SUY
NIỆM LỜI CHÚA TUẦN I MÙA VỌNG
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA
NHẬT I MÙA VỌNG B
Is
63, 16b-17; 64,1.3b-8; 1Cr 1,3-9; Mc 13, 33-37
Cùng với GH, chúng
ta bắt đầu bước và năm phụng vụ mới. Khởi đầu năm phụng vụ là Chúa nhật I Mùa
Vọng. Mùa vọng là mùa của trông ngóng, đợi chờ. Tiếng Latinh gọi là mùa Ad
(Adventus Domini, nghĩa là "sự xuất hiện của Chúa, hay Chúa đến").
Nhưng để trông
ngóng, đợi chờ kỉ niệm ngày Chúa đến lần thứ nhất trong thân phận mỏng manh, yếu
đuối của em bé Giêsu năm xưa, nơi hang đá máng cỏ nghèo hèn. Và trông ngóng đợi
chờ Chúa đến lần thứ hai trong quyền năng vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ
chết trong ngày quang lâm. Chúng ta cần phải luôn tỉnh thức với một tâm thế sẵn
sàng trong từng giây phút hiện tại, để cho dẫu Chúa đến có bất ngờ, ta vẫn an
tâm không hề sợ hãi.
Hôm nay cũng là ngày
GH kính nhớ Thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng các xứ truyền giáo, là bổn mạng của ca
đoàn Phanxicô Xaviê, cách đặc biệt của Họ đạo Sóc Trăng thân yêu chúng ta. Vì
thế, chúng ta hãy chia sẻ niềm vui và chúc mừng nhau bằng một chàng pháo tay
thật dài và thật to đi nào!
Xin tạ ơn Chúa vì đã
ban cho GH chúng ta một nhà truyền giáo tuyệt với, luôn nhiệt tâm, nhiệt tình
và nhiệt huyết trong sứ vụ rao giảng tin mừng tình thương của Chúa không hề mệt
mỏi.
Nguyện xin cho mọi người
trong Họ đạo chúng ta biết sống hiệp thông với nhau để tích cực tham gia vào sứ
vụ làm chứng nhân và loan báo tin mừng của Chúa đến cho mọi người, ở mọi nơi,
trong mọi hoàn cảnh.
Để những tâm tình, ước
nguyện và của lễ chúng ta hiệp dâng lên Chúa hôm nay xứng đáng được Chúa đón
nhận, mỗi người trong chúng ta giờ đây hãy khiêm tốn nhìn nhận tội lỗi và thành
tâm sám hối, xin Chúa thương thứ tha.
† Mùa vọng mang 2 đặc
tính: 1 Vừa
là mùa chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, trong ngày lễ này GH kính nhớ biến cố Con
Thiên Chúa đến tràn gian lần thứ nhất với nhân loại chúng ta. 2 Nhưng
cũng là thời gian hiện tại để các tín hữu tích cực chuẩn bị dọn lòng trông đợi
Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế.
Vì hai lý do này nên
Mùa Vọng được coi là thời gian cần thiết để chuẩn bị tâm hồn xứng hợp hầu đón
nhận ơn ban của Chúa trong thời gian hiện tại.
† Mùa vọng được chia làm 2
giai đoạn:
- Giai đoạn
1: Bắt đầu bằng giờ kinh phụng vụ chiều I Chúa nhật thứ I Mùa Vọng (chiều
thứ bảy trước Chúa nhật I mùa vọng), và kéo dài đến hết ngày 16 tháng 12.
Ý nghĩa của giai đoạn này
là hướng lòng trông đợi của người tín hữu vào ngày Chúa Kitô ngự đến lần thứ
hai trong vinh quang (ngày quang lâm, ngày cánh chung, hay ngày tận
thế.) Vì thế mà phụng vụ của giai đoạn này nhằm diễn tả tính cách cánh
chung và thúc giục tìn hữu mong chờ sự tái lâm của Chúa Kitô.
- Giai đoạn 2: Từ
ngày 17 đến ngày 24/12, các phần riêng của Thánh lễ và Giờ Kinh Phụng Vụ trong
giai đoạn này nhằm chuẩn bị trực tiếp hơn cho việc cử hành lễ Giáng Sinh.
Đây là thời gian tích cực
dọn tâm hồn người tín hữu sẵn sàng mừng kỉ niệm ngày Con Thiên Chúa Giáng sinh
làm người, đem ơn cứu độ đến cho nhân loại.
† Để chuẩn bị tinh thần
xứng hợp trong khi chờ đợi ngày Chúa đến theo tinh thần trên, phụng vụ lời Chúa
hôm nay gợi lên cho chúng ta một vài cách thức cần thiết để đón mừng Chúa đến:
1. Khiêm tốn nhìn nhận tội
lỗi và xin ơn tha thứ của Chúa.
Bài đọc 1, tiên tri
Isaia nhắc nhở dân Do Thái đang sống trong cảnh lưu đày bên Babylon cơ cực, đau
khổ phải nhận ra tình trạng tội lỗi của mình:“Chúng tôi đã luôn ở trong tình
trạng tội lỗi. Tất cả chúng tôi đều đầy vết nhơ”; mà khiêm tốn xin
ơn tha thứ và khấn xin Chúa đến cứu thoát: “Xin Chúa băng qua các tầng
trời mà ngự xuống”.
2. Luôn canh thức để chu
toàn tốt bổn phận Chúa trao.
Để ý thức điều này, Chúa
Giêsu đã nhiều lần nhấn mạnh đến cụm từ “phải canh thức” cũng như gợi lên câu
chuyện dụ ngôn về việc ông chủ trao phó cho các đầy tớ trông coi nhà cửa. Ông
chủ sẽ về bất thình lình không báo trước, nên các đầy tớ phải luôn ở trong tâm
thế thức tỉnh chu toàn tốt bổn phận của mình với tâm tình của một người
đầy tớ trung thành.
3. Phải luôn ghi nhớ những
ân sủng Chúa ban.
Thánh Phaolô trong thư thứ
nhất gửi cho giáo đoàn Côrintô đã tế nhị nhắc nhở các tín hữu về biết bao ân
sủng do Thiên Chúa ban xuống trên họ. Vì thế họ phải tỏ lòng biết ơn và cố gắng
sống sao cho xứng đáng với những ân sủng cao vời ấy. Qua việc can đảm loại trừ
chủ nghĩa cá nhân, tẩy trừ tính kiêu căng tự mãn, khướt từ những cám dỗ làm
nguy hại đến đời sống đức tin và luân lý tựa như những gì ngài đã khuyên bảo
các tín hữu ở Rôma (Rm 13, 10-14):
- Loại trừ những việc làm
đen tối mà cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Nghĩa là phải biết loại trừ
những tính hư, tật xấu và tội lỗi ra khỏi tâm hồn và cuộc sống mình nhờ vào vũ
khí của sự sáng là lời Chúa.
- Loại trừ những đam mê
xác thịt như tránh việc ăn uống say sưa, chơi bời dâm đãng, tranh chấp ghanh tị,
lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt…. , để mặc lấy con người mới của Đức
Giêsu. Đó là con người của yêu thương phục vụ; con người của hiền lành và khiêm
nhượng trong lòng; con người của hy sinh tận hiến và luôn vâng phục ý muốn của
Thiên Chúa.
Xin cho chúng ta tích cực
thực hiện những lời chỉ dạy của Chúa và nghe theo sự hướng dẫn của thánh Phaolô
mà tích cực chuẩn bị tâm thế sẵn sàng cho ngày Chúa đến.
* KÍNH THÁNH PHANXICÔ
XAVIÊ, LINH MỤC
Bổn mạng các xứ truyền
giáo: 1Cr
9,16-19.22-23; Mc 16, 15-20
Suy niệm 1:
Cùng với GH, sáng nay
chúng ta hiệp dâng thánh lễ tạ ơn mừng kính Thánh Phanxicô Xaviê, vị tông đồ
truyền giáo vĩ đại, nhiệt thành là bổn mạng của Họ đạo Sóc Trăng
chúng ta, và là bổn mạng của ca đoàn Phanxicô. Trong ngày long trọng đáng nhớ
này, chúng ta hãy chia sẻ niềm vui và chúc mừng nhau bằng một chàng pháo tay
thật to được không à!
Xin tạ ơn Chúa vì đã ban
cho GH một nhà truyền giáo tuyệt vời là thánh Phanxicô-Xaviê! Nhờ lời chuyển
cầu của Thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng các xứ truyền giáo, xin cho mọi người
trong Họ đạo chúng ta cũng biết tích cực thi hành sứ vụ loan báo tin mừng của
Chúa bằng đời sống cầu nguyện, dấn thân hy sinh phục vụ và hăng say loan báo
niềm vui tin mừng cứu độ của Chúa đến cho mọi người, theo gương thánh Phanxicô
Xaviê.
Hiệp dâng ý nguyện thiết
tha
Chu toàn sứ vụ chan hòa
thánh ân.
Dù cho thử thách gian trần
Vững tin có Thánh Phan
Sinh đồng hành.
Trong tâm tình đó, giờ đây
chúng ta cùng nhau sám hối xin Chúa tha thứ những thiếu sót và tội lỗi của
chúng ta để những ước nguyện và của lể dâng xứng đáng được Chúa đón nhận.
Với Thánh Phaolô thì việc
rao giảng Tin mừng như là cái duyên chứ không còn phải là cái nợ bó buộc nặng
nề. Nên việc rao giảng Tin mừng chính là một niềm vui là hạnh phúc và là lẽ
sống: “miễn Lời Chúa được rao giảng” (Pl 1,18). Ngược lại nếu không thi hành sứ
vụ rao giảng tin mừng là một sự khốn khổ: “khốn thân tôi, nếu tôi không rao
giảng Tin mừng” (1Cr 9,16).
Chính tình yêu là sức mạnh
thúc đẩy thánh Phaolô tận tâm, tận lực trong sứ vụ rao giảng. Với sức mạnh tình
yêu, thánh Phaolô đã chấp nhận mọi gian lao, khổ nhọc để đồng thân đồng phận
với mọi người: “yếu với người yếu, vui với người vui” và “trở nên tất cả cho
mọi người” (1 Cr 9, 12). Tất cả chỉ với mục tiêu duy nhất là đem phần phúc Tin
mừng đến với mọi người.
Tiếp nối thánh Phaolô tông
đồ, thánh Phanxicô-Xaviê cũng đã sẵn sàng bỏ lại tất cả: danh vọng, giàu sang…
để dấn bước lên đường đến với muôn dân loan báo Tin mừng. Vâng nghe lệnh truyền
của Chúa Giêsu và mưu cầu ơn cứu độ cho mọi người, thánh nhân đã hăng say đến
những vùng xa xôi Á Châu: Ấn Độ, Nhật Bản, Philippin. Ngài đã sẵn sàng bỏ lại
thân xác mình trong một túp lều thô sơ, trên một đảo nhỏ ở San-ci-an gần bờ biển
Trung Hoa, sau những ngày lâm trọng bệnh. Trong lúc tìm đường vào đại lục này.
Lạy Chúa, Chúa đã từng băn
khoăn khắc khoải “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”, Chúa muốn mỗi người hãy
là những tay thợ gặt lành nghề. Xin Chúa ban thêm cho chúng con sự can đảm và
lòng hăng say giới thiệu Chúa cho những người chung sống và làm việc với chúng
con bằng chính cuộc sống chứng tá. Xin cho chúng con biết cùng cộng tác với Hội
Thánh trong sứ mạng truyền giáo với hết khả năng và sức lực mà Chúa ban, theo
gương của thánh Phanxico-Xaviê mà Giáo hội mừng kính hôm nay.
Suy niệm 2:
Thánh Phanxico sinh năm
1506, tại lâu đài Xaviê, nước Tây Ban Nha trong một gia đình quyền quý.
Năm 19 tuổi, ngài sang Ba
Lê để tiếp tục việc học. Tám năm sau, ngài tốt nghiệp và trở thành giáo sư tại
đại học đó. Nổi tiếng nhờ trí thông minh, cậu Phanxicô ngày đêm miệt mài theo
đuổi danh vọng thế tục. Nhưng một ngày kia, qua lời giảng dạy đầy thuyết phục
của thánh Ignatiô : “Ðược lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích
chi?” Chúa đã hoàn toàn chiếm đoạt trái tim thánh nhân, chọn ngài làm tu
sĩ dòng Tên, và biến ngài trở thành một khí cụ tuyệt vời cho cánh đồng truyền
giáo.
Năm 1539, Phanxicô hăng
hái lãnh sứ mệnh nơi Ðức Giáo Hoàng Phaolô III là đem ánh sáng Phúc Âm đến cho
dân tộc Ấn Ðộ. Một năm trời lênh đênh trên biển để đi từ Bồ Đào Nha đến Ấn
Độ.
Ba mươi sáu tuổi bắt đầu
công việc của một nhà truyền giáo ở Goa, thánh Phanxicô chịu mọi lao nhọc
để giảng dạy và rửa tội cho người bản xứ.
Rồi ngài lại lên đường đi
Malaxia, Inđônêsia, và là một trong những nhà truyền giáo đầu tiên tại Nhật
Bản. Thánh nhân khao khát được đặt chân đến Bắc Kinh để gặp Hoàng đế Trung
Quốc. Đáng tiếc, khi đang chờ trên hòn đảo Thượng Xuyên, vị
chứng nhân truyền giáo vĩ đại của chúng ta đã kiệt sức và nằm xuống, bởi thời
tiết mùa đông khắc nghiệt; mắt ngài vẫn hướng về Quảng Đông chỉ cách đó 14
cây số. “Ngài tắt thở trong khi cầu khẩn Chúa Ba Ngôi, danh thánh Chúa
Giêsu và Đức Mẹ, tay cầm một cây nến. Hôm ấy là ngày 3.12.1552, khi thánh
Phanxicô mới bốn mươi sáu tuổi.
Xác ngài được đem về mai
táng tại thành Goa bên Ấn Ðộ. Ðúng 70 năm sau, Ðức Giáo Hoàng
Grêgôriô XV đã phong ngài lên bậc Hiển Thánh vào năm 1622. Và đến năm 1904, Ðức
Thánh Cha Piô X đặt ngài làm quan thầy các xứ truyền giáo.
Chúng ta cùng tạ ơn Chúa
đã ban cho GH một vị thánh tuyệt vời vì đã nhiệt thành thực thi sứ vụ loan báo
tin mừng không mệt mỏi.
Nhờ lời chuyển cầu của
Thánh Phanxicô Xaviê, xin cho mọi người trong Họ đạo chúng ta cũng biết thao
thức dấn thân cho công cuộc loan báo tin mừng bằng việc cầu nguyện, dấn thân hy
sinh phục vụ hàng ngày, luôn trung sống đạo và hăng say loan báo niềm vui tin
mừng đến cho mọi người theo gương sáng của thánh Phanxicô Xavie.
"Công cuộc truyền
giáo mãi mãi là vấn đề sống còn của Hội Thánh trên đất nước chúng ta". Đó
là lời mở đầu của Uỷ Ban Loan Báo Tin Mừng trực thuộc Hội Đồng giám Mục Việt
Nam sau 50 năm nỗ lực truyền giáo. Vì thế truyền giáo hay loan báo Tin mừng là
nhiệm vụ hàng đầu của Giáo Hội. Giáo Hội có được lớn mạnh hay không tùy thuộc
vào việc loan báo Tin mừng.
Công đồng Vatican II khẳng
định rõ rằng: “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành là truyền giáo” (Ecclesia
peregrinans natura sua missionaria est, Ad Gentes 2). Sẽ không là Giáo Hội hay
là người kitô hữu nữa nếu không loan báo Tin mừng.
Trên hết truyền giáo hay
loan báo Tin mừng là lệnh truyền tâm quyết của Chúa Giêsu. Nên trước khi về
trời Ngài đã di chúc lại cho các Tông đồ: "Anh em hãy đi khắp tứ
phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép
rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án" (Mc
16,15). Vậy đã rõ mục đích của việc loan báo Tin mừng là để người khác tin vào
Chúa Giêsu, nhận lãnh phép rửa mà được cứu độ. Nhưng làm thế nào để việc loan
báo tin mừng mang lại hiệu quả?
Trước hết noi gương thánh
Phanxicô-Xaviê thao thức truyền giáo.
Trong bức thư của thánh
Phanxicô gửi cho thánh Inhaxiô Loyola cho thấy thánh nhân đã thao thức cho việc
truyền giáo mạnh mẻ là dường nào. Ngài viết: “Có rất nhiều người tại những nơi
này hiện giờ chưa trở thành người có đạo, chỉ vì thiếu người làm cho họ trở nên
người có đạo. Nhiều lần tôi đã nghĩ đến việc đi tới các đại học bên châu Âu,
nhất là ở Paris, để điên cuồng kêu lên khắp đó đây và thúc bách những kẻ chỉ
biết lý thuyết hơn là thực hành rằng : “Khốn thay, có vô số linh hồn vì lỗi của
các ông mà phải trục xuất khỏi trời và bị đẩy xuống hỏa ngục. Chớ gì những
người đó chuyên chú vào việc tông đồ này như họ đã chuyên chú vào văn chương để
có thể trả lẽ cho Chúa về đạo lý và những nén bạc đã ủy thác cho họ”. (Các giờ
kinh Phụng vụ, tr 535).
Thứ đến, phải có lòng
nhiệt thành truyền giáo.
Vì yêu Chúa và các linh
hồn, ngài đã hy sinh tất cả bởi vì như ngài nói: “Tất cả đau khổ phiền muộn là
nguồn vui sướng cho tôi”. Đúng như lời thánh Augustinô nói: “Ở đâu có tình yêu
ở đó không còn khó nhọc nữa. Mà nếu có khó nhọc thì họ lại yêu thích chính sự
khó nhọc đó”. Vì thế, sau khi rửa tội cho một bà già đau nặng, ngài đã kêu lên:
“Lạy Chúa, bỏ cha mẹ, quê hương, vượt trùng dương để cứu một linh hồn mà thôi
thì con cũng thỏa mãn lắm rồi. Nay có chết con cũng vui lòng”. Điều đó chứng tỏ
ngài yêu các linh hồn như thế nào. Gương truyền giáo của thánh Phanxicô thật
tuyệt vời, chúng ta cần phải noi theo.
Có lẽ ngày hôm nay, Chúa
không bắt chúng ta phải qua Tàu, sang Tây để truyền giáo mà hãy rao giảng ngay
trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những người làm việc với chúng ta.
Rao giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống hằng ngày.
Một cách cụ thể, chúng ta
thực hiện việc truyền giáo trước hết bằng lời cầu nguyện và bằng những việc hy
sinh hãm mình. Chỉ có Chúa mới đánh động lòng người và làm cho người khác tin
Chúa, chứ người phàm không có khả năng làm được điều đó, vì Chúa đã phán: “vậy
các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người.” (Lc 10, 2).
Tiếp đó ta phải sống một
đời sống tốt lành thánh thiện để làm gương sáng cho người khác vì như ai đó đã
nói : “Lời nói như gió lung lay, gương bày như tay lôi kéo”. Gương sáng có tính
thuyết phục và hấp dẫn hơn lời nói. “Người thời này không thích những thầy dạy
cho bằng nhân chứng”. (Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II).
Xin Chúa cho chúng ta biết
thao thức và góp phần tích cực vào công cuộc tân phúc âm hóa cho mọi người, ở
mọi nơi theo gương thánh Phanxicô-Xaviê.
Suy niệm 3:
Thánh Giacôbê đã nói: “Đức
tin không có việc làm là đức tin chết”. Việc làm của đức tin chính là lắng nghe
và thi hành lời Chúa. Nhờ lắng nghe và thi hành lời dạy của Chúa mà đức tin của
chúng ta mỗi ngày mới thêm vững mạnh và triển nở cách tốt đẹp. Đó nội dung của
sứ điệp lời Chúa hôm nay gửi đến nhắc nhở chúng ta.
Tin mừng chúng ta vừa
nghe, Chúa Giêsu sánh ví đức tin như một căn nhà. Căn nhà đức tin ấy có đứng
vững hay không tùy thuộc rất nhiều vào phần nền móng. Nếu căn nhà được xây dựng
trên nền móng là đá tảng thì căn nhà ấy sẽ đứng vững, cho dẫu phải đối mặt với
phong ba bảo tố; còn ngược lại nếu căn nhà ấy được xây dựng trên nền cát thì sẽ
bị run lắc và sụp đỗ dễ dàng dưới tác động của mưa sa, bảo tố trào dâng.
Như vậy, để căn nhà đức
tin của chúng ta được được đứng vững thì điều hết sức quan trọng là ta phải xây
dựng đời mình trên nền tảng lời của Chúa. Bởi thế Chúa mới xác quyết mạnh mẽ
rằng: “ai nghe và giữ lời Ta thì giống như người xây nhà mình trên nền đá”.
Do đó việc xây dựng đời
sống đức tin tùy thuộc rất lớn trên nền tảng lời Chúa. Tuy nhiên lời Chúa không
phải là quyển sách tiểu thuyết hay tác phẩm khoa học để ta đọc cho vui hay thu
thập một số kiến thức mà lời Chúa phải thấm vào máu thịt và trở thành hơi thở
để trong mọi tình huống, hoàn cảnh lời Chúa phải là kim chỉ nam định hướng cho
đời sống của mình. Chính vì thế mà Chúa cảnh báo chúng ta: “không phải ai nói
lạy Chúa…mà được vào nước trời…”.
Xin cho chúng ta biết nhận
ra giá trị quý giá lời của Chúa để siêng năng học hỏi, suy niệm và nỗ lực thi
hành với tất lòng lòng yêu mến nhờ thế mà đức tin của chúng ta mỗi ngày được
củng cố thêm vững mạnh để có thể vượt thắng được mọi gian lao thử thách trong
đời sống hàng ngày mà sống trọn tình vẹn nghĩa cùng Chúa.
Thứ hai: Mt 8, 5-11
Mùa vọng là mùa dọn đường
để Chúa đến. Mà con đường quan trọng nhất là con đường đi vào cỏi lòng. Vậy ta
đã, đang và sẽ dọn con đường ấy như thế nào cho phù hợp với ý Chúa? Tin mừng
hôm nay sẽ chỉ cho chúng ta biết. Ta hãy chú tâm lắng nghe và nỗ lực thi hành
thánh ý của Chúa.
Trong suốt cuộc sống ở
trần gian, nhất là những năm rảo khắp miền đất Israel rao giảng Tin mừng. Có lẽ
chưa bao giờ Chúa Giêsu hết lời khen ngợi đức tin của ai cho bằng đức tin của
ông viên đại đội trưởng ngoại giáo người Rôma như đoạn Tin mừng hôm nay trình
thuật: “Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel”.
Viên sĩ quan ngoại giáo
người Rôma này đã làm gì mà được Đức Giêsu nức tiếng khen ngợi như vậy? Xin
thưa, bởi vì ông ta là người ngoại giáo và ngoại bang nhưng ông ta đã sống và
thể hiện được ba nhân đức đối thần hết sức tuyệt vời:
- Đức mến: Lòng
yêu thương của ông không chỉ dành cho người ruột thịt hay cho những người bằng
vai vế, nhưng tình yêu của ông còn dành cho cả những kẻ thấp hèn nhất trong xã
hội. Bằng chứng là ông đã hết lòng tìm cách để cứu sống cho người đầy tớ của
ông. Ngay cả việc tìm đến và hạ mình mời Chúa Giêsu đến nhà để cứu giúp cho
người đầy tớ của ông đang bị bệnh sắp chết.
- Đức cậy: Có
vững lòng trông cậy vào quyền năng nơi Đức Giêsu, ông mới mạnh dạn xin Chúa
Giêsu cứu chữa. Lòng cậy trông dẫn đến đức khiêm nhường thẳm sâu, đến nỗi ông
cảm thấy chính bản thân ông và ngay cả căn nhà nơi ông đang cư ngụ cũng không
xứng đáng để Chúa Giêsu bước chân vào: “Thưa Ngài, không dám phiền Ngài quá như
vậy, vì tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi”.
- Đức tin: Nhưng
hơn hết ông ta có một đức tin hết sức mạnh mẽ. Đức tin ấy được biểu lộ qua lời
nói đầy tin tưởng: “xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng bé nhà tôi sẽ lành
mạnh”. Với đức tin đó ông đã được Chúa Giêsu hết lời khen ngợi: “Ngay cả trong
dân Israel, tôi cũng chưa thấy một người nào có niềm tin mạnh như thế”. Qua
đây, Chúa Giêsu còn xác định cho chúng ta hiểu rằng: ơn cứu độ không chỉ dành
riêng cho dân tộc Do Thái mà còn dành cho hết những ai biết đặt trọn niềm tin
vào Đức Kitô như viên sĩ quan ngoại giáo này, “nhiều người từ phương đông và
phương tây, sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac, và Giacop trong nước trời”.
Mùa vọng là mùa dọn đường
chuẩn bị cho Chúa đến, xin cho chúng ta biết dọn con đường đi vào tâm hồn được
thông sạch bằng đời sống đức tin mạnh mẽ, lòng trông cậy vững vàng và lòng mến
yêu tha thiết theo mẫu gương của viên đại đội trưởng. Nhờ đó Chúa mới có thể
đến và ban ơn cứu độ cho chúng ta.
Thứ ba: Lc 10, 21-24
Suy niệm 1: Sống trong cảnh nước mất, nhà tan của kiếp làm nô lệ nơi đất khách quê người thời tiên tri Isaia, hơn bao giờ hết dân Do Thái mong đến một tương lai tốt đẹp. Mơ ước ấy được tiên tri Isaia loan báo trong bài đọc 1 hôm nay.
Isaia mơ ước đến một ngày
mà thế giới được chung sống hòa bình, không còn cảnh chia rẽ hận thù, chiến
tranh và chết chóc.“Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò
tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái
kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như
bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay
vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của
Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng
biển.”.
Viễn cảnh tốt đẹp ấy chỉ
đến khi Đấng Thiên Sai xuất hiện. Đấng Thiên Sai mà Isaia loan báo sẽ xuất thân
từ dòng dõi Đa-vit. “Từ gốc tổ Jesse, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội
rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non”. (Ông Jesse là cha của Vua David);
được tràn đầy Thánh Thần“Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ ngự trên vị này: thần
khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và can đảm, thần khí hiểu biết và
kính sợ Đức Chúa.”; có đầy đủ mọi đức tính xứng bậc quân vương: công
minh khi xét xử“Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không
phán quyết theo lời kẻ khác nói.”; thương yêu người nghèo hèn“Ngài
xét xử công minh cho những người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư cho kẻ
nghèo trong xứ sở.”; và can đảm nghiêm trị kẻ gian ác “Lời
Người nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà.”.
Ngày nay con người đang
sống trong một thế giới có nhiều bất ổn: dịch bệnh, thiên tai, chiến tranh,
khủng bố đe dọa từng giây phút… ; và trong một xã hội đầy dẫy những bất công,
mạnh thắng yếu thua, cá lớn nuốt cá bé, người nghèo luôn bị thiệt thòi, người vô
tội thì luôn bị ức hiếp… Hơn bao giờ hết, con người luôn mong muốn có được cuộc
sống an bình, hòa hợp nhờ vào những nhà lãnh đạo chân chính, biết tận tâm hy
sinh phục vụ cho lợi ích con người, nhất là những người thiệt thòi trong xã
hội.
Nỗi mong ước ấy chỉ thành
hiện thực khi con người biết khiêm tốn tin nhận và sống theo lời chỉ dạy của
Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai. Bởi lẽ mầu nhiệm nước trời chỉ mạc khải cho những
người bé mọn, như lời cảm tạ của Chúa Giêsu theo tình thần của bài Tin mừng hôm
nay.
Xin cho chúng ta mùa vọng
này biết can đảm loại bỏ tính kiêu căng, tự mãn nơi con người củ để mặc lấy con
người mới của chân thành, đơn sơ, khiêm tốn. Nhờ đó ta mới đón nhận được nền
hòa bình mà Chúa Giêsu mang đến trần gian, cũng như cảm nhận được niềm vui và
bình an của Chúa trong tâm hồn.
Suy niệm 2: Bố cảnh của tin mừng hôm nay xảy ra sau khi, Chúa Giêsu sai bảy mươi hai môn đệ đi loan báo tin mừng. Khi trở về, các ông rất vui mừng vì dân chúng đã đón nhận Tin mừng cách nhiệt tình. Nên Đức Giêsu hướng về Chúa Cha và cảm tạ Ngài. Đồng thời Người kêu mời các ông hãy vui mừng vì Thiên Chúa đã thực hiện những điều lạ lùng trên những người bé nhỏ, khi cho mắt họ được nghe, được thấy và được hiểu mầu nhiệm nước trời: “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy…”
1.
Những người được “thấy”, được “nghe” và
được “biết” Tin Mừng là ai ?
Thưa là
những kẻ bé mọn và khiêm tốn. Còn những người tự cho mình là thông thái, tài giỏi sinh ra kiêu
ngạo, thì Tin Mừng của Chúa khó đến với họ. Họ giống như những chiếc thùng chứa đầy
nước nên không thể đổ thêm nước vào. Có đổ bao nhiêu thì cũng vô ích, nước sẽ tràn ra ngoài
hết.
Vào thời
Minh Trị (1786-1912), ở nước Nhật có một giáo sư đại học muốn tìm hiểu về thiền
với một thiền sư nổi tiếng người Nhật tên là Nam-in.
Thiền sư
Nam-in chào hỏi, tiếp đón rất lịch sự, nhưng sau đó khi rót nước trà mời khách
thì thiền sư cố ý rót đầy tách trà của khách. Tách đã đầy nhưng thầy vẫn cứ
tiếp tục rót thêm!
Vị giáo sư
ngồi nhìn nước trong tách tràn ra cho đến khi không kềm mình được nữa, ông lên
tiếng:
- Đầy quá
rồi, xin đừng rót nữa.
- Giống như
cái tách này. Nam-in nói: “Ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng của
ông, làm sao tôi có thể bày tỏ Thiền cho ông được, trừ phi ông dốc cạn cái tách
của ông trước!”
Vâng, chỉ có
những người ý thức mình còn thiếu thốn, yếu kém mới có thể vui vẻ đón nhận Tin
Mừng. Họ được ví như những chiếc thùng rỗng nên lúc nào cũng có thể đổ thêm
nước vào. Chúa Giêsu vui mừng tạ ơn Chúa Cha vì đã cho những người bé mọn ấy
được thấy, được nghe và được biết Tin Mừng.
2.
Như vậy, muốn đón nhận được ơn Chúa, cũng như muốn hiểu được Chúa
hơn thì chúng ta cũng phải trở nên những kẻ bé mọn, đơn sơ và khiêm nhường. Có
như thế thì ơn Chúa mới có thể đến được với chúng ta. “Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã
muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang
nghe, mà không được nghe.” (Lc 10, 24).
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở nên như trẻ nhỏ, khiêm tốn, đơn sơ, chân thành trước mặt Chúa, bởi vì chúng ta thực ra chẳng có gì đáng để tự hào, huyênh hoang cả. Chúng ta có là gì đi chăng nữa thì cũng là do tình thương của Thiên Chúa ban chứ không do công trạng của mình. Bởi vậy, thay vì kiêu ngạo, chúng ta hãy có tâm tình tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã làm cho chúng ta những điều cao trọng, mặc dù chúng ta không xứng đáng.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin chúc tụng, tạ ơn Chúa vì những ân ban cao cả mà Ngài đã ban cho chúng con. Xin cho chúng con trở nên những kẻ bé mọn, khiêm tốn để dễ dàng đón nhận những ơn ban của Chúa. Amen. (St)
Thứ tư: Mt 15, 29-37
Bữa tiệc nói lên niềm vui
và hạnh phúc. Được tham dự tiệc là chung phần niềm vui và hạnh phúc cùng với
chủ tiệc. Nhưng tiệc nào ở trần gian thì cũng tàn, niềm vui nào cũng dứt. Vậy
mà Isaia lại loan báo về một bữa tiệc không hề tàn và niềm vui không hề dứt,
với những nét rất độc và thật lạ.
- Độc bởi vì mọi người đều
được mời gọi đến tham dự, và bữa tiệc do chính Thiên Chúa đứng ra tổ chức và
khoán đãi. Thực khách được ăn thỏa thích mà không phải trả đồng nào cả.
- Lạ bởi vì bữa tiệc được
dọn ra ở trên núi cao; thức ăn thì dư đầy, rượu thì ngon, thịt thì béo. Đặc
biệt, thực khách tham dự tiệc ấy thì mọi đau khổ, ô nhục, nước mắt và chết chóc
sẽ tan biến, nhường chổ cho niềm vui và hoan lạc.
Qua phép lạ chữa lành
những người bệnh tật và hóa bánh ra nhiều cho những người nghèo đói được ăn no
nê, được Tin mừng hôm nay trình thuật, Chúa Giêsu đã cụ thể hóa về bữa tiệc mà
Isaia đã loan báo. Từ đó hướng chúng ta đến bữa tiệc viên mãn trong nước trời.
Được tham dự bữa tiệc nước
trời là khao khát lớn nhất của người kitô hữu. Tuy nhiên để xứng đáng tham dự
vào bữa tiệc ấy, chúng ta cần phải tin nhận, đến với và ở lại trong Chúa. Bởi
chính Chúa Giêsu đã xác quyết: “Ta là bánh sự sống…Ai đến với Ta không hề đói và
kẻ tin vào Ta sẽ không hề khát bào giờ”. (Ga 6, 35) nên “Ai ăn thịt và uống máu
Ta thì có sự sống đời đời, và ta sẽ cho nó sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,
54).
Xin cho mùa vọng này,
chúng ta biết tích cực đáp lại lời mời gọi của Chúa qua việc siêng năng đến
tham dự bàn tiệc Thánh Thể do Chính Chúa Giêsu thết đãi hằng ngày trên bàn thờ,
hầu chuẩn bị tâm hồn xứng hợp cho việc tham dự vào bữa tiệc viên mãn trong nước
trời mai ngày.
Thứ năm: Mt 7, 21.24-27
Nhớ Thánh Am-rô-si-ô, giám
mục, tiến sĩ Hội Thánh
Có yêu nhau thì mới sẵn
sàng lắng nghe và làm theo điều người yêu mình mong muốn. Đứa con có yêu cha mẹ
thì mới trân trọng lắng nghe lời cha mẹ khuyên dạy và vui mừng thực hiện điều
cha mẹ chỉ bảo. Cũng vậy chúng ta có yêu mến Chúa thì mới nghe lời và sẵn lòng
làm theo lời Chúa.
- Không phải bất cứ ai
lãnh nhận bí tích rửa tội thì hẳn nhiên trở nên con cái đích thực của Thiên
Chúa. Nhưng để nên con cái đích thực của Chúa, trước hết chúng ta phải có lòng
yêu mến Chúa bằng cách đặt Chúa vào vị trí cao nhất trong cuộc đời chúng ta. Ưu
tiên chọn Chúa làm giá trị hàng đầu trong cuộc sống.
- Thứ đến, yêu mến Chúa
thì phải gắn bó với Chúa mật thiết. Định luật tình yêu dạy ta hiểu rằng: Yêu ai
thì ở gần người đó, yêu ai thì muốn ở bên người đó và yêu ai thì muốn ở với và
ở trong để trở nên một với người đó.
- Cuối cùng Chúa Giêsu cho
biết dấu hiệu của những người có lòng yêu mến Chúa đích thực đó là: tuân giữ
lời Chúa. Thước đo của lòng yêu mến chúng ta nhiều hay ít hệ tại ở việc chúng
ta tuân giữ lời Chúa ít hay nhiều.
Nếu chúng ta nói chúng ta
yêu mến Thiên Chúa mà chúng ta không thực hành lời Chúa dạy, thì có khác gì đứa
con “gọi dạ bảo vâng”. Nhưng chỉ vâng vâng dạ dạ mà không làm theo lời cha mẹ
chỉ dạy, thì tình yêu đó chỉ là thứ tình yêu giả hình, thứ tình yêu đầu môi
trót lưỡi. Tình yêu đó chỉ là nhãn hiệu, là cái mác mà thôi.
Vì thế, Chúa Giêsu luôn
nhấn mạnh đến lợi ích và giá trị của việc nghe và làm theo lời Chúa: “Nghe và
thực hành lời Chúa giống như người khôn xây nhà trên nền đá”; “hãy làm theo lời
Chúa chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình”. Lý thuyết và thực hành phải đi
đôi mới có ích lợi, đức tin không việc làm là đức tin chết.
Xin Chúa cho chúng ta luôn
hết lòng tuân giữ và thực hành lời Chúa bằng tình yêu mến. Biết đặt Chúa vào vị
trí quan trọng trong cuộc sống và sẵn sàng chọn Chúa làm gia nghiệp đời ta. Làm
được như thế, chứng tỏ là chúng ta yêu mến Chúa và xứng danh là con cái đích
thực của Chúa.
Thứ sáu: St 3, 9-15.20; Ep
1, 3-6.11-12; Lc 1, 26-38
KÍNH TRỌNG THỂ ĐỨC MẸ VÔ
NHIỄM NGUYÊN TỘI
Lẽ
thường tình khi nói tới "nhiễm" là người ta nghĩ ngay đến những thứ
độc hại làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống con người.
Cuộc
sống ngày hôm nay có nhiều thứ ô nhiễm gây ra nhiều tác hại đến cuộc sống con
người :
Ô
nhiễm không khí, làm ảnh hưởng đến đường hô hấp của con người.
Ô
nhiễm nguồn nước và thức ăn làm ảnh hưởng đến đường tiêu hóa.
Ô
nhiễm tiếng ồn làm ảnh hưởng không tốt đến thính giác con người.
Ô
nhiễm về phim ảnh xấu ảnh hưởng đến thị giác con người.
Tuy
nhiên, những ô nhiễm bên ngoài ấy không độc hại bằng những ô nhiễm đến từ bên
trong con người. Chính những ô nhiễm bên trong mới làm cho trái tim con người
trở nên bệnh tật và chay cứng.
Ô
nhiễm của chủ nghĩa "mặc kê nô" làm cho trái tim con người trở nên
hóa đá, xơ cứng làm cho họ dững dưng trước những nỗi đau khổ của người khác.
Ô
nhiễm của "chủ nghĩa cá nhân" làm cho trái tim con người trở nên ích
kỉ, chỉ biết tìm tư lợi cá nhân mà quên đi của hy sinh phục vụ hạnh phúc cho
tha nhân.
Ô
nhiễm của "lối sống thực dụng" nên lãng quên những giá trị luân lý,
đạo đức thuần phong mỹ tục của nhân loại.
Ô
nhiễm của "chủ nghĩa vô thần" làm cho lòng con người trở nên kêu
căng, tự mãn, bất cần đến ơn thiêng của Thiên Chúa.
Hôm
nay chúng ta cùng với GH kính nhớ lễ Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội. GH nhắc nhỡ
chúng ta hãy khiêm tốn mở lòng để luồng gió của Thánh Linh thổi vào trong tâm
hồn ta để Người thanh lọc đời ta khỏi những thứ độc hại, có nguy cơ hủy hoại
đến đền thờ tâm hồn tinh tuyền mà ta đã được thanh tẩy trong ngày lãnh nhận bí
tích rửa tội.
Xin
cho chúng ta biết noi theo mẫu gương của Mẹ Maria, luôn tin tưởng cậy trông vào
quyền năng của Chúa. Luôn biết khiêm tốn vâng nghe và thực hành lời Chúa chỉ
dạy trong mọi cảnh huống, để trái tim của chúng ta cũng được thanh sạch và rung
lên đúng nhịp yêu thương giống như trái tim của Mẹ, dưới sự tác động và hướng
dẫn của Chúa Thánh Thần. Amen.
Suy
niệm 2:
Cùng
với GH hoàn vũ, hôm nay chúng ta mừng kính trọng thể lễ Đức Maria Vô Nhiễm
Nguyên Tội. Đây là 1 trong 4 tín điều quan trọng về Đức Mẹ mà GH Công Giáo
tuyên tín và buộc các tín hữu Công giáo phải tin nhận.
Vậy
tín điều là gì? Sách giáo lý công giáo định nghĩa như sau: “Tín điều là chân lý
chứa đựng trong lời của Chúa, thuộc thành phần đức tin của GH và được công bố
do huấn quyền đặc biệt của GH, tức là do bởi Đức Giáo Hoàng hay do bởi đại công
đồng xác quyết.”
Trong
GH chúng ta có rất nhiều tín điều. Người ta thống kê có khoảng 255 tín điều.
Riêng về Đức Maria có 4 tín điều. Đó là Đức Maria là mẹ TC, Đức Maria trọn đời
đồng trinh, Đức Maria vô nhiễm nguyên tội, Đức Maria hồn xác lên trời.
Nếu
tín điều đầu tiên về Đức Maria được GH xác quyết là tín điều "Đức Maria là
Mẹ TC", được công đồng E-phê-sô tuyên tín vào năm 341 thì tín điều về
"Đức Maria vô nhiễm nguyên tội" được ĐGH Pio IX công bố vào ngày
8 tháng 12 năm 1854. Vậy là phải trãi qua 15 thế kỉ, với biết bao bài nghị
luận, tham luận, biết bao góc nhìn của các nhà chuyên môn, thông thái, am tường
trong mọi lãnh vực chấp nhận và xác quyết dựa trên nền tảng vững chắc của mạc
khải Thiên Chúa qua kinh thánh, qua thánh truyền và những dấu hiệu đáng tin
trong dòng lịch sử GH. Nhất là đã được Đức Maria hiện ra và mạc khải
cho nữ tu Bernadeth biết: Mẹ Maria chính là nữ vương vô nhiễm nguyên
tội. Cũng vậy, khi hiện ra với ba trẻ ở Fatima bên Bồ Đào Nha, Đức Maria cũng
cho biết, TC muốn thiết lập trên thế giới lòng tôn sùng trái tim vô nhiễm Mẹ.
Vì
thế trong ngày công bố tín điều Đức Maria vô nhiễm nguyên tội, Đức Giáo Hoàng
Pio IX đã khẳng định cho thế giới biết rằng: Ngay từ giây phút thụ thai trong
lòng bà Anna, Đức Mẹ đã được TC ban cho một đặc ân cao trọng là không bị nhiễm
tội tổ tông truyền. Trong khi đó tất cả nhân loại chúng ta đều mắc phải tội tổ
tông truyền; cả Gioan Tẩy Giả cũng vậy, cho đến khi Đức Maria đến thăm thì hài
nhi Gioan Tẩy Giả trong lòng bà Isave mới được giải thoát khỏi tội tổ tông
truyền. Cho nên trong lịch phụng vụ hàng năm, GH chỉ mừng sinh nhật có 3 đấng
thôi: Đức Giêsu, Mẹ Maria và Gioan Tẩy Gỉa.
Hôm
nay trong ngày mừng kính trọng thể lễ Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội, chúng ta học
được điều gì? Thưa có 2 điều chúng ta cần quan tâm học hỏi:
1.
Sau khi nguyên tổ phạm tội thì TC đã chuẩn bị và gìn giữ cung lòng Đức Maria
rất dài, để cho con TC thụ thai. Ngày hôm nay chúng ta cũng được diễm phúc cưu
mang Chúa Giêsu vào lòng, khi chúng ta lãnh nhận bí tích thánh thể. Vậy khi đến
tham dự thánh lễ chúng ta cũng phải ý thức chuẩn bị thật kỉ lưỡng từ bên ngoài
đến bên trong, từ thể xác đến tâm hồn. Sách giáo lý công giáo, GH dạy chúng ta,
muốn rước lễ nên cần có 3 điều kiện, đó là: sạch tội trọng, có ý ngay lành và
giữ chay một giờ trước khi rước Chúa.
2.
Nếu chúng ta sùng kính và yêu mến Đức Mẹ thì thì chúng ta hãy siêng năng lần
hạt Mân Côi, bởi đó là thông điệp mà Đức Mẹ đã truyền cho cho chúng ta qua
những lần hiện ra với 3 trẻ chăn cừu ở Fatima: Lucia 11 tuổi, Phanxicô 9 tuổi và Jacinta 7 tuổi.
Ước gì mỗi tối trong gia đình chúng ta biết quy tụ trước
bàn thờ thánh gia thất, để cùng nhau đọc kinh tối, lần chuỗi mân côi. Việc lần
chuỗi chắc không đòi phải đọc nhiều, chỉ cần 1 chục là đủ, nhưng chúng ta phải
lần chuỗi cách ý thức và sốt sắng. Nếu làm được điều này tin rằng gia đình
chúng ta sẽ được bình an và hạnh phúc. Còn giả như chúng ta quá bận bịu công
việc, thì ta vẫn có thể tưởng nhớ đến Mẹ Maria và lần chuỗi âm thầm ngay trong
khi làm việc. Khi lần chuỗi Mân Côi là lúc chúng ta đang đọc phúc âm. Bởi lời
Kinh Kính Mừng là sự nối kết giữa lời chào của tổng lãnh Thiên Thần
Gáp-ri-en khi truyền tin cho Đức Maria với lời bà
Êlisabét chúc mừng Đức Mẹ trong ngày Mẹ Maria thăm viếng gia
đình bà (Lc 1,39-44; Lc 1,28-30). Còn câu “Thánh
Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm
tử. Amen” chính là lời cầu khẩn của Hội Thánh thêm vào
trong Kinh Kính Mừng.
Xin
cho chúng ta luôn biết yêu mến và và vâng lời Đức Maria người Mẹ kính yêu của
chúng ta qua việc khiêm tốn ăn năn sám hối cải thiện đời sống, tôn sùng Mẫu Tâm
và siêng năng lần hạt Mân Côi. Nhờ đó chúng ta xứng đáng được Chúa ngự vào tâm
hồn ban ơn và chúc lành cho chúng ta nhờ Mẹ và qua Mẹ Maria, đấng vô nhiễm
nguyên tội. (St)
Suy niệm 3: ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM: QUẢ và
QUÀ
Lm.
Nguyễn Xuân Trường
QUẢ LỪA:
Evà đã ăn quả lừa của Satan khi ăn trái cấm
QUẢ ĐẮNG:
Ađam nghe lời vợ dụ dỗ cũng ăn. Từ đó ông bà gieo tội nguyên tổ là quả đắng cho
nhân loại.
QUẢ PHÚC:
Tạ ơn Chúa vẫn luôn thương tình đã trao Chúa Giêsu như quả phúc cứu độ nhân
loại.
QUÀ:
Mẹ Maria dâng cả con người mình để Chúa tùy nghi sử dụng. Để rồi, Chúa làm cho
Mẹ thành Đấng đầy ơn phúc – một quà tặng quý báu. Và Mẹ trở thành người cầm
quà, chuyển quà, trao quà là Con Chúa cho nhân loại.
QUÝ:
Quà là do Quý. Đức Mẹ được được đẹp lòng Thiên Chúa. Chúa quý mến Mẹ. Tặng quà
là để tỏ lòng quý mến. Quý mến ai mới tặng quà. Càng quý trọng thì càng tặng
quà quý giá. Và điều kì diệu là dù mất tiền mua quà tặng mà người ta lại thấy
vui. Chỉ sợ tặng mà người không nhận thì ta lại buồn. Quà gói cả tấm lòng. Tặng
quà là diễn tả tình lớn hơn tiền.
QUẢNG ĐẠI:
Quà diễn tả tấm lòng quý mến và quảng đại. Cần có lòng quảng đại thì mới hay
tặng quà. Chứ cứ nói quý mến nhau lắm mà chẳng thấy tặng quà bao giờ thì đó chỉ
là thương môi thương mép mà thôi.
Tạ ơn Chúa đã trao ban Chúa Giêsu và Mẹ Maria như quà tặng
vô giá cho nhân loại. Xin Chúa cho mỗi chúng con cũng biết mở lòng quảng đại
quý mến tặng quà nhau. Xin Chúa biến đời mỗi người thành món quà quý giá đem
niềm vui cho nhau và cho Chúa. Amen.
* Suy niệm Mùa vọng: Mt 9,
27-31
Bài đọc I, tiên tri Isaia
loan báo về một tương lai tốt đẹp sắp đến. Ngày ấy sẽ ngập tràn niềm vui.
- Vui cho người nông
phu vất vả gieo trồng sẽ thu nhập mùa màng hoa trái tốt tươi. “Chỉ
còn chút nữa, chút ít nữa thôi, núi Liban sẽ lại thành vườn cây ăn trái, và
vườn cây ăn trái sẽ sum sê như một cánh rừng.”
- Vui cho những người
đau khổ vì bệnh tật sẽ được cứu chữa. “Ngày ấy, kẻ điếc sẽ
được nghe những lời trong sách, mắt người mù sẽ thoát cảnh mù mịt tối tăm và sẽ
được nhìn thấy.”
- Vui cho những người
sống trong cảnh nghèo hèn và bị đàn áp sẽ được giải thoát. “Nhờ
Đức Chúa, những kẻ hèn mọn sẽ ngày thêm phấn khởi, và vì Đức Thánh của Israel,
những người nghèo túng sẽ nhảy múa tưng bừng.”
- Vui cho những người
công chính vì những kẻ gian ác sẽ bị tiêu diệt. “Thật vậy,
loài bạo chúa đã không còn nữa, quân ngạo mạn sẽ phải tiêu vong, và mọi kẻ rắp
tâm làm điều ác ắt sẽ bị diệt trừ: đó là những kẻ dùng lời nói làm cho người ta
bị kết tội, và cho người xử án tại cửa công phải mắc bẫy; chúng dùng những lời
lẽ vô căn cứ mà làm cho người công chính bị gạt ra ngoài..."
- Vui cho những người
tin tưởng vào Chúa, vì quyền năng Thiên Chúa được thể hiện. “Từ nay
Jacob sẽ không còn phải xấu hổ, từ nay nó sẽ không còn bẽ mặt thẹn thùng, vì
khi Jacob nhìn thấy nơi nó những công trình tay Ta đã làm, nó sẽ tuyên xưng
danh Ta là thánh, sẽ tuyên xưng Đấng Thánh của Jacob là thánh, và sẽ kính uý
Thiên Chúa của Israel. Những người tâm trí lầm lạc sẽ có được sự hiểu biết, và
những kẻ ương ngạnh sẽ chấp nhận lời răn dạy.”
* Còn bài Tin mừng hôm nay
cho biết Chúa Giêsu chính là Đấng mang đến niềm vui ấy. Với phép lạ
chữa cho 2 người mù được sáng mắt, như là dấu hiệu để người Do Thái hiểu rằng,
điều tiên tri Isaia tiên báo 700 năm về trước, nay đã trở thành hiện thực. Nơi
Chúa Giêsu ánh sáng của niềm vui ơn cứu độ đã đến. Nơi Chúa Giêsu số phận con
người từ nay được thay đổi. Người mù lòa sống trong đêm tối của lầm thang, khốn
khổ sẽ nhìn thấy ánh sáng soi dẫn mà hân hoan bước đi trong ánh sáng ơn cứu độ.
Xin cho mỗi người chúng ta
biết tích cực bước theo Chúa Giêsu “là đường là sự thật và là sự sống.” Cũng
như tích cực chiếu tỏa sáng niềm vui cứu độ của Chúa cho những ai đang còn ngồi
trong bóng tối tử thần.
Thứ bảy: Mt 9, 35-10,
1.6-8.
Lời Chúa hôm nay khắc họa
khuôn mặt của một vị Thiên Chúa giàu lòng thương xót:
- Bài đọc 1, tiên tri
Isaia trình bày Thiên Chúa tựa như một người cha: rất gần gũi để sẵn sàng lắng
nghe mọi tâm tư nguyện vọng của con cái mình. Ngài luôn ở bên để bảo vệ chăm
sóc phần xác cũng như phần hồn. Ngài cũng hằng quan tâm lo dạy dỗ, hướng dẫn
con cái bước đi trên con đường chân lý. Tận thâm tâm Thiên Chúa sẵn sàng tha
thứ khi con cái biết ăn năn sám hối và hết lòng chữa lành sau khi đã nghiêm
khắc sửa dạy khi con cái lầm đường, lạc lối.
- Còn bài Tin mừng hôm
nay, thánh Matthêu cho biết Chúa Giêsu chính là hiện thân của lòng thương xót
Chúa qua ánh mắt: “Chúa Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì
họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt”; đến trái
tim và rồi đưa đến những hành động cụ thể bằng cách:
- Dạy dỗ dân chúng: “Chúa
Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng
Tin Mừng Nước Trời.”
- Chữa lành mọi vết thương
hồn xác: “Chúa Giêsu chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”.
- Ngài còn lo cho dân
chúng đói khát được ăn no nê bằng cách làm phép lạ bánh hóa nhiều để họ an vui
và có đủ sức trở về lại mái ấm gia đình.
- Ngoài ra Ngài còn chuẩn
bị cho nhân loại một tương lai tốt đẹp bằng cách: chọn gọi và huấn luyện các
môn đệ để các ông này tiếp tục sứ vụ đem ơn cứu độ đến tận cùng thế giới: “Lúa
chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít”.
Mùa vọng là dịp tốt để
chúng ta nhìn lại bản thân mà cảm nhận sâu xa tình Chúa yêu ta.
Xin cho chúng ta biết không ngừng cảm tạ, chúc tụng lòng thương xót của Chúa bằng tâm tình sám hối ăn năn chân thành và nỗ lực canh tân đời sống bằng những việc làm thiết thực như: siêng năng lần chuỗi lòng thương xót; tích cực tham dự thánh lễ; nhất là nhiệt tâm làm việc bác ái để loan truyền lòng thương xót Chúa cho mọi người.
SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN I MÙA VỌNG B
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
CHÚA NHẬT: TỬ HUYỆT
“Điều Thầy nói với anh
em, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là phải tỉnh thức!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Mùa Vọng, thời gian của hy vọng; trong đó, ký ức về ‘lần
đến’ đầu tiên khiêm nhường và ẩn giấu của Con Thiên Chúa được làm mới lại trong
tâm hồn chúng ta. Và trong chính mình, mỗi người làm mới lại nỗi khát khao sự
trở lại vinh quang của Chúa. Quan trọng hơn, Mùa Vọng còn là mùa sám hối, mùa
nhận ra điểm yếu, ‘tử huyệt’ của mình để mỗi người trở về với Chúa, sẵn sàng
nghinh đón Ngài trong giờ Ngài đến!
Mùa Vọng còn là thời gian để nhìn thế giới như nó vốn
là, để thừa nhận những thứ hỗn độn đang diễn ra, để nhận ra những thất bại của
mình do sự thờ ơ bản thân gây ra. Bài đọc thứ nhất là một lời cầu nguyện tuyệt
vời của Mùa Vọng. Đại diện cho dân, Isaia thưa lên, “Lạy Chúa, tại sao Ngài để
chúng con lạc xa đường lối Ngài? Tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai
đá, chẳng còn biết kính sợ? Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống!”. Thánh Vịnh
đáp ca có chung một tâm tình, “Lạy Thiên Chúa, xin phục hồi chúng con!”. Mùa Vọng
còn là mùa tạ ơn vì hồng ân được làm con cái Chúa. Phaolô trong thư Côrintô hôm
nay viết, “Trong Đức Kitô Giêsu, anh em đã trở nên phong phú về mọi phương diện…
khiến anh em không thiếu một ân huệ nào!”.
Có lẽ chúng ta đã quá mất tập trung, quá đắm chìm trong
những mời mọc của thế gian; đắm chìm trong những cuộc trò chuyện liên miên trên
điện thoại. Mùa Vọng là món quà giúp chúng ta dành thời gian để thấy rõ, chúng
ta cần một Vị Cứu Tinh, lắng nghe tiếng Ngài thầm thì trong tâm hồn mình. Mùa Vọng,
mùa bạn và tôi được mời sống chậm lại để biết rằng, tôi cần ‘Chúa đến’, chỉ cho
tôi ‘tử huyệt’, đưa tôi trở lại con đường đúng đắn để cùng anh em, tôi sống
trên hành tinh này như ý Ngài định.
Lời Chúa hôm nay được đánh dấu sâu sắc bởi lời kêu gọi
tỉnh thức đến ba lần. Với lần thứ ba, Chúa Giêsu lên tiếng một cách trang trọng,
“Điều Thầy nói với anh em, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là phải tỉnh thức!”.
Nhưng tôi đâu có mê ngủ, tôi phải tỉnh thức điều gì?
Thần thoại Hy Lạp nổi
tiếng với Achilles, con của Peleus, vua Hy Lạp và thuỷ thần Thetis. Khi vừa hạ
sinh Achilles, Thetis được tiên tri rằng, con bà sẽ tử trận. Vì thế, bà đem con
nhúng xuống dòng sông bất tử Styx; vua cha tưởng bà hại con nên tức giận tuốt
kiếm xông ra. Bà mẹ không giải thích mà bỏ về thủy cung khi chưa kịp nhúng hai
gót chân con trai xuống nước. Kể từ đó, Achilles mình đồng da sắt, sức mạnh thần
thánh vô địch; nhưng về sau, phải chết vì một mũi tên bắn trúng gót chân, ‘tử
huyệt!’.
Anh Chị em,
Mùa Vọng, mùa tự hỏi, “Gót chân Achilles, ‘tử huyệt’, của
tôi là gì?”. Điểm yếu nhất của tôi là gì? Ngoại tình? Trộm cắp? Dối gian? Phá vỡ
hiệp nhất? Đây không chỉ là những câu hỏi đưa đến một lời khuyên khổ hạnh,
nhưng là một lời mời gọi sống như trẻ thơ, sống trong ánh sáng ban ngày. Tôi có
sẵn lòng để Chúa, người Thợ Gốm; và tôi, đất sét trong tay Ngài? Tôi có sẵn
sàng để Chúa định hình đời tôi? Chúng ta tin Chúa, nhưng có tin cậy Chúa đủ, hầu
cho phép Ngài uốn nắn và uốn nắn theo những hướng khác với ý muốn của bản thân?
Hãy lùi lại khỏi ghế điều khiển và để Chúa cầm lái! Như thế, Mùa Vọng, còn là
mùa mở lòng ra để được biến đổi bởi ân sủng.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, xin hãy ‘nhúng’ linh hồn con, trí tri con,
toàn thân con trong nước ân sủng Chúa! Xin tha thứ cho con, để Mùa Vọng này còn
là mùa con được đổi mới!”, Amen.
Thứ hai: CHIỀU KÍCH VÔ
CÙNG
“Dân dân lũ lượt đưa
nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi!”.
Trong cuốn “The Fight”, “Cuộc Chiến”, John White viết,
“Một nhân chứng tốt khác hẳn một người bán hàng! Như một bảng chỉ đường, không
quan trọng người ấy già, trẻ, đẹp, hay ít đẹp. Chỉ cần chỉ đúng hướng, dễ hiểu.
Là chứng nhân Chúa Kitô, bạn phải sống làm sao để chỉ được ‘chiều kích vô cùng’
ơn Ngài cứu độ!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Bàn tiệc Lời Chúa Mùa Vọng cống hiến cho dân Chúa những
món ăn tuyệt vời từ các bài đọc Cựu Ước, đặc biệt với sách Isaia, vốn được gọi
là “Phúc Âm thứ năm”. Chẳng hạn hôm nay, Isaia nói đến “Núi nhà Đức Chúa”, nơi
“Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi!”. Qua đó, ‘chiều
kích vô cùng’ của ơn cứu độ được tỏ hiện.
Ở Cận Đông cổ đại, núi được coi là nơi ở của thần linh;
Isaia ngước nhìn núi nhà Đức Chúa ở Giêrusalem và tiên báo những cuộc hành hương
của muôn dân nước mai ngày. Mùa Vọng, mùa ngước nhìn Đền Thờ Giêsu, nơi các dân
nước với con số muôn vàn sẽ đổ về. Vào những buổi đầu của Kitô giáo, nào ai có
thể nghĩ, một ngày nào đó, mối hiệp thông của nó sẽ lên tới con số ‘tỷ’, một
con số không hề có trong bất kỳ từ vựng nào vào thời đó!
Cũng từ Giêrusalem, rồi đây, với các môn đệ Giêsu, Tin
Mừng cứu độ sẽ được loan đi tận trời cuối đất, bất chấp biên giới, vượt quá
lãnh thổ, đạt đến một ‘chiều kích vô cùng’ trong các tâm hồn và muôn triệu con
tim. Và Giêrusalem không cần và không còn phải là trung tâm thờ tự; vì ở đâu có
Kitô hữu, ở đó có Đền Thờ và sự hiện diện của Giêsu, Đấng Phục Sinh. Thông điệp
họ rao truyền là thông điệp hoà bình, yêu thương, “Họ đúc gươm đao thành cuốc
thành cày”, một thông điệp không chỉ để rao giảng nhưng để sống!
Vậy mà, để có thể loan truyền sứ điệp đó, bạn và tôi cần
được ‘lấp đầy’ bởi Giêsu; và cùng Ngài, đến với các tâm hồn, nói với họ như
Isaia đã nói, “Hãy đến đây… ta cùng đi!”; Thánh Vịnh đáp ca có chung một tâm tình,
“Ta vui mừng trẩy lên đền thánh Chúa!”. Thật trùng hợp, Tin Mừng hôm nay nói đến
sự lấp đầy đó. Chúa Giêsu không cần lấp đầy nhà viên đại đội trưởng ngoại giáo,
nhưng Ngài cần lấp đầy lòng ông, một người vốn đại diện cho thế giới ngoại
giáo. Và quả như vậy, “Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế!”.
Anh Chị em,
“Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo
nhau đi!”. Có biết bao anh chị em của thế giới ngoại giáo cần những bảng chỉ đường.
Mùa Vọng, mùa bạn và tôi coi lại ơn gọi chỉ đường của mình. Tôi có chỉ đúng hướng
Đền Thờ Giêsu? Mùa nhìn lại lòng mình, ở đó có sự hiện diện của Giêsu? Và Mùa Vọng,
còn là mùa mời Giêsu vào nhà, nếu ở đó, vắng bóng Ngài. Hãy nhìn viên đại đội
trưởng! Bằng cách tự coi mình bất xứng, vô tình, ông tỏ ra rất xứng đáng để
Giêsu không chỉ vào nhà mà còn ‘vào lòng’ ông; vì vào nhà mà chẳng vào lòng
cũng bằng không. Vì một khi đầy Ngài, bạn mới có thể là một bảng chỉ đường “chỉ
đúng hướng, dễ hiểu”, kể cả khi phải chỉ ra ‘chiều kích vô cùng’ ơn Ngài cứu độ!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con chỉ trệch hướng! Thay vì chỉ
Giêsu, con chỉ về con; thay vì chỉ về ‘chiều kích vô cùng’, con chỉ về những
‘chiều kích có cùng!’”, Amen.
Thứ ba
Suy niệm 1: MẮT HẠNH
PHÚC
“Phúc thay mắt nào được
thấy điều các con thấy!”.
“Tôi bước vào mùa xuân, khi mọi thứ dường như quá tươi
mới. Tôi vào hạ, khi ngày trở nên ấm áp và dài hơn; khi các cô gái trở nên bí ẩn,
và chậm một chút là bạn đã ngoài ba mươi. Tôi đi qua mùa thu, khi mọi thứ đổi
thay; và thực sự kinh ngạc, vì thời gian trôi quá nhanh và tình yêu không chỉ
là cảm xúc. Rồi sang đông, khi ngày lạnh hơn và những lời tạm biệt xem ra khá
nhạt nhẽo. Ước gì mắt bạn và tôi, mắt hạnh phúc có thể nhìn thấy một mùa xuân
thiên đường, không bao giờ đổi thay nhưng tồn tại mãi!” - Anon.
Kính thưa Anh Chị em,
“Mắt hạnh phúc có thể nhìn thấy một mùa xuân thiên đường!”.
Thật bất ngờ, Lời Chúa hôm nay nói đến những ‘mắt hạnh phúc!’. Isaia hạnh phúc
khi thấy trước một mùa xuân thiên sai; các môn đệ hạnh phúc khi sờ đụng Giêsu,
một mùa xuân thiên đường.
Cảm nhận trước triều đại thiên sai như xuân đang đến,
cách lạ lùng, Isaia tuyên sấm, “Ngày ấy,
từ gốc tổ Giessê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ; từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm
non. Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này”. “Mầm non” ấy sẽ thiết lập một triều
đại chan hoà yêu thương, “Sói ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ”. Thánh Vịnh
đáp ca xác nhận, “Triều đại Người, đua nở
hoa công lý, và thái bình thịnh trị đến muôn đời!”.
Trong bài Tin Mừng, mầm non Isaia tiên báo đang sừng sững
giữa các môn đệ của Ngài, “Giêsu!”. Ngài gọi họ là người có phúc, “Phúc thay mắt nào được thấy điều các con thấy!”.
Không chỉ thấy, họ còn được ở với Ngài, trở nên bạn hữu, môn đệ của Ngài.
Phần chúng ta, dẫu không có đặc ân “thấy” Chúa Giêsu
như các môn đệ, nhưng nếu có mắt đức tin để nhìn, tai đức tin để nghe, chúng ta
vẫn có thể nhìn thấy và nghe Ngài theo vô số cách khác nhau. Từ đó, tai và mắt
chúng ta cũng trở thành những đôi tai và ‘mắt hạnh phúc’.
Mùa Vọng, mùa chúng ta cần có một đức tin tinh tuyền, một
đôi mắt trẻ thơ và sự cởi mở để hiểu và thâm nhập những mầu nhiệm cao đẹp của
Nhập Thể. Nếu không có sự cởi mở khiêm nhường này, chúng ta sẽ không bao giờ hiểu
được trọn vẹn món quà tuyệt vời của Thiên Chúa trong lễ Giáng Sinh.
Anh Chị em,
“Phúc thay mắt nào được
thấy điều các con thấy!”. Hãy suy gẫm về sự rộng mở trong trái tim bạn. Bạn có sẵn
sàng và bằng lòng đắm mình trong những mầu nhiệm vĩ đại của Thiên Chúa, Đấng đã
đến chọn nơi cư ngụ của Ngài trong lòng bạn? Đức tin bạn có phải là một đức tin
trẻ thơ cần thiết để thâm nhập vào những mầu nhiệm lớn lao trong kế hoạch yêu
thương của Thiên Chúa? Nếu được vậy thì đây sẽ là một Mùa Vọng và lễ Giáng Sinh
tuyệt vời. Vì bạn đã nhìn thấy Giêsu, “Mùa Xuân Thiên Đường”, và mắt bạn trở
nên ‘mắt hạnh phúc’ khi được chiêm ngắm Ngài. Ngài là Emmanuel, “ngày hạ không
kết thúc, ngày thu không đổi thay và ngày đông không giá buốt”. Hãy khao khát
Giêsu, khao khát thấy Ngài, nghe Ngài với một trái tim và đôi mắt của một em
bé!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cho con một chỉ khát khao Chúa; để dù nắng
hay mưa, dù hạ hay thu hoặc giữa đông lạnh, con chất ngất hạnh phúc và ấm áp
trong Ngài, Xuân Vĩnh Cửu!”, Amen.
Suy Niệm 2:
MẠC KHẢI CHO KẺ BÉ MỌN
Một chú ếch
nọ suốt đời ngồi dưới đáy giếng. Một hôm, nó ngạc nhiên vô cùng khi thấy một
con ếch khác xuất hiện trên bờ giếng. Nó lên tiếng hỏi: “Chú mày từ đâu đến?”
Từ trên miệng giếng, khách lạ tra lời: “Tôi đến từ một vùng biển”.
Lần đầu tiên
nghe nói đến biển, con ếch dưới đáy giếng thắc mắc: “Thế biển là gì? Biển
giống như cái gì?” Khách lạ lắc đầu đáp: “Biển mênh mông, biển không cùng,
không thể dùng bất cứ hình ảnh nào để nói cho một kẻ suốt đời ngồi dưới đáy
giếng hiểu được thế nào là biển”.
Nghe thế,
con ếch ngồi dưới đáy giếng mới nghĩ thầm: “Từ trước đến nay, ta gặp không biết
bao nhiêu kẻ lường gạt, nhưng tên này hẳn phải là kẻ trí trá vô liêm sỉ nhất”.
Nhiều người
có lẽ đang nhìn vào niềm tin Kitô giáo với lối suy nghĩ của chú ếch ngồi đáy
giếng trong câu chuyện trên. Người ta dùng cái vùng giếng hẹp hòi của ý thức hệ
để đo lường trời biển bao la của niềm tin tôn giáo.
Đức tin
thiết yếu là một ân ban nhưng không. Điều đó có nghĩa là người ta không đạt đến
đức tin bằng sự lý luận uyên bác của mình; và điều đó cũng có nghĩa là không
phải kẻ thông thái đương nhiên là người có đức tin hoặc có đức tin sâu sắc hơn
người quê mùa dốt nát.
Lời tá tụng
của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay xác quyết tính cách nhưng không của đức
tin. Chúa Giêsu cảm ta Chúa Cha vì đã dấu hạng khôn ngoan thông thái những điều
đó, tức là ơn đức tin, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn.
Nói đến hạng
khôn ngoan thông thái hẳn Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến những Biệt phái và luật
sĩ, những người học cao hiểu rộng. Chính cái mớ kiến thức về luật pháp và đạo
giáo ấy đã khiến họ cho mình là người nằm giữa chân lý, là người đạo đức và có
đức tin sâu sắc hơn người khác. Chúa Giêsu đã không ngừng lên án thái độ huyênh
hoang tự đắc ấy.
Chọn những
người đơn sơ, thất học làm môn đệ, kết thân với những kẻ bị đẩy ra bên lề xã
hội, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ cho mọi ngươi thấy rằng trong nước Ngài không có
sự phân biệt đối xử, rằng người ta không nhất thiết là người thông thái mới có
thể trở thành môn đệ Ngài. Để thuộc về nước Ngài, để trở nên môn đệ
Ngài, điều kiện thiết yêú là phải trở nên bé mọn, khiêm tốn, trút bỏ lối suy
nghĩ hẹp hòi của mình.
Quả thực,
người có đức tin không còn nhìn, suy nghĩ, lý luận bằng cái nhìn ích kỷ, hẹp
hòi của mình, mà bằng cái nhìn của Thiên Chúa, nhờ đó họ tìm được ánh
sáng và hy vọng ngay trong cuộc sống tăm tối, cảm nhận được sức mạnh
trong những mất mát, thua thiệt, nhận ra được lẽ khôn ngoan ngay trong những gì
mà thế gian cho là điên dại. Người có đức tin sẽ sống và yêu thương bằng chính
tình yêu của Thiên Chúa, yêu đến độ hy sinh chính mạng sống mình.
Nguyện cho
cả cuộc sống chúng ta được trở thành bài ca tán dương và tri ân Chúa vì hồng ân
đức tin Ngài đã ban cho chúng ta.
Nguyện cho
từng tâm tư, suy nghĩ, hành động của chúng ta không phát xuất từ con người ích
kỷ, hẹp hòi của chúng ta, mà là thể hiện của đức tin mà Thiên Chúa đã trao ban
cách nhưng không cho chúng ta.
Suy niệm 3: Lm. Giuse
Đinh Tất Quý
1.
Những người được “thấy”, được “nghe” và
được “biết” Tin Mừng là ai ? Thưa là những kẻ bé mọn.
Còn những
người tự cho mình là thông giỏi kiêu ngạo thì Tin Mừng của Chúa khó đến với họ.
Họ giống như những chiếc thùng đầy nước cho nên có đổ thêm bao nhiêu nước vào
nữa thì cũng vô ích, nước sẽ tràn ra ngoài hết.
Vào thời
Minh Trị (1786-1912), ở nước Nhật có một giáo sư đại học muốn tìm hiểu về thiền
với một thiền sư nổi tiếng người Nhật tên là Nam-in.
Thiền sư
Nam-in chào hỏi, tiếp đón rất lịch sự, nhưng sau đó khi rót nước trà mời khách
thì thiền sư cố ý rót đầy tách trà của khách. Tách đã đầy nhưng thầy vẫn cứ
tiếp tục rót thêm!
Vị giáo sư
ngồi nhìn nước trong tách tràn ra cho đến khi không kềm mình được nữa, ông lên
tiếng:
- Đầy quá
rồi, xin đừng rót nữa.
- Giống như
cái tách này. Nam-in nói: “Ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng của
ông, làm sao tôi có thể bày tỏ Thiền cho ông được, trừ phi ông dốc cạn cái tách
của ông trước!”
Vâng, chỉ có
những người ý thức mình còn thiếu thốn, yếu kém mới có thể vui vẻ đón nhận Tin
Mừng. Họ được ví như những chiếc thùng rỗng nên lúc nào cũng có thể đổ thêm
nước vào. Chúa Giêsu vui mừng tạ ơn Chúa Cha vì đã cho những người bé mọn ấy
được thấy, được nghe và được biết Tin Mừng.
2.
Như vậy, muốn đón nhận được ơn Chúa, cũng như muốn hiểu được Chúa
hơn thì chúng ta cũng phải trở nên những kẻ bé mọn, đơn sơ và khiêm nhường. Có
như thế thì ơn Chúa mới có thể đến với chúng ta. “Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã
muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang
nghe, mà không được nghe.” (Lc 10, 24).
Ngày xưa, có
một ông vua rất giàu sang và quyền thế. Sau khi đã chinh phục được các quốc gia
láng giềng và có được tất cả những gì mình mong ước, thế nhưng vua vẫn chưa cảm
thấy bằng lòng. Nhà vua còn ước ao có được thêm một kho tàng quý hơn nữa đó là
chìa khóa mở cửa Thiên Đàng. Vua sai các quan tướng đi tìm kiếm khắp nơi trong
nước, từ trên núi cao xuống tận đáy biển, trong rừng sâu tới chốn bùn lầy nhưng
việc làm đó chỉ tốn công vô ích. Sau cùng, chính nhà vua quyết định chính mình
sẽ đích thân đi tìm chìa khóa mở cổng Thiên Đàng.
Một hôm, nhà
vua cưỡi ngựa đến trước một bức tường cao có tháp canh, cổng sắt rất kiên cố.
Trước cổng có thiên thần canh gác rất kỹ, nhà vua tiến lại gần thân thưa:
- Tôi sẽ
không được bình an trong tâm hồn cho đến khi tìm được chìa khoá mở cửa Thiên
Đàng.
Thiên thần
cười đáp:
- Thật ra chìa
khoá mở cửa Thiên Đàng trên trần gian này không thiếu. Có hàng trăm hàng ngàn
thứ chìa khóa có thể mở được cửa Thiên Đàng. Các chìa khóa đó ở ngay dưới chân
vua. Người ta dẫm lên chúng. Ngài có thể tìm được nếu ngài bền tâm và chịu khó
tìm kiếm.
Sau lần gặp
gỡ đó, ngày ngày nhà vua bách bộ lang thang đó đây. Năm tháng trôi qua, mặc dầu
nhà vua đã mệt mỏi tìm kiếm khắp nơi trên trái đất nhưng vẫn không tìm thấy.
Rồi một ngày
kia, đang lúc đi dạo trong rừng, nhà vua vấp chân vào một gốc cây nhỏ bé gần
như sắp tàn héo bên vệ đường. Vì mắt đã già, sức yếu nên nhà vua cảm thấy tự
nhiên thích quan tâm đến những vật nhỏ bé. Nhà vua nhổ cây đó lên đem về trồng
ở hoàng cung rồi hằng ngày tự tay chăm sóc tưới bón cho nó. Các quan cận thần
trong hoàng cung thấy vậy liền nói với nhà vua:
- Tâu Chúa
thượng, sao Chúa thượng lại phải bận tâm đến một cây bé nhỏ héo tàn như vậy?
Chắc gì nó sống lại được, và nếu nó có sống được thì với tuổi tác trên vai, làm
sao hoàng thượng còn hy vọng gì nghỉ dưới bóng mát của nó hoặc hưởng dùng hoa
trái của nó được ? Nhà vua thản nhiên trả lời:
- Một ngày
nào đó, tuy ta không còn sống nữa, nhưng sẽ có người khác đến ngồi dưới bóng
cây và họ sẽ sung sướng được thưởng thức hoa trái của nó; điều đó đủ để ta cảm
thấy vui sướng ngay từ lúc này rồi.
Vừa nói
xong, nhà vua đưa chân bước đi thì kìa một chìa khóa từ dưới đất mọc lên như
một cái nấm. Chìa khóa làm bằng một thứ kim loại rất lạ xanh đỏ đủ màu.
Lạy Chúa,
Chúa đã hứa với những người thành tâm thiện chí cùng Chúa rằng: “Ai xin thì sẽ được. Ai tìm sẽ thấy. Ai gõ
cửa sẽ mở cho” (Mt 7, 7).
Xin ban cho
con được lòng khiêm tốn và bền tâm đi tìm chìa khóa mở cửa tâm hồn con trước,
để con biết nhìn mọi người với con mắt đức tin, biết bước đi trong niềm hy vọng
và biết thực thi đức bác ái trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống và nhất là với
những người bé mọn yếu hèn. Với chìa khóa này trên tay, con tin chắc Chúa sẽ mở
cửa Thiên Đàng cho con trong ngày sau hết. Amen.
Thứ tư: ĐẾN
TỪNG CHI TIẾT
“Chúa
Giêsu lên núi và ngồi ở đó; dân chúng lũ lượt đến cùng Ngài”.
“Hãy trút mọi lo âu cho Chúa, bạn thuộc về
Ngài! Đừng bao giờ nghĩ Ngài bỏ mặc bạn, vì điều đó có nghĩa là, bạn đang ‘đổ
tiếng xấu’ cho Ngài. Dù ở trong bóng tối, hãy tin yêu hy vọng; vì ngay trong sự
mờ mịt, Ngài vẫn chở che linh hồn bạn đến từng chi tiết!”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Ngay trong sự mờ mịt, Ngài vẫn chở che linh hồn
bạn ‘đến từng chi tiết!’”. Những lời của Gioan Thánh Giá trên có thật không? Cả
hai bài đọc hôm nay bảo rằng, “Thật!”. Hãy nhìn đoàn người tìm đến Chúa Giêsu!
Họ đại diện cho một nhân loại tất tả, phiêu bạt, đói khát, đủ mọi hạng người; một
nhân loại tìm kiếm Thiên Chúa.
Mat-thêu mô tả, “Chúa Giêsu lên núi, ngồi xuống, và dân chúng lũ lượt đến cùng Ngài”.
Họ đem theo những kẻ câm, mù, què, liệt và các bệnh tật khác. Ngài không thẩm vấn
họ về quá khứ, hoặc lên án họ về tội lỗi họ đã gây ra; Ngài đơn giản cung cấp
cho mỗi người những gì họ cần: thị giác, thính giác; người câm được nói, người
què nhảy nhót như nai… Và sau đó, Ngài cho họ ăn. Tuyệt vời! Điều Isaia tuyên sấm
800 năm trước về bữa tiệc trên núi Thiên Chúa sẽ thết “muôn dân” - bài đọc hôm
nay cho biết - nay ứng nghiệm với Chúa Giêsu khi Ngài nhân lên nhiều lần bánh
và cá để đãi ‘hàng ngàn người!’.
Thế nhưng, phép lạ trên núi ngày ấy mới chỉ là
khúc dạo đầu cho một phép lạ thậm chí vĩ đại hơn mà Thiên Chúa dự định sẽ thực
hiện. Ngài biết cơn đói trong lòng nhân loại là vô cùng, cơn khát trong trái
tim nó là vô biên; Ngài cũng biết giới hạn của lương thực vật chất, cả khi nó dồi
dào. Vì thế, Ngài sẽ cung cấp những gì nó thực sự cần! Ngài sẽ đãi tiệc “Chiên
Thiên Chúa”, tiệc “Đấng xoá tội trần gian” khi Con Một Ngài hạ mình, trở nên của
ăn của uống cho nhân loại. Và nó sẽ không còn đói, không còn khát! Ngay hôm
nay, mỗi ngày, trên các bàn thờ hoàn vũ, Thiên Chúa tiếp tục thết nhân loại những
bữa tiệc Thánh Thể liên lỉ với chính Thịt Máu Con mình. Rõ ràng, Ngài không chỉ
quan tâm thể xác con người khi cho nó cái ăn cái mặc, Ngài quan tâm ‘đến từng
chi tiết’ linh hồn nó!
Anh Chị em,
“Dân
chúng lũ lượt đến cùng Ngài!”.
Cuộc đời con người vẫn mãi là một cuộc tìm kiếm Giêsu. Ngài là tâm điểm mọi
khát vọng, và chỉ một mình Ngài mới thoả mãn chúng. Những ngày đầu Mùa Vọng, bạn
và tôi hãy hình dung trong giây lát về ‘khối nhân loại’ đang vây quanh Ngài
trên núi ngày ấy! Và sẽ ý nghĩa hơn, cần kíp hơn, khi chúng ta đặt mình trong
chính ‘nhân loại’ đó! Rồi như thể đám đông biến mất để bạn ở lại một mình với
Chúa Giêsu, Ngài đang nhìn vào mắt bạn với tất cả trìu mến yêu thương. Ngài
đang hỏi mỗi người chúng ta rằng, “Con tìm gì?”, “Con mắc bệnh gì?” mặc dù Ngài
biết tỏng chúng ta ‘đến từng chi tiết’. Hãy nói với Ngài ‘tử huyệt’ của bạn,
‘gót Achilles’ của bạn; phần xác, phần hồn! Đó có thể là những tội lỗi đang
chia cắt chúng ta với Chúa, với anh chị em mà chúng ta muốn vượt thắng trong
mùa hồng phúc này!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, Đấng con tìm, cũng là Đấng kiếm tìm
con. Đừng để con ‘đổ tiếng xấu’ cho Chúa vì con tin, Chúa không bao giờ bỏ con,
nhưng chăm bẵm con ‘đến từng chi tiết!’”, Amen.
Thứ
năm: NGÀN NĂM BỀN VỮNG
“Chỉ
ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, mới được vào Nước Trời!”.
Trong “Our Daily Bread”, “Lương Thực Hằng
Ngày”, tác giả viết, “Julius Caesar chinh phục 800 thành phố, nhuộm cẩm bào bằng
máu của một triệu kẻ thù; rồi chỉ để bị đâm chết bởi những người bạn chí thiết
tại chiến thắng vĩ đại nhất! Thành công tạm thời thường đội vương miện cho những
kẻ vô thần, vốn không bao giờ hài lòng hoàn toàn. Khi những thành tựu rực rỡ nhất
không được nhìn thấy dưới ánh sáng vĩnh cửu, đặt nền móng trên Thiên Chúa ‘ngàn
năm bền vững’, chúng chỉ kéo dài và có giá trị như những bọt nước!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Cũng thế, niềm tin vào Thiên Chúa nếu không đặt
nền móng trên Nền Đá Kitô ‘ngàn năm bền vững’, nó chỉ kéo dài và có giá trị như
những bọt nước. Nó phải thâm nhập trong trí, ấp ủ trong tim và thể hiện trong
hành động. Lời Chúa hôm nay tiết lộ, ai thực hiện ý muốn của Chúa Cha, “Người ấy
mới được vào Nước Trời!”.
Chúa Giêsu khuyến khích các môn đệ xây dựng niềm
tin trên “Đá”, chính Ngài; không phải trên tình cảm. Để có thể đặt một nền tảng
kiên cố cho toà nhà đức tin, phải khổ công. Nó đòi hỏi kiên định trong cầu nguyện,
bền bỉ trong bác ái và miệt mài trong tự hiến; nó cũng đòi hỏi một sự khiêm tốn
và một ý ngay lành tinh anh. Bởi lẽ, chuẩn bị nền móng không bao giờ là một
công việc hào nhoáng. Chẳng có gì đẹp đẽ với một hố sâu, hoang hoác, bì bõm bùn
lầy tại công trường! Cũng thế, trong đời sống thiêng liêng! Việc đào móng buộc
bạn và tôi phải xuống sâu, loại bỏ những tội lỗi tồi tệ nhất. Quá trình này thường
không mấy lý thú! Nó buộc bạn thành thật đối mặt với các tính hư nết xấu. Không
có bước quyết định này, bạn và tôi có nguy cơ xây dựng đời mình, một ‘đời cát’
không hơn không kém!
Toà nhà có vẻ vững khi mọi sự xem ra bình lặng.
Thời tiết tốt không cho biết độ chắc của nó; thử nghiệm thực sự chỉ đến khi
thiên nhiên trở nên hung hãn. Tương tự như thế trong đời sống đức tin! Khi sự
thanh thản bảo bọc, cuộc sống bạn dễ dàng nở hoa; khủng hoảng ập xuống chính là
lúc bạn nhận thức ‘độ cứng’ của đức tin mình. Vậy làm sao để có thể đối mặt với
những cám dỗ, thất bại hay một khủng hoảng nghiêm trọng?
Câu trả lời được tìm thấy trong bài đọc Isaia
hôm nay, “Chúng ta có thành trì vững chắc: Chúa đã đặt tường trong luỹ ngoài để
chở che”. Chỉ trong Giêsu, với Giêsu và trên Giêsu, “tường trong luỹ ngoài”
‘ngàn năm bền vững’, toà nhà đức tin của bạn và tôi mới có thể kiên cường trước
mọi cám dỗ, thất bại hay một khủng hoảng.
Anh Chị em,
“Chỉ
ai thi hành ý muốn của Cha Thầy mới được vào Nước Trời!”. Mùa Vọng, mùa xem xét nền tảng cuộc đời của
chúng ta là gì? Mùa Vọng còn là mùa đào móng để xây lại toà nhà đức tin trên nền
móng Giêsu, bằng cách nên giống Ngài, lắng nghe Ngài hầu có thể thấu hiểu và
hành động theo ý muốn của Ngài. Đặt toà nhà đức tin trên Giêsu theo cách này, bạn
sẽ không lo sợ trước một cơn sóng cả, sóng cồn hay một cơn lốc nào vốn có thể hất
tung nó. Hành động theo ý muốn của Thiên Chúa là ôm ấp và đầu phục hoàn toàn đối
với Lời; nó có nghĩa là, để cho Lời và Thánh Thần hướng dẫn hành động. Và như
thế, bạn và tôi đã xây đời mình trên đá tảng vững chắc, đời chúng ta không còn
là ‘đời cát!’.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con đội vương miện của kẻ vô
thần với những thành tựu chỉ kéo dài như bọt nước. Giúp con xây đời con trên
chính Chúa, nó sẽ ‘ngàn năm bền vững!’”, Amen.
THỨ
SÁU: KÍNH TRỌNG THỂ LỄ ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
BAY
CAO VÚT: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng!”.
Trong “Living for Eternity”, “Sống Cho Vĩnh Cửu”,
Dave Breese so sánh: “Giá mà Ađam Eva giữ được trạng thái ban đầu! Tiếc thay, họ
đã khuất phục con rắn! Trước đó, trong trạng thái nguyên sơ đẹp đẽ, họ tồn tại ở
một mức độ cao hơn nhiều so với loài người bây giờ. Thật khó để hình dung con
người lúc đó! Giờ đây, xem ra nó đang cố tạo lại phiên bản gốc của mình như tái
tạo một chiếc máy bay từ đống đồng nát. Và nếu không biết gì về việc bay, khó
có thể ngờ rằng, nó đã từng bay! Vật liệu giống nhau; tuy nhiên, khả năng bay
không còn!”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Vật liệu giống nhau; tuy nhiên, khả năng bay
không còn!”. Nhận xét của Breese thật sâu sắc, tinh tế! Tuy nhiên, với ân sủng
của Thiên Chúa, mọi vật vẫn có thể được tái tạo, có thể bay trở lại và ‘bay cao
vút!’. Đó là một sự thật hấp dẫn khơi gợi niềm cảm hứng và hy vọng cho bạn và
tôi trong ngày mừng kính Đức Trinh Nữ Maria, Vô Nhiễm Nguyên Tội!
Các bài đọc tường thuật hai cuộc đối thoại của
hai bà mẹ với Chúa. Eva, mẹ của ‘cuộc đối thoại mất mát’ khi đang trần truồng,
phải ẩn núp vì sợ ánh sáng. Đó là cuộc đối thoại chạy tội đầy sợ hãi. Ađam đổ lỗi
cho Eva, Eva đổ lỗi cho con rắn và kết quả, hai ngài bị đuổi khỏi địa đàng. Một
cuộc đối thoại xúi quẩy mà kết quả là nguyên tổ và hậu duệ “mất khả năng bay!”.
Tuy nhiên, giữa khoảnh khắc bẽ bàng đó, Thiên Chúa vẫn không tài nào giấu được
cảm xúc và lòng thương xót khi Ngài nói với con rắn, “Ta sẽ đặt mối thù giữa mi
và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp
nát đầu mi”. Đó là ‘tiền Phúc Âm’, một lời hứa. Và Thiên Chúa đã thực hiện điều
Ngài hứa!
Maria, người mẹ thứ hai, mẹ của ‘cuộc đối thoại
được lại’, khoác phẩm phục chói ngời nhân đức của “Đấng đầy ân sủng”. Mẹ mở
toang cửa nhà, mở rộng cõi lòng, thưa “Xin vâng!”. Để từ đó, con người đã bị đuổi
được vào lại nhà Cha, nhờ sự chết và phục sinh của Đấng Mẹ cưu mang. Thiên Chúa
là tình yêu! Thiên Chúa lớn hơn con người; tình yêu lớn hơn sự chết; lòng
thương xót lớn hơn tội lỗi! Đó là một cuộc tái tạo “phiên bản gốc”, cuộc tạo dựng
mới mẻ kỳ vĩ! Thánh Vịnh đáp ca diễn tả, “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì
Người đã thực hiện bao kỳ công!”. Với cuộc đối thoại thứ hai, con người biết rằng,
với ân sủng Chúa, nó vẫn có khả năng bay trở lại và ‘bay cao vút!’. Phaolô xác
thực niềm vui đó qua bài đọc hai, “Trong Đức Kitô… trước thánh nhan Người, ta
trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người!”.
Anh Chị em,
“Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng!”. Không chỉ
Đức Mẹ đầy ân sủng, cả chúng ta cũng đầy ân sủng! Từ ngày lãnh nhận Bí tích Rửa
Tội, mặc lấy Chúa Kitô, chúng ta “không thiếu một ơn nào”. Vì thế, chừng nào sống
trong ơn nghĩa Chúa, nghĩa là sống trong tình trạng sạch tội và quyết tâm làm
theo ý muốn của Ngài, chúng ta vẫn có thể ‘bay cao vút’ như Đức Mẹ. Qua mọi thời,
các thánh đã bay cao, bao tâm hồn quảng đại không sống cho mình nhưng chỉ sống
cho Chúa đã bay cao. Ngược lại, một khi nuông chiều xác thịt, liều lĩnh đánh mất
ơn nghĩa Chúa và phạm tội, thì tuy “vật liệu giống nhau, khả năng bay đã không
còn!”. Mùa Vọng, mùa tìm lại khả năng bay!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, con chỉ là một đống đồng nát. Những
ngày Mùa Vọng, giúp con tìm đến suối Hoà Giải, tắm gội trong ân sủng, hầu con
có thể tiếp tục bay trở lại, ‘bay cao vút!’”, Amen.
Thứ bảy: KÍN ĐÁO VÀ THẦM LẶNG
“Thấy
đoàn lũ dân chúng, Ngài động lòng xót thương họ!”.
Từ nhật ký của một tử tù, người ta đọc được những
lời này, “Lạy Chúa, Ngài làm con bầm dập; nhưng con vô cùng mãn nguyện, vì việc
con phải bầm dập đến từ tay Ngài! Chúa kín đáo sửa phạt con, nhưng thầm lặng chữa
lành con! Ôi, Đấng ‘kín đáo và thầm lặng’ yêu thương con miên viễn!”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Đấng ‘kín đáo và thầm lặng’ yêu thương con
miên viễn!”. Sẽ khá bất ngờ khi tâm tình của người tử tù được gặp lại qua hai
bài đọc hôm nay.
Lời Chúa phản ánh rõ nét một trong những tính
cách của Thiên Chúa, ‘kín đáo và thầm lặng!’.
Ngài kín đáo sửa dạy, Ngài thầm lặng chữa lành! Matthêu viết, “Thấy đoàn lũ dân
chúng, Ngài động lòng xót thương họ!”.
- Bài đọc Isaia tiết lộ, Thiên Chúa âm thầm chữa
lành dân, một dân ngỗ nghịch đã bị Ngài đánh phạt, “Ngươi sẽ không còn phải khóc nữa. Khi ngươi kêu cứu, Người sẽ thi ân
giáng phúc!’”. Đó là ngày “Chúa băng
bó vết thương cho dân, và chữa lành những chỗ nó bị đánh”.
Thánh Vịnh đáp ca viết, “Hạnh phúc thay mọi kẻ
đợi chờ Chúa!”; họ chờ đợi Ngài hồi hương, băng bó và chữa lành!
Với bài Tin Mừng, lời Thiên Chúa hứa trở nên hiện
thực. Matthêu cho biết, Chúa Giêsu thường xuyên di chuyển! “Ngài đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường,
rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”. Ngài
bày tỏ lòng trắc ẩn sâu xa đối với tất cả những ai bị loại trừ, những kẻ mất
phương hướng. Đó là những ai đang “lầm
than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn”. Ngài là vị mục tử dẫn dắt
họ về nơi họ thuộc về.
Thứ
đến, Chúa Giêsu kín kẽ thổ lộ với các môn đệ về một mùa gặt lớn đang đợi họ. Có thể nói, Ngài cần sự giúp đỡ. Vụ mùa vẫn bội
thu và nhu cầu thợ gặt vẫn lớn hơn bao giờ hết. Đó không là công việc của riêng
ai, nhưng là sứ vụ chung của mọi Kitô hữu. Từ ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi
chúng ta là thợ gặt vốn có thể đến một góc của cánh đồng vốn không ai có thể
thay thế. Những người này bao gồm gia đình tôi, hàng xóm, đồng nghiệp và những
con người bước vào đời tôi. Tôi có thể là người duy nhất âm thầm mang sự chữa
lành và lòng trắc ẩn của Chúa vào cuộc sống họ.
Anh Chị em,
“Ngài động lòng xót thương họ!”. Để có thể ‘ra
tận cánh đồng’, nhất định chúng ta phải có một tấm lòng thương xót như Chúa
Giêsu! Thật tuyệt vời, Ngài còn tiết lộ cho chúng ta một bí quyết ‘ra tận cánh
đồng’ không kém hiệu quả khác. Đó là cầu nguyện, “Hãy xin chủ mùa gặt sai thợ
ra gặt lúa về!”. Lửa truyền giáo còn được khám phá trong việc âm thầm cầu nguyện.
Nhờ cầu nguyện mỗi ngày, bạn gần Chúa Giêsu hơn; và Ngài cũng nói với bạn như
đã nói với các môn đệ, “Hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại,
cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ!”. Với bạn, ai là người bại
liệt; ai là người chết, phong hủi và quỷ ám? Rất có thể họ là những người chung
quanh bạn, ở mức độ này hay mức độ khác. Hãy tìm họ, ‘kín đáo và thầm lặng’ tiếp
cận họ, chia sẻ Chúa Kitô với họ, và ở đó vì họ!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, gửi con ‘ra tận cánh đồng’ cho những ai bầm dập nhất. Cho con xác tín, Chúa đang ‘kín đáo’ dõi mắt nhìn họ, đang ‘thầm lặng’ ngước mắt nhìn con!”, Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét