Tìm kiếm Blog này

Thứ Tư, 15 tháng 11, 2023

 

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXXIII THƯỜNG NIÊN

                                                           Lm Nguyệt Giang

CHÚA NHẬT XXXIII THƯỜNG NIÊN A

 KÍNH TRỌNG THỂ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Kn 3,1-9; 2Cr 4,7-15; Mt 10,17-22

Suy niệm 1:

Hôm nay Hội Thánh mừng trọng thể 117+ vị thánh tử đạo Việt Nam. Các ngài thuộc đủ mọi thành phần trong Giáo Hội, gồm các giám mục, linh mục, thầy giảng, chủng sinh và rất nhiều giáo dân. Các ngài là những công dân hiền hòa, sống đời gương mẫu, nêu cao lý tưởng trung kiên với Thiên Chúa và một lòng mến yêu tổ quốc.

Bị bắt bớ, tra tấn và tù đày, nhưng không một người nào trong các ngài có ý định cầm khí giới để chống trả; trái lại, các ngài cam chịu vì Đức Kitô, cầu nguyện cho mọi người và thật lòng tha thứ cho những kẻ bách hại mình.

Ngày nay, trước những thách đố của chủ nghĩa duy vật vô thần, duy tương đối, não trạng hưởng thụ ích kỷ, lối sống gian dối và lừa lọc.... Muốn trung thành với tinh thần Phúc Âm, chúng ta phải liên lỉ lựa chọn, từ bỏ trong đau đớn không kém gì những khổ hình như các thánh tử đạo Việt Nam trước đây. Sống Phúc Âm trong thời đại này đúng là một cuộc tử đạo liên tục. Xin các thánh tử đạo VN cầu bầu cùng Chúa: Cho đồng bào Việt Nam ngày càng tin theo Chúa nhiều hơn. Cho chúng ta biết noi gương các ngài, trung thành bền đỗ theo Chúa đến cùng.

Đặc biệt là cho quý vị trong Ban Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ đã nhận các Thánh Tử Đạo Việt Nam làm bổn mạng của mình, biết luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh. Tích cực chu toàn tốt bổn phận Chúa và Giáo Hội trao phó; nhất là sẵn sàng hy sinh phục vụ tha nhân bằng một tình yêu quảng đại nhưng không, nhằm trở nên những chứng nhân đích thực của “Niềm Vui Tin Mừng” trong thời đại hôm nay, theo gương của các thánh Tử Đạo Việt Nam cha ông của chúng ta.

Cùng GH, hôm nay chúng ta mừng kính trọng thể các thánh tử đạo VN, kỉ niệm sự kiện ngày Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong 117 vị tử đạo VN lên bậc hiển thánh. Xin các thánh tử đạo VN cầu bàu cùng Chúa cho chúng ta, đặc biệt là cho quý vị trong Ban Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ biết sống kiên cường trong đức tin, trung tín trong ơn gọi và hăng say trong sứ vụ cao quý của mình, hầu trở nên những chứng nhân tình yêu của Chúa Kitô trong thời đại hôm nay, theo gương các thánh Tử Đạo Việt Nam.

Đọc lại lịch sử GHVN, ta biết được hạt giống Tin Mừng của Chúa đã được gieo vải trên vùng đất hình chữ S của chúng ta vào khoảng năm 1533.

Do Tin mừng của Chúa rất phù hợp với quan niệm và tâm thức của người Việt, nên Tin mừng ấy đã nhanh chóng thấm nhập và lan tỏa khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam chúng ta.

Nhưng hạt giống Tin mừng ấy bén rể và mọc lên chưa được bao lâu thì đến khoảng năm 1580, các vua quan đất Việt lại lo sợ mất ảnh hưởng và uy tín trên dân chúng nên đã ra những chiếu chỉ cấm cách và bắt hại đạo gắt gao.

Từ khoảng năm 1580-1888 (khoảng 300 năm) đã xảy ra những cuộc bách hại khốc liệt cho GH Việt Nam. Đó là thời kỳ của Chúa Trịnh: Trịnh Doanh, Trịnh Sâm, Cảnh Thịnh; và các vua thời nhà Nguyễn: Thiệu Trị, Minh Mạng, Tự Đức. Ước tính trong thời gian này có chừng 400.000 người bị lưu đầy, phát lưu và phân sáp. Trong đó có khoảng 130.000 tín hữu đã phải chịu chết vì đạo, dưới nhiều hình thức giết người dã man khác nhau như: Gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói, cho voi giầy, trói ném xuống sông, đổ dầu vào rốn rồi đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, chặt đầu, thắt cổ, thiêu sống, tùng xẻo và bá đao.

Trong rất nhiều tín hữu tử đạo ấy có 117 vị đã được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn vinh lên bậc hiển thánh vào ngày 19/06/1988. Bao gồm: 8 vị GM, 50 LM, 1 Chủng sinh, 15 thầy giảng và 44 giáo dân.

* Với bao nhiêu cực hình đau đớn không thể tưởng ấy dành cho các vị tử đạo Việt Nam. Lắm lúc ta ngồi tự hỏi: nhờ đâu mà các ngài lại đủ sức mạnh dũng khí để vượt thắng được những nỗi sợ hãi kinh hoàng như vậy?

- Khi suy nghĩ về điều đó, chúng ta mới thừa nhận rằng: chỉ có sức mạnh của đức tin và tình yêu mới làm nên điều kỳ diệu nơi các ngài như vậy.

1.  Sức mạnh đức tin đã tạo nên chỗ dựa thiêng liêng vững mạnh cho các ngài. Tin Chúa là đấng quyền năng và giàu lòng thương xót. Tin vào Chúa đã sáng tạo vũ trụ và tác tạo nên con người. Nên sự sống, sự chết thuộc trọn quyền Thiên Chúa. Chính niềm tin kiên vững vào Thiên Chúa quyền năng nên bà mẹ và 7 người con của bà được ghi lại trong sách Macabê II đã can đảm vượt qua nỗi sợ hãi của cái chết mà trung thành với niềm tin của mình.

2. Sức mạnh tình yêu đã làm nên năng lực vô biên giúp các thánh tử đạo vượt qua những cực hình đau đớn thể xác mà an vui đón nhận cái chết đau thương. Hơn ai hết, các ngài hiểu rằng: chỉ  vì yêu nhân loại lỗi lầm mà Chúa Giêsu đã tự nguyện hiến dâng mạng sống mình chịu chết trên thập giá, đền tội thay cho con người để cho con người “được sống và sống dồi dào”. Nên tình yêu đó đã thúc bách các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết chỉ vì tình yêu mới đền đáp tình yêu. 

Nhìn vào các chiến sĩ tự nguyện xông pha vào chiến trường chiến đấu với ngoại bang để gìn giữ và bảo vệ tổ quốc. Trong đó có bao chiến sĩ đã hy sinh mạng sống mình, ta hiểu được sức mạnh của tình yêu. Cũng thế, khi nhìn vào biết bao gương hy sinh của những người cha, người mẹ đã không ngại hy sinh, gian khổ, ngay cả tính mạng để cho con mình được lớn lên trong an vui và hạnh phúc. Ta hiểu thế nào là sức mạnh của tình yêu. Đúng là “tình yêu mạnh hơn sự chết”.

Là con cháu của các thánh tử đạo, chúng ta phải nguyện sống sao cho xứng đáng với những hy sinh lớn lao mà các bậc cha ông cúng ta để lại. Các ngài không đòi buộc chúng ta phải tử vì đạo như xưa. Nhưng có lẽ điều các ngài mong muốn nơi chúng ta là sống đạo theo gương của các ngài. Đó là sống đức tin kiên trung và tình yêu nồng nàn với Chúa và với nhau.

- Noi gương các ngài, chúng ta phải ra sức gìn giữ và bảo vệ đức tin tinh tuyền mà các ngài đã đổ máu trao lại cho chúng ta. Can đảm sống và  làm chứng niềm tin của mình cho mọi người và mọi nơi theo gương các ngài cho dẫu phải đối mặt với muôn vàn thách đố trong cuộc sống hôm nay.  

- Luôn hằng yêu mến Chúa bằng đời sống cầu nguyện, siêng năng tham dự thánh lễ, lắng nghe và tích cực thi hành giáo huấn của Chúa chỉ dạy. Nỗ lực làm việc bác ái giúp đỡ mọi người nhất là những người nghèo khổ chung quanh chúng ta.

Xin các thánh tử đạo Việt Nam chúc lành và cầu bàu cùng Chúa cho chúng ta để ta luôn sống xứng danh là con cháu của các ngài. Amen.

 

Suy niệm 2: TỬ ĐẠO LÀ CAN ĐẢM SỐNG ĐẠO

Các thánh tử đạo tại Việt Nam là những bậc cha ông của chúng ta. Khi xưa, cho dẫu các ngài đã phải bị các vua quan triều đình bắt bớ, xiềng xích, tra tấn và tống ngục… buộc phải chối Chúa, bỏ đạo, nhưng các ngài đã can đảm tuyên xưng đức tin mà không hề sợ hãi, đó là nhờ các ngài đã đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa quyền năng và tình yêu.

Hãy nhớ rằng, Thiên Chúa mà chúng ta tin thờ là Thiên Chúa Tình Yêu và đạo của chúng ta cốt lõi là Đạo của Yêu Thương. Vì thế mà thánh Gioan đã nhắc nhở chúng ta rằng: Các con thân mến, chúng ta phải thương yêu nhau, vì tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra. Vì hễ ai thương yêu, thì đã sinh ra bởi Thiên Chúa, và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không thương yêu, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.(1Ga 4,7-8) Đúng vậy, Đạo Chúa là Đạo Yêu Thương. Cho nên điều luật quan trọng nhất trong Đạo Công Giáo chúng ta được tóm gọn trong một chữ duy nhất là “YÊU”. Mến Chúa và yêu người. Thánh Phao-lô cũng đã dạy rằng: “Ai yêu thương là chu toàn mọi điều luật dạy.” (Rm 13, 8). Yêu thương chính là dấu chỉ để mọi người nhận biết chúng ta là môn đệ của Chúa, ai không yêu thương thì tự loại trừ mình ra khỏi hàng ngũ những người môn đệ Chúa, theo như lời Chúa Giê-su phán dạy: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, đó là anh em yêu thương nhau.” (Ga 13, 35).

Ông bà anh chị em thân mến, ngày nay có rất nhiều thế lực mạnh mẽ lôi kéo, xô đẩy chúng ta từ bỏ Đạo yêu thương. Vậy đó là những thế lực nào?

1. Đó là thế lực vô cảm: Người vô cảm là người sống theo chủ nghĩa mặc kê nô: thờ ơ, dửng dưng, không quan tâm đến những người chung quanh, không cảm thông với những nỗi đau thương, bất hạnh của người khác...Khi ta vô cảm, không thương xót người hoạn nạn, đau khổ… là ta đã từ bỏ điều cốt lõi của Đạo yêu thương.

2. Đó là thế lực ghen ghét, hận thù: Lòng ghen ghét và hận thù sôi sục trong lòng con người, nó làm chủ suy nghĩ, hành vi lời nói của ta, xui khiến ta chửi mắng, đánh đập, nói hành nói xấu, gây thiệt hại cho người khác. Nếu để lòng giận hờn ghen ghét làm chủ tâm hồn là ta, là ta đang tự loại trừ mình ra khỏi hàng ngũ những người môn đệ Chúa.

3. Đó là thế lực của tham lam ích kỉ: Lòng tham lam thái quá đã thúc đẩy rất nhiều người gây ra tội ác, như: tham ô, trộm cướp, giết người… gây ra vô vàn thiệt hại cho đất nước, cho đồng bào, cho cả những người ruột thịt thân yêu trong gia đình dòng họ của mình.

Ngoài ra, còn rất nhiều thế lực khác, tuy vô hình, nhưng có sức mạnh lớn lao, đã hoặc đang xâm chiếm tâm hồn ta, làm chủ cuộc sống ta, luôn tìm cách lôi kéo, xô đẩy ta ra khỏi Đạo yêu thương của Chúa. Đây là những cơn bách hại lâu dài, mạnh mẽ… còn tiếp tục kéo dài suốt cuộc đời ta và suốt dòng lịch sử nhân loại. Nếu không quyết tâm chiến đấu chống lại, chúng ta phải thua trận và trở thành người chối bỏ Đạo yêu thương lúc nào không hay biết.

Hậu quả khủng khiếp của người bỏ Đạo yêu thương phải gánh lấy, đó là đến ngày phán xét, họ sẽ bị Chúa Giêsu lên án: “Hỡi quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó"… vì ngươi không có lòng yêu thương, cứu giúp những người chung quanh (x. Mt 25, 34.41).

Xin Chúa cho chúng ta biết noi gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam luôn trung thành sống đạo yêu thương Chúa dạy cho dẫu phải đối mặt với muôn vàn gian lao thử thách; bằng cách can đảm khướt từ mọi cám dỗ đi ngược lại với luật tình yêu Chúa dạy, đừng bao giờ chà đạp lên tình người, lên danh dự và tính mạng của người khác. Bởi vì làm như thế là ta đang loại trừ Thiên Chúa Tình Yêu và chối bỏ Đạo Yêu Thương ra khỏi đời mình. Hậu quả mà ta phải gánh chịu là đánh mất đi hạnh phúc thiên đàng. Amen. (St)

 

Suy niệm 3:

Câu Chuyện : Thánh Nữ I-Nê Đê.

Trong số 117 vị thánh Tử đạo tại Việt nam, chỉ có một phụ nữ là thánh nữ I-NÊ LÊ THỊ THÀNH (hay cũng gọi là bà thánh I-NÊ ĐÊ). Bà là mẹ của 8 người con

Trước khi trở thành thánh tử đạo, bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu. Cô con gái út của bà đã khai về mẹ mình trước tòa phong thánh rằng : “Thân mẫu chúng tôi rất quan tâm giáo dục con cái. Người dạy chúng tôi học chữ và học giáo lý. Về sau còn dạy chúng tôi cách thức dự lễ và xưng tội rước lễ”.

Bà Đê đã dùng căn nhà của mình làm nơi trú ẩn cho các linh mục thừa sai, để tránh sự ruồng bắt của vua quan. Vào buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861, tổng đốc Nam Định đã sai quân đến nhà bắt giữ bà. Bấy giờ bà đang trong tuổi lục tuần. Bà đã bị tra khảo tàn nhẫn để buộc phải khai báo nơi trú ẩn của các linh mục thừa sai. Nhưng bà tỏ ra kiên cường, không hề hé môi nói nửa lời. Sau đó bà lại bị bắt ép khiêng qua cây Thánh giá, bị bỏ rắn độc vào người. Khi con gái bà đến thăm và tỏ vẻ đau lòng thấy quần áo của mẹ mặc bị loang lổ những vết máu đỏ tươi, thì bà đã an ủi con rằng : “Con ơi, đừng khóc nữa. Mẹ mặc áo hoa hồng đấy. Mẹ chịu khổ vì Danh Chúa Giêsu thì sao con lại phải khóc?”

Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình, người đàn bà kiên cường ấy đã từ giã cuộc đời, để lại cho hậu thế một tấm gương anh dũng trung thành với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng.

1. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là ai?

+ Các ngài là những giáo dân Việt Nam không rõ hết được danh tánh, các ngài đã sẵn lòng chịu chết để làm chứng cho Chúa. Các Ngài đã bị bách hại và bị giết chết dưới thời phong kiến, vào khoảng năm 1580-1888 (khoảng 300 năm), trong các thời kỳ của Chúa Trịnh: Trịnh Doanh, Trịnh Sâm, Cảnh Thịnh; và các vua thời nhà Nguyễn: Thiệu Trị, Minh Mạng, Tự Đức. Ước tính có khoảng 130.000 tín hữu đã phải chịu chết vì đạo, dưới nhiều hình thức khác nhau như: Gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói, cho voi giầy, trói ném xuống sông, đổ dầu vào rốn rồi đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, chặt đầu, thắt cổ, thiêu sống, tùng xẻo và bá đao.

2. Các thánh tử đạo Việt Nam bao gồm thành phần nào?

Trong 130.000 tín hữu ấy gồm các thành phần khác nhau với đủ mọi lứa tuổi: Có người làm linh mục như cha Philíp-phê Minh, làm thầy giảng như thày Anrê Phú Yên, là nữ tu như 270 dì phước dòng Mến Thánh Giá, là chủng sinh như chú Tôma Thiện 18 tuổi, là quan chức triều đình như Hồ Đình Hy, là quân lính như Trần Văn Trông, là trùm họ như Nguyễn Đích, là công chức như Nguyễn Huy Mỹ, là lái buôn như Lê Văn Gẫm, là nông dân như Đaminh Ninh... Hầu như mọi thành phần, lứa tuổi hay nghề nghiệp đều có đại diện.

GH VN đã thống kê có 58 các vị giám mục và linh mục thừa sai, 25 linh mục Việt Nam, 340 thầy giảng, 270 nữ tu và khỏang trên 100 ngàn giáo dân đã chết vì đạo. Trong số đó, vào ngày 19 tháng 06 năm 1988, Đức Thánh Cha Gioan Phao-lô II đã tôn phong lên bậc hiển thánh 117 vị và sau đó tới lượt thày giảng Anrê Phú Yên được phong lên bậc Chân Phước hay Á thánh ngày 05.3.2000.

Đây chỉ là những vị có đầy đủ hồ sơ chứng minh đã anh dũng chịu chết vì đức tin. Còn hằng hà sa số các tín hữu đã bị giết chết với nhiều cách khác nhau, nhưng do thiếu hồ sơ cụ thể để xin phong thánh, nên vẫn còn chờ sẽ được tôn phong sau này.

+ Tử đạo chính là làm chứng cho Chúa : Đức Giê-su đã sai các Tông đồ đi rao giảng Tin mừng và tiên báo các khó khăn sẽ gặp phải như sau : “Anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” (Mt 10,18). Người cũng truyền cho các Tông đồ phải làm chứng nhân cho Người : “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Các thánh Tử đạo Việt Nam đã chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa bằng việc chấp nhận chịu chết vì đức Tin. Còn chúng ta hôm nay tuy không có cơ hội chịu chết vì Danh Chúa như xưa, nhưng chúng ta vẫn có thể làm chứng cho Chúa bằng một lối sống hy sinh quên mình, khiêm nhường vị tha và luôn yêu thương phục vụ tha nhân vô vụ lợi. Ngày nay ma quỷ không dùng cực hình đau khổ thể xác để bắt buộc người tín hữu bỏ đạo như vua chúa xưa, nhưng chúng dùng tiền bạc và đầu độc người tín hữu nhất là giới trẻ bằng những băng đĩa phim ảnh đồi trụy, các video games bạo lực dâm đãng, hút chích ma túy, rượu chè bài bạc… khiến các thanh thiếu niên chán ngại đọc kinh lần hạt, bỏ dự lễ Chúa Nhật... Rồi do không được nghe giảng Lời Chúa và thiếu ơn Chúa nên họ chỉ còn biết tìm kiếm tiền bạc và lao đầu vào việc hưởng thụ mà không nghĩ đến đời sau… và cuối cùng sẽ mất đức tin lúc nào không hay.

+ Ý nghĩa của tử đạo trong cuộc sống hôm nay :

Tử đạo ngày hôm nay trước hết là sống Đức Tin bằng sự hy sinh quên mình phục vụ, sẵn sàng chấp nhận thua thiệt, kể cả hy sinh mạng sống của mình noi gương các thánh Tử Đạo. Sứ mệnh của người tín hữu là phải trở thành muối mặn ướp đời khỏi hư hỏng, thành nắm men tin yêu làm cho thúng bột xã hội dậy lên men tình yêu của Chúa (x. Mt 5,13), nên đuốc sáng chiếu soi cho u tối trần gian như lời Chúa dạy : “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

+ Phải làm chứng cho Chúa như thế nào? Hôm nay nếu ta chọn làm theo ý riêng ích kỷ là chúng ta đã gián tiếp chối bỏ đức tin; Khi ta chọn làm những việc xấu xa, lỗi phép công bằng và đức bác ái, là ta đang chối Chúa cách gián tiếp và bước qua Thánh giá Chúa bằng chính cuộc sống không tốt của mình. Trái lai, nếu ta năng cầu nguyện dự lễ, kèm theo lối sống công minh chính trực, sẵn sàng dấn thân quên mình và khiêm tốn phục vụ tha nhân vô vụ lợi là ta đang làm chứng cho Chúa noi gương các thánh Tử Đạo Việt Nam. (St)

 

Suy niệm 4: ĐỪNG SỢ!

“Anh em đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn.” (Mt 28, 33).

Nếu có ai giết được linh hồn thì Đấng đó phải là Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ làm như vậy. Người chỉ cứu rỗi chứ không bao giờ hành hạ con người. Chỉ có con người mới tàn sát nhau thôi. Mà con người dẫu có hành hạ nhau dã man cách mấy, vẫn chỉ là hành hạ nhau trên thân xác.

Lời Chúa dạy “Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn”, trở thành lời an ủi, động viên niềm tin, niềm hy vọng của ta vào Chúa Giêsu: Người là Thiên Chúa, đến trần gian cứu chuộc và loan báo tin mừng cho mọi người biết chính Người là Đấng Cứu Thế, vậy mà loài người còn không tha, thì huống hồ là loài người với nhau.

Người Do thái nghĩ rằng, khi giết Chúa Giêsu, họ đã khử trừ được một thứ tôn giáo mới. Và do cái chết thê thảm đó, sẽ làm cho các môn đệ thoái chí, buộc lòng phải giải tán. Nhưng họ lầm. Họ lầm vì họ không biết rằng, họ chỉ có thể giết được thân xác của Giêsu, chứ không giết được linh hồn Người. Họ lầm vì họ chỉ có thể giết được thân xác Giêsu, nhưng chính Thiên Chúa nơi con người Giêsu ấy, làm sao giết được! Họ lầm vì họ không ngờ rằng, cái thân xác mà họ treo trên cây thập giá đó đã sống lại chỉ trong một thời gian ngắn, trên dưới 40 tiếng đồng hồ.

Bởi loài người không thể giết Thiên Chúa, nên Kitô giáo vẫn tồn tại, đạo Chúa Kitô vẫn không ngừng phát triển.

Các thánh Tử Đạo Việt Nam cũng vậy. Một lòng trung kiên kính thờ Thiên Chúa. Sợ Thiên Chúa chứ không sợ “những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn”. Trước mặt vua quan, các ngài đã khẳng khái tuyên xưng đức tin của mình, sẵn sàng chấp nhận mọi thiệt thòi, quyết không để đức tin bị khinh miệt, bị xúc phạm.

Các thánh Tử Đạo biết rõ mất mạng sống là không còn có mặt trong cuộc đời nữa, nhưng vì đức tin: tin vào Chúa Giêsu, Đấng đã chết và sống lại, các thánh không sợ chết, quyết tâm dâng hiến mạng sống để tôn thờ Chúa đến cùng.

Còn vua quan, cũng giống những người Do thái trước kia: tưởng giết Chúa Giêsu là xong chuyện. Vua quan tưởng rằng bách hại và giết chết người có đạo là xóa được một tôn giáo mới, nhưng họ cũng lầm y như những người Do thái xưa kia vậy: Vì họ chỉ có thể giết được thân xác chứ không giết được linh hồn người có đạo. Họ chỉ có thể giết được người có đạo chứ không thể giết chính Thiên Chúa của người có đạo. Các vua, các quan càng ra sức bách hại và cấm đạo triệt để bao nhiêu, thì trong hoàn cảnh trốn tránh hết sức khó khăn, đức tin của người tín hữu lại càng lớn mạnh, kiên vững và lan tỏa.

Gần 3 thế kỷ bắt đạo, có lúc gay gắt, có lúc nới lỏng, trong vòng 3 thế kỷ hãi hùng ấy, các triều đại phong kiến đã giết chết khoảng 130 ngàn đến trên 250 ngàn người Việt Nam Công Giáo. Điều đó chứng tỏ trong khó khăn, đức tin không lùi bước mà sẵn sàng đương đầu với khó khăn đó.

Con số 118 vị tử đạo được tuyên phong trên bàn thờ chỉ là một phần nhỏ, chỉ là con số tượng trưng. Ba thế kỷ bách hại, đạo Công Giáo không mất mà vẫn tồn tại, và đang phát triển. Cho nên Lời Chúa nói: “Anh em đừng sợ” đúng vô cùng, bởi lời ấy trở nên lời hy vọng, niềm tin tưởng, sức mạnh và tình yêu để mỗi người Việt Nam nói chung và người Công Giáo Việt Nam trong hiện tại nói riêng hãnh diện bước tới và trung kiên gìn giữ đức tin, cũng như sống đức tin của mình.

Mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam hôm nay, bạn và tôi tự hào vì mình là con cháu các thánh. Tự hào là con cháu các thánh, nên bạn và tôi càng phải sống đức tin trung kiên như lời Chúa dạy: “Anh em đừng sợ”. Cái “đừng sợ” của chúng ta hôm nay là thực hiện đức tin của mình bằng những việc làm hết sức nhỏ bé hằng ngày như “làm dấu thánh giá trang nghiêm trước khi ăn, cho dù nơi đó là nơi công cộng, trung thành kinh hôm kinh mai, siêng năng cầu nguyện và tham dự thánh lễ, dám hy sinh phục vụ và chia sẻ tình thương...

Tại sao có những việc lớn lao ta lại làm được, còn những việc rất nhỏ bé như thế lại không thể được? Bao hàm trong cái không thể đó, là sự sợ hãi: sợ người khác thấy, sợ người khác biết mình có đạo, sợ bị chê cười… Những cái sợ không đáng sợ lại là thực tế của người Công Giáo hôm nay.

Ngày xưa tuyên xưng đức tin như thế, các thánh Tử Đạo đã trả bằng giá máu, nhưng các ngài vẫn kiên tâm, không sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Ngày nay có ai giết ta đâu tại sao ta lại không giữ nổi những điều căn bản nhất mà cha ông đã làm?

Qua tất cả những gì ta có thể thực hiện đức tin từ việc nhỏ nhất như hành vi tuyên xưng đức tin bằng dấu Thánh giá, đến việc sống đức tin trong suốt cuộc đời của mình, bạn và tôi đã làm được điều mà các thánh Tử Đạo đã từng làm: chọn đức tin làm lẽ sống và chọn Chúa Kitô làm gia nghiệp đời mình. Giữa bao nhiêu cạm bẫy và cám dỗ trong cuộc đời, sẽ dễ làm đời ta mất phương hướng, nghi nan, chao đảo, có khi còn mất cả đức tin, nếu ta không có một chọn lựa dứt khoát đứng về phía đức tin.

Đặc biệt sống đức tin hôm nay ta còn nhiệm vụ chuyển tải những giá trị tin mừng của Chúa như: công bằng, tình thương, bao dung, tha thứ, hy sinh phục vụ tha nhân bằng tình yêu mến chân thành và quảng đại. Sống như thế ta mới xứng danh là con cháu của các thánh tử đạo Việt Nam, bậc cha ông chúng ta.

(Viết theo tư tưởng của Lm. Vũ Xuân Hạnh)

 

Suy niệm 5: SỐNG CHỨNG NHÂN TIN MỪNG

Hôm nay Giáo Hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam vì 3 lý do:

- Hân hoan và hãnh diện vì các thánh là người Việt Nam, không gì vui mừng và hãnh diện, tự hào hơn, khi đất nước ta có những vị thánh góp mặt với Giáo Hội toàn cầu.

- Hân hoan và hãnh diện vì số lượng đông đảo các Thánh Việt Nam. Với 117 vị Thánh. Giáo Hội Việt Nam được xếp nhất nhì trong Giáo Hội hoàn vũ về số lượng các Thánh.

- Hân hoan và hãnh diện vì các Ngài là những chứng nhân anh hùng quả cảm.

Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các Ngài. Vì trung thành với Chúa, các Ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng và nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì đức tin.

Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan Án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất đức tin. Vì Chúa, các Ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.

Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.

Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các Ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho đức tin chân chính.

Là người Công Giáo Việt Nam. Chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các Ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các Ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các Ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.

Làm sao ta có thể có được cái chết cao đẹp như các Ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời vua quan ngày xưa. Ngày nay ta không còn hy vọng chết vì đạo. Ta chỉ còn một cách bắt chước, noi gương các vị tiền nhân anh hùng, đó là sống vì đạo.

Ngày nay, ta ít gặp những khốn khó như bị bắt bớ giam cầm, giết chết vì đạo. Nhưng để sống đạo trong xã hội hôm nay, ta gặp không ít khó khăn. Xin kể ra 2 khó khăn tiêu biểu.

1. Khó khăn thứ nhất đó là chủ nghĩa cá nhân ngày càng phát triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đình của mình. Ai cũng lo làm ăn. Học hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Những nhu cầu của bản thân ngày càng nhiều. Rõ ràng là ngày nay người ta kiếm được nhiều tiền hơn trước, có nhiều tiện nghi hơn trước, xe cộ tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn. Nhưng chưa bao giờ người ta thấy thỏa mãn, đầy đủ. Vì thế càng ngày người ta càng đóng kín vào bản thân, không có thời giờ nghĩ đến người khác. Trong khi đó những người nghèo thì càng nghèo hơn, những người yếu càng mệt hơn, những người bệnh càng khổ hơn. Họ không đủ sức chạy theo cuộc tranh đua quyết liệt của chủ nghĩa cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra phía sau. Họ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Để lựa chọn sống theo Phúc Âm, để trung thành với Lời Chúa dạy, ta phải bỏ quên một phần thân mình, gia đình mình để nghĩ đến, giúp đỡ, vực dậy những anh em kém may mắn. Đó là điều không dễ.

2. Khó khăn thứ hai là kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Đồng tiền đang trở thành một thước đo gía trị con người. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền, và để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một phương cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn thuốc phiện, tham nhũng, hối lộ. Tiền bạc quả là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn phá những giá trị, biến chất con người.

Đứng trước nhu cầu và ham mê tiền bạc, người Công Giáo muốn trung thành với Phúc Âm, muốn sống trọn vẹn đức tin, bắt buộc phải có sự lựa chọn. Thà cam chịu nghèo khổ còn hơn nhận những đồng tiền phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu thiếu thốn còn hơn đánh mất đức tin. Thà lao động cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy theo những đồng tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm và Luật Chúa.

Quả thực xã hội mới, đang tạo ra những cơn bắt bớ mới. Để trung thành với Chúa, với Phúc Âm ta cũng phải lựa chọn quyết liệt. Những chọn lựa đó làm cho chúng ta đau đớn không kém gì những khổ hình. Những hy sinh vì Phúc Âm đó cũng khiến lòng ta rỉ máu không kém gì chịu tử hình.

Các Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn chúng ta chết mòn mỏi mỗi ngày trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúc Âm trong thời đại mới đúng là một cuộc tử đạo liên tục.

Sống vì đạo như thế cũng cao đẹp và anh hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế, ta cũng góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì đạo.

Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.

 

Suy niệm 6: Ga 15,18-21

Bài đọc I, trích sách Macabê quyển thứ hai, trình thuật cho chúng ta thấy đức tin vững mạnh của bà mẹ và bảy người con thật đáng khâm phục. Họ can đảm chịu khổ và chết để làm chứng cho Chúa, vì tin rằng họ sẽ được sống lại vinh hiển. Cũng vậy, các Thánh tử đạo Việt-Nam đã chấp nhận cực hình phần xác và hy sinh cả mạng sống vì đức tin vào Thiên Chúa.

Bài đọc II, trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma, nói lên điều mà  thánh nhân xác tín, đó là: Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu. Bằng cớ là Ngài đã ban chính Con Một Ngài cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa?

Tin Mừng hôm nay cho biết: Chúa Giêsu báo trước cho chúng ta là môn đệ Người về những thử thách và bách hại trong tương lai khi làm chứng nhân cho Chúa. Vì thế gian đã bắt bớ Thầy thì họ cũng sẽ bắt bớ anh em, bởi lẽ họ không tin Người và tin vào Chúa Cha là Ðấng đã sai Người đến trần gian để cứu chuộc nhân loại.

Hôm nay Giáo Hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam vì 3 lý do:

- Trước hết vì các thánh là người đã chết trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta. Tertulianô sử gia của La Mã thuở xưa đã nói: “Hạt máu của những vị tử đạo là hạt giống nảy sinh ra những người Kitô hữu khác" 

- Thứ đến là vì con số lượng lớn lao đông đảo các Thánh tại VN của chúng ta đã có mặt trong Lịch sử của Giáo Hội. Với 118 vị đã được Giáo Hội phong lên hàng hiển thánh, Giáo Hội VN được xếp nhất nhì trong sổ bộ các thánh đã được Giáo Hội tuyên phong. 

- Và cuối cùng tự hào vì các Ngài là những chứng nhân anh hùng quả cảm cho lòng tin vào Thiên Chúa. 

Đọc lại tiểu sử GHVN, chúng ta không khỏi không cảm phục về đức tin kiên cường của các Thánh tử đạo VN. Lịch sử ghi lại những hình phạt kinh khủng mà con người đã nghĩ ra để trừng phạt những người theo đạo như sau:

  - Nhẹ nhất là bị gông cùm, b xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói cho tới chết.

  - Nặng hơn một chút thì bị voi dày, bị trói rồi bị ném xuống sông, bị chôn sống, bị đổ dầu vào rốn rồi đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng cho đến chết.

  - Quyết liệt hơn một chút thì bị xử trảm, xử giảo (= bị thắt cổ) và thiêu sống.

  - Ác liệt nhất là bị xử lăng trì (phân thây ra từng mảnh) hay bá đao (bị tùng xẻo đi từng mảnh thịt cho tới chết)

Nhìn lại cái chết của các thánh Tử Đạo VN, chúng ta thấy gian khổ có cao, hình phạt có nặng nhưng lòng trung thành của các Ngài còn còn cao hơn. Cái chết của các Ngài thật đáng làm cho chúng ta phải tự hào.

Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ II trong bài giảng ngày lễ tôn phong 117 vị anh hùng tử đạo Việt Nam lên hàng hiển thánh đã nói: "Từ năm 1533 tức là từ khi cuộc rao giảng Tin Mừng Kitô bắt đầu tại vùng Đông Nam Á, Giáo Hội Việt Nam trong suốt 3 thế kỷ đã phải chịu những cuộc bách hại liên tiếp nhau với một vài giai đoạn lắng dịu giống như các cuộc bách hại mà Giáo Hội tại Tây Phương đã chịu trong 3 thế kỷ đầu tiên. Đã có hàng ngàn (130.000) tín hữu Kitô chịu tử đạo và rất nhiều người khác đã chết trong rừng núi, những vùng ma thiêng nước độc, nơi mà họ bị lưu đày tới". Tổng số có khoảng 400.000 người. Trong những số đó Đức Thánh Giáo Hoàng đã tuyên phong 117 vị lên hiển Thánh vào ngày 19/06/1988.

Việc mừng lễ hôm nay làm chúng ta tạ ơn Chúa vì khi nhìn lại những năm tháng Giáo hội bị bách hại khốc liệt và thì sau đó lại có những cuộc trở lại đạo hàng loạt. Đúng như những điều mà sử gia Tertulianô đã nhận định: "Những hạt máu của những vị tử đạo là những hạt giống làm nảy sinh ra những người Kitô hữu khác".

Chúng ta phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng ta có được những con người anh hùng như thế. Đồng thời chúng ta cũng phải biết ơn các Ngài vì chính nhớ các Ngài mà hạt giống Đức tin đã làm nảy mầm và lớn lên trong chúng ta và lan toả trên quê hương đất nước thân yêu của chúng ta.

Vui mừng hãnh diện là điều cần nhưng chưa đủ, điều quan trọng là chúng ta phải sống thế nào cho xứng danh là con cháu của các ngài.

Châm ngôn VN có câu rất hay: "Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh". Phải sống xứng đáng để những thế hệ mai sau khi nhìn vào chúng ta, họ cũng cảm thấy tự hào. Chúng ta được thừa hưởng một di sản vô cùng quý giá do Cha Ông chúng ta để lại. Cách trả ơn tốt nhất đối với các Ngài là tiếp nhận và trung thành truyền lại cho các thế hệ mai sau bằng chính cuộc sống mà tổ tiên của chúng ta đã sống:

1. Noi gương các ngài sống trung thành với niềm tin. 

Đức tin là ơn ban nhưng không  củaThiên Chúa cho chúng ta. Hãy bảo vệ lấy, đừng để cho nó bị hao mòn đi. Phao-lô Mợi bị bắt, bị giải đến quan.

- Quan đã dụ dỗ: Anh đạp ảnh đi, tôi sẽ cho anh một nén bạc.

+ Phaolô Mợi im lặng không trả lời.

- Vậy một nén vàng!

+ Bẩm quan chưa đủ.

- Vậy anh muốn bao nhiêu?

+ Bẩm quan lớn, quan phải cho tôi đủ vàng để mua được một linh hồn khác.

* Thánh Nguyễn Văn Lựu khi bị thuyết phục bỏ đạo, chối Chúa cũng đã nói: "Đạo đã nhập vào xương tủy tôi, làm sao tôi có thể bỏ được".

2. Noi gương các ngài can đảm sống niềm tin.

Chúa Giêsu đã nói : “Nước Trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy". Đúng vậy, không có chiến thắng cho những kẻ chưa lâm trận đã đầu hàng. Không có vinh quang cho những kẻ hèn nhát. Phần thưởng càng lớn, vinh quang càng cao thì cái giá phải trả cho nó càng đắt. Phải sử dụng sức mạnh mới chiếm hữu được Nước Trời.

Trong thư Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Rô-ma trong thời gian bắt bớ đạo khốc liệt. Ngài muốn dùng những lời này để khích lệ các tín hữu, để họ can đảm, để họ tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng: "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian  gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bỏ, gươm giáo? Ngài nói tiếp như một xác tín: Trong mọi thử thách, chúng ta sẽ toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta".  

Và Ngài kết luận: "Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều dài hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô Chúa chúng ta" (Rm 8,35-39).

Chúng ta chung lời tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội Việt Nam có những chứng nhân anh hùng Tử đạo là mẫu gương sống đức tin sáng ngời. Xin Chúa qua lời chuyển cầu của các Ngài mà ban cho chúng ta là con cháu biết noi gương các Ngài  trung thành sống đức tin, can đảm làm chứng cho Chúa trong thời đại hôm nay. Amen. (St)


Thứ hai: Lc 18, 35-43

Tin mừng hôm nay thuật lại phép lạ Chúa Giêsu chữa cho đôi mắt mù loà của anh chàng ăn xin bên vệ đường, gần thành Giêricô được sáng, nhờ vào đức tin kiên vững và lời kêu xin tha thiết của anh ta: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít. Xin dủ lòng thương tôi” và “xin cho tôi được xem thấy”.

Chúng ta cũng bắt chước anh mù này, tha thiết  xin Chúa chữa lành đôi mắt tâm hồn chúng ta, để chúng ta nhận ra Chúa chính là cứu Chúa, nhận ra mọi người là anh em, nhất là nhận ra hình ảnh của Chúa nơi những người nghèo khổ bất hạnh.

Anh mù được Tin mừng hôm nay nhắc đến rất đổi quen thuộc. Địa chỉ thường trú của anh là ở gần thành Giêricô. (Thánh Maccô còn cho biết tên đích danh của anh ta là Báctimê. Anh là con của ông Timê, chẳng xa lạ gì. Bởi lẽ hằng ngày anh thường quanh quẩn nơi đó để xin ăn).

Mà đã mang kiếp "cầm ca”, thì không ai muốn đến gần, cũng chẳng ai muốn nhìn đến làm gì cho vướng bận, tốn hao. Cung giọng bi ai của anh ngày nào cũng trỗi vang bên đường nên trở thành âm thanh khó nghe đối với những ai đi qua con đường đó.

Người đời thường nói “có tật, có tài”. Cho dù mọi nguời xa tránh làm ngơ, nhưng anh mù biết Đức Giêsu sẽ không ngoảnh mặt làm ngơ trước số phận bi đát của anh. Hơn nữa, cho dẫu mọi người hôm đó không nhận ra sứ mạng Thiên Sai của Đức Giêsu, nhưng anh mù lại nhận ra sứ mạng bí mật Thiên Sai nơi Đức Giêsu. Do đó, anh đã không ngần ngại tha thiết kêu xin Người. “Lạy ông Giêsu, con vua Đavit. Xin dủ lòng thương tôi”.

Với con mắt tâm hồn nhạy bén, anh mù đã nhận ra quyền năng chữa lành nơi Đức Giêsu. Nên cho dù bị mọi người cản ngăn, cấm đoán anh vẫn không ngừng kêu xin…

 Bằng còn mắt đức tin trong sáng, anh mù còn thấy được nơi Đức Giêsu có một kho báu rất quý giá mà trần gian không ai có được, đó là quyền năng cứu chữa. Vì thế, anh ta đã không ngần ngại xin Chúa Giêsu cứu chữa đôi mắt của anh được sáng:“xin cho tôi được sáng”. Chứ không hề xin Người tiền bạc, cơm gạo, bánh trái… như mọi ngày.

Nhờ nổ lực cảm nhận thế giới và con người bằng đôi mắt tâm hồn nhạy bén và đức tin trong sáng và rồi cố gắng hết sức mình thực hiện điều cảm nhận đó, nên anh mù đã được Chúa đoái thương chữa lành.

 Hằng ngày các môn đệ vẫn thấy, vẫn nghe Chúa Giêsu nói và chứng kiến những việc Người làm, nhưng vì mơ tưởng địa vị cao sang, chức cao quyền trọng nên đôi mắt họ đã bị che mờ, không còn nhận ra sứ mạng Messia nơi Chúa Giêsu.

Cũng như các môn đệ và đám đông hôm ấy, chúng ta đã được Chúa ban cho đôi mắt thể lý sáng ngời, nhưng vì quá bận tâm đến quyền lợi bản thân đã làm cho đôi mắt tâm hồn chúng ta trở nên mù lòa không có khả năng nhìn thấy những nhu cầu và nỗi đau của tha nhân để đồng cảm, xót thương và trợ giúp họ.

Xin Chúa ban cho chúng ta có được đôi mắt tâm hồn trong sáng để đừng bao giờ hành xử vô duyên đối tha nhân, nhất là đối với những người thiếu may mắn như đám đông dân chúng khi xưa. Trái lại, xin cho chúng ta biết sẵn sàng hy sinh phục vụ tha nhân quên mình. Nhất là đừng bao giờ có thái độ và hành vi ngăn cản những người yếu đuối, sa ngã đến với Chúa.

 

Thứ ba: Dcr 2,14-17; Mt 12,46-50

Nhớ Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ

Cùng với GH hôm nay chúng ta dâng thánh lễ kính nhớ Đức Maria dâng mình trong đền thánh. Với lòng yêu mến Chúa và trung thành với luật Do Thái nên ngay từ nhỏ, Đức Mẹ đã sẵn sàng dâng mình vào đền thánh để phụng sự Chúa. Chính tình yêu mến và lòng thiết tha gắn kết với Chúa qua việc lắng nghe và thực thi thánh ý của Chúa trong đời sống, mà Mẹ Maria xứng đáng trở nên thành viên thân thiết trong gia đình Thiên Chúa Ba Ngôi.

Xin cho chúng ta biết noi gương Mẹ Maria biết khiêm tốn lắng nghe và thực thi Lời Chúa để xứng danh là Con Mẹ và trở nên thành viên gia đình thiêng liêng của Chúa.

Nhờ tích tích rửa tội chúng ta trở thành con Chúa và là thành viên trong GH. Nên ngoài gia đình tự nhiên liên hệ bằng huyết thống, chúng ta ta còn có một gia đình thiêng liêng nhờ được sinh ra trong đức tin.

Vì thế Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định thành viên trong gia đình của Chúa chính là những người biết“lắng nghe và thực hành Lời Chúa”.

Nếu để trở thành người con ngoan trong gia đình tự nhiên theo huyết thống, ta phải lắng nghe và thi hành điều mà cha mẹ và anh chị hướng dẫn chỉ bảo. Cũng vậy, để trở thành con ngoan của Chúa và anh chị em thật sự với nhau trong gia đình thiêng liêng của đức tin ta phải lắng nghe và thực hành Lời Chúa với sự hướng dẫn của GH.

Hơn ai hết, Đức Maria là người luôn để tâm lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa trong suốt cuộc đời mình. Nên Đức Maria trở nên người Mẹ của Chúa và là kiểu mẫu cho đời sống cho chúng ta.

Khi khám phá những giọt máu trong chiếc khăn liệm thành Turin, các nhà khoa học chứng minh cho biết đó là loại máu B: Bái ái, bao dung và bình an. Dòng máu ấy cũng chính là dòng máu của Đức Maria, mẹ Chúa Giêsu.

Xin cho chúng ta luôn biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa như Mẹ Maria để dòng máu bác ái, bao dung và bình an của Chúa Giêsu cũng lưu truyền trong thân thể chúng ta. Nhờ đó mà ta xứng đáng trở thành người thân của Chúa trong gia đình của Người.

 

* Suy niệm thường niên: Lc 19,1-10

 “Gặp gỡ Đức Ki-tô, biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Ki-tô đón nhận ơn tái sinh…”, đó không chỉ là niềm xác tín của cha Tiến Lộc, tác giả của bài hát này. Nhưng trên hết đó còn là chính sứ điệp của Chúa gửi đến mỗi người chúng ta qua Tin mừng hôm nay.

Tin mừng mà chúng ta vừa nghe trình thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Giakêu, thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có. Chính nhờ cuộc gặp gỡ thân tình này đã làm cho Giakêu biến đổi cách lạ lùng và nhờ đó mà cả nhà ông được ơn cứu độ.

Ta cùng tìm hiểu đôi chút về sự biến đổi lạ lùng của Giakêu trước và sau khi gặp Chúa:

- Trước khi gặp Chúa:

Ông Giakêu là một kẻ nối giáo cho giặc, vì đã cộng tác với đế quốc Rôma thu thuế đồng bào của mình. Đây là cái nghề bị người dân khinh bỉ vì nhẫn tâm bòn rút xương máu dân mình, để làm giàu cho ngoại bang.

Giakêu là thủ lãnh những người thu thuế nên ông rất coi trọng tiền của, và cũng rất là khinh người. Nếu cần ông sẽ sẵn sàng ra tay đàn áp bất cứ ai chống đối không nộp thuế cho ông.

Ông lại là người giàu có. Sự giàu có của ông chắc chắn là do tham lam trong việc gia tăng mức thuế hơn luật định để bỏ túi riêng cho mình.

Chính vì vậy mà ông bị xem là kẻ tội lỗi công khai, được liệt kê chung vào hạng đỉ điếm.

-  Sau khi gặp Chúa:

Sau khi gặp gỡ Chúa Giêsu trong bữa tiệc thân tình tại nhà ông, không biết Chúa Giêsu nói gì. Nhưng ông lại được biến đổi lạ lùng: Ông trở nên một người quảng đại, cởi mở và sẵn sàng chi tiền làm tiệc thết đãi Chúa Giêsu, các tông đồ và những người đồng môn của ông. Ông cũng trở thành người biết tôn trọng lẽ công bằng nên tuyên bố sẽ đền bù cho những ai mà ông đã gây ra thiệt hại “Nếu tôi đã làm thiệt hại ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Đi xa hơn nữa, ông còn biết sống tinh thần bác ái, sẵn sàng hy sinh gia sản của mình, mà chia sẻ cho người nghèo “Tôi xin chia nửa gia tài, để bố thí cho người nghèo”.

Đúng là nhờ cuộc gặp gỡ Đức Kitô mà ông được tái sinh. Giờ đây, ông không còn là kẻ tội lỗi mà là một con người đạo đức, thánh thiện. Nếu trước đây ông bị mọi người khinh bỉ thì giờ đây ông lại là một con người đáng thương. Nếu trước đây ông sống bất công, bất chính thì giờ đây ông biết coi trọng lẽ công bằng và trở thành người công chính.

Nhờ gặp gỡ Đức Kitô Đấng “đến và cứu chữa những gì đã hư mất” mà ông và cả gia đình ông được biến đổi và xứng đáng đón nhận ơn cứu độ như lời Chúa Giêsu xác quyết: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham”.

Ước mong được biến đổi đời mình mỗi ngày nên tốt hơn là khao khát chính đáng của mỗi chúng ta. Nhưng để biến ước mơ đó trở thành hiện thực, chúng ta hãy bắt chước ông Gia-kêu tìm mọi cách để gặp gỡ Đức Giêsu.

Xin cho chúng ta tìm đến gặp gỡ Chúa qua việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa, siêng năng tham dự bàn tiệc Thánh Thể, kiên trì trong cầu nguyện… Đặc biệt là gặp gỡ Đức Kitô nơi những người anh em nghèo khổ. Nhờ đó mà đời ta sẽ được Chúa biến đổi và xứng đáng được Chúa chúc lành. Amen.

 

Thứ tư: Lc 19,11-28

Nhớ Thánh nữ Cécilia, trinh nữ, tử đạo

Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu dùng dụ ngôn những nén bạc để ý thức chúng ta tích cực sử dụng những ơn ban của Chúa.

Xin cho chúng ta đừng phí phạm những nén bạc ân sủng Chúa ban nhưng biết trân quý và cố gắng tận dụng những ân huệ ấy, nhằm phục vụ lợi ích cho mình, tha nhân và cho nước trời.

Dụ ngôn những nén bạc mà Tin mừng thánh Luca trình thuật hôm nay có một vài chi tiết hơi khác với Tin mừng của thánh Matthêu. Chúng ta cùng tìm hiểu về những khác biệt này và xem đâu là điểm nhấn mà Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta:

- Matthêu thì nói là “ông chủ” sắp đi xa. Còn Luca thì nói “người quý tộc” đi phương xa để lãnh nhận vương quyền,

- Trong Matthêu thì ông chủ giao phó cho 3 tên đầy tớ: người 5 yến , người 2 yến và người 1 yến, tùy theo khả năng mỗi người. Còn Luca thì nhà quý tộc phát cho 10 đầy tớ, mười nén bạc (mỗi 1 người 1 nén).

- Matthêu thì cho biết sau khi ông chủ trở về thì ban thưởng cho 2/3 đầy tớ tài giỏi và trung tín là hưởng niềm vui của chủ. Còn trong Luca thì sau khi nhà quy tộc được phong vương trở về trong tư cách là một vị vua thì ban thưởng cho 2/10 người đầy tớ tài giỏi và trung thành phần thưởng là cầm quyền cai trị số thành tương ứng với số nén bạc mà họ đã sinh lợi. 

Riêng về hình phạt cho những đầy tớ lười biếng và bất trung, cả 2 Tin mừng đều nói đến việc lấy lại và trao cho những đầy tớ tài giỏi và trung tín.

Matthêu còn nhấn mạnh đến sự trừng trị tên đầy tớ vô dụng và quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài. Ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng. 

Còn Luca thì lại nhấn mạnh đến hình phạt giết chết cả những bọn thù địch với nhà vua, những người không muốn nhà quý tộc làm vua cai trị chúng. Và với kết luận: “Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi".

So sánh những khác biệt trên cho ta thấy rằng:

- Thiên Chúa có thể được gọi bằng nhiều tên khác nhau có khi là ông chủ, có khi là nhà quý tộc và có khi là vua…điều đó không quan trọng, quan trọng nhất là người yêu thương tin tưởng trao ban cho tất cả chúng ta những hồng ân.

- Những ơn ban của Chúa cho mỗi người có những thứ giống nhau, nhưng cũng có những ân sủng khác nhau theo khả năng. Nhưng điều quan trọng là ta phải trân trọng tình yêu của Chúa và cố gắng tận dụng điều kiện Chúa ban để sinh lợi cách tốt nhất.

- Chúa luôn tin tưởng trao phó cho chúng ta xử dụng theo tự do của mình. Chứ không muốn ép buộc hay làm thay cho ta.

- Bổn phận chúng ta là biết trân quý những ân huệ Chúa ban và trung làm việc nhằm sinh ích cho mình, tha nhân và cho nước trời. Bằng ngược lại xem thường mà lười biếng và bất trung thì sẽ nhận lấy hậu quả tai hại khi Chúa đến.

 Trong những ngày cuối năm phụng vụ này, là dịp để các nhà kinh doanh quyết toán sổ sách chi thu để xem lời-lỗ thế nào. Để rồi rút ra những ưu-khuyết mà đề ra những giải pháp sao cho phù hợp nhằm giúp cho công việc kinh doanh của mình để được đứng vững và phát triển mạnh mẻ trong năm tới. Cũng vậy đây là dịp Chúa nhắc nhở chúng ta hãy dành chút thời giờ nhìn lại bản thân mà kiểm điểm và tính sổ đời mình trước Chúa, anh chị em và lương tâm.

Khi dừng lại kiểm điểm đời mình chân thành, ta mới có cơ hội nhận ra những lầm lỗi, thiếu sót vì đã không xử dụng tốt nhất những nén bạc mà Thiên Chúa trao ban cho đúng mục đích. Tệ hơn nữa, vì lười biếng mà ta đã đem chôn giấu những nén bạc vốn là: thời giờ, sức khỏe, năng lực, hoàn cảnh, công việc và tiền của... mà Chúa ban tặng nhưng không , để rồi làm thất thoát những ân huệ Thiên Chúa thương ban nên đã không sinh lợi gì cho ta, cho tha nhân và cho đời. Vậy cần lắm lòng khiêm nhường sám hối mà tạ lỗi cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em!. 

Xin Chúa tha thứ và giúp ta bắt đầu lại tốt đẹp hơn, theo mẫu gương của những người đầy tớ trung tín.

 

Thứ năm: Lc 19, 41-44

Nhớ Thánh Clémenté I, giáo hoàng, tử đạo

Theo triết lý Á Đông: “Sự vật hễ có hình thì có hoại”, như lời sách Giảng viên đã nói: “Phù hoa nối tiếp phù hoa, chi chi chăng nữa cũng là phù hoa”(Gv 1, 2). Thật vậy, tất cả mọi vật trần gian rồi sẽ qua đi. Chỉ duy Thiên Chúa là tồn tại mãi, bởi chính Người là đá tảng vững bền. Đó là sứ điệp Tin mừng hôm nay muốn nói với chúng ta. Xin cho chúng ta luôn tin tưởng phó thác vào Chúa.

Vật chất, tiện nghi đem lại cho con người cuộc sống thoải mái và sung túc. Tuy nhiên nó cũng dễ đẩy con người vào vòng xóay của hưởng thụ mà quên đi những giá trị cao quý.

Do đó Tin mừng hôm nay cho biết Chúa Giêsu đã rơi lệ khi nhìn thấy thành Giêrusalem. Có lẽ nỗi buồn này một phần vì biết rằng đền thờ Giêrusalem tráng lệ và là biểu tượng tự hào của dân tộc Do Thái sẽ có ngày sụp đổ tan tành. Nhưng trên hết, Chúa Giêsu khóc vì nhận thấy tình trạng suy đồi về luân lý đạo đức của dân tộc, vì họ quá bám víu vào vật chất mà quên đi xây dựng đền thánh tâm hồn.

Lời tiên báo của Chúa Giêsu đã được ứng nghiệm vào năm 72, khi đó tướng Titô của đế quốc Rôma đã đem quân sang xâm chiếm và phá hủy hoàn toàn thành thánh Giêrusalem, khiến không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào. Họ đã nhẫn tâm bán bổ tôn giáo bằng cách giẫm đạp lên nơi thờ phượng Thiên Chúa. Khiến người Do Thái phải khóc than tiếc nối.

Lời tiên báo của Chúa Giêsu vẫn còn giá trị cho đến ngày nay. Thời đại mà con người quá lệ thuộc vào của cải vật chất. Vì coi trọng đồng tiền và chỉ muốn xây dựng cuộc sống mình trên nền tảng vật chất. Do đó họ sẵn sàng bán rẻ lương tâm và chà đạp lên những giá trị đạo đức để rồi sẵn sàng bán bổ thần thánh. Nhìn vào cuộc sống hưởng thụ và chạy theo tiền bạc hôm nay, có lẽ Chúa Giêsu cũng đang đau buồn và rơi lệ như xưa. 

Xin Chúa cho chúng ta biết nương tựa vào sức mạnh của Chúa và kiên quyết xây dựng đời mình trên đá tảng vững bền là Đức Kitô mà vượt thắng được sức mạnh tàn phá của kẻ thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt để bảo vệ được ngôi đền thánh tâm hồn xứng đáng là nơi Thiên Chúa ngự trị. Nhờ đó mà ơn cứu độ và sứ điệp hòa bình của Chúa Giêsu mới đến được với ta.


THÁNH CLÊ-MEN-TÊ  I, GIÁO HOÀNG, TỬ ĐẠO

Các thánh tử đạo là những người đã can trường làm chứng cho Chúa. Giáo Hội vững mạnh là được xây dựng trên nền tảng đức tin vững mạnh và dòng máu anh dũng các ngài. Thánh Cơ-lê-men-tê I, giáo hoàng thứ tư Roma và nhân chứng của Chúa Giêsu Kitô vào cuối thế kỷ thứ nhất, vào năm 185.

THÁNH CƠ-LÊ-MEN-TÊ I

Thánh nhân là vị giáo hoàng thứ 4 trong lịch sử Giáo Hội. Người ta ít biết về thời niên thiếu của thánh nhân.Thánh Cơ-lê-men-tê I sống vào cuối thế kỷ thứ nhất. Ngài là một nhà hùng biện, yêu mến Thánh Kinh và thấu suốt tư tưởng, giáo lý của Chúa Giêsu.

Thánh Irênê thuật rằng: thánh Phêrô vị giáo hoàng tiên khởi đã truyền ngôi cho Linô, Anaclê kế vị Linô và sau Anaclê là thánh Cơ-lê-men-tê I. Thánh nhân đăng quang, một trong những việc làm phi thường của Ngài là giàn xếp cuộc nổi loạn của cộng đoàn tín hữu Corintô.

Ðọc bức thư Ngài gửi cho cộng đoàn tín hữu Corintô,mọi người nhận ra Ngài là vị mục tử hiền từ, bác ái và khiêm nhượng. Ngài là người đã sống họa lại hình ảnh của Chúa Giêsu nhân từ, hiền hậu.

Ngài đã sống trọn vẹn con người của Ngài đến nỗi ta có thể nói được như thánh Phaolô: "Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Ðức Kitô sống trong tôi". Chính vì sống con đường của Chúa Giêsu, con đường thập giá của Ngài. Thánh nhân đã được phúc tử vì đạo dưới thời Hoàng đế Trajan. Thánh nhân đã bị bắt, bị kết án tử hình. Lý hình đã cột đá nặng vào cổ Ngài, quăng Ngài xuống biển sâu. Người ta đã vớt được xác Ngài và đưa về La-mã, dưới triều Ðức Giáo hoàng Adrianô II. Thiên Chúa và Giáo Hội đã tôn vinh Ngài.

CẦU NGUYỆN

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con khâm phục Chúa đã làm cho các thánh nên can trường. Chúa đã giúp thánh Cơ-lê-men-tê là tư tế và tử đạo của Ðức Kitô biết lấy máu đào mà minh chứng những mầu nhiệm thánh nhân cử hành, và biết nêu gương sáng để củng cố Tin Mừng người rao giảng. Hôm nay, chúng con mừng kính Người, xin cho chúng con được tràn đầy niềm phấn khởi hân hoan. ( Lời nguyện nhập lễ thánh Cơ-lê-men-tê I, giáo hoàng, tử đạo).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT


Thứ sáu: Kn 3, 1-9; 2Cr 4, 7-15; Mt 10, 17-22

Kính Thánh An-Rê Dũng Lạc, Linh Mục Và Các Bạn, Tử Đạo.

Các Thánh Tử Đạo Tại Việt Nam

TỬ ĐẠO NÊU CAO LÒNG TIN CẬY MẾN

Ai cũng ham sống sợ chết. Vậy tại sao người ta lại dám tử đạo? Thưa vì lòng Tin Cậy Mến.

1. Tin: Niềm tin tạo sức mạnh tinh thần. Bài sách thánh kể chuyện bà mẹ can đảm khuyên 7 đứa con sẵn lòng chịu chết chứ không chịu phạm Luật Chúa vì bà tin vào Chúa là Đấng Tối Cao tạo dựng vũ trụ muôn loài, Chúa là Đấng Ban Sự Sống. Bài Phúc Âm Chúa Giêsu khẳng định: “Ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” Niềm tin vào Chúa hằng sống giúp người ta dám chết vì Đạo, bởi qua cái chết họ bước vào cõi hằng sống.

2. Cậy: Nếu niềm hy vọng vào một lý tưởng cao đẹp giúp ta dám sống chết cho lý tưởng, cho sự nghiệp, cho quê hương đất nước, thì niềm hy vọng vào Chúa quyền năng và là chủ của sự sống sẽ làm cho chúng ta vững lòng trông cậy vào cõi thiên đàng vinh phúc, nhờ đó giúp ta đủ sức mạnh để sẵn sàng dám chết vì Đạo Thánh Chúa. Hình ảnh hạt giống và người nông phu ra đi gieo giống được cất lên nơi bài Thánh Vịnh Đáp Ca hôm nay diễn tả tuyệt vời lòng trông cậy ấy nơi Thiên Chúa: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.”

3. Mến. Lòng mến khiến người ta sẵn lòng hy sinh cho người mình yêu. Yêu nhiều sẽ hy sinh nhiều như Chúa Giêsu khẳng định: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu.”  Và thánh Phaolô cũng quả quyết: “Dù sự chết hay sự sống cũng không tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa.” Các Thánh Tử Đạo Việt Nam chỉ vì mến Chúa yêu người nên đã can đảm hy sinh cả mạng sống mình.

Hội Thánh Chúa có vững mạnh và phát triển như ngày hôm nay chính là nhờ có những tín hữu can trường trong đức tin, lòng cậy trông và tình yêu mến. Xin Chúa cho chúng ta có được niềm tin mạnh mẽ, lòng cậy bền vững và tình mến sắc son để dẫu phải gặp nhiều gian lao thử thách trên đường đời, chúng ta vẫn trung thành sống và làm chứng cho đạo thánh Chúa, theo gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam, những bậc cha ông của chúng ta. (St)

 

* Suy niệm thường niên: Lc 19, 45-48

Sự kiện Chúa Giêsu đánh đuổi những con buôn ra khỏi đền thờ mà bài Tin mừng hôm nay tường thuật, nhắc nhở chúng ta hai điều quan trọng trong đời sống đức tin:

-  Ý thức tầm quan trọng của ngôi Nhà Thờ vật chất: Bởi nơi đây là nơi hiện diện cách đặc biệt của TC, là nơi quy tụ những người tín hữu tôn thờ Thiên Chúa, là nơi biểu tỏ đức tin, là nơi gặp gỡ và sống tình huynh đệ bác ái Kitô giáo, là nơi tụ họp để lắng nghe và được giải thích lời Chúa, là nơi để lãnh nhận các ơn thiêng cao quý Chúa ban qua các bí tích và lời cầu nguyện… Nơi đây Đức Tin của người kitô hữu mỗi ngày được nuôi dưỡng và lớn mạnh hơn. Do đó, mỗi chúng ta cần phải ý thức tầm quan trọng và giá trị thánh thiêng của Nhà Thờ mà chung tay xây dựng và góp phần gìn giữ Nhà Thờ được sạch đẹp; luôn giữ thái độ xứng hợp khi bước vào Nhà Thờ; nhất là biết siêng năng kính viếng Chúa nơi Nhà Thờ.

- Ý thức giá trị cao quý của đền thờ tâm hồn: Sự kiện Chúa Giêsu đánh đuổi những con buôn ra khỏi đền thờ còn nhắc nhớ chúng ta về giá trị thánh thiêng của ngôi đền thờ tâm hồn. Bởi tâm hồn chúng ta chính là nơi Thiên Chúa Ba Ngôi thích ngự trị nhất. Nhưng rất có thể ngôi đền thờ tâm hồn chúng ta vẫn còn ngỗn ngang bởi những toan tính lợi danh, những đam mê dục vọng. Nơi ấy vẫn còn chất chứa nhiều tính hư tật xấu và tội lỗi nên rất cần được Chúa thanh tẩy cho thanh sạch, hầu xứng đáng là nơi ngự trị của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Xin cho mỗi người chúng ta biết góp phần tích cực trong việc gìn giữ và bảo vệ ngôi nhà thờ vật chất cũng như canh tân ngôi nhà tâm hồn của mình sao cho xứng đáng là nơi TC ngự trị. Nhờ đó mà cuộc đời của chúng ta mới có thể trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành, mang lại niềm vui và ơn ích cho người và cho đời.


Thứ bảy: Lc 20, 27-40

Có thể nói hầu hết mọi người đều tin có sự sống lại và cuộc sống đời sau. Nhưng về tình trạng sự sống đời sau như thế nào thì có sự khác nhau. Vậy quan niệm về vấn đề này của người Kitô hữu chúng ta thế nào? Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong bài Tin mừng hôm nay. Chúng ta lắng nghe lời Chúa dạy để có quan niệm đúng đắn trong vấn đề này.

Thời Chúa Giêsu có khá nhiều nhóm: Pharisêu, Biệt phái, Luật sĩ, Hêrôđê và Saducêô... Mỗi nhóm lại theo đuổi một lý tưởng khác nhau nên có những quan điểm khác biệt. Nhóm Saducêô thì không tin có sự sống lại và không có sự sống đời sau. Họ có quan niệm theo duy vật chủ nghĩa, chết là hết. Vì thế, họ tìm mọi cách để chối bỏ niềm tin về sự sống lại. Hôm nay, họ đối chất với Chúa Giêsu về vấn đề này nhằm phản bát niềm tin vào sự sống lại do Chúa Giêsu rao giảng. 

Họ đặt ra 1 câu chuyện lố bịch về 1 gia đình có 7 người anh em. Theo luật thế huynh của Môi-sen thì nếu người anh lớn cưới vợ chẳng may chết đi không con, thì người em kế đó phải cưới lấy người vợ góa đó, để sinh con nối dõi tông đường. Vậy có cả thảy 7 người anh em cùng cưới 1 bà vợ. Nhưng lần lượt cả thảy 7 người anh em đó đều chết mà không con. Cuối cùng người vợ góa đó cũng chết. Vậy nếu có sự sống lại thì ai sẽ là người chồng của chị ta?

Tình thế họ đặt ra xem ra rất hóc búa, khó xử, nhưng Chúa Giêsu đã dựa trên nền tảng Thánh Kinh đoạn nói về Môisen diện kiến Thiên Chúa nơi bụi gai cháy sáng, để minh chứng cho biết: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống”. Bởi lẽ Người là “Thiên Chúa hằng hữu”. 

Người cũng cho biết sự sống mai sau là sự sống vĩnh cửu nên không còn phải lấy vợ cưới chồng để duy trì giống nòi nữa. Và tình trạng sự sống mai sau không giống như sự sống con người ở trần gian mà như các Thiên Thần. 

Với những lời minh chứng ấy, Chúa Giêsu đã làm cho họ phải câm miệng không còn vênh váo, khoát lát nữa.

Trong cuộc sống này, mỗi người có những quan niệm và cái nhìn khác nhau "chín người mười ý". Cho nên thường đưa đến những bất đồng ý kiến với nhau. Chân lý không thuộc đám đông cũng không phải ở bất kỳ ai, nhưng chân lý thuộc về Thiên Chúa. Vì thế một mặt ta cần tránh thái độ kiêu căng, tự mãn, chủ quan loại trừ mọi quan điểm của người khác; trái lại phải có cái nhìn tôn trọng và cởi mở trước những ý kiến khác biệt. Là người Kitô hữu, chúng ta phải luôn tin tưởng vào Lời Chúa dạy và GH hướng dẫn nên cần phải xác tín vững chắc vào sự sống lại và sự thưởng phạt đời sau.

Xin cho chúng ta biết gắn kết với Chúa trong lời cầu nguyện, siêng năng tham dự thánh lễ và kết hợp với Chúa trong Bí tích Thánh Thể; nhất là khiêm tốn lắng nghe và thực thi lời Chúa mà trung thành sống giới luật yêu thương do Chúa chỉ dạy. Nhờ đó ta mới có thể hưởng được tình trạng hạnh phúc viên mãn như các Thiên Thần mai này. Amen.


SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXXIII THƯỜNG NIÊN

Lm. Minh Anh,Tgp Huế

THỨ HAI: NGƯỜI MÙ THÀNH GIÊRIKHÔ

Giáo Hội sắp kết thúc năm phụng vụ với lễ Chúa Giêsu Kitô Vua để nhắc nhở mỗi người chúng ta về sự thật căn bản về Thiên Chúa là Đấng khởi đầu và là cùng đích của mọi sự, là Alpha và Ômêga.

Con người và vũ trụ đã được Thiên Chúa sáng tạo, đặt vào trong hiện hữu và cuối cùng sẽ trở về cùng Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.

Trong thời gian chờ đợi ngày trở về cuối cùng này, mỗi người chúng ta phải sống như thế nào?

Trong tuần lễ này, chúng ta hãy đối chiếu cuộc sống của mình với lời dạy của Chúa trong Phúc Âm, nhưng không phải chỉ đối chiếu suông mà thôi, mà mỗi chúng ta cần sửa chữa, cần dứt bỏ đi những gì không phù hợp với lời dạy của Chúa.

Bài Phúc Âm hôm nay trình thuật lại cuộc gặp gỡ hồng phúc giữa Chúa Giêsu và người mù thành Giê-ri-khô. Thái độ của anh mù này có thể nêu gương cho mỗi người chúng ta. Nên biết, đây không phải là dụ ngôn mà là một biến cố thật sự đã xảy ra, trong đó ta có thể quan sát và nhận thấy có hai thái độ:

- Thái độ của những người cản trở không cho anh mù đến với Chúa Giêsu, dường như họ cho rằng mình mới có quyền hay đặc quyền được ở gần bên Chúa. Còn người mù ăn xin kia thì không có phẩm giá, không được kính trọng và không được đến gần bên Chúa, nhất là không có quyền đi theo Chúa. Ðây là những người độc quyền, họ muốn giới hạn hành động của Thiên Chúa theo những tiêu chuẩn phàm trần do chính họ đặt ra.

Trong mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa trên bình diện ân sủng và cứu rỗi, con người không có quyền cậy dựa vào công trạng và lợi ích cá nhân mình mà đòi buộc Thiên Chúa phải làm như thế này hay như thế nọ. Bởi lẽ tất cả ân sủng là ơn ban nhưng không của Thiên Chúa, không ai có quyền giới hạn ân sủng đó cho riêng mình hay trong phạm vi mà mình quy định mà thôi.

- Thái độ thứ hai nơi anh mù.  Ý thức thân phận của mình, không có gì để khoe khoang hay đòi hỏi, nhất là đòi hỏi Thiên Chúa, anh mù chỉ khiêm tốn kêu xin: “Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi”. Người ta càng ngăn cản thì anh càng la to hơn: “Lạy con vua Ðavít, xin thương xót tôi”.

Sự mù lòa thể xác và nghèo hèn vật chất không phải là một ngăn trở không cho con người đến gần Chúa, gặp gỡ Chúa và đón nhận ơn ban của Chúa. Tin vào điều ấy nơi Đức Kitô nên anh mù đã kêu xin Chúa cứu chữa: “Lạy Ngài, xin cho con được nhìn thấy”. Sau khi anh mù được sáng mắt, anh còn tiến thêm một bước quan trọng thứ hai là đi theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa, đến độ những kẻ chung quanh cũng bị lôi cuốn theo cùng anh ca tụng Thiên Chúa: “Tức khắc anh thấy được và anh đi theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa”.

Trong Phúc Âm cũng có nhiều trường hợp con người được Thiên Chúa làm phép lạ, ban cho ơn lành, nhưng rất ít người nào có được phản ứng như anh mù này: “Anh đi theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa”.

Anh đã sống trọn vẹn điều mà chúng ta có thể diễn tả qua từ ngữ “Sống trọn vẹn ơn gọi Kitô”. Theo Chúa, ca tụng Chúa và làm cho anh chị em chung quanh ca tụng Thiên Chúa. Điều này giúp chúng ta nhớ lại lời căn dặn của Chúa Giêsu với các môn đệ của Ngài như sau: “Ánh sáng của anh em phải chiếu dọi cho mọi người để họ xem thấy việc lành của anh em mà ngợi khen Cha của anh em ở trên trời”. (Mt 5,16)

Lạy Chúa,

Người mù thành Giêrikhô thức tỉnh chúng con, những kẻ đã lãnh nhận nhiều ơn lành của Chúa mà lại không biết đến gần Chúa, kêu cầu Chúa, theo Chúa và ca tụng Thiên Chúa. Qủa thật chúng con đã mù loà về con mắt đức tin nên càng ngày chúng con càng sống xa cách và bội bạc với Chúa.

Lạy Chúa, xin thương giải thoát chúng con khỏi sự mù lòa nguy hiểm này.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)


SUY NIỆM 2: BÊN VỆ ĐƯỜNG

“Có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường!”.

Ira David Sankey, một ca sĩ, một nhà soạn thánh ca, sau nhiều năm bị mù, chia sẻ, “Như một người ngồi bên vệ đường, tôi chỉ còn một chút bóng tối trần gian nữa; và sau đó, là mặt trời rạng rỡ trên ngai vàng của Cha. Thiên Chúa là Tình Yêu. Chúc ngủ ngon!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Chúc ngủ ngon!”, lời chúc của Ira Sankey khá chua xót khi ông sắp giã từ ‘nơi tối’ của ‘những người đang ngủ’; nơi mà bấy lâu, ông “chỉ còn một chút bóng tối” cuối cùng, đợi ngày về với Mặt Trời ngời ánh bình minh. Và với Tin Mừng hôm nay, bạn và tôi có thể gặp lại chính mình nơi một người mù khác, Bartimê, một người ‘bên vệ đường!’.

Đã bao lần trong cuộc đời, chúng ta cảm thấy mình lây lất khác nào Bartimê; không thấy gì, không thể đứng lên, cũng không thể bước ra chính lộ và chỉ có thể ngồi bẹp ‘bên vệ đường’. Chúng ta có thể cũng đã trải nghiệm một sự thất vọng và không may mắn nào đó; không chỉ thể chất, mà còn tinh thần hay tình cảm! Nhiều người đi qua nhìn thấy. Một số có thể ném cho bạn và tôi một đồng xu, dẫu chúng không thực sự giúp chúng ta thoát khỏi sự chán nản hoặc khó khăn của mình; số khác, có thể đã chế nhạo; số khác, thậm chí, có thể đã mắng mỏ chúng ta, “Hãy im đi!” như những người đã mắng mỏ Bartimê.

Thế nhưng, giữa dòng người đó, vẫn có ‘một Ai đó’ khả dĩ có lòng xót thương, Giêsu! Ngài đã cho Bartimê điều anh không thể tự cho mình, thị giác. Cũng vậy, bao lần Giêsu đi qua cuộc đời chúng ta, Ngài cũng dừng lại để trao tặng điều chúng ta không thể tự cho mình, đức tin. Nhưng bạn và tôi có la lên, có van vỉ Ngài như Bartimê đã van vỉ khi biết Ngài đi qua không? Hoặc chúng ta có thường xuyên cầu xin Ngài gia tăng lòng tin không?

Sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi cuộc đời chúng ta chịu một số lời mắng mỏ, một số cú đánh thực sự, một số thất bại, và thậm chí, một số sa ngã trong một tội lỗi nào đó. Nhưng, Chúa Giêsu không muốn chúng ta nản lòng, Ngài muốn chúng ta coi đây là cơ hội để hướng về Ngài hơn, nguồn sức mạnh và sự đỡ nâng. Những la ó dành cho chúng ta luôn còn mãi. Thế nhưng, khó khăn trong cuộc đời có thể đánh bại chúng ta, hoặc cũng có thể khiến chúng ta mạnh mẽ. Cách chúng làm cho chúng ta mạnh mẽ, như đã làm cho Bartimê, là nuôi dưỡng trong chúng ta một sự tin tưởng và một sự lệ thuộc hoàn toàn vào lòng xót thương của Thiên Chúa, “Lạy con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”.

Anh Chị em,

“Xin dủ lòng thương tôi!”. Sự mù loà của Bartimê chỉ là phần nổi của tảng băng chìm; chắc chắn trong anh còn có những vết thương, tủi nhục, ước mơ tan vỡ, sai lầm và hối hận. Anh đã cầu xin bằng cả trái tim; bạn và tôi thì sao? Lời cầu của chúng ta có bao gồm lịch sử của mình, những vết thương, tủi nhục, những giấc mơ tan vỡ, những lỗi lầm và hối tiếc? Cầu nguyện hời hợt chẳng giúp ích gì cả. Tôi có kể câu chuyện đời mình cho Chúa Giêsu? Hay lời cầu của chúng ta thiếu cảm xúc, chân thành. Đừng quên, Chúa Giêsu nóng lòng tuôn đổ ân sủng và niềm vui cho chúng ta; tiếc thay, chính chúng ta lại giữ khoảng cách qua sự rụt rè, lười biếng hoặc thiếu niềm tin. Vì thế, đừng ngạc nhiên, bạn và tôi cứ ngồi mãi ‘bên vệ đường’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, Đấng không muốn con lây lất. Bứng con lên, đưa con vào ‘Vùng Sáng’, và con cũng có thể bông đùa một chút với những người khác, “Chúc ngủ ngon!”, Amen.

 

THỨ BA: ĐỨC MẸ DÂNG MÌNH TRONG ĐỀN THỜ

TÒNG THUỘC

“Hỡi mọi xác phàm, hãy lặng thinh trước nhan Thiên Chúa!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Bài đọc Zacharia được chọn một cách kỹ lưỡng trong ngày lễ Đức Mẹ Dâng Mình nêu bật mối quan hệ ‘tòng thuộc’ tuyệt đối của con người Đức Maria vào Thiên Chúa.

Thiếu nữ Sion Zacharia nói đến không chỉ là hình ảnh của Israel, nhưng còn là hình ảnh của Maria, người Thiên Chúa chọn, “Hỡi con gái Sion, hãy vui sướng reo hò, vì này Ta đang đến để ở lại giữa ngươi”. Thiên Chúa ở lại giữa Israel vì Israel thuộc về Ngài; Ngài ở lại, “ở cùng” Maria, vì Mẹ ‘tòng thuộc’ Ngài tuyệt đối. Để có thể hiểu được hồng ân được “ở cùng” này, con người phải biết lặng thinh và chìm sâu vào trong Thiên Chúa. Ngôn sứ Zacharia thật thâm trầm khi kết luận, “Hỡi mọi xác phàm, hãy lặng thinh trước nhan Thiên Chúa!”.

Tin Mừng ngày lễ nói đến cuộc tìm thăm Chúa Giêsu của Mẹ Maria và anh em Ngài. Ở đó, Ngài đã thốt lên những lời ‘gây sốc’, “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”. Chúa Giêsu thường không ngại nói ra những lời vượt quá trí hiểu. Nhưng thật thú vị, Ngài không quen làm sáng tỏ chúng một cách chóng vánh; đúng hơn, Ngài thường để những ai không hiểu phải biết lặng thinh, hầu lời Ngài có thể chìm sâu vào trong. Từ đó, họ mới có thể hiểu nó.

Hẳn đã có một sự im lặng vần vũ đám đông khi Chúa Giêsu thốt ra những lời trên. Nhiều người nghĩ, Ngài khá cứng cỏi. Nhưng không phải thế, Ngài muốn Lời phải được chìm sâu vào trong nơi những ai đang nghe Ngài. Vì sau đó, đưa tay chỉ các môn đệ, Ngài nói, “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi!”. Qua đó, Chúa Giêsu đề cao người Mẹ Đầy Ơn Phúc của mình vì sự vâng phục tuyệt đối ý muốn của Chúa Cha. Ngài cho biết, quan hệ ‘huyết thống’ đã quan trọng, nhưng mối quan hệ ‘tòng thuộc’ vào Thiên Chúa sẽ quan trọng hơn. Như vậy, một ‘Maria vâng phục’ sẽ là mẹ của Ngài ‘nhiều hơn’ một ‘Maria huyết thống!’.

Với một đức tin trọn vẹn, một lòng mến sắt son, Maria hẳn đã hiểu hơn ai hết; và tất nhiên, cũng hơn ai hết, Mẹ đầy niềm vui. Sự hiểu biết sâu sắc đó tất yếu dẫn đến một niềm vui thẳm sâu nơi Mẹ. Thánh Vịnh đáp ca bộc lộ tâm tình này, “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!”.

Một người mẹ kia có thói quen lạ thường! Mỗi khi con trai cô có điều gì bất ổn, cô dắt nó vào rừng, đặt nó ngồi trên một tảng đá, bảo nó nhắm mắt lại. Đoạn, lấy cây sáo mang theo, cô thổi cho nó nghe từ ca khúc này đến ca khúc khác, từ trầm buồn đến réo rắt. Cô sẽ thổi cho đến khi nào con trai cô vui trở lại, và nó mỉm cười. Bấy giờ, hai mẹ con mới ra về.

Anh Chị em,

“Hãy lặng thinh trước nhan Thiên Chúa!”. Thánh Gioan Phaolô II gọi Maria là “Người Nữ Thánh Thể”. Liệu bạn và tôi có để Đức Mẹ ‘dẫn vào rừng’, chìm sâu vào Thánh Thể mỗi ngày, nhất là khi gặp những khó khăn trong đời? Với Thánh Thể, chúng ta sẽ lặng thinh, chìm sâu vào trong Ngài, trong Lời Ngài; ở đó, chúng ta chờ đợi thánh ý Chúa như Mẹ, lắng nghe tiếng của Thánh Thần như Mẹ thay vì chạy vạy tìm câu trả lời ở nơi đâu khác. Và từ Thánh Thể, một câu hỏi quan trọng sẽ luôn đặt ra cho chúng ta, dù chúng ta là ai, ở bất cứ đấng bậc nào, “Con thuộc về ai?”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Mẹ Maria, dạy con biết ‘tòng thuộc’ tuyệt đối vào Chúa. Để được vậy, cho con vui thích cầm tay Mẹ ‘vào rừng’ mỗi ngày, để lặng thinh, để chìm sâu vào trong “vực Giêsu!”. Amen.

 

THỨ TƯ: LỬA TÔNG ĐỒ

“Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến!”.

Elton Trueblood từng so sánh việc tông đồ với việc truyền lửa, “Rất dễ xác định khi một thứ gì đó bốc cháy; nó đốt các vật chung quanh. Ngọn lửa nào không cháy lan, cuối cùng, sẽ tắt. Về mặt nào đó, một Kitô hữu không có ‘lửa tông đồ’ là một mâu thuẫn. Lửa không cháy cũng là một mâu thuẫn! Hãy xem lại việc kết hiệp của họ với Chúa Kitô!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay nói đến ‘lửa tông đồ’, biểu hiện ở ba hạng người, tượng trưng cho ba thái độ trước nén bạc ân sủng Chúa trao. Họ được trao một nén như nhau, cùng nhận một mệnh lệnh như nhau, “Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến!”.

Đối tượng đầu tiên là những người đã “sinh lợi” theo lệnh chủ, người “sinh lợi” mười nén, kẻ “sinh lợi” năm nén. Hạng thứ hai, “bọc khăn giữ kỹ” nén bạc. Và hạng thứ ba, những người “ghét” ông chủ; ở đây là ghét Thiên Chúa, không muốn Ngài làm Vua của họ.

Khi nhà Vua trở lại, hạng đầu tiên phúc trình những kết quả đáng mừng. Đây là những môn đệ đầy lửa. Thiên Chúa không trao ân sủng để ai đó cất giữ cho riêng mình, nhưng sử dụng nó để mở rộng Vương Quốc. Ngài kỳ vọng mỗi người sẽ tạo nên ‘một sự khác biệt vĩnh viễn’ trong cuộc sống của những người khác. Với họ, việc tông đồ không là một gánh nặng nhưng là niềm vui, một niềm vui tiếp thêm sức mạnh cho ‘lửa tông đồ’. Kết quả của sự nhiệt thành nơi họ sẽ tác động, như lửa cháy lan, theo cấp số nhân đối với Vương Quốc.

Bà mẹ ngoan cường trong bài đọc Macabê hôm nay là một mẫu gương ngời sáng trong việc “sinh lợi” cho Vương Quốc. Để bảo vệ lề luật, bà chứng kiến cái chết của bảy người con trong một ngày vì bà tin rằng, “Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người... Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con thần khí và sự sống”.

Hạng thứ hai, những người đã “bọc khăn giữ kỹ”. Đó là những tôi tớ không có ‘lửa tông đồ’. Họ sợ hãi; sợ hãi làm họ tê liệt. Phụng sự Chúa đòi hỏi lòng can đảm, đòi hỏi bạn và tôi ra khỏi vùng an toàn. Đầy tớ trong dụ ngôn đã linh cảm chủ sẽ không chấp nhận sự sợ hãi như một cái cớ có thể chấp nhận được để không nhiệt tâm sinh lợi.

Hạng thứ ba, đây là những người ra sức phá hoại Vương Quốc. Thế giới tràn ngập hạng này. Điều cần nói về họ chính là điều Chúa Giêsu đã nói, “Còn bọn thù địch của tôi kia, những người không muốn tôi làm vua… hãy dẫn chúng lại đây và giết chết trước mặt tôi!”.

Anh Chị em,

“Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến!”. Ước gì bạn và tôi thuộc hạng “sinh lợi” cho Chủ! Hãy vui mừng nếu chúng ta là những tôi tớ thuộc hạng này; nhưng nếu là người đang đấu tranh với sự sợ hãi, hoặc sợ phải sống đức tin một cách ngoan cường… chúng ta cần nhiều thời gian hơn cho dụ ngôn này. Hãy dấn thân và xác tín rằng, sẽ không bao giờ hối hận khi chúng ta đặt cả trái tim, linh hồn vào việc phụng sự Chúa. Để là những con người có thể ‘cháy lan’, như Elton Trueblood lưu ý, bạn và tôi hãy ra sức “kết hiệp với Chúa Kitô”, đêm ngày tìm kiếm Ngài. Tâm tình của Thánh Vịnh đáp ca thật đáng ao ước, “Lạy Chúa, khi thức giấc, con được thoả tình chiêm ngưỡng Thánh Nhan!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để thời gian, sức khoẻ và những nhọc nhằn khiến ‘lửa tông đồ’ trong con mai một! Con sẽ ‘cháy lan’ mãi, cháy cho các thế hệ, cả sau khi con hoá thành tro!”, Amen.

 

THỨ NĂM: LÀM CHO THANH KHIẾT

“Chúa Giêsu vào Đền Thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán”.

“Cuộc sống là một công trình! Xây trên đá cẩm thạch, nó sẽ bị huỷ diệt; trên đồng thau, thời gian sẽ làm trôi đi; trên danh tiếng, gió thổi và nó biến mất. Nhưng nếu được xây trên lòng kính sợ Chúa và tình yêu đồng loại, nó sẽ bền vững đến muôn đời. Và điều quan trọng, nó phải được ‘làm cho thanh khiết’ bên trong mỗi ngày!” - Daniel Webster.

Kính thưa Anh Chị em,

“Nó phải được ‘làm cho thanh khiết’ bên trong!”, đó cũng là chủ đề của Lời Chúa hôm nay. Bài đọc Macabê nói đến cuộc thanh tẩy đền thờ vốn đã bị ô uế bởi dân ngoại; Tin Mừng nói đến cuộc thanh tẩy đền thờ vốn có nguy cơ biến thành sào huyệt trộm cướp.

Sau thuở hồi hương, dân Chúa tẩy uế đền thờ; Giuđa và anh em ông nói, “Này, chúng ta lên thanh tẩy và cung hiến Nơi Thánh!”; “Dân chúng vui mừng khôn xiết”. Như lời Thánh Vịnh đáp ca, họ hoan hỷ hát khen, “Lạy Chúa, xin ca tụng Danh Thánh hiển vinh!”.

Với bài Tin Mừng, câu chuyện tẩy uế đền thờ Giêrusalem của Chúa Giêsu không chỉ tường thuật một hành động xa xưa nhưng còn tiết lộ ước muốn sâu xa của Ngài: ‘làm cho thanh khiết’ ‘đền thờ thế giới’; và ‘làm cho thanh khiết’ đền thờ tâm hồn mỗi người.

‘Đền thờ thế giới’ trước hết là Hội Thánh vốn là con tim của thế giới, nơi thông chuyển sự sống Chúa Kitô; thông chuyển mọi ước muốn của con người lên Thiên Chúa và ngược lại. Nhưng qua dòng lịch sử, tà tâm và tham vọng của nhiều người đã ngấm vào nó. Điều này không có gì mới! Vì thế, không ít người đã bị tổn thương vì các thành viên của Hội Thánh. Chúa Giêsu không hứa một Hội Thánh hoàn hảo, Ngài chỉ hứa ở cùng nó.

Đức Phanxicô nói, “Đền thờ là biểu tượng của Hội Thánh. Hội Thánh sẽ luôn chịu sự áp lực của những cám dỗ thế tục và cám dỗ của quyền lực; đó không phải là quyền năng Chúa Giêsu muốn dành cho Hội Thánh. Ngài không nói, “Không, đừng làm điều này! Đem ra ngoài kia!”; thay vào đó, Ngài nói, “Các ngươi đã tạo nên một ổ trộm cướp ở đây!”. Bước vào tiến trình suy thoái này, kết cục thật là khủng khiếp. Rất tệ! Một con tim có vấn đề, không thể làm tốt công việc của nó; và khi ‘con tim của thế giới’ èo uột, Hội Thánh không thể thông chuyển sự sống Chúa Kitô và đóng vai trò trung gian của mình!”.

Thứ đến, linh hồn mỗi người là đền thờ cần được Chúa Giêsu ‘làm cho thanh khiết’ mọi bẩn thỉu trong đó. Thật không dễ, nó đòi hỏi một sự khiêm nhường và đầu phục tuyệt đối; bằng không, nó sẽ trở nên vô hồn, trống rỗng, hoặc chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, một bảo tàng viện, hay thậm chí là một nhà kho khi bên trong không có chỗ cho Thiên Chúa.

Anh Chị em,

“Nó phải được ‘làm cho thanh khiết!’”. Chúa Giêsu hiểu thế nào là sức nặng của tội lỗi, thế nào là ô uế trong cái không gian linh thánh của mỗi người. Ngài đã dùng nước và máu từ cạnh sườn mà “thanh tẩy lương tâm chúng ta sạch mọi vết nhơ tội lỗi”. Ngài muốn thanh tẩy Hội Thánh, xã hội, cộng đoàn và gia đình chúng ta; đặc biệt, tâm hồn mỗi người. Đừng sợ để cơn thịnh nộ thánh thiện của Ngài phát huy tác dụng. Hãy cầu nguyện để được tẩy sạch bên trong trên mọi cấp độ, hầu có thể cùng Ngài xây dựng Vương Quốc.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con không xây dựng cuộc sống trên cẩm thạch, trên đồng thau; nhưng phần nào trên danh tiếng. Cứ mạnh tay thanh luyện con ở mọi cấp độ hầu con được sạch!”, Amen.

 

THỨ SÁU: CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Ts. Trần Mỹ Duyệt

“Tiếng nhạc oai hùng vang trên khắp cõi trời Việt Nam. Tiếng lòng tha thiết con dân nước Nam hòa khúc khải hoàn ca. Đồng thanh ta hát khen mừng bao Đấng Anh Hùng xưa đã thắng gian lao tòa cao chói lói trên trời hiển vinh muôn đời. Đồng thanh ta hát khen mừng bao Đấng Anh Hùng. Nay chiến thắng khải hoàn trên nơi phúc vinh sáng ngời”. [1]

Mỗi lần lễ kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, những dòng nhạc trên lại vang lên, kéo theo những cảm xúc bùi ngùi gợi nhớ lại một thời mà các vị anh hùng đức tin, cha ông của chúng ta đã sống, và đã chết vì niềm tin của mình.

Do sự chối bỏ và thù ghét Thiên Chúa, người ta đã giết hại các ngài. Trải qua các thế kỷ, mọi thời đại, mọi nơi trên thế giới, hàng hàng, lớp lớp những anh hùng tử đạo đã can đảm hiến dâng mạng sống mình vì đức tin, vì tình yêu mến Thiên Chúa. Lịch sử Giáo Hội cho biết, ngay từ sơ khai thời các Tông Đồ những cuộc bắt bớ, bỏ tù, tra tấn và chém giết đã xảy ra đối với các ngài và những ai theo chân Chúa Kitô. Thân xác các ngài tuy bị giết, nhưng linh hồn các ngài ở trên Thiên Đàng. Và đó là lý do tại sao chúng ta cử hành lễ mừng kính các ngài.

Chúa Kitô đang ở trên thiên đàng, Đấng đã được sinh ra trên mặt đất để những người dưới đất có thể được sinh ra trên thiên đàng. Chúng ta tôn kính, cầu xin các vị tử đạo vì gương sáng và cái chết anh hùng của các ngài để củng cố niềm tin của chúng ta. Cái chết của các ngài cũng cho chúng ta biết rằng, Kitô hữu là những người được tuyển chọn bởi Thiên Chúa, để có thể bắt chước Chúa Kitô trong cuộc sống, và chúng ta cũng có thể được ban thêm ơn chết vì Ngài.

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Lịch sử Giáo Hội Việt Nam hơn 300 năm bị cấm cách, bắt bớ qua 53 sắc lệnh khởi đi từ những năm 1625 thời chúa Sãi – Nguyễn Phước Nguyên, kéo dài đến các triều đại Nhà Nguyễn gồm Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, ước tính có đến hàng trăm ngàn người đã bị giết vì đạo. Trong số đó có 117 vị đã được tôn phong Hiển Thánh, [2] và 1 vị được tôn phong Chân Phước. [3] Các ngài là những nhân chứng về cuộc đời của Chúa Kitô và đã sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì niềm tin của mình.

Tại sao các ngài được gọi là tử đạo? Tử đạo là một người tự nguyện chấp nhận cái chết hơn là chối bỏ tôn giáo của mình bằng lời nói hoặc việc làm. Đối với các vị Tử Đạo Việt Nam, hành động chối bỏ rõ ràng nhất là “bước qua thánh giá”, hoặc “đạp trên thánh giá”. Lòng trung kiên này phải trả bằng mạng sống. Danh xưng tử đạo cũng có thể chỉ về những người đã hy sinh đời mình hoặc việc gì mà giá trị lớn lao vì chân lý. Thí dụ, Thánh Maximilian Kolbe (1894-1941) đã chấp nhận chết thay cho một bạn tù thời Đức Quốc Xã. Thánh Damien (1840-1889) đã hy sinh phục vụ những người cùi tại Molokai, Hawaii. Ngài đã lây bệnh cùi và chết như một người cùi.

117 Thánh Tử đạo Việt Nam, tuy nhiên, xét về nguồn gốc quốc tịch, một số đến từ Tây Ban Nha và Pháp. Trong đó gồm:

Tây Ban Nha: 11 vị gồm 6 Giám Mục và 5 linh mục dòng Đa Minh.

Pháp: 10 vị gồm 2 Giám Mục và 8 linh mục thuộc Hội Thừa Sai Paris (Société des Missions étrangères de Paris).

Việt Nam: 96 vị gồm 37 linh mục và 59 giáo dân – trong đó có 14 thầy giảng, 1 chủng sinh và 1 phụ nữ là bà Anê Lê Thị Thành.

Các ngài đã bị giết dưới những triều đại sau đây:

Chúa Trịnh Doanh (1740-1767): 2 vị.

Chúa Trịnh Sâm (1767-1782): 2 vị.

Vua Cảnh Thịnh (1782-1802): 2 vị.

Vua Minh Mạng (1820-1841): 58 vị.

Vua Thiệu Trị (1841-1847): 3 vị.

Vua Tự Đức (1847-1883): 50 vị.

Những cái chết Tử Đạo 

Các vị Tử Đạo nói chung đã bị giết bằng nhiều cách, thời gian đầu của Kitô giáo, đa số các ngài bị đóng đinh, bị chém đầu, một số bị lột da, bị cắt từng miếng, bị nướng trên vỉ sắt, bị bỏ vào vạc dầu sôi, hoặc bị nhốt và chết rũ tù… Cái chết của các vị Tử Đạo Việt Nam cũng không ngoại lệ. Các ngài đã chịu nhiều tra tấn, cực hình và hy sinh mạng sống dưới nhiều hình thức:

Bá đao : bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng. Cách chết này có 1 vị.

Lăng trì : chặt chân chặt tay trước khi bị chém đầu. Cách chết này có 4 vị.

Thiêu sinh : bị thiêu sống. Chết cách này có 6 vị.

Xử trảm : bị chém đầu. Chết cách này có 75 vị.

Xử giảo : bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết. Cách chết này có 22 vị.

Chết rũ tù : bị tra tấn, hành hạ, rồi bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù. Chết cách này có 9 vị. [4]

Riêng Chân Phước Andrê Phú Yên (1625-1644), tử đạo tại Gò Xử, Thành Chiêm, Điện Bàn, Quảng Nam. Nay thuộc giáo họ Phước Kiều, giáo phận Đà Nẵng. Ngài được cho là đã bị đâm sau lưng bằng giáo, trước khi bị chém đầu vào chiều hôm 26 tháng 07 năm 1644.

Được tôn phong

Ngành vạn tuế Tử Đạo đã được trao cho các ngài trên Thiên Quốc. Trong số 117 vị tử đạo Việt Nam từ 1745 đến 1862, đã được Giáo Hội tôn phong Chân Phước qua 4 đợt:

64 vị do Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, ngày 27 tháng 5 năm 1900.

8 vị do Thánh Giáo Hoàng Piô X, ngày 20 tháng 5 năm 1906.

20 vị do Thánh Giáo Hoàng Piô X, ngày 2 tháng 5 năm 1909.

25 vị do Đức Giáo Hoàng Piô XII, ngày 29 tháng 4 năm 1951.

Các ngài đã được tuyên phong Hiển Thánh do Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, ngày 19 tháng 6 năm 1988. Thầy giảng Andrê Phú Yên, vị tử đạo tiên khởi, cũng được tuyên phong Chân Phước ngày 5 tháng 3 năm 2000 do Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.  

Giáo hội Công Giáo khắp thế giới cử hành lễ kính chung cho các Thánh Tử Đạo Việt Nam ngày 24 tháng 11 với bậc lễ nhớ theo Lịch Chung RômaRiêng Giáo Hội Việt Nam mừng kính trọng thể các ngài vào Chúa Nhật giữa tháng 11, trước lễ Chúa Kitô Vua.  

Mừng kính các Thánh Tử Đạo, chúng ta nhớ đến những dòng máu mà các ngài đã đổ ra vì danh Chúa, vì tình yêu mến Ngài. Những dòng máu đức tin. Hơn 100 ngàn anh hùng tử đạo, máu ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ truyền giáo tại Việt Nam. Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, Tổng Giám Mục Hà nội, trong Thánh Lễ Đại Trào kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam khai mạc Năm Thánh tại Sở Kiện – Tổng Giáo Phận Hà Nội, ngày 24 tháng 11 năm 2009, đã suy niệm về ý nghĩa của những dòng máu này:

“Có điều máu lênh láng nhưng không tanh tưởi bởi không phải là những thứ máu oan khốc nơi chiến trường tuôn chảy trong hờn căm oán ghét. Máu đẹp như những cánh hoa vì xuất phát từ tình yêu cao quý. Máu dường như tỏa hương thơm bởi khơi nguồn từ những trái tim chan chứa yêu thương. Máu không ghê tởm nhưng gợi lòng kính trọng. Máu không tạo oán thù nhưng vực dậy yêu thương. Đó là những dòng máu làm chứng cho tình yêu.”[5]

“Hồi chiêng dứt tiếng đầu rơi chốn pháp trường. Hồn thiêng lâng lâng về thiên quốc xa vời. Từ nay thôi những ngày tân khổ u buồn, về quê phúc vinh hưởng nhan Chúa muôn đời”. [6] Xin các Thánh Tử Đạo cầu cho chúng con biết trung kiên sống đức tin, sẵn sàng chấp nhận tử đạo bằng lòng mến Chúa qua những việc thường ngày dù bị gian khổ, vất vả, bắt bớ để cũng như các ngài, ngày sau chung phần vinh phúc trên thiên đàng.

 

THỨ BẢY: ĐỜI ĐỜI, RẤT ĐỜI ĐỜI

“Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống”.

Frederick, người theo thuyết bất khả tri; Von Zealand, tướng quân thân tín của vua, ngược lại, là một Kitô hữu. Trong một lễ hội, Frederick giễu cợt Chúa Giêsu, mọi người cười ngất ngưỡng, đến nỗi người lính già đứng dậy thưa, “Bệ hạ, ngài biết tôi không sợ chết! Tôi thắng 38 trận cho ngài. Tôi sẽ sớm trình diện Giêsu, Đấng ngài đang phạm thượng; Đấng vĩ đại hơn ngài, Đấng ‘đời đời, rất đời đời!’. Giờ đây, tôi chào ngài như một người yêu mến Đấng Cứu Rỗi mình, tôi đang ở ngưỡng cửa vĩnh cửu!”. Không gian trở nên im ắng, và với cung giọng run rẩy, vua nói, “Tướng quân! Tôi xin ngài thứ lỗi!”. Bữa tiệc lặng lẽ kết thúc!

Kính thưa Anh Chị em,

Đấng ‘đời đời, rất đời đời’ của Von Zealand chính là “Thiên Chúa của kẻ sống” mà Tin Mừng hôm nay tiết lộ. Để hiểu được lời này, Karl Rahner nói, “Bạn hãy thả mình vào cung lòng của Thiên Chúa một cách vô điều kiện!”.

Tin Mừng tường thuật việc những người Sadducêô đưa ra một kịch bản trái khoáy để gài bẫy Chúa Giêsu: một phụ nữ đã là vợ của bảy anh em; khi sống lại, nàng sẽ là vợ ai? Chúa Giêsu giải thích, “Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống!”. Hôn nhân chỉ dành cho đời này, không phải cho đời sau. Vì vậy, sẽ không ai là chồng của nàng!

Với giáo huấn này, một số người sẽ gặp khó khăn! Họ mong muốn vẫn là vợ, là chồng của người phối ngẫu của mình trên thiên đàng. Hãy yên tâm, các mối dây yêu thương chúng ta đã hình thành trên dương thế sẽ vẫn còn, và thậm chí, được củng cố hơn ở trên trời! Chúng sẽ vẫn bền chặt hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, hôn nhân, theo nghĩa trần thế, sẽ không còn; nó được thay thế bằng tình yêu trong sáng của một cuộc sống mới.

Karl Rahner nói, “Bước theo Chúa Kitô, niềm tin vào sự phục sinh mai ngày của Kitô hữu được móc, được đính chặt tận chóp đỉnh trên cùng bản tính hằng sống của Thiên Chúa; Ngài hằng sống, vô cùng, ‘đời đời, rất đời đời’… nên tình yêu của Ngài cũng vĩnh hằng, miên viễn và đời đời như Ngài”. Thánh Vịnh đáp ca bày tỏ niềm tri ân, “Lạy Chúa, con mừng rỡ vì ơn Ngài cứu độ!”. Không có thiên đàng, không có cuộc sống vĩnh cửu, Kitô giáo sẽ giảm thiểu chỉ còn là đạo đức học hay một triết lý sống. Niềm tin vào sự phục sinh là cần thiết để mọi hành động yêu thương không phải là phù du và tự nó kết thúc, nhưng có thể trở thành hạt giống định sẵn để nên hoa trái vĩnh cửu trong ngôi vườn của Cha.

Anh Chị em,

“Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống!”. Với câu trả lời của Chúa Giêsu, Đức Phanxicô kết luận, “Trước hết, Chúa Giêsu mời gọi những người đối thoại với Ngài - và cả chúng ta - hãy biết, chiều kích trần thế mà chúng ta đang sống không phải là chiều kích duy nhất, nhưng còn có một chiều kích khác, không chịu tác động của sự chết, sẽ biểu lộ đầy đủ rằng, chúng ta là con trai con gái của Thiên Chúa! Thật là một niềm an ủi và hy vọng vô bờ khi được nghe những lời đơn giản và rõ ràng này của Chúa Giêsu về cuộc sống bên kia cái chết. Chúng ta rất cần nó, nhất là trong thời đại hôm nay, một thời đại rất giàu kiến thức về vũ trụ nhưng lại thiếu khôn ngoan về sự sống đời đời!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con sợ chết, không thắng trận nào cho Chúa, lại sợ sớm trình diện Ngài. Cho con dám thả mình vào cung lòng Chúa. Đừng để con sống như không có đời sau!”, Amen.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XIV THƯỜNG NIÊN Lm. Nguyệt Giang CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN B Ed 2,2-5; 2Cr 12,7-10; Mc 6,1-6 Suy niệm 1: ...