Tìm kiếm Blog này

Thứ Ba, 12 tháng 12, 2023

SUY NIỆM LỜI CHÚA III MÙA VỌNG

                                              Lm. Nguyệt Giang

CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG NĂM B

Is 61, 1-2a. 10-11; 1Tx 5, 16-24; Ga 1, 6-8.19-28

Suy niệm 1:

Cùng với GH, chúng ta bước vào Chúa nhật thứ 3 mùa vọng, được gọi là Chúa nhật của màu hồng. Màu hồng diễn tả niềm vui và hy vọng. Vui vì đại lễ Giáng sinh kỉ niệm biến cố Con Thiên Chúa làm người để cứu độ nhân trần đã đến gần. Hy vọng vì Thiên Chúa là Người Cha giàu lòng thương xót luôn sẵn sàng tha thứ tội lỗi và ban dư tràn ơn phúc cho ta, nếu ta biết thành tâm sám hối và canh tân đời sống.

Xin Chúa giúp mỗi chúng ta biết mở lòng đón nhận lời mời gọi của Chúa và mau mắn thi hành điều mà Chúa chỉ dạy. Nhờ đó niềm vui và hy vọng của ơn cứu rỗi sẽ đến được với chúng ta và qua ta niềm vui tin mừng của Chúa cũng được lan tỏa đến với mọi người.

Thông thường Mùa Vọng, trên bàn thờ người ta cắm 4 cây nến, 3 cây màu tím, 1 cây màu hồng. Chúa nhật hôm nay cây nến màu hồng được thắp sáng. Cũng trong Chúa nhật hôm nay, chủ tế lại mặc phẩm phục màu hồng khi dâng thánh lễ. (mỗi năm chủ tế chỉ mặc phẩm phục màu hồng  hai lần vào Chúa Nhật III Mùa Vọng và Chúa Nhật IV Mùa Chay).

Trong Phụng vụ hôm nay, GH cũng cho phép cắm ít hoa, đệm đàn phong cầm và nhạc cụ khác. Tất cả như muốn diễn tả niềm vui. Niềm vui ấy được ghi đậm nét trong phần phụng vụ lời Chúa hôm nay:

- Bài đọc một, ngôn sứ Isaia loan báo niềm vui của Đấng Cứu Thế sẽ đến: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ ĐỨC CHÚA, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang!” (Is 61, 10) Trong những lời này, có hình ảnh cô dâu-chú rể, tiệc cưới là những hình ảnh tiêu biểu diễn tả về tình yêu, niềm vui và sự sống.

- Câu đáp ca là lời nguyện tràn đầy niềm vui của Đức Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi”.

- Trong bài đọc 2, Thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca hãy vui lên: “Thưa anh em, anh em hãy vui mừng luôn mãi !”

- Cách đặc việt trong đoạn Tin mừng hôm nay, mặc dù không nói đến niềm vui bên ngoài, nhưng nói đến niềm vui sâu xa bên trong qua cách biểu toả của Gioan Tẩy Gỉa. Ông vui vì cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của mình. Ông vui vì được Chúa chọn để trở thành vị tiền hô giới thiệu về Đấng Cứu Thế mà muôn dân đang trông đợi. Đấng ấy đang hiện diện giữa họ: “có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (x. Ga 1, 26). Đấng ấy tuy đến sau ông, nhưng lại có trước ông và cao trọng quyền thế hơn ông. Và ông "không đáng cởi quai dép cho Người.” (Ga 1,27).

Gioan rất vui mừng được trở nên bé nhỏ để Chúa được lớn lên. Ông không sợ mất đi ảnh hưởng, không quy hướng danh dự và vinh quang về cho mình. Ông ý thức rằng mình phải nhỏ đi để Người được lớn lên và được toả sáng. Ông xác tín rằng mình không phải là ánh sáng nhưng chỉ là người làm chứng về ánh sáng để mọi người nhờ ông mà tin và bước theo ánh sáng đích thực là Đức Kitô. Chính vì thế mà Giáo Hội gọi Chúa Nhật III Mùa Vọng là “Chúa nhật Gaudete”, tiếng Latinh có nghĩa là “Anh chị em hãy vui lên !”.

Như vậy, lí do sâu xa nhất của niềm vui mà GH mời gọi chúng ta, chính là vì Đức Kitô đã đến, đang đến. Đây là điều mà ngôn sứ Isaia và thánh Gioan đã loan báo và niềm vui này sẽ được thành toàn trong ngày Chúa Kitô đến lần thứ hai trong vinh quang. Vì thế mà chúng ta được mời gọi là hãy vui lên!

Nếu Mùa Vọng là thời gian của mong chờ, thì ta hãy mong chờ trong canh thức (CN I), mong chờ trong hoán cải (CN II), mong chờ trong niềm vui (CN III), vì Chúa đã đến rồi, vì Chúa vẫn đến mỗi ngày, và sẽ lại đến một cách dứt khoát để đáp lại khao khát trời mới đất mới của chúng ta, đáp lại ước ao sự sống và tình yêu viên mãn của chúng ta.

Biến cố Đức Kitô đã đến mà chúng ta sắp kỉ niệm, phải là niềm vui của chúng ta, không chỉ vào dịp Lễ Giáng Sinh, nhưng là niềm vui mỗi ngày. Bởi lẽ, nếu Ngài chưa đến thì chúng ta sẽ không có Giáo Hội, không có Thánh Lễ hằng ngày, không có ơn gọi Ki-tô hữu, không có ơn gọi dâng hiến, không được sống bên nhau trong tình anh chị em có cùng một Cha một Thầy, không có Đức Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không nhận ra ý nghĩa của cuộc đời, của đau khổ, của bệnh tật, của tuổi già, của cái chết, cũng như không có niềm hi vọng…

Vì thế mà trong bài đọc 2, thánh Phao-lô mời gọi chúng ta: “Thưa anh em, anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu." (1Tx 5, 16-18).

Nhưng để sống trọn niềm vui ấy thì chúng ta cần phải biết lắng nghe và thực thi lời dạy của Chúa, ngang qua lời kêu gọi của tiên tri Isaia và Gioan Tẩy Gỉa là ăn năn sám hối và canh tân đổi mới đời sống. Cách cụ thể là chúng ta hãy noi theo lối sống gương mẫu của Thánh Gioan Tẩy Giả, đó là:

- Thứ nhất yêu chuộng đời sống khó nghèo. Gioan Tẩy Gỉa không sống nơi phồn hoa đô thị nhưng lại chọn hoang địa khô cằn; ngài không ăn mặc gấm vóc lụa là nhưng mặc da thú; ngài không ăn những cao lương mỹ vị nhưng lại ăn châu chấu và uống mật ong rừng…

- Thứ hai can đảm sống và làm chứng cho chân lý. Gioan đã can đảm lên án những bất công trong xã hội và kêu gọi mọi thành phần oán cải. Ngài cũng mạnh mẽ  lên án tội ác của vua Hêrôđê cho dù phải đối mặt với tù tội và cái chết.

- Thứ ba dám chấp nhận sống sự thật về mình với lòng khiêm tốn. Cho dẫu mọi người tôn vinh ngài như là Đức Kitô, như Êlia hay một ngôn sứ, nhưng ngài đã can đảm khướt từ các danh hiệu ấy và khiêm tốn chỉ nhận mình là tiếng kêu trong sa mạc, là kẻ dọn đường cho Đấng Messia và là kẻ thấp hèn trước Đấng Cứu Thế, đến nỗi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người. Ông xác nhận phép rửa của ông chỉ bằng nước nhưng phép rửa của “Đức Giêsu sẽ rửa anh em trong Thánh Thần”.

Như thế để có được niềm vui ta phải biết chấp nhận “cái là” về mình, đồng nghĩa với việc chấp nhận sự thật về mình; muốn có niềm vui ta phải can đảm sống tinh thần khó nghèo để thanh luyện bản thân mình, nhất là biết loại trừ tính kiêu căng tự mãn để sống khiêm tốn trước Chúa và mọi người. Sống được như vậy tâm hồn chúng ta mới có được niềm vui sâu xa.

Xin cho chúng ta biết noi gương Gioan Tẩy Gỉa dám chấp nhận lối sống khắc khổ và tiết chế trong mùa vọng này để góp phần giúp đỡ anh chị em còn nghèo khổ; cũng như  biết can đảm loại trừ tính kiêu căng, tự mãn và tham lam gian dối ra khỏi tâm hồn mình để Chúa dễ dàng lấp đầy tình yêu và ân sủng của Chúa vào tâm hồn ta.

 

Suy niệm 2: ĐỐT NÓNG TÌNH YÊU VÀ THẮP SÁNG NIỀM TIN

Nước mắt và nụ cười, thành công và thất bại, họa và phúc, đau buồn và niềm vui luôn đan xen vào nhau, tựa như những sợi chỉ màu kết dệt nên tấm thảm cuộc đời đa sắc màu nơi mỗi con người chúng ta.

Cùng với GH chúng ta bước vào Chúa Nhật III MV, gọi là Chúa nhật hồng vì tràn đầy niềm vui và hy vọng. Vì thế có người sánh ví thời gian này tựa như thời kỳ mang thai của người phụ nữ. Tuy có nhiều hoang mang, lo lắng bởi trong giai đoạn thai kì này. Nhưng người mẹ cũng cảm nhận được niềm vui vào sự sống của một sinh linh đang lớn dần trong cung lòng mình. Và niềm vui ấy được vỡ òa sau cơn quặng đau lúc lâm bồn, khi nhìn thấy một sinh linh chào đời được an toàn và mạnh khoẻ. Trong chính ý nghĩa ấy nên từ xa xưa người Công giáo ở tây phương, cụ thể là ở nước Đức, người ta có thói quen kết những cành lá bằng cây thông hay cây dương còn xanh thành một vòng tròn, rồi đặt chung quanh vòng tròn ấy 4 cây nến, 3 cây màu tím và một cây màu hồng.

- Vòng tròn tượng trưng cho sự hoàn hảo tuyệt đối của Thiên Chúa; vòng tròn còn diễn tả cho biết Thiên Chúa không có khởi đầu và kết thúc, bởi Người là Alpha và Omega, khởi nguyên và cùng tận; Ngài là Đấng đã có, hiện có và sẽ đến. Màu xanh của cành lá còn muốn diễn tả niềm hy vọng và sự sống luôn triển nở.

- Bốn cây nến lần lượt được thắp lên trong mùa vọng, như muốn diễn tả chiều dài của dòng lịch sử ơn cứu độ nơi trần gian này. Và cũng là biểu trưng cho những chặng đường chuẩn bị đón chào Đấng Cứu Thế đến với nhân loại với những tâm tình vui buồn lẫn lộn, đan xen vào nhau.

Hôm nay Chúa nhật thứ III mùa vọng, cây nến màu hồng được thắp lên muốn nói lên niềm vui. Vui vì lễ Giáng Sinh kỉ niệm biến cố trọng đại, Con Thiên Chúa làm người mang ơn cứu chuộc đến cho nhân loại đã gần kề. Niềm vui ấy được diễn tả qua màu sắc phẩm phục của chủ tế, qua những cung bậc âm thanh rộn ràng, qua sự trang trí đèn hoa trên cung thánh; nhất là lời vang vọng của sứ điệp lời Chúa trong thánh lễ hôm nay.

Nếu hướng nhìn ra bên ngoài, thời tiết bắt đầu se lạnh, lòng người cảm thấy phấn chấn và dễ chịu hơn. Mọi người như tất bật trong công việc dọn dẹp, trang hoàng lại nhà cửa, đường phố cho sạch đẹp và rực rỡ hơn. Con người như được xích lại gần nhau và ai nấy đều mong muốn những điều tốt đẹp cho nhau. Những cánh thiệp giáng sinh cũng bắt đầu được gửi trao cho nhau, cùng với những lời cầu chúc an lành, tốt đẹp nhất dành tặng cho nhau… Tất cả như muốn biểu tỏ niềm vui! Những niềm vui bên ngoài ấy rất cần cho cuộc sống, tuy nhiên rồi cũng qua mau. Niềm vui mà mỗi chúng ta cần hướng đến phải là niềm vui thiêng liêng phát xuất từ trong tâm hồn mới bền vững. Nhưng làm thế nào để có được niềm vui ấy? Phụng vụ lời Chúa hôm nay gợi lên cho chúng ta những ý tưởng sau đây:

1. Cần phải cảm nếm được tình thương cứu độ của Chúa

Khi chẳng may ta rơi xuống hố sâu hay vực thẳm đen tối, không có khả năng tự cứu mình. Trong lúc ấy nếu có ai biết được mà ra tay cứu mình lên khỏi hố sâu vực thẳm đó, thì ta sẽ vui mừng biết mấy. 

Hay khi bị trôi dạt giữa biển trời mênh mong, phải ngụp lặn trong màn đêm tối vô vọng không thấy bến bờ đâu hết. Lúc ấy bổng nhiên có ai đó biết được và đưa tay ra cứu lấy mạng sống ta, chắc hẳn ta sẽ vui mừng khôn tả. Cũng thế, dân Israel xưa đang phải sống trong tình cảnh đau khổ vì đang bị lưu đày nơi đất khách quê người, nhưng một ánh hy vọng được lóe lên qua lời ngôn sứ Isaia loan báo về một viễn cảnh tương lai đầy tươi sáng. Khi ấy những đau khổ của họ hầu như được tan biến, bởi họ cảm nhận được Thiên Chúa yêu thương, không hề bỏ mặt họ ngụp lặn trong biển đời đau khổ mà sẽ đến giải thoát họ khỏi kiếp đọa đày. Niềm vui ấy đã được tiên tri Isaia cảm nhận và loan báo cho họ biết trong bài đọc 1: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa. Nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao. Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ.”

Niềm vui ấy cũng được Mẹ Maria cảm nhận và cất cao qua bài ca Magnificat khi biết mình được Thiên Chúa đói thương nhìn tới và ra tay cứu độ dân Người: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa. Thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.”

Qủa thật, có niềm vui nào bằng khi biết mình được Thiên Chúa yêu thương nhìn đến và sẵn sàng hy sinh mạng sống để cứu chuộc chúng ta. Có hạnh phúc nào sánh ví cho bằng biết được từ nay mọi hố sâu ngăn cách do tội lỗi gây ra đã được lấp đầy. Trong Chúa Giêsu Kitô, trời đất đã được nối kết và giao duyên, tình yêu thương giữa con người với nhau và với Thiên Chúa được kết nối.

2. Phải tích cực tham gia vào sứ mạng làm chứng nhân cho tình yêu của Chúa.

Khuynh hướng tự nhiên, khi yêu ai, ta thích nói về người ấy và vui sướng giới thiệu người mình yêu cho mọi người được biết. Tương tự như thế, Tin mừng hôm nay cho biết Gioan Tẩy Gỉa cũng vui mừng giới thiệu Đấng Cứu Thế cho mọi người biết đến. Đấng ấy chính là ánh sáng đã đến trong thế gian.

Gioan còn tích cực kêu gọi mọi người hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế ngự đến. Lời giới thiệu về Chúa của ông được mọi người tin tưởng và đón nhận vì lời chứng ấy rất khả tín bởi dân chúng nhìn thấy được đời sống tốt lành và thánh thiện của ông. Gioan đã khiêm tốn tự xóa mình đi để cho Chúa được lớn lên, khi ông tự nhận mình là kẻ thấp hèn, không xứng đáng cúi xuống để cởi quai dép cho Đấng mà ông giới thiệu. Niềm vui thật sự của chúng ta có được khi chúng ta biết chu toàn tốt sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa như Gioan Tẩy Gỉa ngang qua đời sống tốt lành, gương mẫu của mỗi chúng ta. 

Xin Chúa cho chúng ta cảm nhận được niềm vui trong tâm hồn vì biết rằng Thiên Chúa hằng yêu thương, chăm sóc chúng ta nên hãy can đảm loan báo niềm vui cứu độ của Chúa đến với mọi người qua chính đời sống tràn đầy niềm vui, niềm tin và hy vọng vào Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng taAmen.

 

 Suy niệm 3: CHỨNG NHÂN NIỀM VUI TIN MỪNG

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Với Chúa Nhật III Mùa Vọng, chúng ta đang tiến gần tới đại lễ Giáng Sinh. Khắp nơi đã bừng lên bầu khí Giáng Sinh với việc trang hoàng hang đá, cây thông, đèn điện nơi thành phố cũng như thôn quê. Tất cả đều diễn tả niềm vui Giáng Sinh.

Cùng với bầu khí đó, theo truyền thống, Chúa Nhật III này được gọi là Chúa Nhật của niềm vui: “Gaudete in Domino Semper – Hãy vui luôn trong Chúa.” Lời Chúa mời gọi chúng ta suy tư về chủ đề xuyên suốt các bài đọc: “Chứng nhân cho niềm vui.”

1. Tiên báo và chứng nhân niềm vui

Trong bài đọc I, trích sách tiên tri Isaia, Đấng Mêsia được miêu tả như là người được xức dầu bởi Thần Khí và được sai đi để làm chứng nhân cho niềm vui cứu độ. Nhờ việc xức dầu và sai đi này, Đấng Mêsia đến để “loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa” (Is 61,1-2). Như thế, theo lời ngôn sứ, Đấng Mêsia là người mang niềm vui của Thiên Chúa cho nhân loại.

Tin Mừng giới thiệu Gioan Tẩy Giả là chứng nhân cho ánh sáng và niềm vui. Ánh sáng và niềm vui đó chính là Chúa Giêsu. Ông xuất hiện như một dấu hỏi lớn cho dân chúng. Người ta cứ tưởng ông là Đấng Kitô. Nhưng ông thẳng thắn trả lời: Tôi không phải là Đấng Kitô. Tôi chỉ là người dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người (x. Ga 1,19-28).

2. Chúa Giêsu, niềm vui đích thực

Như thế, những lời tiên báo của Isaia nay đã được ứng nghiệm. Đấng Mêsia mà dân Chúa đang mong đợi chính là Đức Giêsu, Người mang niềm vui và chính là niềm vui của Thiên Chúa. Thật vậy, Con Thiên Chúa làm người là Tin Mừng lớn nhất cho nhân loại. Người đến để giải thoát con người khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi và mang lại ơn cứu độ cho mọi người. Đó là niềm vui lớn lao nhất! Bởi thế, giáo phụ Origene quả quyết: Chúa Giêsu vừa là Tin Mừng, vừa là nội dung Tin Mừng.

Chúng ta cần suy tư xa hơn: ơn cứu độ mà chúng ta có được không phải nhờ những thành tựu khoa học, kỹ thuật, cũng không phải do của cải vật chất, hay ý thức hệ mang lại, nhưng một cách chính yếu, là do ân sủng của Thiên Chúa ban tặng qua Đức Kitô. Thế nên, Kitô giáo căn bản là “tin mừng” hay “tin vui,” dẫu một số người như Nietzche cho rằng Kitô giáo là sự cản trở niềm vui, bởi vì họ thấy trong đó một loạt những điều cấm chế và luật lệ.

Trong thực tế, Kitô giáo là lời loan báo về chiến thắng của ân sủng trên tội lỗi, về sự sống trên sự chết. Và nếu Kitô giáo đòi hỏi sự hy sinh và kỷ luật của lý trí, con tim và cách hành xử, điều đó là chính đáng, bởi vì trong con người luôn có những gốc rễ ích kỷ và độc tố tội lỗi vốn làm cho chúng ta phải buồn phiền vì đánh mất niềm vui đích thực.

Như thế, Chúa Giêsu là niềm vui của nhân loại, là niềm vui của Hội Thánh và của mỗi người chúng ta. Niềm vui đó phát xuất từ trong sâu thẳm nhất của con người, mà không có gì và không ai có thể lấy đi được. Chúng ta được mời gọi chia sẻ niềm vui này với mọi người.

3. Làm sao để làm chứng cho niềm vui

Tuy nhiên, làm sao chúng ta có thể làm chứng cho Chúa chính là niềm vui? Trong bài đọc II, qua lời nhắn nhủ các tín hữu Thêxalônica (1 Tx 5,16-24), thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng trong khi đón chờ Chúa đến, chúng ta phải làm chứng cho Chúa bằng cách sống một cuộc đời thánh thiện và xa lánh những gì xấu xa. Thánh Tông Đồ đưa ra ba việc quan trọng cần làm:

Trước hết, anh em hãy vui luôn trong Chúa, nghĩa là hãy trải nghiệm niềm vui, rồi mới có thể chia sẻ niềm vui.

Thứ đến, hãy cầu nguyện không ngừng, nghĩa là để có niềm vui thực sự, phải luôn kết hợp và sống thân tình với Chúa qua đời sống cầu nguyện.

Thứ ba, hãy luôn có tâm tình tạ ơn trong mọi hoàn cảnh và đừng dập tắt Thần Khí, tức là hãy để cho Thánh Thần hướng dẫn.

Ở bài Tin Mừng, Gioan Tẩy Giả được giới thiệu như là kiểu mẫu của một chứng nhân niềm vui. Chúng ta cần học nơi ông về đời sống đơn giản, khó nghèo và khổ chế, để dám lội ngược dòng của cuộc sống đang chạy theo sự xa hoa và hưởng lạc trần thế. Gioan Tẩy Giả còn thể hiện những phẩm tính của một chứng nhân đích thực: đó là tính chân thật, khiêm tốn và can đảm khi làm chứng rằng chỉ Chúa mới mang lại cho con người niềm vui đích thực.

Vì thế, trong Mùa Vọng này, chúng ta được mời gọi hãy đến, kết hợp với Chúa để đón nhận niềm vui và mang niềm vui đó cho tha nhân, nhất là cho những ai nghèo khổ, bằng những việc làm cụ thể, như thăm viếng người bệnh tật, an ủi kẻ cô đơn không nơi nương tựa, giúp đỡ những ai đói rách, và chào hỏi những ai chúng ta gặp gỡ hằng ngày với nét mặt vui tươi trong Chúa. Đó là cách thế tốt nhất để chúng ta mừng đại lễ và chia sẻ niềm vui Con Chúa Giáng Sinh. Amen! 

 

Suy niệm 4:

Chắc chắn, một trong những điều làm cho chúng ta chú ý nhiều nhất trong Thánh Lễ hôm nay, Chúa Nhật III mùa vọng, chính là màu hồng. Bởi vì trong năm Phụng Vụ, màu hồng chỉ được sử dụng hai lần, không kể Thánh Lễ Hôn Phối (Chúa Nhật III Mùa Vọng và Chúa Nhật IV Mùa Chay).

Luật Phụng Vụ không buộc dùng mầu hồng trong hai Thánh Lễ này, nhưng vì chỉ có hai lần một năm, nên chúng ta không thể bỏ qua ! Vậy đâu là ý nghĩa của mầu hồng trong Phụng Vụ Thánh Lễ hôm nay?

1. Mầu hồng diễn tả niềm vui Chúa đã đến

Mầu hồng mà Giáo Hội cho phép chúng ta dùng trong Thánh Lễ hôm nay có một lí do rất thuyết phục, đó là để diễn tả niềm vui mà Chúa muốn gieo vào lòng chúng ta, nơi nhóm, gia đình và xứ đạo của chúng ta, qua Lời của Ngài:

- Thật vậy, trong bài đọc một, ngôn sứ Isaia loan báo niềm vui của Đấng Cứu Thế sẽ đến: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ ĐỨC CHÚA, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang!” (Is 61, 10) Trong những lời này, có hình ảnh cô dâu-chú rể, là hình ảnh tiêu biểu nhất của tình yêu, niềm vui và sự sống; và mầu hồng là biểu tượng của những điều này.

- Câu đáp ca là lời nguyện của Đức Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi”.

- Trong bài đọc 2, thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Thưa anh em, anh em hãy vui mừng luôn mãi !”

- Và trong bài Tin Mừng: tuy thánh sử Gioan không nói ra, chúng ta có thể cảm được niềm vui của ông Gioan Tẩy Giả, khi ông nói về mình một cách thẳng thắn, công khai và xác tín; và niềm vui khi ông nói về Đấng sẽ đến sau ông một cách khiêm tốn và chắc chắn với lòng kính mến.

Chính vì thế, Phụng vụ của Giáo Hội gọi Chúa Nhật III Mùa Vọng là “Chúa Nhật Gaudete”, tiếng Latinh có nghĩa là “Anh chị em hãy vui lên !”. Màu hồng của chúng ta hôm nay diễn tả chính xác niềm vui này. Và để diễn tả niềm vui Chúa ban cho chúng ta, cho dù màu hồng chỉ thích hợp với phụ nữ thôi, nhưng linh mục chủ tế cứ phải “hi sinh” mang vào người, áo lễ mầu hồng !

Lí do của niềm vui, chính là vì Đức Kitô đã đến. Điều mà ngôn sứ Isaia và thánh Gioan loan báo đã xẩy ra rồi và xẩy ra cho chúng ta hôm nay (x. Is 61, 10-11; Ga 1, 26-27), vì thế chúng ta được mời gọi vui lên. Mùa Vọng là thời gian của mong chờ:  mong chờ trong canh thức (CN I), mong chờ trong hoán cải (CN II), nhưng cũng mong chờ trong niềm vui (CN III), vì Chúa đã đến rồi, vì Chúa vẫn đến mỗi ngày, và sẽ lại đến một cách dứt khoát để đáp lại khao khát trời mới đất mới của chúng ta, đáp lại ước ao sự sống và tình yêu viên mãn của chúng ta.

Biến cố Đức Kitô đã đến mà chúng ta sắp kỉ niệm, phải là niềm vui của chúng ta, không chỉ vào dịp Lễ Giáng Sinh, nhưng là niềm vui mỗi ngày. Bởi lẽ, nếu Ngài chưa đến, chúng ta sẽ không có Giáo Hội, không có Thánh Lễ hằng ngày, không có ơn gọi Ki-tô hữu, không có ơn gọi dâng hiến, không được sống bên nhau vì lòng Mến Đức Kitô, không có Đức Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không được là chị em, là anh em, là anh chị em của nhau vì có cùng một Cha một Thầy, không biết Thiên Chúa yêu chúng ta như thế nào, không biết ý nghĩa của cuộc đời, của đau khổ, của bệnh tật, của tuổi già, của cái chết, không biết đường đi, không có niềm hi vọng… Chính vì thế mà, trong bài đọc hai, trích thư thứ nhất gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh Phaolô mời gọi chúng ta:

Thưa anh em, anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu. (1Tx 5, 16-18)

2. Mầu hồng diễn tả niềm vui Chúa sẽ lại đến

Mầu hồng của Thánh Lễ hôm nay còn diễn tả niềm vui Chúa sẽ lại đến. Khi chúng ta mong chờ ai đó, và người ta chắc chắc sẽ đến, chúng ta sẽ mong chờ trong háo hức và trong niềm vui; và niềm vui này rất lạ, như ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm.

Và Đức Kitô mà chúng ta trông chờ, chắc chắc sẽ đến, như chính Ngài đã nói cho chúng ta rằng, dù trời đất qua đi, Lời của Người sẽ không qua đi; Chúa chắc chắc sẽ lại đến, như mùa hè chắc chắc sẽ đến khi cây vả đâm chồi, hay khi cây phượng nở hoa; Chúa chắc chắc sẽ trở lại, như Người Chủ đi xa trở về.

Và bởi vì, Ngài là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta, Ngài là Đấng mà chúng ta bỏ hết tất cả, bỏ cả cuộc đời rất quí giá để đi theo Người trong đời sống hôn nhân hay trong đời sống dâng hiến, chúng ta được mời gọi mong chờ Ngài trong niềm vui. Và chắc chắn Đức Kitô sẽ đến để làm cho niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn.

Mầu hồng diễn tả cuộc gặp gỡ của chúng ta với Đức Kitô trong tương lai, và cả cuộc gặp gỡ giữa chúng ta trong tương lai nữa. Vì thế, có thể nói tương lai của chúng ta có màu hồng !

3. Mầu hồng diễn tả TÌNH YÊU

Ngoài ra, mầu hồng của Thánh Lễ hôm nay còn diễn tả cho chúng ta “Tình Yêu”. Điều này quá hiển nhiên, vì ai trong chúng ta cũng biết rằng, màu hồng là mầu của tình yêu.

Mầu hồng diễn tả tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta một cách nhưng không trong Đức Kitô (x. Rm 8, 35-39); mầu hồng diễn tả tình yêu của chúng ta dành cho Đức Kitô; và màu hồng diễn tả tình yêu chúng ta dành cho nhau. Tại sao lại là tình yêu, bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu (x. 1Ga 4, 8). Và như thế, mầu hồng còn diễn tả chính Thiên Chúa.

Và sau cùng, mầu hồng trong thực tế, còn dính dáng đến hoa hồng, dù hoa hồng có những mầu khác nhau. Thực vậy, nguồn gốc của mầu hồng mà Giáo Hội cho chúng ta dùng trong Thánh Lễ Chúa Nhật III Mùa Vọng, đó là vì ngày này trong Truyền Thống, Đức Thánh Cha chúc lành cho những bó hoa hồng trước khi gởi đi tặng các bậc vị vọng và vua chúa để mừng lễ Giáng Sinh.

Mà hoa hồng thì luôn có gai, vì thế hoa hồng cũng được coi là biểu tượng của tình yêu, vì yêu là đau khổ: thánh Gioan tẩy giả đã chịu đau khổ và đau khổ đến hi sinh mạng sống khi yêu mến và loan báo Đức Kitô (bài Tin Mừng hôm qua); chúng ta cũng vậy, vì yêu mến Đức Kitô, chúng ta cũng chịu đau khổ:

- Đau khổ vì phải đảm nhận thử thách của thân phận và của số phận con người;

- Đau khổ vì những lựa chọn không theo những ngẫu tượng, hay những giá trị chóng qua, nhưng theo Đức Ki-tô và Tin Mừng của Người mỗi ngày và suốt đời;

- Đau khổ vì sống bản chất “con chiên”, nghĩa là hiền lành của chúng ta, trong mọi hoàn cảnh.

- Đau khổ vì chúng ta được mời gọi mang vác đau khổ của nhau, như chính Đức Ki-tô đã mang lấy mọi bệnh hoạn tật nguyền của mỗi người chúng ta.

- Và chúng ta cũng đau khổ, vì cố gắng vượt qua những khó khăn, trở ngại, giới hạn, yếu đuối để yêu mến nhau.

Chúng ta không tìm kiếm đau khổ, và càng không tự làm mình đau khổ và làm cho nhau đau khổ. Nhưng chúng ta được mời gọi đón nhận với lòng tín thác, yêu mến và hi vọng, bởi vì đau khổ thuộc về cách sống căn tính của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa, là con Thiên Chúa, là hiền lành và là sự thiện.

“Yêu là đau khổ”; và không thể nào khác được, vì chính Thiên Chúa cũng đau khổ nơi Đức Kitô chịu đóng đinh, vì yêu chúng ta. Vì thế, chúng ta được mời gọi “MẾN THÁNH GIÁ”, vì đau khổ thuộc về Đấng chúng ta yêu mến, là cách Ngài yêu mến chúng ta đến cùng, là đường đi của Đấng chúng ta yêu mến, là con đường của hạt lúa mì, là con đường của tấm bánh, là con đưởng Vượt Qua, là con đường yêu mến, và là mầu nhiệm mang lại niềm vui và sự sống viên mãn.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc 

Suy niệm 5:

Hôm nay Chúa nhật thứ III mùa vọng, cây nến màu hồng được thắp lên muốn nói lên niềm vui. Vui vì lễ Giáng Sinh kỉ niệm biến cố trọng đại, Con Thiên Chúa làm người mang ơn cứu chuộc đến cho nhân loại đã gần kề. Niềm vui ấy được diễn tả qua màu sắc phẩm phục của chủ tế, qua những cung bậc âm thanh rộn ràng, qua sự trang trí đèn hoa trên cung thánh; nhất là lời vang vọng của sứ điệp lời Chúa trong thánh lễ hôm nay.

Nếu hướng nhìn ra bên ngoài, thời tiết bắt đầu se lạnh, lòng người cảm thấy phấn chấn và dễ chịu hơn. Mọi người như tất bật trong công việc dọn dẹp, trang hoàng lại nhà cửa, đường phố cho sạch đẹp và rực rỡ hơn. Con người như được xích lại gần nhau và ai nấy đều mong muốn những điều tốt đẹp cho nhau. Những cánh thiệp giáng sinh cũng bắt đầu được gửi trao cho nhau, cùng với những lời cầu chúc an lành, tốt đẹp nhất dành tặng cho nhau… Tất cả như muốn biểu tỏ niềm vui!

Những niềm vui bên ngoài ấy rất cần cho cuộc sống, tuy nhiên rồi cũng qua mau. Niềm vui mà mỗi chúng ta cần hướng đến phải là niềm vui thiêng liêng phát xuất từ trong tâm hồn mới bền vững. Nhưng làm thế nào để có được niềm vui ấy? Phụng vụ lời Chúa hôm nay gợi lên cho chúng ta những ý tưởng sau đây:

1. Cần phải cảm nếm được tình thương cứu độ của Chúa

Khi chẳng may ta rơi xuống hố sâu hay vực thẳm đen tối, không có khả năng tự cứu mình. Trong lúc ấy nếu có ai biết được mà ra tay cứu mình lên khỏi hố sâu vực thẳm đó, thì ta sẽ vui mừng biết mấy. 

Hay khi bị trôi dạt giữa biển trời mênh mong, phải ngụp lặn trong màn đêm tối vô vọng không thấy bến bờ đâu hết. Lúc ấy bổng nhiên có ai đó biết được và đưa tay ra cứu lấy mạng sống ta, chắc hẳn ta sẽ vui mừng khôn tả. Cũng thế, dân Israel xưa đang phải sống trong tình cảnh đau khổ vì đang bị lưu đày nơi đất khách quê người, nhưng một ánh hy vọng được lóe lên qua lời ngôn sứ Isaia loan báo về một viễn cảnh tương lai đầy tươi sáng. Khi ấy những đau khổ của họ hầu như được tan biến, bởi họ cảm nhận được Thiên Chúa yêu thương, không hề bỏ mặt họ ngụp lặn trong biển đời đau khổ mà sẽ đến giải thoát họ khỏi kiếp đọa đày. Niềm vui ấy đã được tiên tri Isaia cảm nhận và loan báo cho họ biết trong bài đọc 1: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa. Nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao. Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ.”

Niềm vui ấy cũng được Mẹ Maria cảm nhận và cất cao qua bài ca Magnificat khi biết mình được Thiên Chúa đói thương nhìn tới và ra tay cứu độ dân Người: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa. Thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.”

Qủa thật, có niềm vui nào bằng khi biết mình được Thiên Chúa yêu thương nhìn đến và sẵn sàng hy sinh mạng sống để cứu chuộc chúng ta. Có hạnh phúc nào sánh ví cho bằng biết được từ nay mọi hố sâu ngăn cách do tội lỗi gây ra đã được lấp đầy. Trong Chúa Giêsu Kitô, trời đất đã được nối kết và giao duyên, tình yêu thương giữa con người với nhau và với Thiên Chúa được kết nối.

2. Phải tích cực tham gia vào sứ mạng làm chứng nhân cho tình yêu của Chúa.

Trong bài Tin Mừng hôm nay cụm từ ‘làm chứng’ được dùng đến bốn lần. Điều này cho thấy được lẽ sống của Gioan là làm chứng. Ông được sai đến để làm chứng (x. c.6-7). Gioan không làm chứng cho mình hay về mình, bởi lẽ ông không phải là Ánh Sáng. Ông chỉ là ngọn đèn (Ga 5,35) giúp mọi người tin vào Ánh Sáng thật là Đức Kitô.

Sau khi nhiều người tuốn đến chịu phép rửa để tỏ lòng sám hối, tiếng tăm của Gioan trở nên lừng lẫy. Các nhà lãnh đạo tôn giáo cử một phái đoàn đến tìm hiểu con người ông. Khi được hỏi lần thứ nhất: Ông là ai? Gioan đã đưa ra ba câu trả lời phủ định: “Tôi không phải là Đức Kitô”, “Không phải”, “Không." Những tiếng ‘không’ dứt khoát và trung thực. Ông không nhận những danh hiệu người ta nghĩ về ông. Ông chẳng phải là một Êlia tái giáng hay một vị Ngôn Sứ phi thường như Môsê. Gioan chỉ sợ người ta đánh giá quá cao về mình khiến Đấng mà ông giới thiệu bị che khuất. Gioan đã khiêm tốn tự xóa mình đi để cho Chúa được lớn lên khi ông tự nhận mình là kẻ thấp hèn, không xứng đáng cúi xuống để cởi quai dép cho Đấng mà ông giới thiệu. 

Khuynh hướng tự nhiên, khi tin và yêu ai, thì ta thích nói về người ấy và vui sướng giới thiệu người ấy cho mọi người được biết. Gioan Tẩy Gỉa đã tin và yêu Đức Kitô khi nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế nên ông đã vui mừng và hân hoan giới thiệu cho mọi người biết đến. Như vậy để có niềm vui thật sự chúng ta cũng phải tin nhận Chúa, yêu mến Chúa và biết tích cực làm chứng cho Chúa như Gioan Tẩy Gỉa.

Xin Chúa cho chúng ta cảm nhận được niềm vui trong tâm hồn vì biết rằng Thiên Chúa hằng yêu thương, chăm sóc chúng ta nên hãy can đảm loan báo niềm vui cứu độ của Chúa đến với mọi người qua chính đời sống tràn đầy niềm vui, niềm tin và hy vọng vào Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng taAmen.

Thứ hai (18/12): Mt 1,18-24

Thánh Giuse được GH gọi là thánh cả, bởi nơi ngài có rất nhiều nhân đức cao trọng. Nhưng nếu đặt biến cố thiên thần Gabriel truyền tin cho thánh Giuse trong bố cảnh mùa vọng, thì lời Chúa hôm nay như mời gọi chúng ta hãy học nơi thánh Giuse mẫu gương của cầu nguyện và thi hành đức bác ái, nhằm chuẩn bị tâm hồn xứng hợp để đón mừng mầu nhiệm giáng sinh gần kề.

1. Thánh Giuse mẫu gương của cầu nguyện. 

Để nhận ra thánh ý Chúa, điều kiện tiên quyết phải là gắn bó mật thiết với Chúa bằng đời sống cầu nguyện. Nói như thế, thì thánh Giuse chính là mẫu gương của cầu nguyện. Chắc hẳn cả đời thánh Giuse phải là lời cầu nguyện liên lỉ, nhờ đó mà ngài dễ dàng nhận ra thánh ý Chúa trong mọi biến cố của cuộc đời.

Tin mừng cho biết ít nhất có 3 lần thánh Giuse được Thiên Thần Chúa báo mộng:

- Lần thứ nhất: Tin mừng cho biết, trước khi về chung sống với Đức Maria, thì Đức Maria đã mang thai. Nhận ra điều đó, thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng nhờ âm thầm gắn bó với Chúa bằng đời sống cầu nguyện mà thánh Giuse đã nhạy bén nhận ra Đức Mẹ chịu thai là bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Còn Hài Nhi mà Đức Maria đang mang là Đấng Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Vâng theo lệnh truyền của Chúa, ngay lập tức thánh Giuse đã đón nhận Maria về nhà làm bạn mình.

Lần thứ hai: Vì lo sợ mất ngai vàng nên nhà vua Hêrôđê đã ra lệnh tìm cách giết Hài Nhi. Nhận biết điều đó qua lời mộng báo của Thiên Thần, thánh Giuse đã nhanh chóng đưa Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cập để lánh nạn.

Lần thứ ba: Sau khi vua Hêrôđê băng hà, lập tức thánh Giuse lại được thiên thần Chúa báo mộng lần nữa là đem Hài Nhi trở về lại quê hương. Thánh nhân đã vâng phục thánh ý Chúa, đưa gia đình về Palestin và sống ẩn dật tại làng quê Nagiarét.

Như thế thì trong bất cứ hoàn cảnh nào, thánh Giuse cũng đều nhạy bén nhận ra thánh ý của Chúa và mau mắn thi hành. Có được như vậy là vì ngài luôn sống mật thiết với Chúa trong bầu khí của âm thầm cầu nguyện.

2. Thánh Giuse mẫu gương đời sống bác ái.

Biết được Đức Maria mang thai mà tác giả không phải là của mình, thay vì theo phản ứng tự nhiên thánh Giuse chỉ cần đưa Đức Maria ra tố cáo. Chắc chắn Đức Maria sẽ bị ném đá cho đến chết chiếu theo luật Do Thái thời bấy giờ. Nhưng thánh Giuse đã không hành xử như thế. Trái lại, ngài chọn giải pháp âm thầm rút lui bằng cách “định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo”. Cách xử như thế cho thấy thánh Giuse là một con người độ lượng và giàu lòng bác ái.

Hơn thế nữa để chăm sóc Đức Maria không phải là vợ của ngài đúng nghĩa và nuôi dưỡng Chúa Giêsu không phải là con ruột ngài, trong một hoàn cảnh khó nghèo nơi làng quê Nazareth sẽ không dễ dàng chút nào. Cuộc sống ấy đòi hỏi thánh Giuse phải hy sinh rất nhiều. Nếu không có tình bác ái cao thượng, chắc hẳn ngài sẽ không chu toàn tốt được sứ mạng mà Thiên Chúa trao phó.

Mùa vọng sắp kết thúc, đây là thời điểm chúng ta phải chuẩn bị mọi thứ linh tinh bên ngoài để mừng đại lễ Giáng sinh. Là những người kitô hữu, xin cho chúng ta đừng quá mãi mê thế sự mà quên đi chuẩn bị tâm hồn xứng hợp để cho Chúa ngự vào. Cách chuẩn bị xứng hợp nhất trong những ngày này là ta hãy cố gắng chu toàn tốt bổn phận cầu nguyện và nỗ lực sống tình bác ái với nhau, theo mẫu gương của Thánh Giuse.

Thứ ba (19/12): Lc 1, 5-25

Gần đến lễ giáng sinh sẽ có rất nhiều niềm vui bất ngờ đến với ta. Niềm vui khi nhận được những cánh thiệp giáng sinh xinh xinh của những người quen. Niềm vui khi đọc được những dòng tin nhắn chúc mừng giáng sinh thật ý nghĩa của người thân yêu. Niềm vui khi đón nhận được những món quà giá trị do bạn bè gửi tặng. Vui vì được sum hợp bên gia đình với những bữa cơm đầm ấm của ngày lễ…

Tin mừng hôm nay cũng nói đến niềm vui bất ngờ mà TC hứa sẽ tặng ban cho ông bà Giacaria và Elisabeth. Đó là bà "Elisabeth vợ ngươi sẽ hạ sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên trẻ là Gioan”.

Đây quả là một món quà vô cùng lớn lao mà TC thương ban cho ông bà. Cao quý bởi vì quà TC ban tặng không phải là món quà vật chất, nhưng chính là người con mà ông bà luôn hằng mong mỏi đợi chờ. Cao quý vì với qùa tặng này TC sẽ làm tan biến hết mọi nỗi tủi nhục mà hai ông bà đã gánh chịu suốt bao năm dài. “Chúa đã làm cho tôi thế nầy, trong những ngày Người đoái thương, cất nổi khổ nhục tôi khỏi người đời”.

Có lẽ chính vì quá bất ngờ trước hồng ân lớn lao mà TC thương ban, nên đã làm cho ông Giacaria vui mừng đến ngỡ ngàng đến nỗi không thể thốt nên lời! Chỉ có thinh lặng trong cầu nguyện, Giacaria mới có thể cảm nếm được thế nào là mầu nhiệm tình thương cao cả của TC.

Tuy nhiên, để đón nhận được món quà cao quý và tận hưởng niềm vui lớn lao ấy, ông Giacaria và bà Elisabeth đã phải nỗ lực sống đời công chính và âm thầm cầu nguyện trong gần hết cuộc đời.

Muà giáng sinh này chắc mỗi chúng ta cũng có những niềm vui. Nhưng niềm vui lớn nhất vẫn là niềm vui được Thiên Chúa yêu thương nên đã  ban tặng cho ta chính Người Con yêu quý của Người là Hài Nhi Giêsu. Xin cho chúng ta cảm nhận được niềm vui lớn lao đó mà kiên tâm sống đời công chính và kiên trì cầu nguyện để đón nhận được niềm vui ơn cứu độ.

Thứ tư (20/12): Lc 1, 26-38

Tin mừng hôm nay thuật lại biến cố Thiên Thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria, khởi đầu cho chương trình cứu độ đầy yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người. Để thực hiện chương trình cứu độ, Thiên Chúa đã chọn gọi Đức Maria cộng tác trong việc cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế và Đức Maria đã đáp lời bằng hai tiếng “xin vâng”. 

Mỗi khi đọc “kinh kính mừng” là chúng ta nhắc lại lời sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria khi xưa: “kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phước lạ hơn mọi người nữ….” .

Lời truyền tin này là một lời chào chúc quý giá và mang giá trị hết sức cao cả. Bởi lẽ, có ơn phúc nào cao lớn cho bằng ơn phúc được Thiên Chúa ở cùng (chính Chúa là nguồn mọi ơn phúc và Đấng ban ơn phúc. Được Thiên Chúa ở cùng thì có mọi ơn phúc nơi mình rồi). Và có hạnh phúc nào lớn bằng hạnh phúc được Thiên Chúa ưu ái chọn làm Mẹ Thiên Chúa. (Được chọn làm mẹ vua đã là vinh dự và ơn phúc quá lớn rồi huống chi là Mẹ Vua Trời).

Ý thức sứ mạng cao quý ấy trong vui mừng khôn tả vượt trí hiểu, Đức Maria đã bối rối và tự hỏi lời chào ấy có ý nghĩa như thế nào? Nhưng sau khi được Thiên Thần giải thích, Đức Maria biết đó là ý định Thiên Chúa, dù không hiểu hết, nhưng Đức Maria vẫn khiêm tốn ngoan ngoãn vâng nghe.

Có nhiều điều xảy ra trong đời sống vượt ngoài trí hiểu và khả năng chúng ta, chúng ta cảm thấy không thể thực hiện được, nhưng “đối với Thiên Chúa thì mọi chuyện đều có thể”. Từ không, Chúa đã sáng tạo nên vũ trụ vạn vật chỉ bằng lời phán truyền. Từ bùn đất, Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Bằng quyền năng,  Thiên Chúa đã làm cho bà Isave cao niên và son sẻ mang thai và sinh con. Nên việc cưu mang và hạ sinh Đấng Cứu Thế vẫn đồng trinh đối với Đức Maria là chuyện bình thường. Do đó, nếu ta biết tin tưởng và khiêm tốn để Chúa hành động nơi cuộc đời của ta như Đức Maria, thì Chúa cũng sẽ làm những điều kì diệu trên đời ta.

Tuy dẫu Thiên Chúa quyền năng làm được mọi sự. Nhưng Thiên Chúa lại yêu thích con người cộng tác với Chúa.

Để chọn gọi dân riêng, Chúa đã mời gọi tổ phụ Abraham cộng tác, và Abraham đã vâng lời bỏ xứ sở ra đi theo ý định Thiên Chúa. Thế là một dân riêng của Chúa đã hình thành.

Để cứu dân tộc Israel ra khỏi kiếp nô lệ bên Ai cập, Thiên Chúa đã mời gọi Môsê cộng tác, dù sợ hãi về sự kém cỏi của mình, Môsê vẫn vâng phục  ý muốn của Chúa. Thế là cuộc giải phóng đã hoàn tất.

Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa chọn Đức Maria, một người thiếu nữ bình thường, nghèo khó làm mẹ Đấng Cứu Thế và Mẹ đã ngoan ngoãn tin tưởng vâng nghe. Thế là chương trình cứu độ từ ngàn đời của Thiên Chúa được thực hiện.

Để cứu độ mỗi chúng ta, Chúa cũng mời gọi chúng ta hợp tác với Chúa. Như thánh Augustinô đã nói: “Chúa dựng nên con Chúa không cần con, nhưng để cứ độ con Chúa cần con cộng tác”. 

Xin cho chúng ta biết noi gương Đức Maria biết  khiêm tốn và ngoan ngoãn vâng theo thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh mà tích cực cộng tác với ơn cứu độ của Chúa để cứu chính mình và qua ta ơn cứu độ đến được với tha nhân.

Thứ năm (21/12): Lc 1, 39-45

Sự kiện Đức Maria ra đi thăm viếng bà Isave để lại cho chúng ta hai bài quý giá.

1. Bài học của từ bỏ hy sinh

Khi chấp nhận ra đi thăm người chị họ Isave là Đức Maria đã sẵn sàng chấp nhận từ bỏ:

-  Bỏ mái ấm gia đình với những gì đang có, như sự yên hàn, những tiện nghi, dẫu là tiện nghi tối thiểu.

-  Bỏ lại những công việc gia đình hàng ngày và những thói quen nhỏ nhặt.

- Bỏ những bận tâm lo lắng cho bản thân và gia đình mình.

Từ bỏ những gì quen thuộc với mình là điều rất khó. Thế nhưng, nếu không dám từ bỏ thì không thể lên đường.

Sự cất bước lên lên đường của Đức Maria cần phải hy sinh.

- Hy sinh chỗ ở thân quen, chỗ nằm êm ấm cho dẫu là nhà tre vách lá, chiếu rách giường xiêu.

- Hy sinh mang lấy hành trang nặng nề trên vai gầy và tiến bước nặng nhọc đang lúc lòng mang dạ chữa.

- Hy sinh chịu gian lao thử thách để băng qua những vùng đồi núi, sa mạc, giữa bầu trời nắng gắt với bao là hiểm trở, đói khát dọc đường.

Đến với những nơi phồn hoa phố thị, vào với những biệt thự sang trọng, gặp gỡ những đại gia, được đón tiếp nồng hậu, được thết đãi bởi những bữa ăn cao lương mỹ vị đã là một hy sinh; huống chi ra đi đến những nơi đèo dốc hiểm trở, vào ở trong ngôi nhà nghèo nàn như nhà của Giacaria có lẽ chẳng ai muốn bao giờ. Hơn nữa đến viếng thăm gia đình của Giacaria chẳng phải được phục vụ, trái lại Đức Maria còn phải phục vụ chăm sóc cho bà Isave trong lúc sắp sinh nở quả là một hy sinh lớn lao.

Nhưng điều mà con người không muốn ấy,  thì Đức Maria lại thực hiện nhanh chóng bằng cách "vội vả lên đường".

Động lực nào đã thúc đẩy Đức Maria ra đi thăm viếng bà Isave? Nếu không phải xuất phát từ tình yêu. Chính tình yêu là động lực giúp cho Đức Maria sẵn sàng từ bỏ, chấp nhận hy sinh để ra đi thăm viếng và giúp đỡ người chị họ mình trong lúc khó khăn. Chính tình yêu thúc bách Đức Maria ra đi để chia sẻ niềm vui. Vui vì đang cưu mang Đấng Cứu Thế. Niềm vui ấy mong muốn được chia sẻ cùng người chị họ và cho gia đình Giacaria. Vui vì "có Chúa ở cùng".

2. Bài học của yêu thương phục vụ.

Không chỉ đơn thuần thăm viếng để chia sẻ niềm vui, Mẹ còn chấp nhận hy sinh thời giờ và công việc gia đình để ở lại với người chị họ, không phải một giờ, hai giờ, một ngày, hai ngày mà là suốt ba tháng dài.

Ở lại không phải để được phục vụ, để sống trong cảnh nệm êm chăn ấm, nhưng là để giúp đỡ người chị họ đang mang thai và sinh con trong lúc tuổi già. Đức Maria "đến để phục vụ chứ không phải được phục vụ".

Ngày nay, thời đại văn minh, tiến bộ con người không còn nhiều thời gian thăm viếng nhau. Có chăng người ta chỉ thăm nhau bằng một cú điện thoại hay vài hàng chữ qua Email, họa hiếm lắm người ta mới đến với nhau với tính cách xã giao, hời hợt. Giữa cuộc sống bộn bề lo toan cơm áo gạo tiền, vất vả nhọc nhằn, việc đến thăm nhau chân tình là điều rất quý. Nhất là thăm viếng mục vụ, lại là việc làm cao quý biết bao.

Thăm viếng một bệnh nhân để lắng nghe họ tâm sự cũng là góp phần chữa lành họ. Có mặt bên cạnh một một gia đình đang gặp chuyện bất hoà để chia sẻ nỗi niềm của họ cũng là góp phần hàn gắn gia đình họ trước nguy cơ rạn vỡ. Thăm viếng những gia đình trễ nãi, ngụi lạnh để hâm nóng lại tình người, tình Chúa, cần thiết lắm thay! Thăm viếng những gia đình nghèo khổ, những người bệnh nhân già yếu để chia sẻ, an ủi, động viên và cũng cố đức tin là nhiệm vụ hết sức quan trọng của người kitô hữu và rất cần thiết trong những ngày cuối mùa vọng này.

Xin Chúa cho chúng ta biết noi gương Mẹ Maria trong mùa vọng và giáng sinh này biết tích cực lên đường đem Chúa đến với tha nhân trong niềm vui chia sẻ và phục vụ chân thành.  Hầu niềm vui ơn cứu độ của Chúa được lan tỏa đến với mọi người và mọi nơi.

Thứ sáu (22/12): Lc 1, 46-56

Trong những ngày cuối cùng của mùa vọng này, có lẽ không có tâm tình nào xứng hợp hơn cho bằng tâm tình tạ ơn. Nhưng tâm tình tạ ơn cao đẹp nhất vẫn là tâm tình ngợi khen của Đức Mẹ qua lời kinh Magnificat.

Chính vì thế mà giờ phút này, chúng ta cùng hiệp với tâm tình của Mẹ Maria trong lời kinh ngợi khen (Magnificat) để dâng lên Thiên Chúa lời tôn vinh cảm tạ vì “biết bao điều trọng đại Chúa đã làm” trên cuộc đời chúng ta. Một trong muôn điều trọng đại ấy là Chúa đã thương ban cho chúng ta được làm người và làm con Chúa.

Xin cho chúng ta biết noi gương Mẹ Maria, sẵn sàng mở lòng đón nhận mọi ơn ban của Chúa, và tích cực đáp trả cách trọn vẹn ơn gọi và sứ mạng Chúa trao ban, để cộng tác tích cực vào công trình cứu độ của Thiên Chúa.

Thứ bảy (23/12): Lc 1, 57-66

Sau bao nhiêu năm mong mỏi đợi chờ trong sự tủi hổ, vì phận nữ không con. Nay niềm vui được vỡ òa, vì được Chúa cất đi sự tủi hổ, khi cho bà Elizabeth sinh hạ con trai trong lúc tuổi già. Đây quả là biến cố lạ lùng, ngập tràn niềm vui cho gia đình Giacaria. Nên bà con láng giềng đã đến chúc mừng, chia sẻ niềm vui.

Niềm vui được chia sẻ, niềm vui nhân đôi. Đúng vậy niềm vui của gia đình Giacaria được nhân đôi sau đó 8 ngày. Đứa con trẻ được gia nhập vào cộng đoàn qua nghi thức cắt bì và với cái tên là lạ “Gioan”, không theo truyền thống, nhưng được Thiên Chúa đặt cho. Sự kiện lạ ấy như là dấu chỉ cho biết con trẻ này được Chúa yêu thương và tuyển chọn cách đặc biệt.

Niềm vui nối tiếp niềm vui khi con người thuận theo ý Chúa. Ngay khi Giacaria vâng ý Chúa, đặt tên con mình là Gioan, phút chốc ấy miệng ông được mở ra và không ngớt lời ca ngợi chúc tụng Thiên Chúa.

Qua những biến cố bất ngờ liên tiếp xảy ra nơi gia đình Dacaria, như nhắc nhở chúng ta ý thức rằng:

Có con cái là niềm vui và hạnh phúc lớn lao của cha mẹ. Nhưng con cái cũng chính là ân ban do tình thương của Chúa. Xin cho chúng ta không ngớt lời ngợi khen và cảm tạ tình thương của Chúa.

Cảm tạ Chúa đã cho ta được làm người, được sinh ra trong vòng tay đầy ấp tình thương của cha mẹ và sự đỡ nâng của láng giềng thân thuộc.

Cảm tạ Chúa đã cho ta nên nghĩa tử của Chúa và trở nên anh em với nhau qua bí tích rửa tội.

Cảm tạ Chúa vẫn tiếp tục tuôn đổ muôn ơn lành hồn xác xuống trên cuộc đời chúng ta và trao ban cho ta sứ mạng cao quý là loan truyền và cao rao tình thương lạ lùng của Chúa cho muôn người, khắp mọi nơi.

Xin cho chúng ta luôn biết thuận theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh. Nhờ đó chúng ta mới có được sự bình an và niềm vui đích thực nơi tâm hồn.


SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN III MÙA VỌNG

Is 61,1-2a.10-11; 1 Tx 5,16-24; Ga 1,6-8.19-28

Lm. Minh Anh-Tgp Huế

CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG-B

Suy niệm 1: CHỨNG NHÂN NIỀM VUI TIN MỪNG

Với Chúa Nhật III Mùa Vọng, chúng ta đang tiến gần tới đại lễ Giáng Sinh. Khắp nơi đã bừng lên bầu khí Giáng Sinh với việc trang hoàng hang đá, cây thông, đèn điện nơi thành phố cũng như thôn quê. Tất cả đều diễn tả niềm vui Giáng Sinh.

Cùng với bầu khí đó, theo truyền thống, Chúa Nhật III này được gọi là Chúa Nhật của niềm vui: “Gaudete in Domino Semper – Hãy vui luôn trong Chúa.” Lời Chúa mời gọi chúng ta suy tư về chủ đề xuyên suốt các bài đọc: “Chứng nhân cho niềm vui.”

1. Tiên báo và chứng nhân niềm vui

Trong bài đọc I, trích sách tiên tri Isaia, Đấng Mêsia được miêu tả như là người được xức dầu bởi Thần Khí và được sai đi để làm chứng nhân cho niềm vui cứu độ. Nhờ việc xức dầu và sai đi này, Đấng Mêsia đến để “loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa” (Is 61,1-2). Như thế, theo lời ngôn sứ, Đấng Mêsia là người mang niềm vui của Thiên Chúa cho nhân loại.

Tin Mừng giới thiệu Gioan Tẩy Giả là chứng nhân cho ánh sáng và niềm vui. Ánh sáng và niềm vui đó chính là Chúa Giêsu. Ông xuất hiện như một dấu hỏi lớn cho dân chúng. Người ta cứ tưởng ông là Đấng Kitô. Nhưng ông thẳng thắn trả lời: Tôi không phải là Đấng Kitô. Tôi chỉ là người dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người (x. Ga 1,19-28).

2. Chúa Giêsu, niềm vui đích thực

Như thế, những lời tiên báo của Isaia nay đã được ứng nghiệm. Đấng Mêsia mà dân Chúa đang mong đợi chính là Đức Giêsu, Người mang niềm vui và chính là niềm vui của Thiên Chúa. Thật vậy, Con Thiên Chúa làm người là Tin Mừng lớn nhất cho nhân loại. Người đến để giải thoát con người khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi và mang lại ơn cứu độ cho mọi người. Đó là niềm vui lớn lao nhất! Bởi thế, giáo phụ Origene quả quyết: Chúa Giêsu vừa là Tin Mừng, vừa là nội dung Tin Mừng.

Chúng ta cần suy tư xa hơn: ơn cứu độ mà chúng ta có được không phải nhờ những thành tựu khoa học, kỹ thuật, cũng không phải do của cải vật chất, hay ý thức hệ mang lại, nhưng một cách chính yếu, là do ân sủng của Thiên Chúa ban tặng qua Đức Kitô. Thế nên, Kitô giáo căn bản là “tin mừng” hay “tin vui,” dẫu một số người như Nietzche cho rằng Kitô giáo là sự cản trở niềm vui, bởi vì họ thấy trong đó một loạt những điều cấm chế và luật lệ.

Trong thực tế, Kitô giáo là lời loan báo về chiến thắng của ân sủng trên tội lỗi, về sự sống trên sự chết. Và nếu Kitô giáo đòi hỏi sự hy sinh và kỷ luật của lý trí, con tim và cách hành xử, điều đó là chính đáng, bởi vì trong con người luôn có những gốc rễ ích kỷ và độc tố tội lỗi vốn làm cho chúng ta phải buồn phiền vì đánh mất niềm vui đích thực.

Như thế, Chúa Giêsu là niềm vui của nhân loại, là niềm vui của Hội Thánh và của mỗi người chúng ta. Niềm vui đó phát xuất từ trong sâu thẳm nhất của con người, mà không có gì và không ai có thể lấy đi được. Chúng ta được mời gọi chia sẻ niềm vui này với mọi người.

3. Làm sao để làm chứng cho niềm vui

Tuy nhiên, làm sao chúng ta có thể làm chứng cho Chúa chính là niềm vui? Trong bài đọc II, qua lời nhắn nhủ các tín hữu Thêxalônica (1 Tx 5,16-24), thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng trong khi đón chờ Chúa đến, chúng ta phải làm chứng cho Chúa bằng cách sống một cuộc đời thánh thiện và xa lánh những gì xấu xa. Thánh Tông Đồ đưa ra ba việc quan trọng cần làm:

Trước hết, anh em hãy vui luôn trong Chúa, nghĩa là hãy trải nghiệm niềm vui, rồi mới có thể chia sẻ niềm vui.

Thứ đến, hãy cầu nguyện không ngừng, nghĩa là để có niềm vui thực sự, phải luôn kết hợp và sống thân tình với Chúa qua đời sống cầu nguyện.

Thứ ba, hãy luôn có tâm tình tạ ơn trong mọi hoàn cảnh và đừng dập tắt Thần Khí, tức là hãy để cho Thánh Thần hướng dẫn.

Ở bài Tin Mừng, Gioan Tẩy Giả được giới thiệu như là kiểu mẫu của một chứng nhân niềm vui. Chúng ta cần học nơi ông về đời sống đơn giản, khó nghèo và khổ chế, để dám lội ngược dòng của cuộc sống đang chạy theo sự xa hoa và hưởng lạc trần thế. Gioan Tẩy Giả còn thể hiện những phẩm tính của một chứng nhân đích thực: đó là tính chân thật, khiêm tốn và can đảm khi làm chứng rằng chỉ Chúa mới mang lại cho con người niềm vui đích thực.

Vì thế, trong Mùa Vọng này, chúng ta được mời gọi hãy đến, kết hợp với Chúa để đón nhận niềm vui và mang niềm vui đó cho tha nhân, nhất là cho những ai nghèo khổ, bằng những việc làm cụ thể, như thăm viếng người bệnh tật, an ủi kẻ cô đơn không nơi nương tựa, giúp đỡ những ai đói rách, và chào hỏi những ai chúng ta gặp gỡ hằng ngày với nét mặt vui tươi trong Chúa. Đó là cách thế tốt nhất để chúng ta mừng đại lễ và chia sẻ niềm vui Con Chúa Giáng Sinh. Amen!

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

 

Suy niệm 2: VUI NHẬN RA CHÚA CỨU ĐỘ

Lm. Nguyễn Xuân Trường

Chúa Nhật thứ 3 Mùa Vọng được gọi là “Chúa Nhật Vui Mừng”. Ai cũng thích vui. Điều quan trọng là: Vui vì điều gì? Lời Chúa tuần này cho thấy vui vì được Chúa cứu độ và vui khi nhận ra Chúa.

1. Vui vì được Chúa cứu độ. Ngôn sứ Isaia đã vui mừng hớn hở reo lên: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa. Nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao. Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ.”

Mẹ Maria cũng vui mừng hớn hở reo lên: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa. Thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.”

Con người có nhiều niềm vui, nhưng dám chắc niềm vui lớn nhất là được cứu thoát chết. Vì tội lỗi con người đáng phải chết, nhưng Chúa đã xuống thế để cứu độ, cứu con người khỏi chết đời đời. Con người được Chúa cứu sống.

2. Vui khi nhận ra Chúa. Khi người ta đến hỏi thánh Gioan là ai, thì Ngài đã tuyên bố Ngài không phải là Đấng Kitô. Và Ngài bảo họ Đấng Kitô “đang ở giữa các ông mà các ông không biết.” Kinh nghiệm cho thấy, dù người nhà mình hay một nhân vật quan trọng đang ở ngay trước mặt, khi chưa biết họ, ta chỉ thấy bình thường, nhưng khi ta nhận ra họ là người nhà mình, là nhân vật quan trọng thì ta mới ồ lên một niềm vui òa vỡ. Cũng vậy, Chúa đã xuống thế làm người ở giữa nhân loại, nhưng bao lâu người ta chưa nhận ra Chúa, chưa tin yêu Chúa, thì bấy lâu người ta vẫn chưa có niềm vui.

Phúc Âm cho biết: “Gioan đến làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” Ánh sáng đem niềm vui. Trong đời sống hàng ngày, người ta vui mừng khi ánh sáng bình minh xóa tan màn đêm. Người ta vui mừng khi ánh sáng điện bừng lên giữa đêm tối. Đời sống tâm linh cũng thế, chắc chắn người ta sẽ hớn hở vui mừng khi có ánh sáng đức tin soi chiếu, để tin nhận Chúa là Đấng cứu độ trần gian, và Ngài vẫn đang ở giữa nhân loại ngày hôm nay. Amen.

 

Suy niệm 3: HÃY VUI MỪNG!

“Anh em hãy vui mừng luôn mãi!”.

“Cuộc sống được sống trong Chúa Kitô không thể nào khác hơn là sống trong niềm vui!” - William Barclay.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa Chúa Nhật Hồng một lần nữa khẳng định ý tưởng “sống trong niềm vui” của W. Barclay. Từ bài đọc hai, lời của thánh Phaolô vang vọng, “Anh em hãy vui mừng luôn mãi!”. Tuy nhiên, sẽ có một số người trong chúng ta dường như muốn hét lên, “Có gì mà vui?”; “Giáo Hội quá mụ mị khi bảo chúng ta ‘hãy vui mừng’ ít nữa vào thời điểm này!”.

Vậy mà, phụng vụ hôm nay vẫn đòi hỏi bạn và tôi ‘hãy vui mừng!’. Có niềm vui nào giữa lúc khó khăn, u ám và bóng tối? Có niềm vui nào khi thế giới đang ngật ngưỡng vì chiến tranh, thất nghiệp và nghèo đói? “Có!”. Nhưng dĩ nhiên, đó không phải là niềm vui phát xuất từ một lạc quan sai lầm khi mọi thứ sẽ ‘trở nên tốt hơn’; vì thực tế, mọi thứ có thể tồi tệ hơn. Đó cũng không phải là một niềm vui ảo tưởng trong tâm trí! Vậy niềm vui ở đây là gì? Phaolô trả lời, vì “Đó là điều Thiên Chúa muốn!”. Và Giáo Hội thêm rằng, “Chúa đang ở gần!”. Chìa khoá của vấn đề nằm ở Chúa Kitô. Niềm vui đích thực chỉ được tìm thấy trong Chúa Kitô. Ngài đến để cứu độ, giải thoát và ban cho chúng ta sự sống mới!

Tin Mừng hôm nay mời chúng ta nhìn vào Gioan, một nhân vật khổ hạnh, ép xác, kêu gọi sám hối. Miêu tả Gioan theo cách này, chúng ta có xu hướng quên đi niềm vui gắn liền với toàn bộ cuộc đời và ơn gọi của Gioan. Gioan đã nhảy mừng trong dạ mẹ khi Mẹ Chúa viếng thăm. Tác giả Phúc Âm thứ tư nói về niềm vui của Gioan như niềm vui của phù rể vốn vô cùng hân hoan khi nghe giọng chàng rể. Sự khiêm nhường của Gioan đã mở ra trong Gioan ‘một không gian’ dành cho sự vui mừng đích thực. Như Gioan, chúng ta ‘hãy vui mừng’ vì sự hiện diện tràn đầy của Chúa. Cũng sẽ như thế đối với bạn và tôi!

Gioan chỉ ra con đường dẫn đến niềm vui lâu dài, con đường khiêm nhượng! Gioan biết mình không phải là ai, “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Trung thực về bản thân là bước đầu để có thể vui mừng. Tập trung vào Chúa, bạn buộc phải loại bỏ mọi trùng lặp phù phiếm; từ đó, sống trong sự thật và tập trung vào sứ vụ. Bất chấp khó khăn, sự khắc nghiệt của cuộc sống, sự giam cầm và hành quyết của một bạo chúa, Gioan hiểu rằng, khi Gioan mờ đi và lụi tàn, một ánh sáng khác đang đến, ánh sáng đích thực soi sáng thế giới tăm tối và gạt bỏ bóng đêm tội lỗi.

Anh Chị em,

“Anh em hãy vui mừng luôn mãi!”. Chúa Nhật Vui Mừng trở thành một cơ hội để chúng ta mừng vui, một niềm vui lớn lao hơn niềm vui của Isaia - bài đọc một - hay của Gioan. Đó là niềm vui của Đức Mẹ, “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi!” - Thánh Vịnh đáp ca. Những gì Isaia và Gioan chỉ có thể hình dung trong thời tiên tri, nay chúng ta trải nghiệm trong thực tế của ân sủng. Chỉ còn vài ngày nữa là Lễ Giáng Sinh, không chỉ tưởng nhớ quá khứ, chúng ta hướng đến tương lai, sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế, Đấng Giải Thoát, Đấng sẽ hoàn thành công việc tốt lành Ngài đã khởi sự nơi mỗi người. Vì lý do này, Mẹ Hội Thánh lệnh cho chúng ta “Hãy vui mừng!”. Hãy nhớ, đây là một mệnh lệnh, không phải một gợi ý!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đâu cần cười cả ngày con mới có niềm vui; cho con dám mỉm cười khi đang phải khóc, vì Chúa ở cùng con!”, Amen.

 

Thứ hai (18/12): CON TIM NGAY LÀNH

“Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông”.

“Khủng hoảng bạn gặp có thể gọi là ‘tai ương’ do tình cờ, hay do người khác, thường mang lại cơ hội lớn hơn! Chúng có thể thúc đẩy sự trưởng thành tâm linh, chứng tỏ sự chính trực, tạo cảm giác tòng thuộc vào Chúa; và chuẩn bị bạn cho một sứ vụ đáng kinh ngạc… với điều kiện, trước tiên, bạn phải có một ‘con tim ngay lành!’” - Kin Hubbard.

Kính thưa Anh Chị em,

Nhận định của Hubbard xem ra được áp dụng triệt để nơi Giuse. Tin Mừng hôm nay hé lộ một tiểu tiết ít được chú ý nhưng rất thú vị là, thiên thần chỉ hiện ra với Giuse sau khi ông quyết định làm một điều lành! Chúa chỉ tiết lộ nhiều hơn kế hoạch của Ngài cho bất cứ ai, miễn là người ấy biết phản ứng trước khủng hoảng bằng một ‘con tim ngay lành!’.

Với việc Maria có thai, một điều gì đó quá bất thường đối với một phụ nữ được biết là không thể chê trách, Giuse thầm suy, cầu nguyện và phân định.

Về mặt pháp lý, Giuse có thể công khai ‘chuyện tình buồn’ của mình như một kế sách giải quyết; nhưng Giuse đã không hành xử như vậy. Trái lại, sẵn sàng để toàn bộ sự việc tự nó lặng lẽ giải trình, vì xem ra nó đã được giao cho Chúa; và đặc biệt, như thể Giuse để cho Maria được ưu tiên hơn trong mối ngờ vực này!

Nghĩ điều lành cho người khác là một đức tính tuyệt vời! Nó phản ánh sự nhân ái của một ‘con tim ngay lành’. Bao tình bạn kết thúc, bao cuộc chiến bùng nổ, chỉ vì điều tồi tệ xảy ra là “do người khác, không phải do tôi!”.

Với Giuse, Thiên Chúa như muốn tiết lộ cho bạn và tôi rằng, “Trước một nan đề, con sẽ bắt đầu hiểu Ta hơn một khi con nhân ái nghĩ điều tích cực cho người khác!”. Quả thế, thiên thần Chúa đã đến mặc khải cho Giuse nhiều điều lạ lùng ẩn tàng sau cơn khủng hoảng, “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần; Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội!”. Ôi, Đấng ấy là “chồi non chính trực”

- Bài đọc một - Giêrêmia tiên báo, “Này, sẽ tới ngày Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đavít một chồi non chính trực!”; và “Triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị đến muôn đời” như tuyên xưng của Thánh Vịnh đáp ca.

Với những gì thiên thần dạy, Giuse đã thực hiện trọn vẹn; ông tiếp nhận bạn mình! Và điều quan trọng là thời gian sau đó, Giuse đã “ôm lấy Chúa Hài Đồng đến cùng”. Có thể nói, chỉ vì một giấc mơ! Nhưng tại sao chỉ dựa vào tính xác thực của một giấc mơ? Câu trả lời khá đơn giản. Mặc dù chỉ là một giấc mơ, nhưng nó đi kèm với quà tặng của niềm tin. Ngoài những gì lý trí cho biết Thiên Chúa đã nói với mình, Giuse còn đáp lại Ngài bằng một đức tin quảng đại và một ‘con tim ngay lành’ hào phóng.

Anh Chị em,

“Bạn phải có một ‘con tim ngay lành!’”. Với trái tim nhân ái nghĩ điều tích cực cho người khác, ‘tai ương’ của Giuse đã mang lại cho ngài một “cơ hội lớn hơn!”. Mùa Vọng, mùa để trái tim được đào tạo và chữa lành hầu có thể trở nên chính trực, tòng thuộc tuyệt đối vào Chúa; từ đó, có khả năng vượt qua các cuộc khủng hoảng, tai ương. Và kìa, như Giuse, có thể Chúa cũng đang chuẩn bị bạn và tôi cho một sứ vụ đáng kinh ngạc!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con vuột mất “những cơ hội lớn hơn” khi không vượt qua tai ương. Và như thế, con không thể trải nghiệm những gì bất ngờ Chúa đang chuẩn bị!”, Amen.

 

Thứ ba (19/12): NHỮNG CON ĐƯỜNG ĐÁNG KINH NGẠC

“Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy?”.

“Chúng ta đã quen nghe tin xấu! Hầu hết những ‘tin tức’ được coi là ‘tin tức’ trên các ‘chương trình tin tức’ gần như là tin xấu. Những điều sai trái trên thế giới xem ra luôn đáng để đưa tin hơn những điều đúng đắn. Vì thế, khi nghe một tin tốt, chúng ta có thể nghi ngờ về nó; liệu có đúng không? Và chúng ta bắt đầu tìm kiếm những nhược điểm trong đó!” - Martin Hogan.

Kính thưa Anh Chị em,

“Liệu có đúng không?” cũng là những gì câu chuyện ly kỳ Tin Mừng hôm nay tường thuật! Zacharia, người được sứ thần Gabriel truyền đạt một tin tốt: Elisabeth, vợ ông, sẽ sinh cho ông một con trai. Nhưng với ông, nó quá tốt để trở thành sự thật! “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy?”. Lý luận của con người thường nông cạn; vì thế, nó đánh mất bao cơ hội để có thể hiểu được ‘những con đường đáng kinh ngạc’ của Thiên Chúa.

Zacharia không cho phép mình tận hưởng một tin tốt lành đến thế để có thể vui mừng vì nó. Việc không tin dẫn ông đến việc mất ‘khả năng nói’. Việc không chịu lắng nghe, hoặc không lắng nghe kỹ dẫn chúng ta đến chỗ không tin. Như Zacharia, bạn và tôi có thể chậm nghe những tin mừng, kể cả tin mừng về những sáng kiến yêu thương Chúa dành cho mình qua Chúa Giêsu. Chúng ta nghĩ, đây có thể là tin tốt cho người khác, nhưng với tôi thì không. Hãy dành cả ngày sống để lắng nghe những thông điệp của Chúa; đặc biệt trong Lời của Ngài! Hãy dành cả cuộc đời để học cách lắng nghe Tin Mừng! Hãy tiếp thu nó, để nó định hình chúng ta là ai, làm gì, nói gì và nói như thế nào hầu có thể khám phá ‘những con đường đáng kinh ngạc’ của Ngài!

Bài đọc Thủ Lãnh hôm nay cho thấy mẫu gương lặng thinh đáng bắt chước của vợ chồng Manôac trước tin vui của sứ thần. Bà mẹ được báo cho biết sẽ sinh một con trai, Bà đi vào và nói với chồng rằng, “Một người của Thiên Chúa đã đến gặp tôi”. Họ đã tin, Samson đã chào đời. Và hai người đã có thể cất lên “Miệng chứa chan lời tán tụng Chúa, suốt ngày con chẳng ngớt tôn vinh Ngài” như lời Thánh Vịnh đáp ca.

Anh Chị em,

“Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy?”. Khi Thiên Chúa kéo ai vào sự hiện diện của Ngài, Ngài muốn người ấy tĩnh lặng trước mặt Ngài để có thể lắng nghe Ngài. Bạn có chăm chú lắng nghe tiếng Chúa và suy gẫm lời Ngài với lòng tin tưởng, cậy trông không? Hay bạn thường lý luận và tệ hơn, với những lý luận ‘thuần thế tục’. Zacharia chưa đủ cởi mở trước những đường lối khôn lường của Thiên Chúa và sự hiểu biết của ông chỉ ở tầm thấp. Tin Mừng mời gọi chúng ta mở lòng đón nhận ‘những con đường đáng kinh ngạc’ của Thiên Chúa; đồng thời cảnh báo chúng ta rằng, những ‘kỳ vọng hạn chế’ của chúng ta nơi Thiên Chúa có thể cản trở công việc của Ngài và cũng có thể khiến chúng ta kém sống động hơn với những gì Ngài đã dự định cho mỗi người.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, dạy con lặng thinh và chìm sâu vào trong trước mỗi thông điệp của Chúa; bằng không, con sẽ đánh mất cơ hội khám phá ‘những con đường đáng kinh ngạc’ Chúa dành cho con!”, Amen.

 

Suy niệm 2: THÀNH ĐẠT

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Sam-son và Gio-an có nhiều điểm giống nhau. Trước hết các ngài đều là người của Thiên Chúa. Cha mẹ các ngài đều cao niên và hiếm hoi. Trước mặt người đời thì các ngài không còn khả năng sinh con. Nhưng Thiên Chúa đã ra tay. Quyền năng Thiên Chúa thật lớn lao. Có thể làm từ không ra có. Từ chết thành sống. Các ngài là ân huệ của Thiên Chúa. Tuy nhiên các ngài phải tuân thủ một số qui luật của Thiên Chúa. Đây chính là điều làm nên khác biệt giữa các ngài.

Sam-son và Gio-an có những khác biệt. Khi được thiên sứ báo tin thì bà Ma-nô-ác tin ngay. Còn ông Gia-ca-ri-a không tin. Nên bị câm cho đến ngày Gio-an chào đời. Nhưng khi lớn lên thì xảy ra điều ngược lại.

Sam-son thất bại. Vì không thực hành Lời Chúa. Sam-son được lệnh không được cạo đầu: “Dao cạo sẽ không được lướt trên đầu nó, vì con trẻ sẽ là một na-dia của Thiên Chúa. Chính nó sẽ bắt đầu cứu Ít-ra-en khỏi tay người Phi-li-tinh”. Sam-son yếu đuối rơi vào chước cám dỗ của Đa-li-la, để bị cạo đầu. Ông không giữ được lệnh Chúa truyền. Nên không cứu được Ít-ra-en. Chính ông bị rơi vào tay người Phi-li-tinh. Ông trở nên mù tối. Và làm tôi mọi cho họ.

Gio-an thành công. Vì hoàn toàn tuân giữ Lời Chúa. Ông vào sa mạc. Chuyên tâm cầu nguyện. Ăn châu chấu và mật ong. Mặc áo da thú. Đã thành công trong việc dọn đường cho Chúa. Giới thiệu Chúa cho mọi người. Ông hoàn thành nhiệm vụ “đi trước mặt Chúa, để đưa tâm hồn cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa”. Được Chúa khen ngợi là người cao cả nhất. Là ngọn đèn chiếu sáng.

Chúng ta sinh ra không phải do quyền năng người phàm. Nhưng do quyền năng Thiên Chúa. Khi sinh ra ta, Chúa trao cho ta một nhiệm vụ phải hoàn thành. Ta sẽ thất bại nếu không tuân giữ Lời Chúa. Ta sẽ thành đạt nếu tuân theo chỉ thị của Chúa.

Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng nên con. Sự sống là một hồng ân cao cả. Chỉ có Chúa mới ban tặng được. Và khi cho con có mặt ở đời, Chúa đã dành sẵn cho con một định mệnh cao quí. Xin cho con biết chu toàn mệnh lệnh của Chúa. Để con thành đạt trong Chúa.

 

Suy niệm 3: GIOAN TẨY GIẢ SINH RA

Trong bài đọc I hôm nay, sách Thẩm Phán cũng kể lại việc thiên thần Chúa hiện ra với bà có chồng là Manuel thuộc chi họ Dan, và nói với bà rằng: “Ngươi son sẻ không có con, nhưng sẽ được thụ thai và sinh một con trai. Vậy ngươi hãy cẩn thận đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn món gì không thanh sạch vì ngươi sẽ thụ thai hạ sinh một con trai. Lưỡi dao cạo sẽ không chạm đến đầu nó, nó sẽ được hiến dâng cho Thiên Chúa từ thuở nhỏ và từ lòng mẹ. Chính nó sẽ bắt đầu giải phóng Israel khỏi tay người Philitinh. Bà hạ sinh một con trai và con trẻ sinh ra tên là Samson”.

Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay nêu lên hai ý tưởng:

- “Không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được”. Hai người đàn bà son sẻ vợ của Zacharia và Manuel, tuổi đã già vậy mà sinh được hai người con là Gioan Tẩy Giả và Samson. Theo tục lệ Á Ðông xưa của chúng ta có nói: “Nữ thập tam, nam thập lục”. Nghĩa là người nữ khoảng mười ba đến bốn mươi tuổi là cơ thể bắt đầu biến đổi để có thể chuẩn bị trở thành một người mẹ. Luật Giáo Hội xác định mười sáu tuổi, mà đa số các quốc gia chấp nhận mười tám tuổi là tuổi trưởng thành cho nữ giới để có thể kết hôn. Khả năng sinh con của người đàn bà có thể kéo dài từ đó đến quãng đời từ bốn mươi lăm đến năm mươi tuổi. Qua khỏi tuổi năm mươi thì hầu như không thể thụ thai được nữa. Lẽ dĩ nhiên phải năm mươi đến sáu mươi tuổi thì mới gọi là đã già, lại càng không thể có hy vọng sinh con cái được nữa. Hơn nữa khi nhìn vào trường hợp của Abraham, ông được mệnh danh là cha của kẻ tin. Mặc dầu Sara vợ ông đã già nhưng được thiên thần báo tin sẽ sinh một con trai trong lúc tuổi già. Abraham đã tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Ðấng mà ông tôn thờ: “Không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được”.

- Muốn hiến thánh cho Thiên Chúa để lo việc phụng sự Ngài, Thiên Chúa đòi hỏi con người phải cộng tác với Người: “Ngươi hãy cẩn thận, không uống rượu và thức ăn có men, cũng đừng ăn những món gì không thanh sạch”. Tất nhiên chúng ta cũng không hoàn toàn hiểu theo nghĩa đen nhưng phải hiểu theo nghĩa bóng nữa.

Mùa Vọng là mùa chuẩn bị mừng Chúa Cứu Thế đến, chúng ta không chỉ sửa soạn sạch sẽ, tô vôi, sơn quét lại ngôi thánh đường thân yêu trong Giáo Xứ, làm hang đá thật đẹp, thật lộng lẫy để Chúa Hài Nhi nằm nhưng chúng ta còn phải lo quét dọn tâm hồn, trang hoàng hang đá và làm cho ngôi thánh đường nhỏ bé xinh xinh ở trong tâm hồn chúng ta luôn sạch sẽ để như chiên bò ngày xưa thở hơi ấm áp cho Chúa nơi hang đá giá lạnh trần gian. Chúng ta hãy chuẩn bị tâm tình đón Chúa như lời thánh Gioan Tẩy Giả đã rao giảng: “Núi đồi hãy san cho bằng, hố sâu hãy lấp cho đầy, đường quanh queo hãy uốn cho ngay thẳng, và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.

Lạy Chúa, không có gì mà Chúa không làm được. Xin cho chúng con nhận biết Quyền Năng của Chúa để chúng con luôn sống trong tin yêu và hy vọng trong cuộc đời. Lạy Chúa, để dấn thân phục vụ Nước Chúa cho rộng lớn, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con luôn biết dùng tự do, thời giờ, tâm trí và tài năng riêng của mỗi người mà Chúa đã ban cho để tham dự vào việc mở mang nước Chúa mà không một đắn đo suy tính thua thiệt theo kiểu nhân loại. Amen.

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

 

Suy niệm 4: CON NGƯỜI BẤT LỰC NHƯNG THIÊN CHÚA QUYỀN NĂNG

“…Nhưng họ lại không có con, vì bà Ê-li-sa-bét là người hiếm hoi. Vả lại, cả hai đều đã cao niên.” (Lc 1,7)

Hãy khám phá tình thương của Chúa và tin cậy vào quyền năng của Ngài.

Suy niệm: Hai ông bà Da-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét quả là một cặp vợ chồng gương mẫu: họ sống “công chính trước mặt Thiên Chúa;” còn trước mặt mọi người thì “không ai chê trách điều gì” và chắc hẳn được mọi người thương mến (x. Lc 1,57-58). Thế nhưng điều đáng buồn là “họ lại không có con." Có lẽ hai ông bà đã tìm đủ mọi phương thế, nhưng sự son sẻ vẫn đeo đẳng mà họ thì đã cao niên. Nỗi đau thầm kín của bà Ê-li-sa-bét khi những năm tháng tuổi thanh xuân lần lượt trôi đi, những bước chân trĩu nặng của vị tư tế già Da-ca-ri-a trước những con mắt soi bói của người đời như xác nhận rằng sự hiếm muộn là dấu chỉ Gia-vê trừng phạt một tội lỗi nào đó của họ. Nhưng trước cái tưởng chừng như bất lực và vô vọng của con người, Thiên Chúa có chương trình riêng của Ngài, đã làm cho ông bà sinh hoa trái trong tuổi về chiều già nua. Một con trẻ làm cho nhiều người được hỉ hoan, một con trẻ đầy tràn thần khí và quyền năng của Thiên Chúa.

Mời Bạn: Có khi nào bạn đứng trước tình huống mà mọi giải pháp đều tỏ ra bế tắc và bạn cảm nhận được sự bất lực của mình? Đó chính là dịp để bạn khám phá tình thương của Chúa và tin cậy vào quyền năng của Ngài.

Sống Lời Chúa: Mời bạn thưa với Chúa như bà Ê-li-sa-bét: “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời.”

Cầu nguyện: Lạy Chúa, lắm lúc con đã ngã lòng, mọi hy vọng tưởng như đã lịm tắt. Xin cho con luôn kiên định cậy trông nơi tình thương của Ngài.

 

Thứ tư: RẤT NGƯỜI VÀ RẤT THÁNH

“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói!”.

Chính khách William Wilberforce nói, “Tôi đã sống quá nhiều cho uy tín chính trị; vì thế, linh hồn tôi chết đói, còm cõi và gầy gò!”. Sau một thất bại trên chính trường, ông tiết lộ, “Tôi đã quá tằn tiện với Chúa”. Và ông kết luận, “Chúa cho phép tôi được vấp ngã!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Chúa cho phép tôi được vấp ngã!”, đó là một trải nghiệm vừa cay đắng vừa ngọt ngào, một trải nghiệm ‘rất người và rất thánh!’. Vì lẽ, không có gì nằm ngoài kế hoạch của Thiên Chúa, kể cả thất bại. Các chi tiết của biến cố Truyền Tin hôm nay cho thấy điều đó.

“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa!”. Nói đến “nữ tỳ” hay “tôi tớ” là nói đến một cái gì đó ‘rất người’, yếu hèn, dễ thất bại. Vậy mà, Thiên Chúa thường kêu gọi từng người với những gì yếu hèn và dễ thất bại của họ. Biến cố Truyền Tin đã xảy ra ở một nơi cụ thể; với một thiếu nữ yếu hèn cụ thể; cũng như lời hứa về ‘ái nữ tinh tuyền’ này cũng đã tiên báo cụ thể với một vị vua cụ thể. Chính Thiên Chúa đích thân hứa ban Đấng Cứu Độ với Akhát, vào một thời điểm rõ ràng - bài đọc Isaia - “Này đây người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai”. Sống đức tin, sống ơn gọi, là sống mối quan hệ cá nhân cụ thể của tôi với Chúa. Và quan trọng hơn, tôi có đáp lại Ngài cách cá nhân như vậy không?

“Xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói!”. Maria, một thiếu nữ xuân thì, nhờ cởi mở với kế hoạch của Thiên Chúa, đã tạo nên một sự khác biệt cho nhân loại, mở ra kỷ nguyên cứu độ! Cũng thế, bạn và tôi được mời thưa “Vâng” với Chúa để cũng có thể tạo nên một sự khác biệt khi xây dựng một nền văn minh tình thương ‘rất thánh’ dù khá nhỏ bé, vì ai trong chúng ta cũng có thể góp phần xây dựng Vương Quốc.

Đã từ lâu, dân Chúa ngóng đợi một vị Thiên Sai, Maria cũng mong chờ Ngài; tuy nhiên, không bao giờ cô nghĩ rằng, mình có thể là mẹ của Đấng ấy! Và sẽ rất thú vị nếu có một câu hỏi tương tự, “Vậy khi nào Thiên Chúa mới phái một ai đó đến cứu thế giới hôm nay?”. Kìa, Ngài phái rồi! Trên thực tế, Ngài đã cố làm điều đó qua bạn và tôi! Mỗi chúng ta dù là ‘rất người’ vẫn có thể là một vị thánh. Với sức mạnh của ân sủng, chúng ta có thể cứu lấy thế giới. Tại sao không? Thiên Chúa đã gọi tôi, trao cho tôi một sứ mệnh. Vấn đề là tôi có nhận ra cuộc sống của tôi có thể ‘tuyệt vời’, nếu nó được sống ‘tuyệt vời’ với một tình yêu ‘rất thánh’ tràn đầy ‘tuyệt vời’ như Đức Mẹ không!

Anh Chị em,

“Tôi đây là nữ tỳ của Chúa!”. Ước gì bạn và tôi có thể thưa lên như thế! Thiên Chúa ban hơi thở, sự sống và ân sủng; để với những ân phúc ấy, chúng ta hoàn tất kế hoạch ‘rất thánh’ của Ngài. Thế nhưng, đừng quên “Chúa cho phép tôi được vấp ngã!”. Phải, ngang qua những thất bại, yếu hèn, Ngài thanh luyện chúng ta. Như vậy, vấn đề là mỗi người cần biết uốn mình theo ý muốn của Ngài. Không ai khác có thể thay tôi làm công việc đó. Như Maria, mỗi người hãy hoàn tất ơn gọi của mình trong khiêm tốn. Vì thế, dẫu ‘rất người’, với ơn Chúa, bạn và tôi vẫn có thể góp phần vào kế hoạch ‘rất thánh’ của Ngài.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, linh hồn con còm cõi, gầy gò vì con quá tằn tiện với Chúa. Dạy con “đừng tuyệt vọng”, nhưng biết đứng lên và đi tới sau mỗi lần vấp ngã!”, Amen.

 

Suy niệm 2: ĐẶT TÊN LÀ GIÊSU

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Trong các ơn không ơn nào trọng bằng ơn cứu độ. Trong các lời hứa không lời nào trọng bằng lời hứa ban Đấng Cứu Độ. Trong các dấu lạ không có dấu lạ nào bằng lớn lao bằng Thiên Chúa sinh xuống làm người để cứu độ nhân loại. Vì thế Chúa không hứa cho A-khát điều gì khác ngoài lời hứa ban Đấng Cứu Độ sinh ra bởi người trinh nữ. Nghĩa là do quyền năng của Thiên Chúa. Để trở thành Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở giữa loài người. Thế giới nhân loại có quá nhiều đau khổ. Quá nhiều lo âu. Quá nhiều đổ vỡ. Quá nhiều vấn đề. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể giải quyết được hết các vấn đề của con người. Mới có thể tạo nên con người mới. Khởi đầu một lịch sử mới. Xây dựng một thế giới mới. Một thế giới tràn đầy ân sủng.

Lời hứa từ ngàn xưa được ứng nghiệm nơi Đức Mẹ và Chúa Giê-su. Chúa Giê-su chính là Đấng muôn dân trông đợi. Giê-su nghĩa là Thiên Chúa cứu. Người đến cứu thế giới khỏi bế tắc. Cứu nhân loại khỏi diệt vong. Giải thoát con người khỏi ách thống trị của ma quỉ. Vì Người là Thiên Chúa. Tuy sinh ra trong trần gian nhưng “Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”. “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người”. Đó là vị vua muôn dân trông đợi. Để tái lập thời huy hoàng của Đa-vít. Thời đất nước hùng mạnh. Dân được hưởng an lạc thái hoà.

Đức Mẹ chính là người trinh nữ sinh con mà tiên tri đã loan báo từ ngàn xưa. Đức Mẹ chính là người đầu tiên được hưởng ơn cứu độ. Nhờ Chúa Giê-su mà Đức Mẹ được ơn vô nhiễm nguyên tội. Và được đồng trinh trọn đời. Đức Mẹ là “Đấng đầy ân sủng”. Vì Đức Mẹ cưu mang Chúa Giê-su là nguồn mạch ân sủng. Thiên sứ cho biết con trẻ sẽ được “đặt tên là Giê-su”. Nghĩa là Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Đức Mẹ là người đầu tiên được cứu khỏi tội lỗi. Đức Mẹ là công dân đầu tiên của vương quốc Nước Trời, của triều đại Thiên Chúa. Nên Đức Mẹ được “đầy ân sủng”. Và từ lòng Mẹ, ân sủng tràn lan khắp thế giới.

Kế hoạch của Thiên Chúa thành công. Vì Chúa Giê-su hoàn toàn vâng phục ý Chúa Cha. Và vì Đức Mẹ dâng mình làm “nữ tỳ” ngoan ngoãn để Thiên Chúa sử dụng. Xin cho con biết noi gương Đức Mẹ. Hoàn toàn ngoan ngoãn để thực hiện chương trình của Thiên Chúa. Con sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi. Con sẽ được Thiên Chúa ở cùng. Con sẽ được đầy tràn ân sủng. Con sẽ được ơn cứu độ.

 

Suy niệm 3: “XIN VÂNG”

Vào thời Đức Maria, luật lệ Dothái rất gắt gao đối với những phụ nữ bị phạm tội ngoại tình. Nếu bị mắc phải, tức là có thai trước hôn nhân hay trong thời kỳ đính hôn là bị án tử hình. Hình phạt chính là ném đá cho đến chết.

Trong hoàn cảnh như thế, Đức Maria cũng thuộc về thành phần trong dân tộc này, hẳn Mẹ không thể thoát khỏi tội chết khi tự nhiên trong bụng mình có một Thai Nhi ngày càng lớn dần theo theo năm tháng…

Ai là người hiểu được Mẹ ngoài Thiên Chúa là chủ thể của Thai Nhi trong bụng Mẹ! Như thế, khi không chồng mà chửa là chắc chắn chết. Mẹ biết rõ điều đó. Tuy nhiên, khi Mẹ nhận được lời giải thích của Sứ Thần, Mẹ đã chấp nhận đi vào cuộc phưu lưu với Thiên Chúa trong niềm tin tưởng và phó thác. Quyết định này là một hành vi can đảm, bởi vì khi quyết định như vậy, Mẹ sẽ gặp phải muôn vàn khó khăn đến từ gia đình, xã hội và nhất là với Giuse, bạn trăm năm của mình. Nhưng, vì tin vào Thiên Chúa tuyệt đối, nên Mẹ đã buông theo ân sủng để Thiên Chúa rợp bóng trên cuộc đời của Mẹ.

Trong cuộc sống của chúng ta hôm nay, đức tin nhiều khi bị lung lay vì những thử thách đến với chúng ta từ nhiều phía…

Đôi khi chính chúng ta cũng thử thách ngược lại Thiên Chúa để thỏa mãn sự hiếu tri của mình trước khi tin, và như thế, hẳn khó có thể chấp nhận nghịch lý ân sủng của Thiên Chúa.

Nguyên nhân sâu xa chính là việc chúng ta không nhạy bén với ơn Chúa, còn nghi ngờ quyền năng của Ngài, và cũng có thể do sự kiêu ngạo phủ lấp tâm trí chúng ta, nên Lời Chúa khó biến đổi tâm hồn trai đá của mình. Vì thế, nhiều khi còn uốn nắn Lời Chúa theo thiển ý của ta nữa.

Sở dĩ Đức Mẹ trở thành Nữ Tỳ Thiên Chúa và sẵn sàng đón nhận lời “xin vâng” với Thiên Chúa là vì Mẹ nhạy bén với ơn Chúa đã được loan báo từ trong thời Cựu Ước. Mẹ cũng khiêm tốn khi thấy điều này là kế hoạch đến từ Thiên Chúa chứ không phải do con người, nên Mẹ đã “xin vâng” để thánh ý Thiên Chúa được nên trọn.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin tưởng, phó thác cuộc đời cho Chúa như Đức Mẹ. Khiêm tốn để Lời Chúa được lớn lên trong tâm hồn và sinh hoa trái trong cuộc sống của chúng ta. Sống trung thành với Chúa dù có phải gặp muôn vàn khó khăn thử thách. Can đảm đón nhận thánh ý Chúa và trung thành với Thiên Ý.

Lạy Mẹ Maria, xin phù trợ chúng con để chúng con khiêm tốn, can đảm, nhạy bén và trung thành với Chúa như Mẹ. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy niệm 4: CUỘC GẶP GỠ CÓ MỘT KHÔNG HAI

“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ toả bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” (Lc 1,35)

Hãy quảng đại góp phần trong công việc tông đồ.

Suy niệm: Cuộc gặp gỡ hôm nay đối với Đức Ma-ri-a là quá bất ngờ, nhưng đối với Chúa lại là “giờ” hành động để thực hiện lời hứa cứu độ. Đây được coi như cuộc gặp gỡ chia đôi lịch sử giữa hai đối tác không hề tương xứng: giữa trời với đất, giữa Thiên Chúa và con người, giữa Đấng Tạo thành và loài thụ tạo. Cuộc gặp gỡ và trao đổi hôm nay minh chứng Thiên Chúa vẫn luôn ưu ái và đánh giá cao sự góp phần của con người, là thụ tạo được dựng nên “giống hình ảnh của Thiên Chúa”, đúng như lời Thánh Âu-tinh nhận xét: “Để tạo dựng nên con, Chúa không cần có con. Nhưng để cứu chuộc con, Chúa cần có con.” Bằng lời thưa “Xin Vâng”, Đức Ma-ri-a là người đầu tiên góp phần vào công trình cứu chuộc của Thiên Chúa.

Mời Bạn: Mỗi khi chúng ta bằng lòng làm theo những gì Thánh Thần và Hội Thánh hướng dẫn là chúng ta cũng góp phần làm cho ơn cứu chuộc của Chúa thấm nhập và lan toả ra với những anh chị em chung quanh.

Chia sẻ: Tôi xét lại có khi nào mình thiếu tinh thần “xin vâng” để rồi có những hành động tự cao, thiếu bác ái gây ảnh hưởng xấu đến tình hiệp nhất của cộng đoàn và cản trở cho công việc truyền giáo không.

Sống Lời Chúa: Tôi không tự cao đặt mình ngồi ‘chiếu trên’ mỗi khi cần nói về Chúa cho người khác, và ngược lại, tôi cũng không tự ti nhưng luôn quảng đại góp phần trong công việc tông đồ.

Cầu nguyện: Đọc hoặc hát: “Mẹ ơi, đời con dõi bước theo Mẹ, lòng con quyết noi gương Mẹ, xin Mẹ dạy con hai tiếng ‘xin vâng’.”

(Nguồn http://tongdosongdao.org/)

 

Thứ năm: THÂN MẪU CHÚA TÔI

“Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi?”.

Trong “Growing Strong in the Seasons of Life”, tạm dịch, “Lớn Lên Mạnh Mẽ Bốn Mùa Cuộc Sống”, Charles Rozell Swindoll viết, “Có một số món quà mà bạn có thể tặng trong dịp Giáng Sinh vượt quá giá trị tiền tệ! Đó là chữa lành một cuộc hờn dỗi, gạt bỏ một mối nghi ngờ; nói với ai đó, “Tôi yêu bạn”; âm thầm cho đi một thứ gì đó; tha thứ cho ai đó. Nhưng có một món quà vốn không thể so sánh với bất cứ thứ nào khác mà bạn có thể tặng, đó là Giêsu, món quà vĩ đại nhất!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Giêsu, món quà vĩ đại nhất” là quà tặng Maria đã đem đến cho gia đình Zacharia! Với trình thuật Thăm Viếng hôm nay, Luca bất ngờ tiết lộ một danh hiệu khác của Đức Mẹ, “Thân Mẫu Chúa tôi”. Danh hiệu này thốt ra từ miệng Elizabeth, người chị họ được ‘lây Thánh Thần’, khi bà chào cô em họ, “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi?”.

Như vậy, thiếu nữ có tên Maria đó còn có danh hiệu “Thân Mẫu Chúa tôi”. Thánh Kinh nhiều lần nói đến một “thiếu nữ” với những cách nói như “thiếu nữ Sion”, “nhi nữ Israel”, “nữ tử Giêrusalem”. Thật trùng hợp, bài đọc Sôphônia hôm nay viết, “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy ngợi khen!”, vì “Chúa là Thiên Chúa ngươi ở giữa ngươi!”. Với Maria, còn hơn ‘ở giữa’, thiếu nữ ấy cưu mang chính “Giêsu”, Con Thiên Chúa, quà tặng cho thế giới.

Nói rằng, Maria, “Thân Mẫu Chúa tôi” khác nào nói Maria là “Mẹ Thiên Chúa”. Danh hiệu “Giêsu, Chúa tôi” làm nổi bật chiều kích cá nhân mối quan hệ của mỗi người chúng ta với Con Thiên Chúa. Nó làm vang vọng cách thức Tô-ma tuyên xưng Đấng Phục Sinh, “Lạy Chúa của tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!”. Đó là lời tuyên xưng tuyệt vời với Đấng còn có tên là “Thương Xót”, cũng là Đấng đã hiện ra củng cố đức tin yếu kém của Tôma. Ngài không chỉ là Chúa, Thiên Chúa của Tôma; nhưng còn là “Chúa và là Thiên Chúa” của bạn và tôi!

Khi xưng hô với Chúa Giêsu là “Chúa của tôi”, như Maria, chúng ta cho phép Ngài làm Chúa đời mình, làm chủ cuộc sống độc nhất và không thể lặp lại của mình. Như Maria, mang Giêsu cho người chị họ, mỗi chúng ta cũng mang Giêsu trao tặng tha nhân. Và như Elizabeth đã gọi Maria là “Thân Mẫu Chúa tôi”, chớ gì những người chúng ta gặp gỡ cũng nhận biết bạn và tôi là “Thân Mẫu Chúa tôi” khi chúng ta tặng trao Giêsu cho họ.

Anh Chị em,

“Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi?”. Ước gì tất cả những ai chúng ta thăm viếng, hay những ai gặp gỡ chúng ta có thể nhận được nhiều hơn trong lễ Giáng Sinh này! Nhiều hơn “một cuộc hờn dỗi được chữa lành”, nhiều hơn “một mối nghi ngờ được gạt bỏ”; nhiều hơn “một lời thì thầm ‘Tôi yêu bạn’”; nhiều hơn “một thứ gì đó được âm thầm cho đi”; nhiều hơn “một ai đó được tha thứ!”. Nghĩa là họ sẽ nhận được “Giêsu, món quà vĩ đại nhất” khi bạn và tôi trở nên những “Thân Mẫu Chúa tôi” cho họ! Maria, nhà truyền giáo đầu tiên mang tặng “Giêsu” đã thay đổi toàn bộ lịch sử nhân loại; thì cả chúng ta, hãy là một nhà truyền giáo ra đi tặng trao Giêsu để góp phần thay đổi lịch sử thế giới. Tại sao không? Tất cả của cải trần gian đều trở nên thứ yếu so với “Giêsu!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con ‘bốn mùa còi cọc’ khi thiếu ‘sự sống Giêsu’; và như vậy, thế giới này vẫn mãi còm cõi, một phần vì con không biết tặng trao nó “Món Quà” cứu độ này!”, Amen.

 

Suy niệm 2: CHÚA LÀ NIỀM VUI

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Tình yêu làm nên niềm vui. Tội lỗi gây nên nỗi buồn, vì tội lỗi ngăn cách con người với Thiên Chúa. Biết bao đau thương, buồn tủi, xót xa, nhưng rồi đến thời của ơn cứu độ. Chúa xuống cứu loài người. Đó là thời điểm của tình yêu.

- Sách Diễm ca diễn tả sự náo nức của Thiên Chúa trên đường đến gặp con người. “Tiếng người tôi yêu văng vẳng đâu đây, kìa chàng đang tới, nhảy nhót trên đồi, tung tăng trên núi”. Tình yêu bừng cháy trong lòng khiến cả vũ trụ thay đổi. Chim chóc ca hát. Hoa lá nở tưng bừng. Hương thơm ngào ngạt: “Sơn hà nở rộ hoa tươi và mùa ca hát vang trời về đây. Tiếng chim gáy văng vẳng trên khắp đồng quê ta. Vả kia đã kết trái non, vườn nho hoa nở hương thơm ngạt ngào”.

- Sách Xô-phô-ni-a diễn tả niềm vui của con người được gặp Chúa: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi! …Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa”. Nhưng lạ lùng thay niềm vui của Chúa thật lớn lao khi được gặp con người. Đến nỗi Chúa nhảy lên vui sướng: “Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng”.

Tất cả những tiên báo ấy đã ứng nghiệm khi Đức Mẹ đến viếng bà Ê-li-sa-béth. Chúa còn trong bào thai đã đem niềm vui đến cho Gio-an. Đến nỗi ông nhảy mừng trong lòng mẹ. Đó là niềm vui ơn cứu độ. Được tha hết tội khiên, Gio-an vui sướng nhảy mừng. Đó là niềm vui của cả nhân loại. Thời tình yêu đã đến. Thời ân phúc khởi đầu. Sẽ tràn lan cả địa cầu.

Niềm vui của Gio-an tràn sang bà mẹ. Khiến bà cất tiếng ca ngợi Thiên Chúa và ca ngợi Đức Mẹ. Đức Mẹ cùng hợp tiếng ca tụng Chúa trong bài Magnificat tuyệt diệu. Đức Mẹ cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa từ ngàn xưa. Và còn mãi đến ngàn sau. “Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham. Và cho con cháu đến muôn đời”.

Chúa là niềm vui. Vì Chúa là tình yêu. Tình yêu khiến Chúa nao nức đi gặp con người. Và vui sướng khi được ở với con người. Tình yêu của Chúa sẽ biến đổi ta. Ban cho ta ơn tha thứ. Rửa ta sạch tội lỗi. Làm biến đổi vũ trụ và con người. Khi ta được trong sạch. Ta sẽ được hưởng tình yêu của Chúa. Một mùa xuân mới sẽ bừng lên. Một thế giới mới sẽ thành hình. Ta sẽ được hạnh phúc. Vì được sống trong tình yêu.

 

Suy niệm 3: ĐI THĂM BÀ ISAVE

Đời người là một cuộc hành trình, và cuộc hành trình nào cũng phải cưu mang một điều gì đó. Có thể là một mơ ước được gặp gỡ, chia sẻ, với niềm hăm hở.

Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, đon đả ra đi lên miền sơn cước. Đức Maria đã chỗi dậy và cưu mang con trong lòng một niềm vui bất tận. Đó là Con Thiên Chúa nhập thể.

- Niềm vui nào cũng đòi được chia sẻ. Đức Maria đã không cất giữ trong lòng niềm vui vừa cưu mang, nhưng người đã vội vàng đem niềm vui đến cho người khác.

Đích điểm cuộc hành trình của Đức Maria là một miền núi. Núi cao là nơi trắc trở, nhưng cũng thường là nơi hẹn hò giữa Thiên Chúa và con người. Và cũng từ cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, con người mới có thể đến với người khác.

- Cuộc hạnh ngộ giữa Đức Maria và người chị họ Isave là kết thúc của cuộc ra đi. Không ai đi để tiến về cô đơn, để giam mình trong cõi chết, nhưng ra đi là để gặp gỡ, chia sẻ.

- Đời người Kitô hữu là một hành trình trong đức tin. Hành trình nào cũng có khởi điểm và đích điểm. Cũng như Đức Maria đã tiến lên đường sau khi cưu mang Chúa Giêsu, người Kitô hữu cũng khởi đầu cuộc hành trình bằng sự sống Thiên Chúa đã được thông ban qua Bí tích rửa tội.

Cưu mang sự sống mới, người Kitô hữu cũng vội vã ra đi đem niềm vui cho người khác, đó là tất cả sứ mệnh và ý nghĩa của đời sống đức tin.

Người cưu mang Đức Kitô phải ý thức rằng đạo của họ là đạo Tin mừng, đường của họ là đường của rộn rã, vui tươi…

Điểm đến của cuộc hành trình dĩ nhiên là cuộc sống vĩnh cửu, nhưng cuộc sống này cũng chỉ là một cuộc gặp gỡ nối dài những gặp gỡ mà con người đã thực hiện trong cuộc sống tại thế. Điểm đến ấy sẽ không đến với những ai đã chối bỏ gặp gỡ Thiên Chúa trong cuộc sống này. Điểm đến ấy sẽ không bao giờ hiện ra đối với những ai đã chối bỏ gặp gỡ người anh em trong cuộc hành trình tại thế.

- Mùa vọng là mùa của cưu mang, của cất bước ra đi. Chúng ta hãy để Đức Kitô lớn lên trong tâm tư, suy nghĩ, hành động của chúng ta. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy ra đi đến với người khác. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy biến mọi gặp gỡ hằng ngày thành những trao đổi của yêu thương, phục vụ, quên mình, tha thứ và vui tươi.

 

Suy niệm 4: CUỘC VIẾNG THĂM ĐẦY ÂN SỦNG

Trong cuộc sống, tình liên đới là điều hết sức quan trọng. Có sự liên đới, chúng ta dễ dàng chia vui, sẻ buồn với nhau và giúp nhau thăng tiến…

Tin Mừng hôm nay trình thuật về cuộc gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà Êlisabét. Cuộc gặp gỡ này không chỉ dừng lại ở chỗ thăm hỏi xã giao, nhưng nó còn đi xa hơn, để cho thấy rằng đây là một cuộc gặp gỡ trong tình yêu và ân sủng.

Đức Maria vội vã lên đường thăm bà chị họ Êlisabét không phải do Mẹ không tin lời Sứ Thần báo về bà Êlisabét đã có thai được sáu tháng, để “bắt tận tay, day tận mặt” xem điều đó có thật không! Không phải vậy, nhưng Mẹ lên đường là để thể hiện sự vui mừng, mau mắn, sẵn sàng tín thác nơi Chúa và đem Tin Mừng ấy đến với người chị họ, người chị trong ân sủng, để cả hai chị em cùng chung lời tạ ơn.

Vì thế, khi vừa thấy Mẹ, bà Êlisabét đã cất tiếng tung hô: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,4243). Cùng lúc, Gioan trong bụng đã nhảy lên vui sướng vì mình được Thiên Chúa viếng thăm.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy, vai trò của Chúa Thánh Thần là trọng tâm của mọi biến cố cũng như nhân vật từ Đức Giêsu, Mẹ Maria, thánh Gioan, ông Dacaria và bà Êlisabét… Tất cả những nhân vật này đã trung thành với lời hứa, mặc dù đôi lúc cũng còn chút nghi ngờ như ông Dacaria.

Từ đó, chúng ta được mời gọi mau mắn vâng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần trong Lương Tâm của mình để thi hành. Sẵn sàng tin tưởng tuyệt đối vào Lời Chúa hứa. Yêu thương, tôn trọng và liên đới với tha nhân để giúp nhau nên thánh.

Mong sao trong Mùa Vọng này, mọi người đều cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc vì có Chúa ở cùng như mẹ Maria, bà Êlisabét và thánh Gioan Tẩy Giả khi xưa.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu thương nhau để cùng nhau làm chứng cho niềm vui Tin Mừng trong cuộc sống thường ngày. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Thứ sáu: HỒN NGỢI KHEN, TRÍ HỚN HỞ

“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng!”.

“Có lẽ trăm năm mới có một người bị huỷ hoại bởi lời khen ngợi quá mức; nhưng chắc chắn, mỗi phút, có người chết trong lòng vì thiếu nó! Chúa thì sao? Thiên Chúa đâu cần ai khen! Nếu chưa từng trải nghiệm quyền năng và tình yêu Ngài, bạn và tôi sẽ không bao giờ nhận ra tình trạng yếu đuối của bản thân và biết mình cần gì!” - Henry Newman.

Kính thưa Anh Chị em,

“Thiên Chúa đâu cần ai khen!”. Nhưng những ai đã từng nếm trải tình yêu và quyền năng Ngài, thì ‘hồn ngợi khen, trí hớn hở’ là điều đương nhiên nơi họ! Lời Chúa hôm nay cho thấy điều đó.

- Thánh ca Samuel và Magnificat có chung mẫu số là niềm vui trào dâng từ đáy lòng của hai người mẹ: một, Cựu Ước; một, Tân Ước. Thật thú vị, chuyển động kép ‘hồn ngợi khen, trí hớn hở’ tiết lộ nhiều điều! Trước hết, “Tâm hồn con hỷ hoan vì Chúa” là thánh ca ngợi khen - bà Anna hiếm muộn - dâng lên Chúa trước sự ra đời của cậu trai Samuel. Đó là một bài thơ cổ, hoàn toàn phù hợp với bối cảnh. Về ngôn ngữ và tình huống, nó có nhiều điểm tương đồng với Magnificat; tuy nhiên, về tính cá nhân, giai điệu của nó không bằng. Mẹ con Anna - Samuel được coi là nguyên mẫu của Elisabeth - Gioan; và cũng là nguyên mẫu của Maria và Chúa Giêsu, dẫu có phần khác biệt.

- Thứ đến, ‘hồn ngợi khen, trí hớn hở’ tiết lộ hành động của Maria cùng lúc với hành động của Thiên Chúa. “Hồn, trí” Mẹ bao hàm tất cả những khả năng con người của Mẹ từ tâm trí, ý chí, tình cảm và ước muốn; đó là tất cả những gì làm nên con người Mẹ. Với những khả năng phàm trần đó, Maria cao rao vĩ nghiệp của Chúa. Nói cách khác, bằng tâm trí, Mẹ cảm nhận kế hoạch của Chúa đang hành động trên Mẹ; bằng ý chí, Mẹ thừa nhận và công bố sự cao cả của Ngài, và Maria làm như vậy với tất cả tâm tình, cảm xúc và ý ngay lành. Tắt một lời, toàn bộ con người Mẹ đã tiêu hao bởi Đấng dựng nên Mẹ.

Khi cao rao sự vĩ đại của Thiên Chúa, Thánh Thần - trong lễ ‘Hiện Xuống đầu tiên’ - đã ngập tràn linh hồn Mẹ và ‘đơm trái’ Giêsu, tác phẩm của chính Ngài. Đúng thế, Giêsu là hoa trái và là quà tặng Thánh Thần mà Maria - đại diện cho nhân loại - đã đón nhận trọn vẹn. Vì thế, tự thâm tâm và trí năng Mẹ, ‘hồn ngợi khen, trí hớn hở’ là một hậu kết tất yếu.

Anh Chị em,

“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng!”. Có lẽ chúng ta đã quá quen với những lời này nên không còn lưu tâm đến ý nghĩa của chúng.

“Ngợi khen” nghĩa đen là “làm lớn”, “phóng to”. Maria “làm lớn Thiên Chúa”; Mẹ không làm lớn những khó khăn mà lúc đó Mẹ ‘không thiếu’. Mẹ ‘phóng to’ Chúa! Chúng ta thì khác, chúng ta thường ‘làm phình’ những khó khăn, để mình ‘mắc mướu’ trong đó; và rồi, lịm ngất trong sợ hãi! Maria thì không, Mẹ đặt Thiên Chúa Chí Tôn trên toàn bộ cuộc sống mình. Để từ đó, Magnificat ra đời; niềm vui sản sinh: không phải từ việc không có những vấn đề, sớm hay muộn, nhưng từ sự hiện diện của Thiên Chúa Tối Cao, Đấng ở cùng Mẹ.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con chết vì thiếu lời khen khi hồn ủ dột, trí rũ rượi. Cho con nhận ra tình yêu và quyền năng Chúa những muốn thực hiện bao điều vĩ đại trên con!”, Amen.

 

Thứ bảy: CHỦ NGHĨA TRUYỀN THỐNG

“Tên cháu là Gioan!”; “Ai nấy đều kinh sợ”; “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?”.

“Truyền thống là đức tin sống động của những người đã chết. ‘Chủ nghĩa truyền thống’ là đức tin đã chết của những người còn sống!” - Jaroslav Pelikan.

Kính thưa Anh Chị em,

Thật thú vị, Lời Chúa hôm nay chứng thực nhận định của Jaroslav Pelikan; đôi khi, chính Thiên Chúa chủ động phá vỡ truyền thống! Và một đôi khi, Ngài muốn con người thoát khỏi ‘chủ nghĩa truyền thống’ để cởi mở hơn với những gì mới mẻ! Tin Mừng tường thuật việc Zacharia và Elisabeth đặt tên cho con mình, “Tên cháu là Gioan!”.

Trong truyền thống Do Thái, “tên” mang một ý nghĩa quan trọng. “Gioan” có nghĩa là “Chúa nhân từ”. Đây là tên Thiên Chúa muốn ‘cặp đôi hiếm muộn’ này đặt cho con mình. Sự ra đời của Gioan là dấu hiệu cho thấy ngay cả Thiên Chúa, Ngài vẫn muốn thay đổi một điều gì đó ‘rất truyền thống’; quan trọng hơn, Ngài muốn tiết lộ, ân sủng của Ngài sắp chạm tới thế giới! “Gioan”, khi trưởng thành, sẽ hướng mọi người về phía “Giêsu”, Đấng sẽ công bố năm hồng ân của Thiên Chúa và thời cứu độ của Ngài.

Một cái tên sẽ nói lên những gì? Rất nhiều! Sẽ rất nhiều ý nghĩa trong cái tên của “Gioan”. Vì ‘chủ nghĩa truyền thống’, láng giềng và thân thích phản đối, “Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả!”. Với họ, đây là một sự phá vỡ truyền thống không thể chấp nhận được. Tuy nhiên, Thiên Chúa không thể bị ràng buộc bởi truyền thống. Ngài sắp làm một điều gì đó mới mẻ, và cái tên mới này là dấu hiệu cho thấy sáng kiến đầy kỳ thú của Ngài đối với nhân loại.

Có thể có nhiều cách khiến truyền thống đáng được tôn trọng. Tuy nhiên, khi nói đến đường lối của Thiên Chúa, bạn không thể để mình trở thành tù nhân của ‘chủ nghĩa truyền thống’. Sự xuất hiện của Chúa Giêsu là một mặc khải hoàn toàn mới mẻ! Ngài sẽ tiếp tục nói về Ngài như rượu mới phải đổ vào bầu da mới. Thánh Thần của Ngài, luôn hoạt động theo những cách thức mới mẻ đầy sáng tạo. Sáng kiến đầy ân sủng nơi Ngài luôn thúc đẩy bất cứ ai mở ra những cánh cửa mới và tiến về phía trước. Gió Thánh Thần muốn thổi đâu thì thổi, thổi cho đến tận nơi Ngài muốn. Thiên Chúa luôn định hình lại truyền thống, “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta” - bài đọc Malakia - chính Ngài muốn thanh lọc và đổi mới. Bạn và tôi cần cởi mở đón nhận điều Chúa muốn, hãy ngạc nhiên và kính sợ nó!

Anh Chị em,

“Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?”. Nghĩa là “Chúa đang làm gì trong cuộc đời của đứa trẻ này?”. Với Đức Phanxicô, bạn và tôi tự hỏi, “Chúa đang làm gì trong cuộc sống tôi? Chúa muốn dẫn tôi đi đâu? Ngài yêu cầu tôi đi theo hướng mới nào? Đức tin của tôi là một đức tin vui tươi hay đơn điệu, nếu không nói là buồn tẻ? Tôi có ngạc nhiên khi nhìn thấy các công trình của Chúa, khi nghe về việc truyền giáo hay cuộc đời của một vị thánh; hoặc khi nhìn thấy nhiều người tốt, tôi có cảm nhận được ân sủng bên trong, hay chẳng có gì lay động trong tôi? Tôi có cảm nhận được sự an ủi của Thánh Thần hay tôi đang khép kín? Tôi có ‘nếm thử’ trong tâm hồn mình cảm giác ngạc nhiên mà sự hiện diện của Thiên Chúa mang lại với lòng biết ơn?”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, bám chặt ‘chủ nghĩa truyền thống’, không chỉ tự tử, đôi khi con giết chết anh em. Giúp con mở lòng hầu có thể ngoan nguỳ quyện bay theo gió Thánh Thần!”, Amen.

 

Suy niệm 2: Ê-LI-A ĐẾN CHẤN CHỈNH

(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)

Con dân tội lỗi. Phản bội Thiên Chúa. Lìa xa đường lối của cha ông. Chúa đã sai Ê-li-a đến chấn chỉnh “đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu và đưa tâm hồn con cháu trở lại với cha ông”. Ê-li-a đã đến như lửa. Cuộc đời ngài bừng bừng lửa sốt mến. Lời ngài như lửa. Làm cho xứ sở bị hạn hán. Ngài dùng lửa thanh luyện tâm hồn Ít-ra-en. Chống lại vua A-kháp và hoàng hậu Giê-sa-ben. Giết chết hơn 400 sư sãi của Ba-an. Làm cho dân trở về với Chúa. Theo đường lối của cha ông. Tiên tri Ma-la-khi tiên báo sau cùng Chúa sẽ đến. Nhưng trước đó, Ê-li-a sẽ trở lại để dọn đường cho Chúa. Lời tiên báo ứng nghiệm vào Gio-an Tẩy giả. Chính Chúa Giê-su xác nhận Gio-an là Ê-li-a mới. Đến để mở đường cho Đấng Cứu Thế.

Ông mở đường bằng nghiêm chỉnh thực thi Lời Chúa. Cha mẹ ông đã làm gương về điều đó. Chúa truyền đặt tên ông là Gio-an. Nghĩa là Thiên Chúa thi ân. Bà Ê-li-sa-bét và ông Gia-ca-ri-a tuyệt đối vâng theo lệnh truyền. Đặt tên là xác nhận quyền làm cha mẹ. Khi đặt tên theo lệnh Thiên Chúa, ông bà xác nhận Gio-an là do Thiên Chúa ban tặng. Ngay khi đó Gia-ca-ri-a, trước đó bị câm, mở miệng nói được. Chỉ khi nói theo ý Chúa lời mới có ý nghĩa.

Chính Gio-an cũng nghiêm túc tuân thủ lời Chúa dạy. Nên ông xa lánh phồn hoa. Vào ở trong sa mạc. Ăn uống đạm bạc. Chỉ có châu chấu và mật ong rừng. Y phục đơn sơ. Một mảnh da thú đủ để che thân.

Ông chỉ nói lời của Chúa. Nên mạnh mẽ đe phạt những người đi vào đường tội lỗi. Kết án cả vua Hê-rô-đê. Vì đã chiếm vợ của anh vua. Ông đúng là Ê-li-a mới. Chấn chỉnh mọi sự. Dọn đường cho Chúa Cứu Thế ngự đến.

Bàn tay Chúa phù hộ em”. Nhận biết điều đó nên dân chúng tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Không ai biết được đường đi của Chúa. Không ai biết gió từ đâu tới và sẽ đi đâu. Gio-an luôn ở trong bàn tay Chúa. Luôn luôn nói Lời Chúa. Ông trở thành loa phát thanh Lời Chúa. Ông là “tiếng kêu trong hoang địa”. Ông là người chấn chỉnh mọi sự. Sửa đường cho ngay để đón Chúa Cứu Thế ngự đến.

Xin cho con noi gương thánh Gio-an. Chấn chỉnh chính mình. Rồi thế giới sẽ trật tự đón Chúa đến.

 

Suy niệm 3: SINH NHẬT CỦA GIOAN TẨY GIẢ

Vào thời quân chủ xưa, khi các vị vua muốn viếng thăm một nơi nào ngoài kinh đô, thì đầu tiên các sứ giả của triều đình được gửi đến đó để chuẩn bị nơi chỗ cho xứng đáng, đồng thời dạy dân chúng biết cách thức và nghi lễ khi đón tiếp vua. Vì có những nghi thức thật quái lạ mà bình thường con người ít khi nghĩ tới như: để tỏ lòng kính trọng khi vua đi ngang qua thì tất cả các thần dân phải sấp mình xuống đất không được nhìn lên dù chỉ là một cái liếc mắt, nếu bị gặp đều phải lãnh phạt, hình phạt có những lúc tới mức độ phải tử hình, do đó mà không thể thiếu việc các sứ giả được sai đi.

Trong bài đọc của phần Phụng Vụ hôm nay, ngôn sứ Malakia đã tiên báo về một sứ giả có nhiệm vụ dọn đường cho vị Vua trên hết các vua đến thăm Ngài. Sứ giả ấy là Elia: “Này đây, Ta sai tiên tri Elia đến cùng các ngươi trước ngày trọng đại kinh khủng của Ta, người sẽ hoán cải lòng cha ông về lại với con cháu và lòng con cháu trở về cùng cha ông”. Về sau Chúa Giêsu sẽ tỏ lộ cho các môn đệ Ngài biết: “Elia chính là Gioan Tẩy Giả”, và trong bài Tin Mừng thánh sử Luca đã nói gì với sứ giả Gioan này?

Chẳng khác gì người Việt Nam chúng ta, người Do Thái cũng sống tình bà con láng giềng rất thắm thiết. Nghe Elizabeth sinh hạ con trai, bà con láng giềng liền đến giúp đỡ và chia sẻ niềm vui cùng với gia đình Zacharia. Ðến ngày thứ tám, lúc làm lễ cắt bì và đặt tên cho con trẻ cũng có sự hiện diện của họ. Họ muốn lấy tên Zacharia mà đặt tên cho con trẻ chứ không phải là Gioan. Gioan hay Giokhanan tiếng Do Thái có nghĩa là “Thiên Chúa thương xót”. Vì sự chào đời của Gioan là một biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa, cách riêng cho Zacharia và Elizabeth, vì Thiên Chúa đã cất đi sự tủi nhục bấy lâu đè nặng trên người đàn bà son sẻ và cách chung cho toàn thể gia đình nhân loại. Vì hôm nay đã xuất hiện vị sứ giả để dọn đường cho vị Vua trên hết các vua đến thăm dân Ngài, một niềm vui mà đã mấy ngàn năm gia đình nhân loại ngóng chờ. Chắc chắn những người hiện diện đều biết chữ Gioan hay Giokhanan có nghĩa là “Thiên Chúa thương xót”.

Tuy nhiên, họ lại không hiểu được lòng thương xót của Thiên Chúa nên đã từ chối không chịu nhận tên Gioan cho con trẻ. Họ không hiểu vì tâm trí của họ đang bị ràng buộc bởi những suy nghĩ của trần thế, quá lệ thuộc vào các tập quán cổ xưa. Vì thế, họ không còn cảm nhận được giá trị của lòng thương xót Thiên Chúa ban xuống cho con trẻ và gia đình: “Không ai trong họ hàng bà có tên này”.

Con người cứ nhắm mắt đưa chân theo những vết xưa cũ ấy nên họ chẳng nhận ra được những thực tại trước mắt, không biểu lộ được ý nghĩa của công việc họ đang tham dự. Ðến chung vui vì Thiên Chúa đã xót thương, thế mà họ lại không chịu tuyên xưng lòng thương xót của Ngài.

Với Zacharia cũng thế, lý luận mang tính cách trần thế đã khiến ông không tin nhận lòng thương xót của Thiên Chúa đang được ban xuống cho gia đình ông. Vì thế mà ông đã phải lãnh nhận hình phạt là bị câm. Chỉ khi ông đã quyết định đặt tên cho con trẻ là Gioan, tức là khi ông tuyên xưng lòng thương xót của Thiên Chúa thì lúc đó ông mới được tha khỏi hình phạt, và cũng là lúc ông chúc tụng ngợi khen lòng thương xót của Thiên Chúa.

Thật thế, trong cuộc đời có lẽ không có gì làm buồn lòng con người cho bằng đi làm ơn mà chỉ được lãnh nhận thái độ lãnh đạm, thờ ơ và cũng chẳng có gì đáng trách cho bằng thái độ vô ơn. Nếu trong dân gian có những câu nói diễn tả lòng dạ ác độc như cầm thú thì về phương diện biết ơn, thú vật đôi lúc lại được xếp hạng trên con người: “Cứu vật vật trả ơn. Cứu nhân nhân trả oán”.

Trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng để chuẩn bị mừng kính mầu nhiệm Ngôi Hai xuống thế làm người, một mầu nhiệm diễn tả lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với gia đình nhân loại. Ước mong rằng mỗi người trong chúng ta kiểm điểm lại tâm tình biết ơn của mình. Có thể chúng ta không cố tình quên ơn nhưng trong thực tế chúng ta lại sống như những người vô ơn. Tuy nhiên, như những người láng giềng của gia đình Zacharia, thì qua cách suy nghĩ trần tục, các thành kiến hẹp hòi, các thói quen ích kỷ đã vây phủ lấy chúng ta, làm cho chúng ta bị mờ tối nên chẳng nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa hằng bao bọc chúng ta cũng như tình thương của người anh em đang tặng ban cho chúng ta. Nhưng khi nhận ra lòng thương xót ấy thì chúng ta cũng như Zacharia là thốt lên lời chúc tụng và ngợi khen.

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

 

Suy niệm 4: THỪA HƯỞNG THÁNH Ý CHÚA

Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho em, nhưng bà mẹ lên tiếng nói: “Không, phải đặt tên cháu là Gioan”. (Lc. 1, 59-60)

Phụng vụ hôm nay giới thiệu cho chúng ta một chứng nhân khác theo hình ảnh Đức Maria, ông đã nhận được tin Thiên Chúa đoái thương, nhưng vì cứng lòng tin, ông đã bị câm.

Giờ đây ông tin lời thiên thần đã báo cho ông khi trước, dù phải trái với tục truyền về cách đặt tên cho con, Gia-ca-ri-a đã biết phải vâng theo thánh ý Chúa để đặt tên cho con là Gioan và chúc tụng Chúa. Trước sự kiện lạ đó, láng giềng bà con đã nhận ra bàn tay Thiên Chúa phù hộ.

Thường xuyên chúng ta cũng được mời gọi đón nhận thánh ý Chúa nhờ đức tin, mà chẳng biết tại sao xảy ra như vậy. Thí dụ: vợ được bài học qua cái chết của chồng hay tu sĩ khám phá ra một ơn gọi đặc biệt vượt quá sức mình. Có nhiều hoàn cảnh giúp chúng ta sống đức tin để trở nên người thừa hưởng thánh ý Thiên Chúa. Chính lúc đó người ta cảm thấy được can đảm cần có, được bình an nội tâm và nhận biết phải sống với Chúa bằng tình bạn chí thiết.

Đang sống giữa những tiếng ồn ào náo nhiệt chuẩn bị Noel, chúng ta có biết khám phá ra ý nghĩa của ngày đại lễ này không? Chúng ta có biết sống nhiệt tâm theo thánh ý Chúa hằng ngày để đón mừng Đấng Cứu thế đến không?

Dù những nghi nan như ông Gia-ca-ri-a, chúng ta biết chấp nhận ý Chúa trong đức tin, chúng ta sẽ được thừa hưởng ơn phúc của lời Chúa hứa ban như Chúa đã ban cho ông Gia-ca-ri-a. (St)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XIV THƯỜNG NIÊN Lm. Nguyệt Giang CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN B Ed 2,2-5; 2Cr 12,7-10; Mc 6,1-6 Suy niệm 1: ...