết trong gia đình Thiên
Chúa Ba Ngôi.
Xin cho chúng ta biết noi
gương Mẹ Maria biết khiêm tốn lắng nghe và thực thi Lời Chúa để xứng danh là
Con Mẹ và trở nên thành viên gia đình thiêng liêng của Chúa.
Nhờ tích tích rửa tội chúng
ta trở thành con Chúa và là thành viên trong GH. Nên ngoài gia đình tự nhiên
liên hệ bằng huyết thống, chúng ta ta còn có một gia đình thiêng liêng nhờ được
sinh ra trong đức tin.
Vì thế Tin mừng hôm nay,
Chúa Giêsu khẳng định thành viên trong gia đình của Chúa chính là những người
biết“lắng nghe và thực hành Lời Chúa”.
Nếu để trở thành người con
ngoan trong gia đình tự nhiên theo huyết thống, ta phải lắng nghe và thi hành
điều mà cha mẹ và anh chị hướng dẫn chỉ bảo. Cũng vậy, để trở thành con ngoan
của Chúa và anh chị em thật sự với nhau trong gia đình thiêng liêng của đức tin
ta phải lắng nghe và thực hành Lời Chúa với sự hướng dẫn của GH.
Hơn ai hết, Đức Maria là
người luôn để tâm lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa trong suốt cuộc
đời mình. Nên Đức Maria trở nên người Mẹ của Chúa và là kiểu
mẫu cho đời sống cho chúng ta.
Khi khám phá những giọt máu
trong chiếc khăn liệm thành Turin, các nhà khoa học chứng minh cho biết đó là
loại máu B: Bái ái, bao dung và bình an. Dòng máu ấy cũng chính là dòng máu của
Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu.
Xin cho chúng ta luôn biết
lắng nghe và thực thi Lời Chúa như Mẹ Maria để dòng máu bác ái, bao dung và
bình an của Chúa Giêsu cũng lưu truyền trong thân thể chúng ta. Nhờ đó mà ta
xứng đáng trở thành người thân của Chúa trong gia đình của Người.
* Suy niệm thường
niên: Lc 19,1-10
“Gặp gỡ Đức Ki-tô, biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức
Ki-tô đón nhận ơn tái sinh…”, đó không chỉ là niềm xác tín
của cha Tiến Lộc, tác giả của bài hát này. Nhưng trên hết đó còn là chính sứ
điệp của Chúa gửi đến mỗi người chúng ta qua Tin mừng hôm nay.
Tin mừng mà chúng ta
vừa nghe trình thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Giakêu, thủ lãnh những
người thu thuế và là người giàu có. Chính nhờ cuộc gặp gỡ thân tình này đã làm
cho Giakêu biến đổi cách lạ lùng và nhờ đó mà cả nhà ông được ơn cứu độ.
Ta cùng tìm hiểu đôi
chút về sự biến đổi lạ lùng của Giakêu trước và sau khi gặp Chúa:
- Trước khi gặp
Chúa:
Ông Giakêu là một kẻ
nối giáo cho giặc, vì đã cộng tác với đế quốc Rôma thu thuế đồng bào của mình.
Đây là cái nghề bị người dân khinh bỉ vì nhẫn tâm bòn rút xương máu dân mình,
để làm giàu cho ngoại bang.
Giakêu là thủ lãnh
những người thu thuế nên ông rất coi trọng tiền của, và cũng rất là khinh
người. Nếu cần ông sẽ sẵn sàng ra tay đàn áp bất cứ ai chống đối không nộp thuế
cho ông.
Ông lại là người
giàu có. Sự giàu có của ông chắc chắn là do tham lam trong việc gia tăng mức
thuế hơn luật định để bỏ túi riêng cho mình.
Chính vì vậy mà ông
bị xem là kẻ tội lỗi công khai, được liệt kê chung vào hạng đỉ điếm.
- Sau khi gặp
Chúa:
Sau khi gặp gỡ Chúa
Giêsu trong bữa tiệc thân tình tại nhà ông, không biết Chúa Giêsu nói gì. Nhưng
ông lại được biến đổi lạ lùng: Ông trở nên một người quảng đại, cởi mở và sẵn
sàng chi tiền làm tiệc thết đãi Chúa Giêsu, các tông đồ và những người đồng môn
của ông. Ông cũng trở thành người biết tôn trọng lẽ công bằng nên tuyên bố sẽ
đền bù cho những ai mà ông đã gây ra thiệt hại “Nếu tôi đã làm thiệt hại ai
cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Đi xa hơn nữa, ông còn biết sống tinh
thần bác ái, sẵn sàng hy sinh gia sản của mình, mà chia sẻ cho người nghèo “Tôi
xin chia nửa gia tài, để bố thí cho người nghèo”.
Đúng là nhờ cuộc gặp
gỡ Đức Kitô mà ông được tái sinh. Giờ đây, ông không còn là kẻ tội lỗi mà là
một con người đạo đức, thánh thiện. Nếu trước đây ông bị mọi người khinh bỉ thì
giờ đây ông lại là một con người đáng thương. Nếu trước đây ông sống bất công,
bất chính thì giờ đây ông biết coi trọng lẽ công bằng và trở thành người công
chính.
Nhờ gặp gỡ Đức Kitô
Đấng “đến và cứu chữa những gì đã hư mất” mà ông và cả gia
đình ông được biến đổi và xứng đáng đón nhận ơn cứu độ như lời Chúa Giêsu xác
quyết: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái
Abraham”.
Ước mong được biến
đổi đời mình mỗi ngày nên tốt hơn là khao khát chính đáng của mỗi chúng ta.
Nhưng để biến ước mơ đó trở thành hiện thực, chúng ta hãy bắt chước ông Gia-kêu
tìm mọi cách để gặp gỡ Đức Giêsu.
Xin cho chúng ta tìm
đến gặp gỡ Chúa qua việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa, siêng năng tham dự
bàn tiệc Thánh Thể, kiên trì trong cầu nguyện… Đặc biệt là gặp gỡ Đức Kitô nơi
những người anh em nghèo khổ. Nhờ đó mà đời ta sẽ được Chúa biến đổi và xứng
đáng được Chúa chúc lành. Amen.
Thứ tư: Lc 19,11-28
Nhớ Thánh nữ Cécilia,
trinh nữ, tử đạo
Tin mừng hôm nay
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn những nén bạc để ý thức chúng ta tích cực sử dụng những
ơn ban của Chúa.
Xin cho chúng ta
đừng phí phạm những nén bạc ân sủng Chúa ban nhưng biết trân quý và cố gắng tận
dụng những ân huệ ấy, nhằm phục vụ lợi ích cho mình, tha nhân và cho nước trời.
Dụ ngôn những nén
bạc mà Tin mừng thánh Luca trình thuật hôm nay có một vài chi tiết hơi khác với
Tin mừng của thánh Matthêu. Chúng ta cùng tìm hiểu về những khác biệt này và
xem đâu là điểm nhấn mà Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta:
- Matthêu thì nói là
“ông chủ” sắp đi xa. Còn Luca thì nói “người quý tộc” đi phương xa để lãnh nhận
vương quyền,
- Trong Matthêu thì
ông chủ giao phó cho 3 tên đầy tớ: người 5 yến , người 2 yến và người 1 yến,
tùy theo khả năng mỗi người. Còn Luca thì nhà quý tộc phát cho 10 đầy tớ,
mười nén bạc (mỗi 1 người 1 nén).
- Matthêu thì cho
biết sau khi ông chủ trở về thì ban thưởng cho 2/3 đầy tớ tài giỏi và trung tín
là hưởng niềm vui của chủ. Còn trong Luca thì sau khi nhà quy tộc được
phong vương trở về trong tư cách là một vị vua thì ban thưởng cho 2/10 người
đầy tớ tài giỏi và trung thành phần thưởng là cầm quyền cai trị số thành
tương ứng với số nén bạc mà họ đã sinh lợi.
Riêng về hình phạt
cho những đầy tớ lười biếng và bất trung, cả 2 Tin mừng đều nói đến việc
lấy lại và trao cho những đầy tớ tài giỏi và trung tín.
Matthêu còn nhấn
mạnh đến sự trừng trị tên đầy tớ vô dụng và quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài.
Ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
Còn Luca thì lại
nhấn mạnh đến hình phạt giết chết cả những bọn thù địch với nhà vua, những
người không muốn nhà quý tộc làm vua cai trị chúng. Và với kết
luận: “Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai
không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi".
So sánh những khác
biệt trên cho ta thấy rằng:
- Thiên Chúa có thể
được gọi bằng nhiều tên khác nhau có khi là ông chủ, có khi là nhà quý tộc và
có khi là vua…điều đó không quan trọng, quan trọng nhất là người yêu thương tin
tưởng trao ban cho tất cả chúng ta những hồng ân.
- Những ơn ban của
Chúa cho mỗi người có những thứ giống nhau, nhưng cũng có những ân sủng khác
nhau theo khả năng. Nhưng điều quan trọng là ta phải trân trọng tình yêu của
Chúa và cố gắng tận dụng điều kiện Chúa ban để sinh lợi cách tốt nhất.
- Chúa luôn tin
tưởng trao phó cho chúng ta xử dụng theo tự do của mình. Chứ không muốn ép buộc
hay làm thay cho ta.
- Bổn phận chúng ta
là biết trân quý những ân huệ Chúa ban và trung làm việc nhằm sinh ích cho
mình, tha nhân và cho nước trời. Bằng ngược lại xem thường mà lười biếng và bất
trung thì sẽ nhận lấy hậu quả tai hại khi Chúa đến.
Trong những
ngày cuối năm phụng vụ này, là dịp để các nhà kinh doanh quyết toán sổ sách chi
thu để xem lời-lỗ thế nào. Để rồi rút ra những ưu-khuyết mà đề ra những giải
pháp sao cho phù hợp nhằm giúp cho công việc kinh doanh của mình để được đứng
vững và phát triển mạnh mẻ trong năm tới. Cũng vậy đây là dịp Chúa nhắc
nhở chúng ta hãy dành chút thời giờ nhìn lại bản thân mà kiểm điểm và tính sổ
đời mình trước Chúa, anh chị em và lương tâm.
Khi dừng
lại kiểm điểm đời mình chân thành, ta mới có cơ hội nhận ra những lầm lỗi,
thiếu sót vì đã không xử dụng tốt nhất những nén bạc mà Thiên Chúa trao ban cho
đúng mục đích. Tệ hơn nữa, vì lười biếng mà ta đã đem chôn giấu những nén bạc
vốn là: thời giờ, sức khỏe, năng lực, hoàn cảnh, công việc và tiền của... mà
Chúa ban tặng nhưng không , để rồi làm thất thoát những ân huệ Thiên Chúa
thương ban nên đã không sinh lợi gì cho ta, cho tha nhân và cho đời. Vậy cần
lắm lòng khiêm nhường sám hối mà tạ lỗi cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh
chị em!.
Xin Chúa tha thứ và
giúp ta bắt đầu lại tốt đẹp hơn, theo mẫu gương của những người đầy tớ trung
tín.
Thứ năm: Lc 19, 41-44
Nhớ Thánh Clémenté
I, giáo hoàng, tử đạo
Theo triết lý Á
Đông: “Sự vật hễ có hình thì có hoại”, như lời sách Giảng viên đã
nói: “Phù hoa nối tiếp phù hoa, chi chi chăng nữa cũng là phù hoa”(Gv 1, 2). Thật
vậy, tất cả mọi vật trần gian rồi sẽ qua đi. Chỉ duy Thiên Chúa là tồn tại mãi,
bởi chính Người là đá tảng vững bền. Đó là sứ điệp Tin mừng hôm nay muốn nói
với chúng ta. Xin cho chúng ta luôn tin tưởng phó thác vào Chúa.
Vật chất, tiện nghi
đem lại cho con người cuộc sống thoải mái và sung túc. Tuy nhiên nó cũng dễ đẩy
con người vào vòng xóay của hưởng thụ mà quên đi những giá trị cao quý.
Do đó Tin mừng hôm
nay cho biết Chúa Giêsu đã rơi lệ khi nhìn thấy thành Giêrusalem. Có lẽ nỗi
buồn này một phần vì biết rằng đền thờ Giêrusalem tráng lệ và là biểu tượng tự
hào của dân tộc Do Thái sẽ có ngày sụp đổ tan tành. Nhưng trên hết, Chúa Giêsu
khóc vì nhận thấy tình trạng suy đồi về luân lý đạo đức của dân tộc, vì họ quá
bám víu vào vật chất mà quên đi xây dựng đền thánh tâm hồn.
Lời tiên báo của
Chúa Giêsu đã được ứng nghiệm vào năm 72, khi đó tướng Titô của đế quốc Rôma đã
đem quân sang xâm chiếm và phá hủy hoàn toàn thành thánh Giêrusalem, khiến
không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào. Họ đã nhẫn tâm bán bổ tôn giáo bằng
cách giẫm đạp lên nơi thờ phượng Thiên Chúa. Khiến người Do Thái phải khóc than
tiếc nối.
Lời tiên báo của
Chúa Giêsu vẫn còn giá trị cho đến ngày nay. Thời đại mà con người quá lệ thuộc
vào của cải vật chất. Vì coi trọng đồng tiền và chỉ muốn xây dựng cuộc sống
mình trên nền tảng vật chất. Do đó họ sẵn sàng bán rẻ lương tâm và chà đạp lên
những giá trị đạo đức để rồi sẵn sàng bán bổ thần thánh. Nhìn vào cuộc sống
hưởng thụ và chạy theo tiền bạc hôm nay, có lẽ Chúa Giêsu cũng đang đau buồn và
rơi lệ như xưa.
Xin Chúa cho chúng ta biết nương tựa vào sức mạnh của Chúa và kiên quyết xây dựng đời mình trên đá tảng vững bền là Đức Kitô mà vượt thắng được sức mạnh tàn phá của kẻ thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt để bảo vệ được ngôi đền thánh tâm hồn xứng đáng là nơi Thiên Chúa ngự trị. Nhờ đó mà ơn cứu độ và sứ điệp hòa bình của Chúa Giêsu mới đến được với ta.
THÁNH CLÊ-MEN-TÊ I, GIÁO HOÀNG, TỬ ĐẠO
Các thánh tử đạo là
những người đã can trường làm chứng cho Chúa. Giáo Hội vững mạnh là được xây
dựng trên nền tảng đức tin vững mạnh và dòng máu anh dũng các ngài. Thánh
Cơ-lê-men-tê I, giáo hoàng thứ tư Roma và nhân chứng của Chúa Giêsu Kitô vào
cuối thế kỷ thứ nhất, vào
năm 185.
THÁNH CƠ-LÊ-MEN-TÊ I
Thánh nhân là vị
giáo hoàng thứ 4 trong lịch sử Giáo Hội. Người ta ít biết về thời niên thiếu
của thánh nhân.Thánh Cơ-lê-men-tê I sống vào cuối thế kỷ thứ nhất. Ngài là một
nhà hùng biện, yêu mến Thánh Kinh và thấu suốt tư tưởng, giáo lý của Chúa
Giêsu.
Thánh Irênê thuật
rằng: thánh Phêrô vị giáo hoàng tiên khởi đã truyền ngôi cho Linô, Anaclê kế vị
Linô và sau Anaclê là thánh Cơ-lê-men-tê I. Thánh nhân đăng quang, một trong
những việc làm phi thường của Ngài là giàn xếp cuộc nổi loạn của cộng đoàn tín
hữu Corintô.
Ðọc bức thư Ngài gửi
cho cộng đoàn tín hữu Corintô,mọi người nhận ra Ngài là vị mục tử hiền từ, bác
ái và khiêm nhượng. Ngài là người đã sống họa lại hình ảnh của Chúa Giêsu nhân
từ, hiền hậu.
Ngài đã sống trọn
vẹn con người của Ngài đến nỗi ta có thể nói được như thánh Phaolô: "Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà
là Ðức Kitô sống trong tôi". Chính vì sống con đường của Chúa Giêsu,
con đường thập giá của Ngài. Thánh nhân đã được phúc tử vì đạo dưới thời Hoàng
đế Trajan. Thánh nhân đã bị bắt, bị kết án tử hình. Lý hình đã cột đá nặng vào
cổ Ngài, quăng Ngài xuống biển sâu. Người ta đã vớt được xác Ngài và đưa về
La-mã, dưới triều Ðức Giáo hoàng Adrianô II. Thiên Chúa và Giáo Hội đã tôn vinh
Ngài.
CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa toàn
năng hằng hữu, chúng con khâm phục Chúa đã làm cho các thánh nên can trường.
Chúa đã giúp thánh Cơ-lê-men-tê là tư tế và tử đạo của Ðức Kitô biết lấy máu
đào mà minh chứng những mầu nhiệm thánh nhân cử hành, và biết nêu gương sáng để
củng cố Tin Mừng người rao giảng. Hôm nay, chúng con mừng kính Người, xin cho
chúng con được tràn đầy niềm phấn khởi hân hoan. ( Lời nguyện nhập lễ thánh
Cơ-lê-men-tê I, giáo hoàng, tử đạo).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Thứ sáu: Kn 3, 1-9;
2Cr 4, 7-15; Mt 10, 17-22
Kính Thánh An-Rê Dũng
Lạc, Linh Mục Và Các Bạn, Tử Đạo.
Các Thánh Tử Đạo Tại
Việt Nam
TỬ
ĐẠO NÊU CAO LÒNG TIN CẬY MẾN
Ai
cũng ham sống sợ chết. Vậy tại sao người ta lại dám tử đạo? Thưa vì lòng Tin
Cậy Mến.
1. Tin: Niềm
tin tạo sức mạnh tinh thần. Bài sách thánh kể chuyện bà mẹ can đảm khuyên 7 đứa
con sẵn lòng chịu chết chứ không chịu phạm Luật Chúa vì bà tin vào Chúa là Đấng
Tối Cao tạo dựng vũ trụ muôn loài, Chúa là Đấng Ban Sự Sống. Bài Phúc Âm Chúa
Giêsu khẳng định: “Ai liều mất mạng sống
mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” Niềm tin vào Chúa hằng sống
giúp người ta dám chết vì Đạo, bởi qua cái chết họ bước vào cõi hằng sống.
2. Cậy: Nếu niềm hy
vọng vào một lý tưởng cao đẹp giúp ta dám sống chết cho lý tưởng, cho sự
nghiệp, cho quê hương đất nước, thì niềm hy vọng vào Chúa quyền năng và là chủ
của sự sống sẽ làm cho chúng ta vững lòng trông cậy vào cõi thiên đàng vinh
phúc, nhờ đó giúp ta đủ sức mạnh để sẵn sàng dám chết vì Đạo Thánh Chúa. Hình
ảnh hạt giống và người nông phu ra đi gieo giống được cất lên nơi bài Thánh
Vịnh Đáp Ca hôm nay diễn tả tuyệt vời lòng trông cậy ấy nơi Thiên Chúa: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai
sau khấp khởi mừng.”
3. Mến. Lòng
mến khiến người ta sẵn lòng hy sinh cho người mình yêu. Yêu nhiều sẽ hy sinh
nhiều như Chúa Giêsu khẳng định: “Không
có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu.” Và thánh Phaolô cũng quả quyết: “Dù sự chết hay sự sống cũng không tách được
chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa.” Các Thánh Tử Đạo Việt Nam chỉ vì
mến Chúa yêu người nên đã can đảm hy sinh cả mạng sống mình.
Hội Thánh Chúa có
vững mạnh và phát triển như ngày hôm nay chính là nhờ có những tín hữu can
trường trong đức tin, lòng cậy trông và tình yêu mến. Xin Chúa cho chúng ta có
được niềm tin mạnh mẽ, lòng cậy bền vững và tình mến sắc son để dẫu phải gặp nhiều
gian lao thử thách trên đường đời, chúng ta vẫn trung thành sống và làm chứng
cho đạo thánh Chúa, theo gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam, những bậc cha ông của
chúng ta. (St)
* Suy niệm thường niên:
Lc 19, 45-48
Sự kiện Chúa Giêsu
đánh đuổi những con buôn ra khỏi đền thờ mà bài Tin mừng hôm nay tường thuật,
nhắc nhở chúng ta hai điều quan trọng trong đời sống đức tin:
- Ý thức
tầm quan trọng của ngôi Nhà Thờ vật chất: Bởi nơi đây là nơi hiện diện cách đặc
biệt của TC, là nơi quy tụ những người tín hữu tôn thờ Thiên Chúa, là nơi
biểu tỏ đức tin, là nơi gặp gỡ và sống tình huynh đệ bác ái Kitô giáo, là nơi
tụ họp để lắng nghe và được giải thích lời Chúa, là nơi để lãnh nhận các ơn
thiêng cao quý Chúa ban qua các bí tích và lời cầu nguyện… Nơi đây Đức Tin của
người kitô hữu mỗi ngày được nuôi dưỡng và lớn mạnh hơn. Do đó, mỗi chúng ta
cần phải ý thức tầm quan trọng và giá trị thánh thiêng của Nhà Thờ mà chung tay
xây dựng và góp phần gìn giữ Nhà Thờ được sạch đẹp; luôn giữ thái độ xứng hợp
khi bước vào Nhà Thờ; nhất là biết siêng năng kính viếng Chúa nơi Nhà Thờ.
- Ý thức giá trị cao
quý của đền thờ tâm hồn: Sự kiện Chúa Giêsu đánh đuổi những con buôn ra khỏi
đền thờ còn nhắc nhớ chúng ta về giá trị thánh thiêng của ngôi đền thờ tâm hồn.
Bởi tâm hồn chúng ta chính là nơi Thiên Chúa Ba Ngôi thích ngự trị nhất. Nhưng
rất có thể ngôi đền thờ tâm hồn chúng ta vẫn còn ngỗn ngang bởi những toan tính
lợi danh, những đam mê dục vọng. Nơi ấy vẫn còn chất chứa nhiều tính hư tật xấu
và tội lỗi nên rất cần được Chúa thanh tẩy cho thanh sạch, hầu xứng đáng là nơi
ngự trị của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Xin cho mỗi người chúng ta biết góp phần tích cực trong việc gìn giữ và bảo vệ ngôi nhà thờ vật chất cũng như canh tân ngôi nhà tâm hồn của mình sao cho xứng đáng là nơi TC ngự trị. Nhờ đó mà cuộc đời của chúng ta mới có thể trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành, mang lại niềm vui và ơn ích cho người và cho đời.
Thứ bảy: Lc 20, 27-40
Có thể nói hầu hết mọi người đều tin có sự sống lại và cuộc sống đời sau. Nhưng về tình trạng sự sống
đời sau như thế nào thì có sự khác nhau. Vậy quan niệm về vấn đề này của người Kitô hữu chúng ta
thế nào? Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong bài Tin mừng
hôm nay. Chúng ta lắng nghe lời Chúa dạy để có quan niệm đúng đắn trong vấn
đề này.
Thời Chúa Giêsu có khá nhiều nhóm: Pharisêu, Biệt phái, Luật sĩ, Hêrôđê và Saducêô... Mỗi nhóm lại theo đuổi một lý tưởng khác nhau nên có những quan điểm khác biệt. Nhóm Saducêô thì không tin có sự sống lại và không có sự sống đời sau. Họ có quan niệm theo duy vật chủ nghĩa, chết là hết. Vì thế, họ tìm mọi cách để chối bỏ niềm tin về sự sống lại. Hôm nay, họ đối chất với Chúa Giêsu về vấn đề này nhằm phản bát niềm tin vào sự sống lại do Chúa Giêsu rao giảng.
Họ đặt ra 1
câu chuyện lố bịch về 1 gia đình có 7 người anh em. Theo luật thế huynh của Môi-sen thì nếu
người anh lớn cưới vợ chẳng may chết đi không con, thì người em kế đó phải cưới
lấy người vợ góa đó, để sinh con nối dõi tông đường. Vậy có cả thảy 7 người anh
em cùng cưới 1 bà vợ. Nhưng lần lượt cả thảy 7 người anh em đó đều chết mà không con. Cuối cùng người vợ góa đó cũng chết. Vậy nếu có sự sống lại thì ai
sẽ là người chồng của chị ta?
Tình thế họ đặt ra xem ra rất hóc búa, khó xử, nhưng Chúa Giêsu đã dựa trên nền tảng Thánh Kinh đoạn nói về Môisen diện kiến Thiên Chúa nơi bụi gai cháy sáng, để minh chứng cho biết: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống”. Bởi lẽ Người là “Thiên Chúa hằng hữu”.
Người cũng
cho biết sự sống mai sau là sự sống vĩnh cửu nên không còn phải lấy vợ cưới
chồng để duy trì giống nòi nữa. Và tình trạng sự sống mai sau không giống như
sự sống con người ở trần gian mà như các Thiên Thần.
Với những lời minh
chứng ấy, Chúa Giêsu đã làm cho họ phải câm miệng không còn vênh váo, khoát lát
nữa.
Trong cuộc sống này, mỗi người có những quan niệm và cái nhìn khác nhau "chín người mười ý". Cho nên thường đưa đến những bất đồng ý kiến với nhau. Chân lý không thuộc đám đông cũng không phải ở bất kỳ ai, nhưng chân lý thuộc về Thiên Chúa. Vì thế một mặt ta cần tránh thái độ kiêu căng, tự mãn, chủ quan loại trừ mọi quan điểm của người khác; trái lại phải có cái nhìn tôn trọng và cởi mở trước những ý kiến khác biệt. Là người Kitô hữu, chúng ta phải luôn tin tưởng vào Lời Chúa dạy và GH hướng dẫn nên cần phải xác tín vững chắc vào sự sống lại và sự thưởng phạt đời sau.
Xin cho chúng ta biết gắn kết với Chúa trong lời cầu nguyện, siêng năng tham dự thánh lễ và kết hợp với Chúa trong Bí tích Thánh Thể; nhất là khiêm tốn lắng nghe và thực thi lời Chúa mà trung thành sống giới luật yêu thương do Chúa chỉ dạy. Nhờ đó ta mới có thể hưởng được tình trạng hạnh phúc viên mãn như các Thiên Thần mai này. Amen.
SUY
NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXXIII THƯỜNG NIÊN
Lm. Minh Anh,Tgp Huế
THỨ HAI: NGƯỜI MÙ THÀNH GIÊRIKHÔ
Giáo Hội sắp kết thúc năm phụng vụ với lễ Chúa Giêsu Kitô Vua để
nhắc nhở mỗi người chúng ta về sự thật căn bản về Thiên Chúa là Đấng khởi đầu
và là cùng đích của mọi sự, là Alpha và Ômêga.
Con người và vũ trụ đã được Thiên Chúa sáng tạo, đặt vào trong
hiện hữu và cuối cùng sẽ trở về cùng Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.
Trong thời gian chờ đợi ngày trở về cuối cùng này, mỗi người chúng
ta phải sống như thế nào?
Trong tuần lễ này, chúng ta hãy đối chiếu cuộc sống của mình với
lời dạy của Chúa trong Phúc Âm, nhưng không phải chỉ đối chiếu suông mà thôi,
mà mỗi chúng ta cần sửa chữa, cần dứt bỏ đi những gì không phù hợp với lời dạy
của Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay trình thuật
lại cuộc gặp gỡ hồng phúc giữa Chúa Giêsu và người mù thành Giê-ri-khô. Thái độ
của anh mù này có thể nêu gương cho mỗi người chúng ta. Nên biết, đây không
phải là dụ ngôn mà là một biến cố thật sự đã xảy ra, trong đó ta có thể quan
sát và nhận thấy có hai thái độ:
- Thái độ của những người cản trở không cho anh mù đến với Chúa Giêsu, dường
như họ cho rằng mình mới có quyền hay đặc quyền được ở gần bên Chúa. Còn người
mù ăn xin kia thì không có phẩm giá, không được kính trọng và không được đến gần
bên Chúa, nhất là không có quyền đi theo Chúa. Ðây là những người độc quyền, họ
muốn giới hạn hành động của Thiên Chúa theo những tiêu chuẩn phàm trần do chính
họ đặt ra.
Trong mối tương quan giữa con
người với Thiên Chúa trên bình diện ân sủng và cứu rỗi, con người không có
quyền cậy dựa vào công trạng và lợi ích cá nhân mình mà đòi buộc Thiên Chúa
phải làm như thế này hay như thế nọ. Bởi lẽ tất cả ân sủng là ơn ban nhưng
không của Thiên Chúa, không ai có quyền giới hạn ân sủng đó cho riêng mình hay
trong phạm vi mà mình quy định mà thôi.
- Thái độ thứ hai nơi anh mù. Ý thức
thân phận của mình, không có gì để khoe khoang hay đòi hỏi, nhất là đòi hỏi
Thiên Chúa, anh mù chỉ khiêm tốn kêu xin: “Lạy
con vua Ðavít, xin thương xót tôi”. Người ta càng ngăn cản thì anh càng la
to hơn: “Lạy con vua Ðavít, xin thương
xót tôi”.
Sự mù lòa thể xác và nghèo hèn
vật chất không phải là một ngăn trở không cho con người đến gần Chúa, gặp gỡ Chúa
và đón nhận ơn ban của Chúa. Tin vào điều ấy nơi Đức Kitô nên anh mù đã kêu xin
Chúa cứu chữa: “Lạy Ngài, xin cho con
được nhìn thấy”. Sau khi anh mù được sáng mắt, anh còn tiến thêm một bước
quan trọng thứ hai là đi theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa, đến độ những kẻ chung
quanh cũng bị lôi cuốn theo cùng anh ca tụng Thiên Chúa: “Tức khắc anh thấy được và anh đi theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa. Thấy
vậy, toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa”.
Trong Phúc Âm cũng có nhiều
trường hợp con người được Thiên Chúa làm phép lạ, ban cho ơn lành, nhưng rất ít
người nào có được phản ứng như anh mù này: “Anh
đi theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa”.
Anh đã sống trọn vẹn điều mà
chúng ta có thể diễn tả qua từ ngữ “Sống trọn vẹn ơn gọi Kitô”. Theo Chúa, ca
tụng Chúa và làm cho anh chị em chung quanh ca tụng Thiên Chúa. Điều này giúp chúng
ta nhớ lại lời căn dặn của Chúa Giêsu với các môn đệ của Ngài như sau: “Ánh sáng của anh em phải chiếu dọi cho mọi
người để họ xem thấy việc lành của anh em mà ngợi khen Cha của anh em ở trên
trời”. (Mt 5,16)
Lạy Chúa,
Người mù thành Giêrikhô thức tỉnh chúng con, những kẻ đã lãnh nhận
nhiều ơn lành của Chúa mà lại không biết đến gần Chúa, kêu cầu Chúa, theo Chúa
và ca tụng Thiên Chúa. Qủa thật chúng con đã mù loà về con mắt đức tin nên càng
ngày chúng con càng sống xa cách và bội bạc với Chúa.
Lạy Chúa, xin thương giải thoát chúng con khỏi sự mù lòa nguy hiểm
này.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: BÊN VỆ ĐƯỜNG
“Có một người mù đang
ngồi ăn xin bên vệ đường!”.
Ira David Sankey, một ca sĩ, một nhà soạn thánh ca, sau
nhiều năm bị mù, chia sẻ, “Như một người ngồi bên vệ đường, tôi chỉ còn một
chút bóng tối trần gian nữa; và sau đó, là mặt trời rạng rỡ trên ngai vàng của
Cha. Thiên Chúa là Tình Yêu. Chúc ngủ ngon!”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Chúc ngủ ngon!”, lời chúc của Ira Sankey khá chua xót
khi ông sắp giã từ ‘nơi tối’ của ‘những người đang ngủ’; nơi mà bấy lâu, ông
“chỉ còn một chút bóng tối” cuối cùng, đợi ngày về với Mặt Trời ngời ánh bình
minh. Và với Tin Mừng hôm nay, bạn và tôi có thể gặp lại chính mình nơi một người
mù khác, Bartimê, một người ‘bên vệ đường!’.
Đã bao lần trong cuộc đời, chúng ta cảm thấy mình lây lất
khác nào Bartimê; không thấy gì, không thể đứng lên, cũng không thể bước ra
chính lộ và chỉ có thể ngồi bẹp ‘bên vệ đường’. Chúng ta có thể cũng đã trải
nghiệm một sự thất vọng và không may mắn nào đó; không chỉ thể chất, mà còn
tinh thần hay tình cảm! Nhiều người đi qua nhìn thấy. Một số có thể ném cho bạn
và tôi một đồng xu, dẫu chúng không thực sự giúp chúng ta thoát khỏi sự chán nản
hoặc khó khăn của mình; số khác, có thể đã chế nhạo; số khác, thậm chí, có thể
đã mắng mỏ chúng ta, “Hãy im đi!” như những người đã mắng mỏ Bartimê.
Thế nhưng, giữa dòng người đó, vẫn có ‘một Ai đó’ khả
dĩ có lòng xót thương, Giêsu! Ngài đã cho Bartimê điều anh không thể tự cho
mình, thị giác. Cũng vậy, bao lần Giêsu đi qua cuộc đời chúng ta, Ngài cũng dừng
lại để trao tặng điều chúng ta không thể tự cho mình, đức tin. Nhưng bạn và tôi
có la lên, có van vỉ Ngài như Bartimê đã van vỉ khi biết Ngài đi qua không? Hoặc
chúng ta có thường xuyên cầu xin Ngài gia tăng lòng tin không?
Sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi cuộc đời chúng ta chịu
một số lời mắng mỏ, một số cú đánh thực sự, một số thất bại, và thậm chí, một số
sa ngã trong một tội lỗi nào đó. Nhưng, Chúa Giêsu không muốn chúng ta nản
lòng, Ngài muốn chúng ta coi đây là cơ hội để hướng về Ngài hơn, nguồn sức mạnh
và sự đỡ nâng. Những la ó dành cho chúng ta luôn còn mãi. Thế nhưng, khó khăn
trong cuộc đời có thể đánh bại chúng ta, hoặc cũng có thể khiến chúng ta mạnh mẽ.
Cách chúng làm cho chúng ta mạnh mẽ, như đã làm cho Bartimê, là nuôi dưỡng
trong chúng ta một sự tin tưởng và một sự lệ thuộc hoàn toàn vào lòng xót
thương của Thiên Chúa, “Lạy con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”.
Anh Chị em,
“Xin dủ lòng thương tôi!”. Sự mù loà của Bartimê chỉ là
phần nổi của tảng băng chìm; chắc chắn trong anh còn có những vết thương, tủi
nhục, ước mơ tan vỡ, sai lầm và hối hận. Anh đã cầu xin bằng cả trái tim; bạn
và tôi thì sao? Lời cầu của chúng ta có bao gồm lịch sử của mình, những vết
thương, tủi nhục, những giấc mơ tan vỡ, những lỗi lầm và hối tiếc? Cầu nguyện hời
hợt chẳng giúp ích gì cả. Tôi có kể câu chuyện đời mình cho Chúa Giêsu? Hay lời
cầu của chúng ta thiếu cảm xúc, chân thành. Đừng quên, Chúa Giêsu nóng lòng
tuôn đổ ân sủng và niềm vui cho chúng ta; tiếc thay, chính chúng ta lại giữ khoảng
cách qua sự rụt rè, lười biếng hoặc thiếu niềm tin. Vì thế, đừng ngạc nhiên, bạn
và tôi cứ ngồi mãi ‘bên vệ đường’.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, Đấng không muốn con lây lất. Bứng con lên,
đưa con vào ‘Vùng Sáng’, và con cũng có thể bông đùa một chút với những người
khác, “Chúc ngủ ngon!”, Amen.
THỨ BA: ĐỨC MẸ DÂNG
MÌNH TRONG ĐỀN THỜ
TÒNG THUỘC
“Hỡi mọi xác phàm, hãy
lặng thinh trước nhan Thiên Chúa!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Bài đọc Zacharia được chọn một cách kỹ lưỡng trong ngày
lễ Đức Mẹ Dâng Mình nêu bật mối quan hệ ‘tòng thuộc’ tuyệt đối của con người Đức
Maria vào Thiên Chúa.
Thiếu nữ Sion Zacharia nói đến không chỉ là hình ảnh của
Israel, nhưng còn là hình ảnh của Maria, người Thiên Chúa chọn, “Hỡi con gái
Sion, hãy vui sướng reo hò, vì này Ta đang đến để ở lại giữa ngươi”. Thiên Chúa
ở lại giữa Israel vì Israel thuộc về Ngài; Ngài ở lại, “ở cùng” Maria, vì Mẹ
‘tòng thuộc’ Ngài tuyệt đối. Để có thể hiểu được hồng ân được “ở cùng” này, con
người phải biết lặng thinh và chìm sâu vào trong Thiên Chúa. Ngôn sứ Zacharia
thật thâm trầm khi kết luận, “Hỡi mọi xác phàm, hãy lặng thinh trước nhan Thiên
Chúa!”.
Tin Mừng ngày lễ nói đến cuộc tìm thăm Chúa Giêsu của Mẹ
Maria và anh em Ngài. Ở đó, Ngài đã thốt lên những lời ‘gây sốc’, “Ai là mẹ
tôi? Ai là anh em tôi?”. Chúa Giêsu thường không ngại nói ra những lời vượt quá
trí hiểu. Nhưng thật thú vị, Ngài không quen làm sáng tỏ chúng một cách chóng
vánh; đúng hơn, Ngài thường để những ai không hiểu phải biết lặng thinh, hầu lời
Ngài có thể chìm sâu vào trong. Từ đó, họ mới có thể hiểu nó.
Hẳn đã có một sự im lặng vần vũ đám đông khi Chúa Giêsu
thốt ra những lời trên. Nhiều người nghĩ, Ngài khá cứng cỏi. Nhưng không phải
thế, Ngài muốn Lời phải được chìm sâu vào trong nơi những ai đang nghe Ngài. Vì
sau đó, đưa tay chỉ các môn đệ, Ngài nói, “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì
phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh em chị
em tôi, là mẹ tôi!”. Qua đó, Chúa Giêsu đề cao người Mẹ Đầy Ơn Phúc của mình vì
sự vâng phục tuyệt đối ý muốn của Chúa Cha. Ngài cho biết, quan hệ ‘huyết thống’
đã quan trọng, nhưng mối quan hệ ‘tòng thuộc’ vào Thiên Chúa sẽ quan trọng hơn.
Như vậy, một ‘Maria vâng phục’ sẽ là mẹ của Ngài ‘nhiều hơn’ một ‘Maria huyết
thống!’.
Với một đức tin trọn vẹn, một lòng mến sắt son, Maria hẳn
đã hiểu hơn ai hết; và tất nhiên, cũng hơn ai hết, Mẹ đầy niềm vui. Sự hiểu biết
sâu sắc đó tất yếu dẫn đến một niềm vui thẳm sâu nơi Mẹ. Thánh Vịnh đáp ca bộc
lộ tâm tình này, “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người
thật chí thánh chí tôn!”.
Một người mẹ kia có thói quen lạ thường! Mỗi khi con
trai cô có điều gì bất ổn, cô dắt nó vào rừng, đặt nó ngồi trên một tảng đá, bảo
nó nhắm mắt lại. Đoạn, lấy cây sáo mang theo, cô thổi cho nó nghe từ ca khúc
này đến ca khúc khác, từ trầm buồn đến réo rắt. Cô sẽ thổi cho đến khi nào con
trai cô vui trở lại, và nó mỉm cười. Bấy giờ, hai mẹ con mới ra về.
Anh Chị em,
“Hãy lặng thinh trước nhan Thiên Chúa!”. Thánh Gioan
Phaolô II gọi Maria là “Người Nữ Thánh Thể”. Liệu bạn và tôi có để Đức Mẹ ‘dẫn
vào rừng’, chìm sâu vào Thánh Thể mỗi ngày, nhất là khi gặp những khó khăn
trong đời? Với Thánh Thể, chúng ta sẽ lặng thinh, chìm sâu vào trong Ngài,
trong Lời Ngài; ở đó, chúng ta chờ đợi thánh ý Chúa như Mẹ, lắng nghe tiếng của
Thánh Thần như Mẹ thay vì chạy vạy tìm câu trả lời ở nơi đâu khác. Và từ Thánh
Thể, một câu hỏi quan trọng sẽ luôn đặt ra cho chúng ta, dù chúng ta là ai, ở bất
cứ đấng bậc nào, “Con thuộc về ai?”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Mẹ Maria, dạy con biết ‘tòng thuộc’ tuyệt đối vào
Chúa. Để được vậy, cho con vui thích cầm tay Mẹ ‘vào rừng’ mỗi ngày, để lặng
thinh, để chìm sâu vào trong “vực Giêsu!”. Amen.
THỨ TƯ: LỬA TÔNG ĐỒ
“Hãy lo làm ăn sinh lợi
cho tới khi tôi đến!”.
Elton Trueblood từng so sánh việc tông đồ với việc truyền
lửa, “Rất dễ xác định khi một thứ gì đó bốc cháy; nó đốt các vật chung quanh.
Ngọn lửa nào không cháy lan, cuối cùng, sẽ tắt. Về mặt nào đó, một Kitô hữu
không có ‘lửa tông đồ’ là một mâu thuẫn. Lửa không cháy cũng là một mâu thuẫn!
Hãy xem lại việc kết hiệp của họ với Chúa Kitô!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng hôm nay nói đến ‘lửa tông đồ’, biểu hiện ở ba
hạng người, tượng trưng cho ba thái độ trước nén bạc ân sủng Chúa trao. Họ được
trao một nén như nhau, cùng nhận một mệnh lệnh như nhau, “Hãy lo làm ăn sinh lợi
cho tới khi tôi đến!”.
Đối tượng đầu tiên là những người đã “sinh lợi” theo lệnh
chủ, người “sinh lợi” mười nén, kẻ “sinh lợi” năm nén. Hạng thứ hai, “bọc khăn
giữ kỹ” nén bạc. Và hạng thứ ba, những người “ghét” ông chủ; ở đây là ghét
Thiên Chúa, không muốn Ngài làm Vua của họ.
Khi nhà Vua trở lại, hạng đầu tiên phúc trình những kết
quả đáng mừng. Đây là những môn đệ đầy lửa. Thiên Chúa không trao ân sủng để ai
đó cất giữ cho riêng mình, nhưng sử dụng nó để mở rộng Vương Quốc. Ngài kỳ vọng
mỗi người sẽ tạo nên ‘một sự khác biệt vĩnh viễn’ trong cuộc sống của những người
khác. Với họ, việc tông đồ không là một gánh nặng nhưng là niềm vui, một niềm
vui tiếp thêm sức mạnh cho ‘lửa tông đồ’. Kết quả của sự nhiệt thành nơi họ sẽ
tác động, như lửa cháy lan, theo cấp số nhân đối với Vương Quốc.
Bà mẹ ngoan cường trong bài đọc Macabê hôm nay là một mẫu
gương ngời sáng trong việc “sinh lợi” cho Vương Quốc. Để bảo vệ lề luật, bà chứng
kiến cái chết của bảy người con trong một ngày vì bà tin rằng, “Đấng Tạo Hoá
càn khôn đã nắn đúc nên loài người... Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ
trả lại cho các con thần khí và sự sống”.
Hạng thứ hai, những người đã “bọc khăn giữ kỹ”. Đó là
những tôi tớ không có ‘lửa tông đồ’. Họ sợ hãi; sợ hãi làm họ tê liệt. Phụng sự
Chúa đòi hỏi lòng can đảm, đòi hỏi bạn và tôi ra khỏi vùng an toàn. Đầy tớ
trong dụ ngôn đã linh cảm chủ sẽ không chấp nhận sự sợ hãi như một cái cớ có thể
chấp nhận được để không nhiệt tâm sinh lợi.
Hạng thứ ba, đây là những người ra sức phá hoại Vương
Quốc. Thế giới tràn ngập hạng này. Điều cần nói về họ chính là điều Chúa Giêsu
đã nói, “Còn bọn thù địch của tôi kia, những người không muốn tôi làm vua… hãy
dẫn chúng lại đây và giết chết trước mặt tôi!”.
Anh Chị em,
“Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến!”. Ước gì bạn
và tôi thuộc hạng “sinh lợi” cho Chủ! Hãy vui mừng nếu chúng ta là những tôi tớ
thuộc hạng này; nhưng nếu là người đang đấu tranh với sự sợ hãi, hoặc sợ phải sống
đức tin một cách ngoan cường… chúng ta cần nhiều thời gian hơn cho dụ ngôn này.
Hãy dấn thân và xác tín rằng, sẽ không bao giờ hối hận khi chúng ta đặt cả trái
tim, linh hồn vào việc phụng sự Chúa. Để là những con người có thể ‘cháy lan’,
như Elton Trueblood lưu ý, bạn và tôi hãy ra sức “kết hiệp với Chúa Kitô”, đêm
ngày tìm kiếm Ngài. Tâm tình của Thánh Vịnh đáp ca thật đáng ao ước, “Lạy Chúa,
khi thức giấc, con được thoả tình chiêm ngưỡng Thánh Nhan!”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để thời gian, sức khoẻ và những nhọc nhằn
khiến ‘lửa tông đồ’ trong con mai một! Con sẽ ‘cháy lan’ mãi, cháy cho các thế
hệ, cả sau khi con hoá thành tro!”, Amen.
THỨ NĂM: LÀM CHO THANH
KHIẾT
“Chúa Giêsu vào Đền Thờ,
Người bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán”.
“Cuộc sống là một công trình! Xây trên đá cẩm thạch, nó
sẽ bị huỷ diệt; trên đồng thau, thời gian sẽ làm trôi đi; trên danh tiếng, gió
thổi và nó biến mất. Nhưng nếu được xây trên lòng kính sợ Chúa và tình yêu đồng
loại, nó sẽ bền vững đến muôn đời. Và điều quan trọng, nó phải được ‘làm cho
thanh khiết’ bên trong mỗi ngày!” - Daniel Webster.
Kính thưa Anh Chị em,
“Nó phải được ‘làm cho thanh khiết’ bên trong!”, đó
cũng là chủ đề của Lời Chúa hôm nay. Bài đọc Macabê nói đến cuộc thanh tẩy đền
thờ vốn đã bị ô uế bởi dân ngoại; Tin Mừng nói đến cuộc thanh tẩy đền thờ vốn
có nguy cơ biến thành sào huyệt trộm cướp.
Sau thuở hồi hương, dân Chúa tẩy uế đền thờ; Giuđa và
anh em ông nói, “Này, chúng ta lên thanh tẩy và cung hiến Nơi Thánh!”; “Dân
chúng vui mừng khôn xiết”. Như lời Thánh Vịnh đáp ca, họ hoan hỷ hát khen, “Lạy
Chúa, xin ca tụng Danh Thánh hiển vinh!”.
Với bài Tin Mừng, câu chuyện tẩy uế đền thờ Giêrusalem
của Chúa Giêsu không chỉ tường thuật một hành động xa xưa nhưng còn tiết lộ ước
muốn sâu xa của Ngài: ‘làm cho thanh khiết’ ‘đền thờ thế giới’; và ‘làm cho
thanh khiết’ đền thờ tâm hồn mỗi người.
‘Đền thờ thế giới’ trước hết là Hội Thánh vốn là con
tim của thế giới, nơi thông chuyển sự sống Chúa Kitô; thông chuyển mọi ước muốn
của con người lên Thiên Chúa và ngược lại. Nhưng qua dòng lịch sử, tà tâm và
tham vọng của nhiều người đã ngấm vào nó. Điều này không có gì mới! Vì thế,
không ít người đã bị tổn thương vì các thành viên của Hội Thánh. Chúa Giêsu
không hứa một Hội Thánh hoàn hảo, Ngài chỉ hứa ở cùng nó.
Đức Phanxicô nói, “Đền thờ là biểu tượng của Hội Thánh.
Hội Thánh sẽ luôn chịu sự áp lực của những cám dỗ thế tục và cám dỗ của quyền lực;
đó không phải là quyền năng Chúa Giêsu muốn dành cho Hội Thánh. Ngài không nói,
“Không, đừng làm điều này! Đem ra ngoài kia!”; thay vào đó, Ngài nói, “Các
ngươi đã tạo nên một ổ trộm cướp ở đây!”. Bước vào tiến trình suy thoái này, kết
cục thật là khủng khiếp. Rất tệ! Một con tim có vấn đề, không thể làm tốt công
việc của nó; và khi ‘con tim của thế giới’ èo uột, Hội Thánh không thể thông
chuyển sự sống Chúa Kitô và đóng vai trò trung gian của mình!”.
Thứ đến, linh hồn mỗi người là đền thờ cần được Chúa
Giêsu ‘làm cho thanh khiết’ mọi bẩn thỉu trong đó. Thật không dễ, nó đòi hỏi một
sự khiêm nhường và đầu phục tuyệt đối; bằng không, nó sẽ trở nên vô hồn, trống
rỗng, hoặc chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, một bảo tàng viện, hay thậm chí là một
nhà kho khi bên trong không có chỗ cho Thiên Chúa.
Anh Chị em,
“Nó phải được ‘làm cho thanh khiết!’”. Chúa Giêsu hiểu
thế nào là sức nặng của tội lỗi, thế nào là ô uế trong cái không gian linh
thánh của mỗi người. Ngài đã dùng nước và máu từ cạnh sườn mà “thanh tẩy lương
tâm chúng ta sạch mọi vết nhơ tội lỗi”. Ngài muốn thanh tẩy Hội Thánh, xã hội,
cộng đoàn và gia đình chúng ta; đặc biệt, tâm hồn mỗi người. Đừng sợ để cơn thịnh
nộ thánh thiện của Ngài phát huy tác dụng. Hãy cầu nguyện để được tẩy sạch bên
trong trên mọi cấp độ, hầu có thể cùng Ngài xây dựng Vương Quốc.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, con không xây dựng cuộc sống trên cẩm thạch,
trên đồng thau; nhưng phần nào trên danh tiếng. Cứ mạnh tay thanh luyện con ở mọi
cấp độ hầu con được sạch!”, Amen.
THỨ SÁU: CÁC THÁNH TỬ
ĐẠO VIỆT NAM
Ts. Trần Mỹ Duyệt
“Tiếng nhạc oai hùng vang trên khắp cõi trời Việt Nam.
Tiếng lòng tha thiết con dân nước Nam hòa khúc khải hoàn ca. Đồng thanh ta hát
khen mừng bao Đấng Anh Hùng xưa đã thắng gian lao tòa cao chói lói trên trời
hiển vinh muôn đời. Đồng thanh ta hát khen mừng bao Đấng Anh Hùng. Nay chiến
thắng khải hoàn trên nơi phúc vinh sáng ngời”. [1]
Mỗi lần lễ kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, những dòng nhạc
trên lại vang lên, kéo theo những cảm xúc bùi ngùi gợi nhớ lại một thời mà các
vị anh hùng đức tin, cha ông của chúng ta đã sống, và đã chết vì niềm tin của
mình.
Do sự chối bỏ và thù ghét Thiên Chúa, người ta đã giết hại
các ngài. Trải qua các thế kỷ, mọi thời đại, mọi nơi trên thế giới, hàng hàng,
lớp lớp những anh hùng tử đạo đã can đảm hiến dâng mạng sống mình vì đức tin,
vì tình yêu mến Thiên Chúa. Lịch sử Giáo Hội cho biết, ngay từ sơ khai thời các
Tông Đồ những cuộc bắt bớ, bỏ tù, tra tấn và chém giết đã xảy ra đối với các
ngài và những ai theo chân Chúa Kitô. Thân xác các ngài tuy bị giết, nhưng linh
hồn các ngài ở trên Thiên Đàng. Và đó là lý do tại sao chúng ta cử hành lễ mừng
kính các ngài.
Chúa Kitô đang ở trên thiên đàng, Đấng đã được sinh ra trên
mặt đất để những người dưới đất có thể được sinh ra trên thiên đàng. Chúng ta
tôn kính, cầu xin các vị tử đạo vì gương sáng và cái chết anh hùng của các ngài
để củng cố niềm tin của chúng ta. Cái chết của các ngài cũng cho chúng ta
biết rằng, Kitô hữu là những người được tuyển chọn bởi Thiên Chúa, để có thể
bắt chước Chúa Kitô trong cuộc sống, và chúng ta cũng có thể được ban thêm ơn
chết vì Ngài.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Lịch sử Giáo Hội Việt Nam hơn 300 năm bị cấm cách, bắt bớ
qua 53 sắc lệnh khởi đi từ những năm 1625 thời chúa Sãi – Nguyễn Phước Nguyên,
kéo dài đến các triều đại Nhà Nguyễn gồm Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, ước
tính có đến hàng trăm ngàn người đã bị giết vì đạo. Trong số đó có 117 vị đã
được tôn phong Hiển Thánh, [2] và 1 vị được tôn phong Chân Phước. [3] Các ngài
là những nhân chứng về cuộc đời của Chúa Kitô và đã sẵn sàng hy sinh mạng sống
mình vì niềm tin của mình.
Tại sao các ngài được gọi là tử đạo? Tử đạo là một người tự
nguyện chấp nhận cái chết hơn là chối bỏ tôn giáo của mình bằng lời nói hoặc
việc làm. Đối với các vị Tử Đạo Việt Nam, hành động chối bỏ rõ ràng nhất là
“bước qua thánh giá”, hoặc “đạp trên thánh giá”. Lòng trung kiên này phải trả bằng
mạng sống. Danh
xưng tử đạo cũng có thể chỉ về những người đã hy sinh đời mình hoặc việc gì mà
giá trị lớn lao vì chân lý. Thí dụ, Thánh Maximilian Kolbe (1894-1941) đã chấp
nhận chết thay cho một bạn tù thời Đức Quốc Xã. Thánh Damien (1840-1889) đã hy
sinh phục vụ những người cùi tại Molokai, Hawaii. Ngài đã lây bệnh cùi và chết
như một người cùi.
117 Thánh Tử đạo Việt Nam, tuy nhiên, xét về nguồn gốc quốc
tịch, một số đến từ Tây Ban Nha và Pháp. Trong đó gồm:
Tây Ban Nha: 11 vị
gồm 6 Giám Mục và 5 linh mục dòng Đa Minh.
Pháp: 10 vị
gồm 2 Giám Mục và 8 linh mục thuộc Hội Thừa Sai Paris (Société des
Missions étrangères de Paris).
Việt Nam: 96 vị
gồm 37 linh mục và 59 giáo dân – trong đó có 14 thầy giảng, 1 chủng sinh và 1
phụ nữ là bà Anê Lê Thị Thành.
Các ngài đã bị giết dưới những triều đại sau đây:
Chúa Trịnh Doanh (1740-1767): 2 vị.
Chúa Trịnh Sâm (1767-1782): 2 vị.
Vua Cảnh Thịnh (1782-1802): 2 vị.
Vua Minh Mạng (1820-1841): 58 vị.
Vua Thiệu Trị (1841-1847): 3 vị.
Vua Tự Đức (1847-1883): 50 vị.
Những cái chết Tử Đạo
Các vị Tử Đạo nói chung đã bị giết bằng nhiều cách, thời
gian đầu của Kitô giáo, đa số các ngài bị đóng đinh, bị chém đầu, một số bị lột
da, bị cắt từng miếng, bị nướng trên vỉ sắt, bị bỏ vào vạc dầu sôi, hoặc bị
nhốt và chết rũ tù… Cái chết của các vị Tử Đạo Việt Nam cũng không ngoại lệ.
Các ngài đã chịu nhiều tra tấn, cực hình và hy sinh mạng sống dưới nhiều hình
thức:
- Bá đao : bị lý hình dùng dao cắt xẻo
từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng. Cách chết này có 1 vị.
- Lăng trì : chặt chân chặt tay trước khi
bị chém đầu. Cách chết này có 4 vị.
- Thiêu sinh : bị thiêu sống. Chết cách
này có 6 vị.
- Xử trảm : bị chém đầu. Chết cách này có
75 vị.
- Xử giảo : bị tròng dây vào cổ và bị lý
hình kéo hai đầu dây cho đến chết. Cách chết này có 22 vị.
- Chết rũ tù : bị tra tấn, hành hạ, rồi bỏ
đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù. Chết cách này có 9 vị. [4]
Riêng Chân Phước Andrê Phú Yên (1625-1644), tử đạo tại
Gò Xử, Thành Chiêm, Điện Bàn, Quảng Nam. Nay thuộc giáo họ Phước Kiều, giáo
phận Đà Nẵng. Ngài được cho là đã bị đâm sau lưng bằng giáo, trước khi bị
chém đầu vào chiều hôm 26 tháng 07 năm 1644.
Được tôn phong
Ngành vạn tuế Tử Đạo đã được trao cho các ngài trên Thiên
Quốc. Trong số 117 vị tử đạo Việt Nam từ 1745 đến 1862, đã được Giáo Hội tôn
phong Chân Phước qua 4 đợt:
64 vị do Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, ngày 27 tháng 5 năm 1900.
8 vị do Thánh Giáo Hoàng Piô X, ngày 20 tháng 5 năm 1906.
20 vị do Thánh Giáo Hoàng Piô X, ngày 2 tháng 5 năm 1909.
25 vị do Đức Giáo Hoàng Piô XII, ngày 29 tháng 4 năm 1951.
Các ngài đã được tuyên phong Hiển Thánh do Thánh Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II, ngày 19 tháng 6 năm 1988. Thầy giảng Andrê Phú Yên, vị tử đạo
tiên khởi, cũng được tuyên phong Chân Phước ngày 5 tháng 3 năm 2000 do Thánh
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Giáo
hội Công Giáo khắp thế giới cử hành lễ kính chung cho các Thánh Tử Đạo Việt Nam ngày 24 tháng 11 với bậc lễ nhớ theo Lịch Chung Rôma. Riêng Giáo Hội Việt Nam mừng kính trọng thể các
ngài vào
Chúa Nhật
giữa tháng 11, trước lễ Chúa Kitô Vua.
Mừng kính các Thánh Tử Đạo, chúng ta nhớ đến những dòng máu
mà các ngài đã đổ ra vì danh Chúa, vì tình yêu mến Ngài. Những dòng máu đức
tin. Hơn 100 ngàn anh hùng tử đạo, máu ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ truyền
giáo tại Việt Nam. Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, Tổng Giám Mục Hà nội,
trong Thánh Lễ Đại Trào kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam khai mạc Năm Thánh tại
Sở Kiện – Tổng Giáo Phận Hà Nội, ngày 24 tháng 11 năm 2009, đã suy niệm về ý
nghĩa của những dòng máu này:
“Có điều máu lênh láng nhưng không tanh tưởi bởi không phải
là những thứ máu oan khốc nơi chiến trường tuôn chảy trong hờn căm oán ghét.
Máu đẹp như những cánh hoa vì xuất phát từ tình yêu cao quý. Máu dường như tỏa
hương thơm bởi khơi nguồn từ những trái tim chan chứa yêu thương. Máu không ghê
tởm nhưng gợi lòng kính trọng. Máu không tạo oán thù nhưng vực dậy yêu thương.
Đó là những dòng máu làm chứng cho tình yêu.”[5]
“Hồi chiêng dứt tiếng đầu rơi chốn pháp trường. Hồn thiêng
lâng lâng về thiên quốc xa vời. Từ nay thôi những ngày tân khổ u buồn, về quê
phúc vinh hưởng nhan Chúa muôn đời”. [6] Xin các Thánh Tử Đạo cầu cho
chúng con biết trung kiên sống đức tin, sẵn sàng chấp nhận tử đạo bằng lòng mến
Chúa qua những việc thường ngày dù bị gian khổ, vất vả, bắt bớ để cũng như các
ngài, ngày sau chung phần vinh phúc trên thiên đàng.
THỨ BẢY: ĐỜI ĐỜI, RẤT
ĐỜI ĐỜI
“Người không phải là
Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống”.
Frederick, người theo thuyết bất khả tri; Von Zealand,
tướng quân thân tín của vua, ngược lại, là một Kitô hữu. Trong một lễ hội,
Frederick giễu cợt Chúa Giêsu, mọi người cười ngất ngưỡng, đến nỗi người lính
già đứng dậy thưa, “Bệ hạ, ngài biết tôi không sợ chết! Tôi thắng 38 trận cho
ngài. Tôi sẽ sớm trình diện Giêsu, Đấng ngài đang phạm thượng; Đấng vĩ đại hơn
ngài, Đấng ‘đời đời, rất đời đời!’. Giờ đây, tôi chào ngài như một người yêu mến
Đấng Cứu Rỗi mình, tôi đang ở ngưỡng cửa vĩnh cửu!”. Không gian trở nên im ắng,
và với cung giọng run rẩy, vua nói, “Tướng quân! Tôi xin ngài thứ lỗi!”. Bữa tiệc
lặng lẽ kết thúc!
Kính thưa Anh Chị em,
Đấng ‘đời đời, rất đời đời’ của Von Zealand chính là
“Thiên Chúa của kẻ sống” mà Tin Mừng hôm nay tiết lộ. Để hiểu được lời này,
Karl Rahner nói, “Bạn hãy thả mình vào cung lòng của Thiên Chúa một cách vô điều
kiện!”.
Tin Mừng tường thuật việc những người Sadducêô đưa ra một
kịch bản trái khoáy để gài bẫy Chúa Giêsu: một phụ nữ đã là vợ của bảy anh em;
khi sống lại, nàng sẽ là vợ ai? Chúa Giêsu giải thích, “Chúa là Thiên Chúa của
kẻ sống!”. Hôn nhân chỉ dành cho đời này, không phải cho đời sau. Vì vậy, sẽ
không ai là chồng của nàng!
Với giáo huấn này, một số người sẽ gặp khó khăn! Họ
mong muốn vẫn là vợ, là chồng của người phối ngẫu của mình trên thiên đàng. Hãy
yên tâm, các mối dây yêu thương chúng ta đã hình thành trên dương thế sẽ vẫn
còn, và thậm chí, được củng cố hơn ở trên trời! Chúng sẽ vẫn bền chặt hơn bao
giờ hết. Tuy nhiên, hôn nhân, theo nghĩa trần thế, sẽ không còn; nó được thay
thế bằng tình yêu trong sáng của một cuộc sống mới.
Karl Rahner nói, “Bước theo Chúa Kitô, niềm tin vào sự
phục sinh mai ngày của Kitô hữu được móc, được đính chặt tận chóp đỉnh trên
cùng bản tính hằng sống của Thiên Chúa; Ngài hằng sống, vô cùng, ‘đời đời, rất
đời đời’… nên tình yêu của Ngài cũng vĩnh hằng, miên viễn và đời đời như Ngài”.
Thánh Vịnh đáp ca bày tỏ niềm tri ân, “Lạy Chúa, con mừng rỡ vì ơn Ngài cứu độ!”.
Không có thiên đàng, không có cuộc sống vĩnh cửu, Kitô giáo sẽ giảm thiểu chỉ
còn là đạo đức học hay một triết lý sống. Niềm tin vào sự phục sinh là cần thiết
để mọi hành động yêu thương không phải là phù du và tự nó kết thúc, nhưng có thể
trở thành hạt giống định sẵn để nên hoa trái vĩnh cửu trong ngôi vườn của Cha.
Anh Chị em,
“Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống!”. Với câu trả lời của
Chúa Giêsu, Đức Phanxicô kết luận, “Trước hết, Chúa Giêsu mời gọi những người đối
thoại với Ngài - và cả chúng ta - hãy biết, chiều kích trần thế mà chúng ta
đang sống không phải là chiều kích duy nhất, nhưng còn có một chiều kích khác,
không chịu tác động của sự chết, sẽ biểu lộ đầy đủ rằng, chúng ta là con trai
con gái của Thiên Chúa! Thật là một niềm an ủi và hy vọng vô bờ khi được nghe
những lời đơn giản và rõ ràng này của Chúa Giêsu về cuộc sống bên kia cái chết.
Chúng ta rất cần nó, nhất là trong thời đại hôm nay, một thời đại rất giàu kiến
thức về vũ trụ nhưng lại thiếu khôn ngoan về sự sống đời đời!”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, con sợ chết, không thắng trận nào cho Chúa,
lại sợ sớm trình diện Ngài. Cho con dám thả mình vào cung lòng Chúa. Đừng để
con sống như không có đời sau!”, Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét