SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XVI THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN-B
Gr 23,1-6; Ep 2,13-18; Mc 6,30-34
Suy niệm 1:
Trong thông điệp “Thiên Chúa giàu lòng thương xót, ở số 3, Ðức thánh cố giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã khẳng
định: “Lòng Thương Xót là tên gọi thứ hai của Thiên Chúa tình thương và Đức
Giêsu chính là hiện thân và là khuôn mặt hoàn hảo của Thiên Chúa làm người”.
Lòng Thương Xót đó đã được Thánh Mar-cô khắc họa nơi bài Tin mừng hôm nay bằng
hai từ quan trọng là “quan tâm”.
- Trước hết Chúa Giêsu quan tâm đến các tông đồ.
Sau cuộc hành trình truyền giáo vất vả, các Tông đồ trở
về lòng đầy vui mừng phấn khởi, các ông đã thuật lại cho Đức Giêsu nghe những
thành quả tốt đẹp mà các ông đã gặt hái được. Ngoài việc lắng nghe và chia sẻ
niềm vui cùng với các tông đồ, Chúa Giêsu còn nhìn thấy điều cần thiết và quan
trọng hơn ở đây và lúc này đối với các tông đồ là cần phải nghỉ ngơi đôi chút
để lấy lại sức, qua đó cũng có thời giờ nhìn lại những việc làm đã qua, nhất là
để sống thân tình với Chúa và với nhau… Đây là nhu cầu chính đáng và rất bổ ích
cho các ông. Nên Ngài khuyên các ông: “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ
mà nghỉ ngơi một chút.” (Mc 6,31). Xã hội
hôm nay con người bị lôi vào vòng xoáy kim tiền nên lúc nào cũng sống trong trạng
thái tất bật và hối hả.
Ngay từ bé, học sinh đã phải bù đầu học hành: học sáng học tối, học chính học phụ. Học sinh như những con gà công nghiệp lù đù, bị nhồi nhét quá nhiều kiến thức nên các em không còn khả năng tư duy cá nhân và cũng không biết sáng tạo gì thêm.
Rồi người lớn lại càng bận rộn hơn, ai cũng kêu: bận quá,
công việc áp lực quá! Con người tối mặt tối mũi làm việc đến độ: Làm ngày không
đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm Chúa Nhật, làm vỡ mật luôn! Cho nên, con người
hôm nay từ trẻ em đến người lớn rất cần có thời gian nghỉ ngơi bồi dưỡng lại tinh
thần, tâm hồn mình. Đó là quy luật tự nhiên, có làm thì phải có nghỉ. Quy luật ấy đã được Chúa an bài ngay khi sáng tạo
vũ trụ và con người trong vòng 6 ngày; ngày thứ bảy Chúa nghỉ ngơi. Ngày nghỉ
ngơi ấy để con người sống thân tình với Chúa và với nhau. Ngày nghỉ ấy để con người quan tâm đến những nhu cầu tinh thần và tâm linh, ngày nghỉ ấy để con người biết chia sẻ tình thương cho nhau.
Với sự quan tâm đến nhu cầu nghỉ ngơi cho các tông đồ, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta hiểu rằng: giá trị con người quan trọng hơn công việc. Vì thế, nếu có sự chọn lựa thì ta hãy chọn con người hơn công việc. Bởi vì được việc mà mất người là một thất bại lớn trong đời sống chúng ta.
- Thứ hai, Ngài quan tâm đến dân chúng.
Mặc dù Đức Giêsu muốn cùng với các Tông đồ tách biệt
khỏi đám đông ồn ào, tìm nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi đôi chút. Nhưng khi thấy dân
chúng tấp nập tuôn đến thì “Ngài chạnh lòng thương vì họ đang bơ vơ như
đàn chiên không có người chăn”. Chạnh lòng trước sự bơ vơ lạc lỏng của dân
chúng, với con tim giàu lòng xót thương, Chúa Giêsu như quên hết nhọc mệt, nên
đã sẵn sàng hy sinh thời giờ, sức khỏe để “bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.”
Tại sao Chúa lại ưu tiên cho việc dạy dỗ? Thưa bởi vì con
người khác con vật. Con vật chỉ có đời sống vật chất, ăn uống no nê là đủ,
nhưng con người còn có đời sống tinh thần và tâm linh cao quý. Việc cha mẹ yêu
thương chăm lo cho con cái là tốt, nhưng cũng nên nhớ rằng: cho ăn uống mới làm nên
phần con, còn dạy dỗ hướng dẫn mới làm nên phần người.
Xã hội hôm nay không thiếu đồ ăn, nhưng lại đang thiếu sự quan
tâm dạy dỗ cho nên người tử tế. Ăn uống mới chỉ làm cho thân xác sống, nhưng dạy
dỗ mới giúp con người có được lẽ sống cao đẹp.
Mỗi người chúng ta đều có lịch đời sống cho riêng mình, lịch
trình ấy được chúng ta sắp xếp ngăn nắp, phù hợp với cuộc sống của ta. Nên ta
có quyền sống theo lịch trình ấy. Tuy nhiên, nếu cần phải hy sinh phục vụ cho
những nhu cầu lợi ích tinh thần và tâm linh của tha nhân, thì chúng ta cũng phải sẵn sàng hy sinh.
Xin Chúa ban
cho chúng ta có được cái nhìn của Chúa, để chúng ta nhận ra được những nhu cầu
cần thiết nơi tha nhân. Và xin cho chúng ta có được tấm lòng thương xót của
Chúa, để chúng ta không cảm thấy mệt nhọc khi phải hy sinh phục vụ vì hạnh phúc
cho người khác, cách đặc biệt cho những ai nghèo khổ, yếu đuối và tội lỗi, theo
gương Chúa Giêsu, vị Mục Tử nhân lành.
Amen.
Suy niệm 2:
Hình ảnh người mục tử chăm sóc
đàn chiên là một hình ảnh quen thuộc trong Kinh thánh. Hình ảnh này được Cựu ước
sử dụng để mô tả mối quan gần gũi thân tình giữa Thiên Chúa và con người.
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu Kitô
tự ví mình là người mục tử nhân lành, luôn quan tâm, yêu thương và chăm sóc cho
đàn chiên của mình.
Khi thấy đoàn dân chúng đông đảo và
mệt mỏi, Ngài chạnh lòng thương nên đã sẵn sàng hy sinh thời giờ nghỉ ngơi để
đón tiếp và ở lại dạy dỗ họ nhiều điều. Cho dẫu cả ngày bận bịu giảng dạy và
làm việc đến nỗi không có giờ ăn uống và nghỉ ngơi. Nhưng Chúa Giêsu đã không
quản ngại hy sinh bản thân để quan tâm và đáp ứng những nhu cầu cần thiết cho
đoàn dân đến với Ngài. Điều này mời gọi mỗi người chúng ta cũng phải biết noi
theo gương Chúa, biết chạnh lòng trước nỗi đau khổ của người khác; biết hy sinh
thời giờ, sức khỏe và tâm trí để phục vụ nhu cầu tinh thần và tâm linh cho
những ai cần đến; nhất là biết quảng đại chia sẻ giúp đỡ vật chất cho những ai nghèo
khổ, bệnh tật, gặp khó khăn với mong muốn góp phần tham gia vào đời sống mỗi
ngày tốt đẹp hơn.
Nguyện xin Chúa Giêsu,
vị Mục Tử Nhân Lành ban cho chúng ta có được tấm lòng thương xót như Chúa để
chúng ta biết chạnh lòng trước những nỗi đau của tha nhân mà sẵn sàng hy sinh phục
vụ với lòng bao dung quảng đại theo gương Chúa.
Suy niệm 3: “CHẠNH LÒNG THƯƠNG”
- Bài đọc 1, tiên
tri Giê-rê-mi-a thay lời cho Thiên Chúa khiển trách các chủ chăn
không biết lo cho chiên của Người, trái lại còn phân tán và xua đuổi chúng. Vì
thế, chính Người sẽ đứng ra chăm sóc chiên, và cắt cử những chủ chăn nhiệt
thành để chiên của Người được sống.
- Bài đọc 2, Thánh Phaolô cho biết nhờ Máu
Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá đã đem lại bình an cho con người; xóa bỏ bức
tường ngằn cách là tội lỗi để mọi người được giao hòa với Thiên Chúa và được
hiệp nhất với nhau trong Hội Thánh, trở nên anh em với nhau cùng một Cha trên
trời.
- Bài Tin Mừng cho thấy sự đói khát chân lý của dân chúng. Họ chẳng
những nghèo về vật chất, mà còn nghèo về kiến thức, về khả năng suy nghĩ, về
văn hóa, về tâm linh... vì không ai hướng dẫn chỉ dạy họ. Vì thế, thấy Đức
Giêsu giảng dạy “như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (Mt
7,29), họ rất ngưỡng mộ và theo Ngài rất đông.
Sau cuộc hành trình loan báo Tin mừng do Chúa Giêsu trở về, cũng như sau
một ngày tất bật
làm việc và giảng dạy cho dân chúng. Chúa Giêsu và các tông đồ cảm thấy
mệt nên cần có thời gian và không gian yên tĩnh để nghỉ ngơi. Vì thế, Ngài bảo
các ông: “lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi
chút”. Tuy nhiên, dân chúng vẫn còn ham muốn được nghe những lời
Chúa dạy bảo, nên họ không để cho Ngài và các môn đệ nghỉ ngơi, mà lại tiếp tục
bám sát các ngài, đến nỗi các ngài “chẳng có thì giờ ăn uống
nữa”. Trước tình cảnh đó, đáng lẽ Đức Giêsu từ chối, bởi Ngài và các
môn đệ còn phải nghỉ ngơi và cầu nguyện, vì đó là nhu cầu hết sức chính đáng.
Nhưng Chúa Giêsu không làm như vậy, trái lại khi nhìn thấy họ Ngài "chạnh
lòng thương" rồi lại “bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”.
Qua đó, cho thấy Ngài có một con tim của vị mục tử nhân lành nên lúc nào
cũng yêu thương và tận tâm chăm sóc cho đoàn chiên được sống và sống
dồi dào. Với con tim của vị mục tử nên Ngài rất nhạy bén nhìn thấy những nhu
cầu cần thiết của mọi người. Tình thương ấy đòi buộc Ngài phải làm cho họ một
cái gì đó! cho dẫu bản mình phải hy sinh và bị thiệt thòi về sức khỏe.
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã yêu thương, quan tâm và chăm sóc đời sống mỗi người chúng ta. Xin Chúa ban cho chúng ta lòng yêu mến Chúa và yêu mến mọi người; biết sẵn sàng hy sinh phục vụ mọi người, cách riêng những người nghèo khổ, yếu đuối và tội lỗi theo gương Chúa Giêsu, vị Mục Tử tốt lành. Amen.
Thứ hai: Dc 3,1-4a; Ga 20,1-2.11-18
KÍNH THÁNH NỮ MARIA MAGĐALÊNA
Ngày 23 tháng 7 năm 2006, Đức Giáo hoàng Be-ne-dict XVI đã nói về Maria Ma-da-le-na trong thông điệp của mình trước Kinh Truyền Tin. Ngài gọi thánh nữ là "một môn đệ của Chúa, đã đóng vai trò hàng đầu trong các sách Phúc Âm".
Ngày 10/6/2016 loan tin Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã quyết định nâng việc cử hành lễ nhớ của Thánh nữ Maria Ma-da-le-na lên hàng lễ kính trong phụng vụ.
Đức Tổng Giám mục Roche cho hay: "Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã đưa ra quyết định này trong bối cảnh Năm Thánh của Lòng Chúa Thương Xót để nói lên tầm quan trọng của người phụ nữ này, bà đã dành cho Chúa Kitô một tình yêu lớn lao và yêu mến Chúa Kitô nồng nàn. Ngài nhắc lại lời Thánh To-ma A-qui-no gọi Thánh nữ Maria Ma-da-le-na là "Tông đồ của các Tông Đồ" (A-pos-to-lo-rum A-pos-to-la), kể từ khi bà loan báo cho các ông sự sống lại của Chúa, để từ đó các ông tiếp tục công bố tin vui này cho toàn thế giới. "Vì vậy thật là chính đáng để nâng lễ này lên bậc lễ kính trong phụng vụ ngang hàng với việc cử hành lễ của các Thánh Tông đồ, hầu làm nổi bật sứ vụ của người phụ nữ này như là một tấm gương và kiểm nẫu cho nữ giới trong Giáo Hội. "
Suy niệm 1: Dựa trên những gì Tin mừng nói đến, chúng ta có thể gạch vài đầu dòng về thánh nữ Maria Magđalênna mà Giáo hội kính nhớ hôm nay:
- Tên của thánh nhân xuất phát từ tên của thị trấn nguyên quán là Mác-đa-la (Mag-da-la), xứ Ga-li-lê.
- Theo Tin mừng thánh Luca thì Thánh Maria Magđalêna sống cùng thời với Chúa Giêsu. Bà đã từng bị bệnh và bị quỷ ám, nhưng được Chúa Giêsu chữa lành và giải thoát khỏi 7 quỷ. Bà đã nhập đoàn với các bà đạo đức đi theo Chúa Giêsu để giúp đỡ Ngài trên hành trình truyền giáo. (x. Lc 8,2-3).
- Bà đã theo Chúa Giêsu đến giây phút cuối cùng, nên đã chứng kiến cuộc thương khó và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. (Mc 15,40).
- Bà cũng đã cẩn trọng để ý xem ông Giô-xếp hạ xác, tẩm liệm và an táng Chúa Giêsu trong mộ đá như thế nào. (x. Mc 15,46-47).
- Đặc biệt bài Tin mừng hôm nay cho biết bà rất yêu Chúa Giêsu.
Chính tình yêu thúc đẩy nên bà đã ra thăm mộ Chúa từ sáng sớm của ngày thứ nhất trong tuần.
Vì lòng mến yêu Chúa, bà đã hốt hoảng và khóc nức nở khi thấy ngôi mộ trống và không nhìn thấy xác Chúa đâu.
Và cũng vì yêu Chúa, bà đã tìm đủ mọi cách để tìm lại Người như: trình bày nỗi lòng với hai Thiên Thần: "Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi”; cũng như hỏi xem hai Thiên Thần có biết Chúa Giêsu đâu không?.
Dù lệ rơi có làm cho đôi mắt bà trở nên lờ mờ không nhận ra Chúa. Nhưng với con tim nhạy bén, bà vẫn đủ sáng suốt để nhận ra tiếng Chúa gọi: “Maria!” Trong niềm vui sướng và với lòng yêu mến chân thành, bà muốn giữ Chúa ở lại mãi bên mình. Nhưng Chúa Phục sinh bảo bà: "Đừng giữ Thầy lại...", mà hãy ra đi để gặp gỡ và chia sẻ về những điều mà mình đã thấy và kể lại những điều Người đã nói!
Như vậy dựa vào những trình thuật của Tin mừng, ta có thể rút ra 3 bài học quan trọng sau đây:
1. Thánh nữ có một tình yêu nồng nàn dành cho Chúa Giêsu: gia nhập vào nhóm phụ nữ đạo đức đi theo phục vụ Chúa Giê-su và các tông đồ trên hành trình rao giảng Tin mừng; trung thành theo Chúa Giê-su đến giây phút cuối cùng và đã hiện diện dưới chân thập giá cũng như khi tẩm liệm xác Chúa Giê-su trong mộ đá.
2. Thánh nhân có lòng quảng đại: ngoài việc sẵn sàng bỏ lại tất cả để đi theo phục vụ Chúa trên hành trình rao giảng tin mừng, thánh nhân cũng không tiếc trút cạn bình dầu cam tùng hảo hạng để xức lên chân Chúa và lấy tóc mình mà lau.
3. Thánh nhân đã cảm nhận phần nào mầu nhiệm phục sinh ngay còn tại thế: Được Chúa Giê-su trừ bảy quỷ, chữa bệnh và tha thứ tội lỗi chị Maria Ma-da-le-na-đã được phục hồi lại nhân phẩm và bắt đầu lại cuộc sống mới. Chị đã cảm nhận được niềm vui được phục sinh như thế nào sau những ngày dài tăm tối của quá khứ đầy tội lỗi. Hơn ai hết, chị đã có được kinh nghiệm niềm vui phục sinh như thế nào; nên sứ vụ loan báo tin mừng phục sinh cho các tông đồ được Chúa trao phó cho chị thật là xứng hợp.
Mong rằng mỗi chúng ta cũng có được tình yêu Chúa một cách nồng nàn như thánh nữ Maria Ma-đa-lê-na.
Ước chi mỗi chúng ta cũng có lòng quảng đại, dám hy sinh thời giờ, sức khỏe, khả năng và tiền của để phục vụ Chúa trong sứ vụ loan báo tin mừng; nhất là sẵn sàng trung thành bước theo Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc đời, theo gương thánh nữ Maria Ma-đa-lê-na.
Xin cho chúng ta cũng biết thao thức được ở gần bên Chúa, Đấng đã yêu thương và sẵn sàng hiến mình cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Biết noi gương thánh nữ Ma-ri-a Ma-da-le-na nhiệt tâm ra đi loan báo niềm vui phục sinh đến cho mọi người, nhất là những ai còn đang sống trong cảnh đau buồn, thất vọng vì nghèo khổ và tôi lỗi; đó chính là cách thức thể hiện tình yêu dành cho Chúa cách hiệu quả và cụ thể nhất.
* Suy niệm 2: TIỀN HÔ
Thứ Năm hôm nay (22/7), Giáo Hội cử hành lễ nhớ Thánh Maria Madalena, ngài là một trong những phụ nữ được đề cập đến trong Tân Ước.
Tên của thánh nhân xuất phát từ tên của thị trấn nguyên quán là Mácđala (Magdala), xứ Galilê.
- Kinh Thánh giới thiệu thánh nhân như là một trong những người phụ nữ đã được Chúa Giêsu trừ quỷ và chữa bệnh. “Đó là bà Maria gọi là Maria Mácđala, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ”. (Lc 8, 2).
- Một số học giả xác định Maria Madalena là người phụ nữ tội lỗi đã xức dầu lên chân của Chúa Kitô ngay tại nhà của ông Simon người Pharisiêu (Lc 7, 36-50).
- Có một nhân vật khác tên là Maria, người em gái của Mácta và Ladarô (Lc 10, 38-42; Ga 11).
Như thế, một số người tin rằng, ba người tên Maria mà Tân Ước đề cập, đó chỉ là một người, trong khi lại có người cho rằng, họ là ba nhân vật khác nhau.
Những gì mà Kinh Thánh quả quyết về Maria Magdalena là: cô là một người đã đi theo Chúa Kitô và đồng hành trong hoạt động sứ vụ của Ngài (Lc 8, 2-3). Phúc Âm còn ghi chép Maria Madalena như là một trong những phụ nữ hiện diện tại nơi Chúa Kitô bị đóng đinh vào thập giá.
Ngoài ra, cô là người đầu tiên chứng kiến sự Phục Sinh của Chúa. Bốn Tin Mừng đều mô tả Maria Madalena là người đi đến mộ vào rạng sáng ngày Chúa Phục Sinh. Khi cô nhìn thấy ngôi mộ trống không, cô đã đứng bên ngoài và khóc lóc. Chúa Giêsu hiện ra với cô và hỏi, "Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?" (Ga 20,15). Cô không nhận ra Người mà nghĩ rằng đó là người làm vườn, cho đến khi Người gọi tên cô: “Maria!” (Ga 20,16). Khi nghe thấy vậy, Maria đã nhận Người. Cô quay trở về nơi các môn đệ đau buồn thông báo cho họ thông điệp Phục Sinh.
Ngày 23 tháng 7 năm 2006, Đức Giáo hoàng Benedict XVI đã nói về Maria Madalena trong thông điệp của mình trước Kinh Truyền Tin. Ngài gọi thánh nữ là "một môn đệ của Chúa, đã đóng vai trò hàng đầu trong các sách Phúc Âm".
Đức Giáo hoàng tưởng nhớ lại sự hiện diện của Maria Madalena “dưới chân Thập giá” vào Thứ Sáu Tuần Thánh, cũng như cách mà “cô đã khám phá ra ngôi mộ trống" vào rạng sáng Phục Sinh.
"Câu chuyện của Maria thành Mácđala nhắc nhở tất cả chúng ta một sự thật hiện hữu", Đức Giáo hoàng Benedict nói. "Thánh nữ là một trong những môn đệ của Chúa Kitô, trong kinh nghiệm yếu đuối của con người, ngài đã khiêm nhường cầu xin Chúa thương xót, và đã được Chúa tha thứ, để rồi tiếp tục đi theo Chúa mà trở thành một nhân chứng về điều này: tình thương xót của Chúa mạnh hơn tội lỗi và sự chết".
Suy niệm 3:
Thánh Maria Mađalêna là một trong những người đàn bà xứ Galilê đã theo chân Chúa Giêsu Kitô trong suốt hành trình đi rao giảng Tin Mừng. Thật ra thì lý lịch của Maria không có gì rỏ ràng mà người ta chỉ gán cho bà những danh hiệu như “người đàn bà có bảy quỷ dữ trong mình đã được chửa lành”, “người đàn bà tội lỗi” “hoặc là người đàn bà làm điếm” v.v.
Trong sách Phúc Âm kể lại, một hôm Chúa Giêsu đến ăn tại nhà một người Pharisêu thì Maria đã đến rửa chân cho Chúa bằng nước mắt của mình và đã lấy tóc mình mà lau khô. Sự việc này làm cho một số thực khách khó chịu nên Chúa đã phán: “Tội của bà ấy dù có nặng nề bao nhiêu cũng đều được tha thứ vì tình yêu của bà ấy thật là lớn lao!” Do đó có nhiều học giả cho bà là người tôi lỗi hay là một người đàn bà làm điếm.
Những người đàn bà như Maria thành Bethany và chị là Martha hay Maria Mađalêna là những hình ảnh sống động trong Giáo Hội lữ hành, là nguồn cảm hứng cho nhiều văn nghệ sĩ. Có tình yêu nào cao đẹp hơn tình yêu của Maria Mađalêna đối với Chúa Kitô không? Maria Mađalêna là người đàn bà đã chứng tá cuộc khổ nạn của Chúa từ đầu đến giây phút cuối cùng trên thánh giá và là người chứng đầu tiên sự Sống Lại của Chúa Kitô.
Trong bốn Phúa Âm đều kể lại những người đàn bà đã đi theo Chúa cho đến tận đồi Golgotha trong khi đó thì tất cả các thánh tông đồ ngoại trừ thánh Gioan đều bỏ trốn. Sáng hôm sau thật sớm Maria cùng các phụ nữ khác đến viếng mộ Chúa nhưng họ chỉ nhìn thấy ngôi mộ trống. Một thiên thần đã báo tin cho các bà là Chúa đã sống lại. Các bà đã báo tin cho các thánh tông đồ là hãy đi tìm gặp Chúa tại Galilê.
Trong Phúc Âm của thánh Gioan và Mathieu có kể lại, Maria là người đầu tiên nhìn thấy Chúa sau khi Chúa đã sống lại. Điều này nói lên sự mật thiết giữa Chúa và Maria Mađalêna. Sau khi báo tin cho Phêrô, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến về ngôi mộ trống. Maria đã đứng khóc nức nở bên mồ. Thình lình Maria thấy Chúa nhưng không nhận ra Người và nghĩ đây là người làm vườn: “Ông có mang xác Thầy chúng tôi đi đâu thì xin chỉ dùm cho chúng tôi để mang xác Thầy chúng tôi về!” Chúa đã trả lời Maria một tiếng: “Maria!” thì bà đã liền nhận ra Chúa ngay. “Rabboni!” “Thầy!” Chúa bảo bà “đừng có dùng dằng nữa mà hãy chạy đi báo tin cho các anh em, Thầy đã đến với Cha Thầy mà cũng là Cha của ngươi nữa, Chúa của Thầy mà cũng là Chúa của ngươi nữa.” Và Maria đã tìm đến với các tông đồ tuyên xưng: “Tôi đã nhìn thấy Chúa”.
Sau đó thì không thấy ai nhắc nhở đến Maria nữa. Các công việc của Maria sau này cũng không được ghi lại trong sách Tông đồ Công vụ, nhưng tên của Maria Mađalêna luôn được vinh dự đặc biệt của người đầu tiên đã loan báo tin vui cho các Tông đồ như lời Chúa đã tiên tri : “Tin Mừng này được loan báo bất cứ nơi nào trong khắp thiên hạ, thì người ta cũng kể lại sự việc cô làm mà nhớ tới cô.”.
PT Huỳnh Mai Trác
HÀNH TRÌNH NỘI TÂM
“MARIA!”.
“Aline!”, một trong những ca khúc thành công nhất của nhạc sĩ người Pháp, Christophe, vào thập niên 70. Bài hát được các nhạc sĩ Việt Nam chuyển ngữ với tựa đề, “Gọi Tên Người Yêu”. Phải chăng tác giả đã cảm hứng từ sách Diễm Ca khi viết, “Tôi đã tìm người tôi yêu; nhưng biệt tăm, chẳng chút hy vọng… Người hỡi, ai giúp tôi tìm người tôi yêu?”.
Kính thưa Anh Chị em,
Thật thú vị, “Aline!”, “Maria!”, “Hỡi người tôi yêu!”, những tên gọi đó xem ra được lặp lại qua các bài đọc ngày kính thánh Maria Mađalêna, người phụ nữ đi ra mộ Chúa Giêsu từ sáng sớm khi trời còn tối mịt. Thế nhưng, trước khi nhận ra Chúa Phục Sinh, Maria đã phải trải qua một ‘hành trình nội tâm’ tối mịt khác cho đến khi nghe gọi tên mình, “Maria!”.
Trước khi nhận biết Thầy, Maria vẫn ở trong bóng tối của chiều thứ Sáu; không chỉ một Giêsu đã chết mà thi hài Ngài dường như sau đó, cũng bị đánh cắp! May thay, Maria được dẫn dắt dần dần để bước ra khỏi sự u minh tâm linh này khi ‘Ai đó’ gọi tên cô; để mắt cô mở ra và nhận biết Thầy. Vậy mà, ngay cả khoảnh khắc tuyệt vời đó, Maria vẫn phải vượt qua một sự thật khác: Thầy không còn như trước! Quan hệ của Ngài với Maria đã khác đi! Vậy là phải bắt đầu một ‘hành trình nội tâm’ khác, hành trình của Thánh Thần!
Chỉ khi cởi mở hoàn toàn với mối quan hệ ‘sau phục sinh’ với Chúa Giêsu, Maria mới có thể cất bước rao truyền sứ điệp Sống Lại của Ngài. Vượt qua ‘hành trình nội tâm’ là điều kiện để một người có thể ra đi! Với bạn và tôi, nó có thể là một đoạn tuyệt nào đó, giã từ một tính hư nết xấu nào đó; nó còn là tiến trình dỡ bỏ cái tôi của mỗi người. Đó là một hành trình, một chuyến đi không bao giờ hoàn thành ở ‘phía bên này’ cõi đời đời.
Bài đọc Diễm Ca mô tả chuyến đi này như một người đi tìm người yêu, “Tôi tìm kiếm người tôi yêu”. Sau đó, niềm vui vỡ oà khi người ấy tìm được người của mình. ‘Người ấy’ của Diễm Ca là hình ảnh của Maria, của Hội Thánh, của bạn và tôi trong cơn khát tìm đến suối Giêsu. Thánh Vịnh đáp ca thật ý nghĩa, “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, linh hồn con đã khao khát Chúa!”.
Anh Chị em,
“Maria!”. Tiếng gọi đích danh với âm vực quen thuộc của “Người Làm Vườn” đã làm giật thót trái tim Maria, vì “Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi”. Nếu thuở địa đàng, sự chết đã đến với loài người trong một khu vườn; thì nay, sự sống đã trở lại với nhân loại cũng trong một khu vườn! Vui biết bao, ‘lần hiện ra đầu tiên’ của Chúa Phục Sinh đã diễn ra theo ‘cách cá nhân’ đến thế! Một ‘Ai đó’ biết tôi, nhìn thấy tôi khổ đau, thất vọng… đến nỗi Ngài gọi tên tôi! Không phải tôi đi tìm Chúa, nhưng thật phi thường, Chúa đi tìm tôi! Ngài quan tâm đến cuộc sống của tôi, Ngài nuôi dưỡng nó; và để làm điều này, Ngài gọi tôi bằng tên. Nhưng trước hết, Ngài mời bạn và tôi hãy bắt đầu tìm kiếm Ngài với một ‘hành trình nội tâm’ vốn đòi hỏi một sự biến đổi, hoán cải bên trong nhờ Thánh Thần.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, để gặp Chúa và có thể loan truyền Chúa, cho con biết ra đi ‘từ cái tôi’, ‘từ nơi sâu thẳm linh hồn’ con. Dù phải đau đớn, xót xa, nhưng nó nhất định cần thiết!”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)
* Mùa thường niên: Mt 12, 38-42.
Suy niệm 1:
Kinh nghiệm cho thấy: "Người buồn cảnh
có vui bao giờ". Việc thay đổi con người không hệ tại ở hình thức bên
ngoài, nhưng trước hết là phải thay đổi tận cõi lòng, thay đổi não trạng và cái
nhìn.
Mặc dù chứng kiến bao là phép lạ Chúa Giêsu đã làm; mặc
dù đã nhiều lần vỗ tay ca ngợi những lời hay ý đẹp của Chúa Giêsu, nhưng rốt
cùng nhiều người Do Thái, đặc biệt là nhóm người Pha-ri-sêu và Biệt phái vẫn
không tin.
Như hết cách, Chúa Giêsu đành phải thốt lên: “Thế
hệ này là một thế hệ gian ác, chúng xin điềm lạ. nhưng chúng sẽ không thấy được
dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Gio-na”. Như một cố gắng cuối cùng, Chúa
Giêsu đã dùng lại hai câu chuyện ngày xưa với hy vọng họ suy nghĩ lại mà thay
đổi não trạng.
- Nhắc lại chuyện Giona ngày xưa, nhằm lưu ý họ rằng:
Ngày xưa dân thành Ninivê chỉ nghe lời rao giảng miễn cưỡng của Ngôn sứ Giona.
Vậy mà cả thành, từ vua đến dân, từ già đến trẻ, từ người đến súc vật đều ăn
chay sám hối và khẩn xin sự tha thứ của Chúa. Vậy mà hôm nay có Người còn hơn
Giona. Đấng mà Giona loan báo đã đến và rao giảng, vậy mà họ lại không để tâm
ăn năn hối cải. Thật đáng buồn!
- Nhắc lại câu chuyện nữ hoàng Phương nam vượt đường xa
vạn dặm, bất chấp khó khăn, tốn kém đến để diện kiến vị vua khôn ngoan là
Salomon. Bà ta đã toại nguyện, hết lòng cảm phục sự khôn ngoan của nhà vua.
Nhưng ở đây còn trọng hơn vua Salomon nữa, vì Người chính là sự khôn ngoan của
Thiên Chúa và là vua trên hết các vị vua. Thế mà họ chẳng thèm nghe. Thật đau
lòng!
Chính lòng tự mãn làm cho họ trở nên mù quáng nên đã làm
hỏng hết mọi ơn phúc, vì thế không còn cách nào để tự chữa mình được nữa.
Xin cho chúng ta đừng như thế hệ Do Thái xưa, mù quáng
và tự mãn. Nhưng hãy trở nên giống dân thành Ninivê và nữ hoàng Phương nam có
cái nhìn ngay chính để nhận ra chân lý mà theo đuổi; cũng như biết khiêm tốn
nhận mình còn nhiều khiếm khuyết, thiếu sót, tật xấu và tội lỗi, để theo sự
khôn ngoan của Chúa hướng dẫn mà sửa đổi đời sống mỗi ngày nên tốt hơn.
Suy niệm 2: THÁCH THỨC
“Chúng tôi muốn thấy Thầy làm một
dấu lạ!”.
Một thiếu nữ đến gặp một linh mục,
đặt một câu hỏi đầy thách đố, “Xin cha cho biết sống đời dâng hiến là gì?”. Đầy
thách thức, vị linh mục đưa ra một tờ giấy trắng và nói, “Đó là ký tên bên dưới
và để cho Chúa điền vào bên trên bất cứ điều gì Ngài muốn!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Liệu không biết thiếu nữ kia có ký
bên dưới tờ giấy hay không, nhưng sự thật là, con người luôn muốn ‘thách thức’
Thiên Chúa! Đó là một sự thật khó tin; nhưng điều khó tin hơn là, Thiên Chúa
luôn chiều con người. Hai bài đọc hôm nay sẽ cho thấy điều đó.
Sách Xuất Hành kể chuyện con cái
Israel ‘thách thức’ Thiên Chúa và Môisen. Sau 430 năm đậu nhờ đất khách quê
người, đất mà dường như Israel chỉ hạnh phúc vỏn vẹn hơn kém ‘30 năm lẻ’, để
400 năm còn lại hầu như là nô dịch; nhưng cuối cùng, cũng được giải thoát. Ấy
thế, vừa ra khỏi đó, dân ‘thách thức’ Chúa và tôi tớ Ngài, “Ở Ai Cập không đủ
đất để chôn chúng tôi sao?”; hoặc đau đớn hơn, “Hãy mặc chúng tôi làm nô lệ cho
Ai Cập!”. Một nhà thần học nói, “Chỉ cần 4 ngày, Israel ra khỏi Ai Cập; nhưng
phải đợi đến 40 năm, Thiên Chúa mới có thể lấy ‘Ai Cập’ ra khỏi lòng nó!”.
Môisen trấn an, “Đừng sợ! Chúa sẽ chiến đấu cho anh em!”. Và quả Ngài đã chiến
đấu thật; người Ai Cập chìm lỉm như chì giữa biển Sậy, để Israel có thể cất
lên, “Nào ta hát mừng Chúa, Đấng cao cả uy hùng!” như thánh ca Xuất Hành chúc
khen.
Xu hướng ‘thách thức’ đó, một lần
nữa, lộ rõ trong bài Tin Mừng khi một nhóm luật sĩ, biệt phái kéo đến thưa Chúa
Giêsu, “Chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ!”. Quan hệ của họ với Chúa
Giêsu là quan hệ một chiều; nếu Ngài muốn có sự tôn trọng, hãy làm theo ý họ.
Lòng kiêu hãnh của họ đã đưa ra những yêu sách mà họ nghĩ là bất khả thi đối
với Ngài, và nó sẽ không được thoả mãn cho đến khi được đáp ứng! Kiêu hãnh là
nguyên nhân của bao chia rẽ, oán hận và cay đắng trong các mối quan hệ. Bài học
ở đây là, thay vì ‘thách thức’ Thiên Chúa, bạn và tôi hãy để Ngài ‘thách thức’
mình; chính những ‘thách thức’ đối với bản thân lại là nhân tố để mỗi người có
thể lớn lên trong khiêm nhường, vị tha và thống hối.
Anh Chị em,
“Chúng tôi muốn thấy Thầy làm một
dấu lạ!”. Hãy thôi ‘thách đố’ Thiên Chúa, hãy thôi than trách Ngài; nhưng vững
tin! Ngài là Cha chúng ta, Đấng luôn làm những điều khó tin để chúng ta hiểu
Ngài hơn. Và gì nữa? Hãy bắt đầu bằng sự ăn năn chứ không bằng những thách đố.
Khi tôi ăn năn, tôi tin nhận Giêsu, Đấng Ngài sai đến, Đấng xứng với tất cả
tình yêu của tôi. Tôi cảm thấy hối hận vì đã yêu Ngài quá ít hoặc đã xúc phạm
Ngài quá nhiều. Sự thống hối tràn đầy tình yêu bao hàm một sự uốn nắn ý chí của
tôi đối với Ngài và đối với người khác. Đây là một hình thức của tình yêu tự
hiến mà tất cả chúng ta có thể đạt được vào bất cứ thời điểm nào trong đời. Và
đó chính là phép lạ mà Thiên Chúa đang ‘thách thức’ bạn và tôi!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, chớ gì con dám ký tên
bên dưới ‘tờ giấy’ ngày sống của con mỗi ngày, và Chúa có thể viết bên trên bất
cứ điều gì Chúa muốn!”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)
Thứ ba: Mt 12, 46-50
Nhớ thánh Bi-ghít-ta, nữ tu
Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta biết những
điều kiện cơ bản cần thiết để xứng đáng trở nên thành viên trong gia đình của
Người.
Nhờ tích tích rửa tội chúng ta trở thành con Chúa và là
thành viên trong GH. Nên ngoài gia đình tự nhiên liên hệ bằng huyết thống,
chúng ta ta còn có một gia đình thiêng liêng nhờ được sinh ra trong đức tin. Vì thế, Tin mừng hôm nay, Chúa
Giêsu khẳng định: thành viên trong gia đình của Chúa chính là những người
biết “làm theo ý Cha trên trời”.
Nếu điều kiện căn bản để trở thành người con ngoan trong
gia đình tự nhiên theo huyết thống, ta phải lắng nghe và thi hành điều tốt mà
cha mẹ và anh chị hướng dẫn, chỉ bảo. Cũng vậy để trở thành con ngoan của Thiên
Chúa và anh chị em thật sự với nhau trong gia đình thiêng liêng của đức tin, ta
phải lắng nghe và thực hành Lời Chúa cùng với sự hướng dẫn của GH.
Hơn ai hết Đức Maria là người luôn để tâm lắng nghe và mau
mắn thi hành thánh ý Chúa trong suốt cuộc đời mình. Nên Đức Maria trở nên kiểu
mẫu cho đời sống cho chúng ta.
Khi khám phá những giọt máu trong chiếc khăn liệm thành
Turin, các nhà khoa học đã chứng minh cho biết đó là loại máu B. (B là bái ái,
bao dung và bình an).
Xin cho chúng ta mang lấy dòng máu của Chúa Giêsu để ta
cũng biết sống bác ái, bao dung với mọi người và luôn kiến tạo sự bình an cho
mình và tha nhân nhờ việc lắng nghe và thực thi lời dạy của Chúa. Có như vậy ta
xứng đáng trở thành người thân của Chúa trong gia đình thiêng liêng.
Thứ tư: Mt 13,1-9
Chúa Giêsu thường dùng những hình ảnh rất gần gũi và
quen thuộc để nói lên thực tại của cuộc sống. Cụ thể bài Tin mừng hôm nay Chúa
dùng hình ảnh người nông phu ra đi gieo hạt giống.
Với hình ảnh người ra đi gieo hạt, Chúa Giêsu muốn nói
đến lòng quảng đại hào phóng của một vị Thiên Chúa. Ngài sẵn sàng gieo vãi hạt
giống Lời Chúa vào bất cứ nơi đâu, dẫu biết rằng những nơi ấy có thể
không sinh hoa kết quả.
Với hình ảnh môi trường mà hạt giống được gieo vào, Chúa
Giêsu muốn ám chỉ đến tâm hồn của con người. Môi trường ấy, Chúa Giêsu cho biết
có nhiều loại. Có loại lề đường, có loại sỏi đá, có thứ gai góc..., nhưng cũng
có loại đất tốt.
Hạt giống Lời Chúa thì luôn tốt, có khả năng phát triển
và sinh nhiều bông hạt. Người gieo vãi hạt giống ấy là Thiên Chúa thì luôn hào
phóng và quảng đại không so đo tính toán. Điều quan trọng còn lại là môi trường
lòng người có chuẩn bị sẵn sàng để tiếp nhận hạt giống Lời Chúa hay không?
Nếu tâm hồn mỗi người chúng ta chính là mảnh đất tiếp
nhận hạt giống Lời Chúa. Thì giờ đây ta
cần xét xem mảnh đất tâm hồn của ta là loại đất nào?
Nếu tâm hồn ta còn mang nặng những
thành kiến, cố chấp, bảo thủ, ngại thay đổi bản thân theo lời dạy của Chúa và
Giáo Hội, thì mảnh đất tâm hồn ta đang thuộc dạng vệ đường.
Nếu tâm hồn chúng ta còn có những bất hòa, phân biệt, chia rẻ
đánh mất tình hiệp thông với tha nhân thì mảnh đất tâm hồn chúng ta vẫn còn
nhiều gai gốc.
Nếu tâm hồn chúng ta còn sống ích
kỉ, kiêu căng, bất công, thiếu bác ái với tha nhân là mảnh đất tâm hồn của ta
còn nhiều sỏi đá.
Xin Chúa cho mảnh đất tâm hồn của
chúng con được nên màu mở để hạt giống Lời Chúa gieo vãi vào có cơ may mọc lên,
phát triển vững mạnh và sinh được nhiều bông hạt tốt tươi qua những việc làm
tốt lành của chúng con.
Thứ năm: 2Cr 4, 7-15; Mt 20, 20-28
Kính Thánh Gia-cô-bê, tông đồ
Mừng kính Thánh Gia-cô-bê tông đồ hôm nay, chúng ta cùng
nhau liệt kê vài nét chính liên quan đến con người của thánh nhân mà tin mừng
đã nói đến.
- Thánh Gia-cô-bê là anh ruột của
thánh Gio-an, quê ở làng Bết-sai-đa, cùng quê với Phê-rô và An-rê. Cha ngài là
ông Dê-bê-đê làm nghề chài lưới. Mẹ ngài là bà Sa-lô-mê, một người phụ nữ đạo đức
được nhắc trong thánh kinh.
- Ngài là một trong 4 môn đệ đầu
tiên được Chúa Giêsu kêu gọi theo Ngài trên biển hồ Tê-bê-ri-a. Không ngần ngại
do dự, Gia-cô-bê đã lập tức bỏ lại tất cả để đi theo Chúa.
- Trong số 12 tông đồ, ngài là một
trong ba môn đệ thân tín và gần gũi Chúa Giêsu nhất. Ngài được diễm phúc chứng
kiến Chúa biến hình trên núi Ta-bo, được chứng kiến Chúa phục sinh con gái ông
Gia-ia, được Chúa sai đi sửa soạn bữa tiệc cuối cùng; ngài cũng được hiện diện
cùng với Chúa trong vườn cây dầu và chứng kiến giây phút sợ hãi nhất của Thầy
Giêsu. Nhất là vinh dự được làm tông đồ đầu tiên hiến mạng sống để làm chứng
cho tin mừng.
- Nhắc đến tông đồ Gia-cô-bê ai
trong chúng ta cũng đều nhớ đến hai tính xấu nổi bật nơi con người ông.
Thứ nhất: ông là một con
người nóng tính.
Một lần Chúa Giêsu cùng các môn đệ
lên Giê-ru-sa-lem, vì phải đi ngang qua Sa-ma-ri-a. Do đường xa nên Chúa Giêsu
sai ông cùng Gio-an đi trước để chuẩn bị chỗ ở. Nhưng những người trong thành
quyết liệt từ chối không cho thầy trò nghỉ trọ. Lý do vì họ không ưa thích
người Do Thái. Tông đồ Gia-cô-bê rất tức giận, nên khi trở lại gặp Chúa Giêsu,
ông đã xin Chúa khiến lửa từ trời xuống thiêu đốt cả dân thành ấy. Nhưng Chúa
không làm theo ý của ông. Trái lại Ngài quở trách ông là "con của
sấm sét". Sau đó thầy trò sang đường khác tiếp tục cuộc hành trình.
Thứ hai: ông là con người
đam mê quyền lực.
Mặc dù Gia-cô-bê đã theo Chúa,
được Chúa dạy bảo và huấn luyện nhiều, nhưng trong đầu ông vẫn còn mang nặng
đam mê quyền lực.
Do đó, có lần chính ông và em ông
là Gio-an trực tiếp đến xin Chúa Giêsu cho ngồi hai bên tả hữu khi nào Chúa
thành lập nước Người. Điều đáng trách là việc này xảy ra ngay sau khi Chúa
Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài. Thật là quá đáng! Càng quá đáng
hơn khi hai anh em ông nhờ cậy chính người mẹ mình đi cửa sau để xin Chúa cho
hai anh em ông được ngồi vào hai chiếc ghế quyền lực bên cạnh Chúa, một khi
giang sơn thuộc về tay Chúa.
Nhưng với Chúa Giêsu thì việc phấn đấu để được hiểu biết
hơn, tài giỏi hơn, tốt lành hơn mà phục vụ lợi ích cho mình, cho người, cho xã
hội và Giáo Hội là việc tốt, nên làm. Nhưng nỗ lực tranh đấu để được đứng
đầu mà thống trị mọi người, hay tạo uy thế cho mình nhằm đến tư lợi và bắt mọi
người phục vụ cho quyền lợi cá nhân thì quả là điều đáng lên án. Mặc khác cũng
cần lưu ý và khiển trách đối với những ai có lòng ghen tị một khi thấy ai đó
tài giỏi hơn mình, tốt lành hơn mình, thành công hơn mình là tỏ ra ghen tị, khó
chịu, tức giận… và tìm cách triệt hạ, bôi nhọ, nói xấu... Hạng người ấy chỉ
đáng là kẻ tiểu nhân.
Xin cho chúng ta biết điều hướng tính nóng của mình
không làm điều xấu gây phương hại đến tha nhân, nhưng biết dùng tính nóng ấy để
xả thân làm những việc lành và nhiệt tâm loan báo tin mừng theo gương thánh
Gia-cô-bê tông đồ. Và cũng cho chúng ta hiểu được: làm lớn không phải là
để thống trị hà khắc người khác mà là để phục vụ cách vô vị lợi trong tinh thần
khiêm tốn và yêu mến chân thành. Nhất là đừng vì lòng ghen tị mà tìm mọi cách
để nói xấu, bôi nhọ xúc phạm nhân phẩm đến người khác, hay dùng thủ đoạn tiểu
nhân nhằm triệt hạ uy tín của anh em mình với ý đồ ngăn cản bước tiến của họ.
* Mùa thường niên: Mt 13, 10-17
Khi muốn nói điều gì khó nói, người ta hay dùng cách ví
von.
Khi muốn thổ lộ tâm tình sâu kín, người ta hay nhờ đến
câu chuyện.
Khi muốn diễn tả chân lý tròn đầy, Chúa Giêsu lại dùng
đến dụ ngôn.
Dụ ngôn chính là cách diễn đạt chân lý về "mầu
nhiệm nước trời" dễ hiểu nhất.
Do dụ ngôn mang ý tưởng so sánh và diễn đạt khía cạnh
khó hiểu nên chỉ những ai cố công tìm hiểu mới có thể nhận ra được giá trị chân
lý siêu việt mà Chúa Giêsu muốn nói đến. Nhưng hình như những lời giảng
dạy của Chúa Giêsu bằng dụ ngôn không được dân chúng đón nhận cách tích cực. Đa
phần họ nghe cho vui tai thôi chứ không ra công tìm hiểu. Vì thế Chúa Giêsu đã
không ngần ngại nói thẳng: "Họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không
nghe, không hiểu". Duy chỉ có các tông đồ là những người tích cực chủ
động muốn nghe và tìm hiểu lời giảng dạy của Chúa, nên họ được mạc khải cho
biết về mầu nhiệm nước trời. Chắc chắn Chúa Giêsu không cố tình dùng dụ ngôn
nhằm gây khó dễ cho người nghe, nhưng là để xác định xem ai là người thiện chí
thì mới xứng đáng hiểu lời vàng ngọc, châu báo của Chúa dạy.
Nhìn thấy Chúa và Nghe được Lời Chúa quả là diễm phúc
lớn lao cho những người sống cùng thời với Chúa Giêsu rồi. Bởi lẽ "nhiều
ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi được thấy điều anh em thấy mà
không được thấy, nghe điều anh em đang nghe mà không được nghe". Tuy
nhiên nếu nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu thì quả là một bất hạnh to
lớn.
Chúng ta là những người thật hạnh phúc vì được vinh dự
được lắng nghe, gặp gỡ và đón nhận Mình Thánh Chúa hằng ngày qua thánh lễ.
Xin cho chúng ta biết siêng năng tham dự thánh lễ với
lòng khao khát được nghe lời Chúa và đón nhận chính Chúa vào tâm hồn, nhờ đó ta
cảm nếm được niềm hạnh phúc sâu xa trong cuộc đời này.
Thứ sáu: Hc 44, 1.10-15; Mt 13, 16-17
Nhớ Thánh Gio-an-kim và An-na; song thân Đức
Maria và Nhớ
chân phước An-rê Phú Yên, thầy giảng (bổn mạng các giáo lý viên Việt Nam)
* Suy niệm 1: Mt 13, 16-17
Hôm nay chúng ta mừng kính thánh Gioa-kim và An-na song
thân Đức Maria. Dù rằng chúng ta không biết gì về đời sống của hai ngài. Nhưng
với kinh nghiệm của cha ông ta: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh,
hay “Cha nào con nấy”… Nhất là dưới ánh sáng lời Chúa dạy: “Xem quả thì
biết cây”, phần nào chúng ta nhận ra đôi chút về đời sống của hai ngài
qua Đức Maria, người con của hai ngài.
- Đức Maria sẽ không được mọi đời khen ngợi là người phụ nữ
diễm phúc nếu không được cảm nếm niềm hạnh phúc nơi thánh Gio-an-kim và An-na.
- Đức Maria sẽ không được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế nếu như
tâm hồn Mẹ không được thánh Gio-an-kim và An-na chuần bị xứng hợp.
- Đức Maria sẽ không có tinh thần âm thầm hy sinh phục vụ
nếu như không nhận thấy đời sống hy sinh phục vụ âm thầm của cha mẹ người.
- Đức Maria sẽ không thể có được tinh thần khiêm hạ, nghèo
khó nếu như không được hấp thụ bởi gương sáng từ cha mẹ.
- Đức Maria sẽ không có được tinh thần vâng phục thánh ý
Thiên Chúa nếu như không được cha mẹ truyền thụ lại một nền tảng đức tin vững
chắc.
Xin Chúa qua lời chuyển cầu của Đức Maria giúp cho gia đình
chúng con biết noi gương gia đình thánh Gio-an-kim và An-na, luôn vâng nghe lời
Chúa và Hội thánh; biết loại trừ tính hư tính xấu là cỏ lùng độc hại ra khỏi
đời sống, để những giá trị Tin mừng là lúa tốt được triển nở mạnh mẻ nơi gia
đình chúng con.
Xin cho các bật làm cha mẹ trở thành gương sáng đời sống
đức tin và yêu thương cho con cái như thánh Gio-an-kim và An-na, nhằm góp phần
làm cho mảnh đất tâm hồn nơi con cái trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành.
* Suy niệm 2: Mt 13,16-17
Trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ kính thánh Gioakim và
thánh Anna, Song Thân của Đức Maria hôm nay, Đức Giê-su nói: “Còn anh em, mắt anh em thật có
phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe.” (c.16)
Trong bối cảnh phụng vụ, lời này của Đức Giê-su được ứng
nghiệm cho đôi mắt và đôi tai của “ông bà ngoại” của Người, nghĩa là của thánh
Gioakim và của thánh Anna. Tuy nhiên, lời này của Đức Giê-su cũng liên quan đến
đôi mắt và đôi tai của chúng ta.
Thực vậy, qua kinh nghiệm cuộc sống, nhất là khi chúng
ta có dịp đến phục vụ những người tàn tật, những người mù, những người câm
điếc, chúng ta mới nhận ra rằng sự kiện chúng ta thấy được và nghe được, là một
ơn huệ; và khi nhận ra đôi mắt và đôi tai của chúng ta là một ơn huệ, chúng ta
được mời gọi nhận ra Đấng ban ơn để tạ ơn và ca tụng, và chia sẻ ơn huệ mà
chúng ta có cho người khác, nhất là cho những người tàn tật, không có cùng một
ơn huệ như chúng ta.
Tuy nhiên, ngay trước đó, Đức Giê-su còn nói tới một
bệnh mù khác, một bệnh điếc khác: “họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không
nghe, không hiểu” (c.13). Như thế, mối phúc mà Đức Giê-su nói tới,
không chỉ là khả năng thể lý nhìn thấy sự vật và nghe được âm thanh.
1. Phúc vì được thấy
Thật vậy, đôi mắt của chúng ta được dựng nên, có “ơn
gọi” không phải là nhìn thấy những điều hữu hình, nhưng qua những điều hữu
hình, nhận ra những thực tại vô hình. Thực vậy, chúng ta được mời gọi nhìn thấy
sự vật không chỉ như là sự vật, nhưng còn là những quà tặng, những ơn huệ,
những dấu chỉ, nói lên sự hiện diện của ai đó, của tình thương, nói lên Đấng
ban ơn, nói lên chính Đấng tạo dựng.
Và nhất là khi nhìn thấy một người, đôi mắt của chúng ta
không được dừng lại ở vẻ bề ngoài, ở ngoại hình, ở trang phục, không được coi
người người này là đối tượng để mình thỏa mãn nhu cầu, thỏa mãn lòng ham muốn;
nhưng đôi mắt của chúng ta được mời gọi nhìn người khác trong sự thật, nghĩa là
người đó là một ngôi vị tự do và có lòng ước ao, có ơn gọi riêng, có quá khứ và
những vấn đề riêng, có hành trình riêng cần tôn trọng; nếu sự thật là người ấy
có những hành vi phạm lỗi đáng lên án, thì chúng ta được mời gọi nhận ra một sự
thật khác lớn hơn: người ấy còn là một ngôi vị bất hạnh đang đau khổ, và có khi
người này ở trong bất hạnh mà không biết. Đó là cái nhìn của Người Cha nhân hậu
đối với người con hoang đàng, đó là cái nhìn của Đức Giê-su về người phụ nữ
ngoại tình, đó là cái nhìn của Ba Ngôi Thiên Chúa đối với loài người chúng ta,
với từng người chúng ta.
Đôi mắt của thánh Gioakim và thánh Anna, đôi mắt của các
môn đệ và đôi mắt của chúng ta thật là có phúc, như Đức Giê-su nói: “Còn
anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy”, bởi vì chúng ta được ơn nhận
biết Đức Giê-su Nazareth là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng Sống và Ngôi Lời
nhập thể. Đôi mắt có phúc là đôi mắt nhận biết Đức Giê-su Ki-tô; và đôi mắt
nhận biết Đức Giê-su Ki-tô là đôi mắt sống đúng với ơn gọi của mình.
2. Phúc vì được nghe
Cũng vậy đối với đôi tai của chúng ta: đôi tai của chúng
ta được ban cho, có ơn gọi không phải là nghe tiếng động hay âm thanh, nhưng là
nghe ra sự hài hòa của âm thanh, nghe được giai điệu, kết cấu của âm thanh,
truyền đạt cho chúng ta một ý nghĩa, một sứ điệp, truyền đạt cho chúng ta Ngôi
Lời, bởi vì “Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành” (Ga 1, 3 và
St 1):
Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,
không trung loan báo việc tay Người làm. (Tv 19, 2).
Thế mà ý nghĩa và sứ điệp, được tạo ra bởi sự liên kết
hài hòa theo qui luật giữa các âm thanh, thì hoàn toàn thinh lặng, không có
tiếng động. Thiên Chúa nói với con người qua rất nhiều lời nói: lời trong Kinh
Thánh, lời từ các chứng nhân của Thiên Chúa, nhưng chính Đức Giêsu Nazareth,
Ngôi Lời Thiên Chúa làm nên sự hợp nhất của những lời nói cụ thể này. Như thế,
Ngôi Lời không làm cho bất cứ đôi tai nào rung lên, Ngôi Lời chỉ được thốt lên
và chỉ được nghe trong thinh lặng. Thiên Chúa ngỏ sự thinh lặng của Ngôi Lời
cho người biết lắng nghe:
Không trung loan báo việc tay Người làm.
Ngày qua mách bảo cho ngày tới,
đêm này kể lại với đêm kia.
Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh,
mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu
và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển (Tv 19, 4-5).
3. Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa
Thánh Phao-lô trong thư gởi Tín Hữu Roma đã trích Tv 19,
nhưng một cách rất lạ lùng. Bởi vì, đối với thánh nhân “Tiếng vang đã
dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển.” (Tv
19, 5) không là gì khác hơn là việc rao giảng Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô! Thật
vậy, ngài đã viết trong thư gởi các tín hữu Roma:
Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công
bố lời Đức Ki-tô. Nhưng tôi xin hỏi: Phải chăng họ đã không được nghe giảng?
Có chứ!
“Tiếng các ngài đã dội khắp hoàn cầu, và thông điệp
loan đi tới chân trời góc biển”
(Rm 10, 17-18).
Theo thánh Phao-lô, sứ điệp của công trình tạo dựng và
sứ điệp của các tác viên Tin Mừng là cùng một sứ điệp, đó là sứ điệp “Đức
Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa”. Như thế, điều mà thánh Phaolô cảm nhận thì
thật là lạ lùng! Trình thuật, lời công bố và sứ điệp, vốn là lời sáng tạo như
là chúng ta nghe được trong sự thinh lặng của Ngôi Lời, nay bỗng dưng vang vọng
trong miệng của thánh nhân, cũng như trong miệng của mọi tác viên loan báo Tin
Mừng, trong đó có chúng ta hôm nay.
Như thế, nếu chúng ta nghe ra sứ điệp được truyền đạt
“ngày này cho ngày kia” và “đêm này cho đêm kia” kể từ khởi nguyên của thế giới
sáng tạo, chúng ta sẽ nghe được sứ điệp Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô. Và ngược
lại, nếu chúng ta đón nhận sứ điệp Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta sẽ nghe
được sứ điệp của ngày và đêm. Bởi lẽ, cả hai, công trình sáng tạo và Tin Mừng
Đức Giê-su Ki-tô, có cùng một nội dung, đó là Ngôi Lời Thiên Chúa; và
“Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có
Người, thì chẳng có gì được tạo thành.” (Ga 1,3)
Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
* Mùa thường niên: Mt 13,18-23
Chúa Giêsu thường dùng những hình ảnh rất gần gũi và
quen thuộc để nói lên thực tại của cuộc sống. Cụ thể bài Tin mừng hôm nay Chúa
dùng hình ảnh người nông phu ra đi gieo hạt giống.
Với hình ảnh người đi gieo hạt, Chúa Giêsu muốn nói đến
lòng quảng đại hào phóng của một vị Thiên Chúa. Ngài sẵn sàng gieo vãi hạt
giống Lời Chúa vào bất cứ nơi đâu, dẫu biết rằng những nơi ấy có thể không sinh
hoa kết quả.
Với hình ảnh môi trường mà hạt giống được gieo vào, Chúa
Giêsu muốn ám chỉ đến tâm hồn của con người. Môi trường ấy, Chúa Giêsu cho biết
có nhiều loại. Có loại lề đường, có loại sỏi đá, có thứ gai góc..., nhưng cũng
có loại đất tốt.
Hạt giống Lời Chúa thì luôn tốt, có khả năng phát triển
và sinh nhiều bông hạt. Người gieo vãi hạt giống ấy là Thiên Chúa thì luôn hào
phóng và quảng đại không so đo tính toán. Điều quan trọng còn lại là môi trường
lòng người có chuẩn bị sẵn sàng để tiếp nhận hạt giống Lời Chúa hay không?
Nếu tâm hồn mỗi người chúng ta chính là mảnh đất tiếp
nhận hạt giống Lời Chúa; thì giờ đây ta cần xét xem mảnh đất tâm hồn của ta là
loại đất nào?
- Nếu tâm hồn ta còn mang nặng những thành kiến, cố
chấp, bảo thủ, ngại thay đổi bản thân theo lời dạy của Chúa và Giáo Hội, thì
mảnh đất tâm hồn ta đang thuộc dạng vệ đường.
- Nếu tâm hồn chúng ta còn có những bất hòa, phân biệt,
chia rẽ, đánh mất tình hiệp thông với tha nhân thì mảnh đất tâm hồn chúng ta
vẫn còn nhiều gai gốc.
- Nếu tâm hồn chúng ta còn sống ích kỉ, kiêu căng,
bất công, thiếu bác ái với tha nhân thì mảnh đất tâm hồn của ta còn nhiều sỏi
đá.
Xin Chúa thương biến đổi mảnh đất tâm hồn chúng con được
nên màu mở để hạt giống Lời Chúa gieo vãi vào có cơ may mọc lên, phát triển
vững mạnh và sinh được nhiều bông hạt tốt tươi qua những việc làm tốt lành, đem
lại niềm vui, hạnh phúc cho nhiều người.
Thứ bảy: Mt 13, 24-30.
Qúa khứ có thể tôi là người tội lỗi, nhưng tương lai có
thể tôi là người tốt lành. Bởi vì mỗi ngày có 24 giờ, trong đó có biết bao thay
đổi. Thấu hiểu điều đó nên Thiên Chúa (ông chủ ruộng) đã kêu gọi gia nhân hãy
kiên nhẫn chờ đợi cho cỏ lùng và lúa tốt cùng sống bên cạnh nhau đến ngày thu
hoạch.
Các nhà tu đức đã có lý khi nói: "Thánh nhân là tội
nhân biết ăn năn sám hối". Mang thân phân con người, không ai là vô tội
trước mặt Thiên Chúa, bởi “nhân vô thập toàn”.
Gỉa như TC chiều ý ta mà tiêu diệt tức khắc những kẻ
gian ác, thì thế gian này chắc chắn không ai được cứu rỗi, vì: “Nếu
Chúa chấp tội nào ai rỗi được.” (Tv
130,3). Nhưng thật may mắn, chúng ta lại có một Thiên Chúa là Nười
Cha giàu lòng thương xót. Người "Không muốn kẻ gian ác phải chết
nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống." (Lc 16,19-31).
Xin cho chúng ta luôn biết cảm thông trước những yếu
đuối của mình cũng như của tha nhân, vì ý thức rằng: "Sự thiện tôi muốn
thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm." (Rm 8,19). Đồng thời cũng biết đáp lại tình
thương tha thứ của Chúa mà can đảm loại trừ những mầm móng cỏ lùng độc hại ra
khỏi mảnh đất nơi tâm hồn của mình, để mầm lúa tốt trong ta có cơ may phát
triển mạnh mẽ. Nhờ thế, hạt giống lời Chúa gieo vải mới sinh được nhiều hoa
trái, mang lại mùa bội thu cho nước trời.
SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XVI THƯỜNG NIÊN
Lm Minh Anh, Tgp Huế
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN-B
Gr 23,1-6; Ep 2,13-18; Mc 6,30-34
THẢ TÔI NẰM NGHỈ
“Trong
đồng cỏ xanh tươi, Người thả tôi nằm nghỉ!”.
“Mọi vấn đề của nhân loại đều bắt nguồn từ
việc con người không biết nghỉ ngơi!” - Blaise Pascal.
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng
ta khám phá tầm quan trọng của việc nghỉ ngơi. Sau khi thi hành sứ vụ, các tông
đồ thấm mệt, trở về; Chúa Giêsu bảo, “Các
con hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút!”. Tâm
tình của Thánh Vịnh đáp ca thật phù hợp, “Trong
đồng cỏ xanh tươi, Người thả tôi nằm nghỉ!”.
‘Nghỉ ngơi trong Chúa’ có nghĩa là ‘cầu
nguyện!’. Một trong những cám dỗ mà bất cứ Kitô hữu nào cũng có thể không chống
nổi là muốn làm quá nhiều việc; và do đó - mỗi ngày một chút - xa Chúa dần! Về
việc cầu nguyện - thời khắc Chúa ‘thả tôi nằm nghỉ’ - một trong những mối nguy
lớn nhất là bạn có thể dễ dàng nghĩ rằng, có những việc lớn lao hơn, quan trọng
hơn và cấp bách hơn cần làm, dẫn tới chỗ thiếu quan tâm đến ‘việc ở lại với
Chúa’; và cho dẫu đó là việc của Chúa thì “Chúa vẫn luôn quan trọng hơn việc của
Ngài!”. Vì lý do đó, Chúa Giêsu nói với các tông đồ - dù đã kiệt sức nhưng vẫn
phấn khởi vì mọi việc đã diễn ra quá tốt đẹp - rằng, họ phải nghỉ ngơi!
Để có thể ‘nghỉ ngơi trong Chúa’ đúng
cách, bạn phải ‘ở lại với Chúa Giêsu’, người mà bạn sẽ trò chuyện. Hãy xác tín
bạn đang ở với Ngài! Vì lý do này, mọi giờ cầu nguyện phải luôn luôn bắt đầu bằng
việc ý thức sự hiện diện của Chúa, đây thường là phần khó khăn nhất. Thứ đến, bạn
phải ‘ở một mình’ với Ngài, vì nếu thực sự muốn nói chuyện thân mật và sâu sắc
với ai, chúng ta chọn ở một mình với họ.
Thánh Pierre Julian Eymard cảnh báo chúng
ta về mối nguy ‘lấp đầy lời tạ ơn’ sau rước lễ bằng nhiều lời thuộc lòng. Ngài
nói, “Sau khi rước Mình Thánh Chúa, điều tốt nhất nên làm là thinh lặng để Chúa
Giêsu nói với chúng ta thay vì nói với Ngài về những kế hoạch và những dự án. Tốt
hơn, hãy để Chúa Giêsu hướng dẫn và khích lệ bạn!”.
Ngài là hiện thân của Thiên Chúa Mục Tử -
bài đọc một - Ngài rao giảng và làm các công việc Chúa Cha trao. Ngài không bỏ
mặc những nhu cầu của đám đông, nhưng mỗi ngày, trước hết, Ngài rút lui để cầu
nguyện trong thinh lặng, trong sự thân mật với Cha. Lời mời dịu dàng của Ngài -
hãy nghỉ ngơi đôi chút - sẽ đồng hành với chúng ta mỗi ngày và mọi ngày.
Anh Chị em,
“Người thả tôi nằm nghỉ!”. Cầu nguyện,
chiêm ngắm, sẽ là nơi mà lòng từ bi phát sinh. Nếu chúng ta biết cách nghỉ ngơi
thực sự, chúng ta sẽ có khả năng từ bi thực sự; nếu chúng ta biết trau dồi một
đời sống chiêm niệm, cầu nguyện, chúng ta sẽ thực hiện các hoạt động của mình
mà không có thái độ tham lam của những kẻ muốn sở hữu và tiêu thụ mọi thứ. Nếu
chúng ta giữ liên lạc với Chúa và không gây mê phần sâu thẳm nhất của mình, thì
những việc phải làm sẽ không có khả năng gây kiệt sức hoặc nuốt chửng chúng ta.
Hãy lắng nghe điều này, chúng ta cần một “bầu sinh thái của trái tim”, bao gồm
sự nghỉ ngơi trong Chúa, chiêm ngắm Ngài, vì Chúa Giêsu đang muốn ‘thả tôi nằm
nghỉ!’.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để sự hấp tấp chiếm lĩnh
trái tim con; nhờ đó, con mới có thể lay động được các tâm hồn, để ý đến những
vết thương và cả những nhu cầu của họ!”, Amen.
ĐỨC GIÊSU CHẠNH LÒNG THƯƠNG
Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
“Nơi thanh vắng” được nói tới hai lần, và làm nên phần
trung tâm của bản văn Tin Mừng (c. 31 và c. 32). Phần đầu (c. 30) và phần cuối
(c. 33-34) kể về “việc làm” đã hay đang thực hiện:
- Các tông đề kể lại cho Đức Giêsu biết “mọi việc các ông đã
làm, và mọi điều các ông đã dạy”
- Đức Giêsu “dạy dỗ họ nhiều điều”, vì họ như bầy chiên
không người chăn dắt và Người “chạnh lòng thương”.
Vì thế, chúng ta có thể phân chia bản văn Tin Mừng thành ba
đoạn và đặt tựa cho mỗi đoạn như sau:
- Việc làm được “kể lại” (c. 30)
-
Nơi thanh vắng (c. 31-32)
-
“Chạnh lòng thương… Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” (c. 33-34
Sứ vụ của các tông đồ khởi đi từ sứ vụ của Đức Giêsu, hướng
tới sứ vụ của Đức Giêsu và có khuôn mẫu là chính sứ vụ của Đức Giêsu.
Để đạt được điều này, các ngài cần nghe theo lời gọi của
Người và cùng với Người “nghỉ ngơi nơi thanh vắng”.
1. Việc làm được “kể lại” (c. 30)
a.“Tụ họp
chung quanh Đức Giêsu”
Khi cầu nguyện với bài Tin Mừng này, chúng ta được mời gọi
chiêm ngắm (nghĩa là dùng nhị quan nhìn và nghe, và nếu có thể, áp dụng ngũ
quan: nhìn, nghe, cảm, nếm và đụng) hình ảnh các môn đệ ngồi chung quanh Đức
Giêsu:Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu. (c. 30a)
Ngài sai các ông đi, và bây giờ các ông trở về tụ họp chung
quanh Thầy của mình. Hình ảnh thật đẹp của sự hiệp nhất: Thầy là điểm khởi và
là điểm tới, Thầy là trung tâm qui tụ, nghĩa là các môn đệ hiệp nhất với Thầy,
và hiệp nhất với nhau ở trong Thầy. Sự hiệp nhất mà chúng ta được gọi kinh
nghiệm và làm chứng, vì hiệp nhất là dấu chỉ của Tin Mừng, của Đức Ki-tô đang
hiện diện; thực vậy, Đức Giêsu đã cầu nguyện với Cha: “Xin cho họ nên một như
chúng ta là một”.
Khi chiêm ngắm, chúng ta hãy cảm nếm và để cho mình được
đụng chạm bởi bầu khi thân mật, chia sẻ và hiệp thông. Và bầu khí này cũng là
mẫu mực của bầu khí của mọi nhóm, cộng đoàn, gia đình. Đến qui tụ quanh Đức
Giêsu, sẽ làm cho chúng ta hiệp nhất với nhau. Trong đời sống cộng đoàn, và
nhất là trong thời gian tĩnh tâm, cả nhóm cầu nguyện với Lời Chúa và chia sẻ
hoa trái của kinh nghiệm lắng nghe và gặp gỡ Chúa là một dấu chỉ của sự hiệp
nhất, được tác tạo bởi chính sự hiện diện của Chúa ngang qua Lời của Ngài.
b. “Kể lại cho
Người biết…”
Tiếp đến, chúng ta hãy lắng nghe các Tông Đồ, chắc cũng
“lao xao” như khi các nhóm chia sẻ, nhận ra và cảm nếm những cảm xúc rất đa
dạng diễn ra trong lòng các ông: Các ông kể lại cho Ngài mọi việc các
ông làm và điều các ông dạy. (c. 30b)
Khi lắng nghe, chúng ta có thể tự hỏi: các môn đệ kể lại
những gì và trong tinh thần nào?
- Chắc chắn không phải là báo cáo thành tích để được Thầy
thưởng công và để được các bạn nể phục; và chắc cũng không phải là trình bày
mọi sự cho Thầy và anh em để được lượng giá và góp ý.
- Có lẽ đó là bầu khi chia sẻ, như khi chúng ta chia sẻ với
nhau và tin rằng có Đức Kitô phục sinh hiện diện. Bầu khí của chia sẻ là lắng
nghe, cảm thông và hiểu biết nhau trong tình mến.
- Nhưng chúng ta cũng có thể hiểu những lời của các môn đệ
ở một mức độ khác: các ông trao lại cho Thầy tất cả những gì mình đã làm và đã
nói, những gì thuộc về mình. Cả nhóm vây quanh Thầy với tâm tình của Kinh
Dâng Hiến: “Chúa đã ban cho con tất cả, giờ đây, con xin dâng lại Chúa tất
cả. Mọi sự đều là của Chúa”.
Điều là lạ lùng là chính khi trao lại, từ bỏ quyền sở hữu,
như lời Chúa nói, chúng ta sẽ nhận lại được, và nhận lại gấp trăm. Còn khư khư
giữ lấy, thì sẽ không sinh hoa kết quả, và rốt cuộc sẽ mất luôn cái mình có.
Chúng ta được mời gọi sống mỗi ngày như thế đó; được sai đi và đến tối trở về
bên Chúa với tâm tình của Kinh Dâng Hiến: “Chúa ban cho con tất cả, con xin
dâng lại cho Chúa tất cả; tất cả đều là của Chúa”
Chúa đón nhận tất cả, vì Chúa nhìn ra chuyển động của con
tim hơn là những thành tích, những công việc được thực hiện hoàn hảo. Vì thế
Ngài không xét đoán, nhưng mời gọi các môn đệ đi nghỉ ngơi nơi thanh vắng. Chúa
mời gọi các ông đi nghỉ ngơi ngay lúc người ta lui tới tấp nập. Cảm nếm sự dịu
dàng của Chúa và cả sự tự do của Ngài nữa trước áp lực của đám đông.
2. “Nơi thanh vắng”
Cho dù trong bối cảnh Tin Mừng, Đức Giêsu và các môn đệ
không thực hiện được thời gian nghỉ ngơi nơi thanh vắng. Tuy nhiên, lời mời gọi
của Đức Giêsu hiện diện ngay trung tâm của trình thuật Tin Mừng và lời mời gọi
này của Người đã và luôn được ngỏ với tất cả các môn đệ đi theo Người: “Chính
anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút (c. 31)…
Vậy, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng” (c. 32).
Tôi hiểu lời mời gọi này của Đức Giệ-su như thế nào, trong
hành trình đi theo Chúa trong đời sống ơn gọi của tôi? Tôi đã đáp lại và ước ao
đáp lại ra sao?
3. “Đức Giêsu chạnh lòng thương”
Chúng ta hãy dõi theo con thuyền vội vàng rời bến, rồi êm ả
trôi trên mặt hồ, hướng về bờ bên kia, vì ở đó có nơi thanh vắng. Nhưng rút
cục, Thầy nói các môn đệ đi nghỉ, hay ít nhất là tạm nghỉ, còn Chúa thì tiếp
tục làm việc, có thể nói, ngài “gánh” việc cho các môn đệ. Và sau này, với mầu
nhiệm Thập Giá, Người gánh hết, vác hết “nặng nợ” cho mỗi người và loài người
chúng ta; chúng ta sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng ở nơi Đức Giêsu là như vậy (x.
Mt 11, 28-30).
Hãy chiêm ngắm đám đông tìm cách đi theo thuyền của thầy
trò Giêsu, họ từ các nơi khác nhau, đi đường bộ, đến trước cả con thuyền, chen
lấn, lộn xộn: “họ như bầy chiên không người chăn dắt”. Họ đi tìm gì? Nhưng dù
họ đi tìm gì đi nữa, Đức Giêsu cũng chạnh lòng thương, nghĩa là “thương xót” và
ban Lời Thiên Chúa cho họ.
Lời Chúa vẫn được ban cho chúng ta mỗi ngày để tiếp tục
sáng tạo chúng ta và nhất là tái sinh chúng ta cho sự sống mới và gia đình mới,
Gia Đình Hiệp Nhất của Vị Mục Tử Nhân Lành, là Đức Ki-tô, “Hiện Thân Lòng
Thương Xót của Thiên Chúa”.
Thứ hai: Ga 20,1-2.11-18
KÍNH THÁNH NỮ MA-RI-A MA-ĐA-LÊ-NA
Suy niệm 1: HÀNH TRÌNH TỐI MỊT
“Maria!”. “Đẹp biết bao khi nghĩ rằng lần hiện ra đầu tiên của
Chúa Phục Sinh - theo Tin Mừng - đã diễn ra một cách cá nhân như vậy! Rằng có
ai đó biết chúng ta, thấy nỗi đau khổ và thất vọng của chúng ta, người ấy xúc động
vì chúng ta và gọi tên chúng ta!” - Phanxicô.
Kính thưa Anh Chị em,
Đó là tất cả những gì đã xảy ra với Maria
Mađalêna, chứng nhân đầu tiên của Đấng Phục Sinh mà hôm nay Hội Thánh mừng
kính. Maria - người được trừ bảy quỷ - đã đi ra mộ Chúa từ sáng sớm khi trời
còn tối mịt; nhưng trước khi nhận ra Thầy, Maria đã phải trải qua một ‘hành
trình tối mịt’ khác cho đến khi nghe ai đó gọi tên mình, “Maria!”.
Trước khi nhận ra Chúa Giêsu, Maria vẫn ở
trong bóng đêm tối mịt của chiều thứ Sáu; không chỉ một Giêsu đã chết mà thi
hài của Ngài dường như cũng bị đánh cắp! May thay, Maria được dẫn dắt dần dần để
bước ra khỏi sự u minh tâm linh này khi ‘Ai đó’ gọi tên cô, mở mắt cô, cho cô
nhận ra Thầy mình. Vậy mà, ngay khi khoảnh khắc tuyệt vời đó xảy ra, Maria vẫn
phải vượt qua một sự thật khác: Thầy không còn như trước! Quan hệ với Chúa
Giêsu của Maria đã đổi thay! Vậy là phải bắt đầu một hành trình mới - một ‘hành
trình tối mịt’ khác - có tên là ‘hành trình của Thánh Thần!’.
‘Hành trình tối mịt’ của Maria là một chứng
tá sẽ truyền cảm hứng cho tất cả chúng ta. Dù ít người bị bảy quỷ ám như cô,
nhưng tất cả chúng ta đều bị dày vò cách này cách khác. Tất cả chúng ta đều phạm
tội; tất cả chúng ta đều có một quá khứ khiến chúng ta hối tiếc. Và tất cả
chúng ta đều được mời gọi trở nên tốt hơn. Cuộc sống “tốt hơn” của Maria là một
cuộc sống được trao ban cho Chúa Giêsu cách trung thành nhất. Cô không quan tâm
liệu binh lính có nhìn thấy cô dưới chân thập giá. Cô không quan tâm liệu lính
tráng có quấy nhiễu cô khi cô đến mộ để xức dầu cho xác Thầy - cô chỉ nghĩ đến
hành động yêu thương cuối cùng mà cô có thể dâng lên Ngài. Và khi nhìn thấy
Chúa Giêsu sống lại và nghĩ rằng Ngài là người làm vườn, cô không quan tâm liệu
Ngài có thấy trái tim đau khổ và nước mắt ứa tràn của cô - cô chỉ muốn nhìn thấy
thi thể của Chúa cô.
Vì lòng trung thành không lay chuyển của
cô - dẫu cô đang cất bước trong một ‘hành trình tối mịt’ - Chúa Giêsu đã ban
cho cô một món quà ngoài sức tưởng tượng. Ngài hiện ra với cô và sai cô đi làm
tông đồ cho các tông đồ.
Anh Chị em,
“Maria!”. Tiếng gọi đích danh với âm vực
quen thuộc của “Người Làm Vườn” đã khiến cho trái tim của Maria giật thót, vì
“Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi”. Nếu thuở địa đàng, sự chết đã đến với loài
người trong một khu vườn; thì nay, sự sống đã trở lại với nhân loại cũng trong
một khu vườn! Vui biết bao, ‘lần hiện ra đầu tiên’ của Chúa Phục Sinh đã diễn
ra theo ‘cách cá nhân’ đến thế! Một ‘Ai đó’ biết tôi, nhìn thấy những khổ đau,
thất vọng của tôi đến nỗi Ngài xúc động và gọi tên tôi! Không phải tôi đi tìm
Chúa, nhưng thật phi thường, Chúa đi tìm tôi ngay trong ‘hành trình tối mịt’ của
tôi! Ngài quan tâm đến cuộc sống của tôi, Ngài nuôi dưỡng nó; Ngài chết đi và sống
lại để cứu nó.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, để có thể gặp Chúa và loan truyền
Ngài, cho con biết hoán cải và ra đi từ ‘cái tôi’ của con, dẫu đó là một sự khởi
đi khá khó khăn và khá tăm tối, nhưng nó nhất định cần thiết!”, Amen.
Suy niệm 2: MARY MAĐALÊNA, TÔNG ĐỒ
BỊ HIỂU LẦM
Nguyễn Trung Tây
Tông đồ, trong tiếng Việt Nam, tông mang ý
nghĩa tông truyền, chân truyền, hay là chính thống. Đồ là đồ đệ. Tông đồ do đó
có nghĩa là đồ đệ trực tiếp hay chân truyền được truyền dạy bởi chính tay của
sư phụ. Trương Tam Phong trong Cô Gái Đồ Long chỉ chọn lựa bẩy môn đệ chân truyền.
Bẩy đồ đệ này do chính tay Trương Chân Nhân đích thân lựa chọn và truyền dạy võ
thuật. Trong ý nghĩa chân truyền, bẩy người đồ đệ của Trương Tam Phong có thể
được coi như là bẩy tông đồ.
Tuy nhiên, tông đồ, ἀπόστολος, apóstòlọs,
trong tiếng cổ Hy Lạp không có nghĩa là tông truyền hay chân truyền. Aπόστολος
có nghĩa là người được Đức Giêsu mời gọi và sai đi với một sứ mạng.
Theo như Gioan 20:1-18, sáng hôm đó trời
còn tối, Mary Mađalêna một mình đi tới ngôi mộ. Cô thấy tảng đá che cửa ngôi mộ
đá bị lăn sang một bên. Cô chạy về báo cho Phêrô và người môn đệ được Đức Kitô
thương mến. Cả hai cùng chạy tới ngôi mộ đá. Cả hai không thấy gì khác hơn
ngoài ngôi mộ trống, và khăn liệm che đầu cùng những băng vải cuốn xác Đức Kitô
còn để lại trong ngôi mộ. Hai người đàn ông bỏ về. Nhưng Mary Mađalêna quyết định
ở lại quanh quẩn với ngôi mộ trống. Trong giây phút không ai ngờ, Đức Kitô Phục
Sinh hiện ra đàm đạo với cô. Ngài sai Mary Mađalêna ra đi với một sứ mạng, “Hãy
đi tới với các môn đệ của ta và báo cho họ biết là ta trở về cùng Cha ta cũng
là Cha của các con” (Gioan 20:17).
Theo lời phán truyền của Đức Kitô Phục
Sinh, Mary Mađalêna lên đường loan báo Đại Tin Mừng Phục Sinh tới những môn đệ
của Đức Giêsu: “Tôi đã gặp Thiên Chúa.” Mary Mađalêna do đó đã được Giáo hội
tiên khởi tuyên phong, "Apostle to all the Apostle/Tông đồ của các tông đồ,"
bởi Mary Mađalêna là người đầu tiên đã được Chúa Phục Sinh sai đi với sứ mạng
rao giảng đại Tin Mừng Phục Sinh.
Năm 591, Pope Gregory I trong bài giảng Phục
Sinh xác định Mary Mađalêna của Tin Mừng Luca 8:2 là Mary của Luca 10:39 và người
thiếu nữ vô danh rửa chân Đức Giêsu trong Luca 7:36-50. Hình ảnh sai lệch kéo
dài cho tới năm 1969 khi Pope Paul VI xác nhận Mary Mađalêna không phải là hai
nhân vật trong Tin Mừng Luca 7:36-50 và 10:39. Mới đây 2016, Pope Francis chuyển
đổi lễ nhớ thánh Mary Magđalêna trong lịch phụng vụ sang lễ trọng, 22/7.
Lời Nguyện
Lạy Ngài! Xin dạy con ra đi rao giảng Tin
Mừng như Tông đồ Mary Mađalêna.
Thứ ba: Mt 12, 46-50
Nhớ thánh Bi-ghít-ta, nữ tu
NÀY
CON ĐẾN
“Ai thi hành ý muốn của
Cha tôi, người ấy là anh em, chị em tôi, là mẹ tôi!”.
“Bất cứ điều gì bàn tay Chúa trao cho tôi, tôi sẽ vui vẻ chấp
nhận, phục tùng và yêu thương. Thánh ý của Ngài là sự nghỉ ngơi của tôi. Trong
đó chứa đựng tất cả sự thánh thiện của tôi, sự cứu rỗi vĩnh cửu của tôi, vì làm
theo ý Chúa là vinh quang lớn nhất!” - thánh Faustina Kowalska.
Kính thưa Anh Chị em,
“Làm theo ý Chúa là vinh quang lớn nhất!”. Lời Chúa hôm nay
cho biết, ai thi hành ý muốn của Chúa Cha, nghĩa là sống tinh thần ‘Này con đến!’
của Chúa Giêsu, người ấy trở nên “anh em, chị em và là mẹ” Ngài!
Bước vào trần gian, Chúa Giêsu nói, “Này con đến để thực
thi ý Ngài!”. Từ đó, tinh thần này - “Của ăn tôi là làm theo ý Đấng đã sai tôi”
- toả lan qua tất cả những ai dõi bước theo Ngài. Độc đáo thay, người ‘môn đệ đầu
tiên’ sống tinh thần ấy lại là Maria, Mẹ Ngài. Với lời “Xin vâng” ngày truyền
tin và ‘xin vâng’ trọn cả cuộc đời, Maria đã thật sự bước vào gia đình Thiên
Chúa. Vì thế, khi nói, “Ai là mẹ tôi, ai là anh em tôi?”, Chúa Giêsu không hề
thiếu tôn trọng Mẹ mình; đúng hơn, Ngài công nhận Mẹ, một công nhận lớn nhất!
Vì lẽ, bản thân Maria là người môn đệ hoàn hảo làm theo ý muốn của Chúa Cha một
cách toàn bích. Cả cuộc đời Mẹ là một lời thưa, ‘Này con đến!’.
“Thiên Chúa ‘say mê’ con người. Vì tình yêu, Ngài dựng nên
con người; vì tình yêu, Ngài cho nó hiện hữu, hầu hưởng nếm sự tốt lành vĩnh cửu
của Ngài”. Để trợ giúp chúng ta, Thiên Chúa ban Con Một của Ngài làm kiểu mẫu hầu
chúng ta học hỏi, dõi theo và có thể hoàn thành mục đích đời mình. Đây là lý do
tại sao chúng ta đi theo Chúa Giêsu, lắng nghe Ngài. Và như vậy, chúng ta ‘là
gì’ và chúng ta ‘làm gì’ là ‘hai chị em sinh đôi!’. Nên giống Chúa Giêsu, làm
theo ý muốn của Chúa Cha như Ngài, chúng ta là thành viên trong gia đình Thiên
Chúa Ba Ngôi vậy!
Không chỉ được tạo dựng cho một mục đích, chúng ta còn được
cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi bằng chính bửu huyết của Chúa Giêsu. “Mọi tội lỗi
của chúng ta, Chúa ném xuống đáy biển” - bài đọc Mikha. Qua Chúa Giêsu, tình
yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thể hiện một cách trọn vẹn. Thánh Vịnh đáp ca
là một lời cầu nguyện sâu sắc, “Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy tình thương
của Chúa!”. Để đáp lại tình yêu đó, bắt chước Chúa Giêsu và Mẹ Ngài, chúng ta
thưa lên, ‘Này con đến!’.
Anh Chị em,
“Ai thi hành ý muốn của Cha tôi”. Thi hành ý muốn của Chúa
Cha không luôn luôn là làm những gì to tát; nhưng là “vui vẻ chấp nhận, phục
tùng và yêu thương bất cứ điều gì bàn tay Chúa trao”, là làm những việc tầm thường
với một trái tim phi thường. “Vì làm theo ý Chúa là vinh quang lớn nhất!”, Chúa
Giêsu đã sở hữu vinh quang lớn nhất khi sống triệt để tinh thần này cho đến chết.
Vì thế, với chúng ta, thi hành ý muốn của Chúa Cha còn là ôm lấy thánh giá đời
mình tháp vào thánh giá của Chúa Giêsu để cùng Ngài trổ sinh hoa trái cứu độ.
Như vậy, một khi thi hành ý muốn của Chúa Cha như Chúa Giêsu, hẳn chúng ta cũng
là “anh em, chị em và là mẹ” của Ngài!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, thưa ‘Này con đến!’ xem ra thật dễ; nhưng chu
toàn phần hai của nó - để thực thi ý Ngài - thật khó! Ước gì thánh ý của Chúa
là sự nghỉ ngơi của con!”, Amen.
Thứ tư: Mt 13,1-9
ĐẤT
TRŨNG
“Có hạt được một trăm,
hạt sáu mươi, hạt ba mươi!”.
“Chúa ở khắp mọi nơi; tuy nhiên, Ngài không muốn bạn tìm
Ngài ở mọi nơi mà ‘chỉ trong Lời’. Tiếp cận Lời, bạn sẽ ‘gặp Ngài ở khắp mọi
nơi!’. Hãy tìm Ngài trong Lời; nhưng trước hết, tâm hồn bạn phải là mảnh đất
giàu, mà đất giàu, thường là đất trũng!” - Anon.
Kính thưa Anh Chị em,
“Tâm hồn bạn phải là mảnh đất giàu, mà đất giàu, thường là
‘đất trũng!’”. Lưu ý trên được gặp lại trong Tin Mừng hôm nay. Như ‘đất trũng’,
nơi đầy ắp phù sa, có nhiều cơ may cho hạt giống phát triển; cũng thế, nơi một
tâm hồn trũng, Lời Chúa có nhiều cơ hội sinh hoa kết trái. Được như thế, khi
mùa về, sẽ có “hạt một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi!”.
Chúa Giêsu đang nói đến mảnh đất tâm hồn; qua đó, chúng ta
nghe, hiểu, chấp nhận và chọn làm theo thánh ý Ngài. Chỉ khi chăm chú vào Lời,
chúng ta mới có thể nắm bắt được ý muốn của Chúa, “Đấng ở khắp mọi nơi”. Nhưng
thật không dễ để tâm hồn là một mảnh đất giàu; bởi lẽ, nó đòi hỏi nhiều nỗ lực
vun xới, tưới tiêu. Vậy phải làm thế nào?
Một trong những quan trọng bậc nhất để có một mảnh đất giàu
cho tâm hồn là chúng ta phải khiêm tốn. Khiêm tốn, trước hết, là nhìn thấy sự
thật chúng ta là ai, một tội nhân! Tiếp đến, thấy được sự cấp thiết của ân sủng!
Tâm hồn khiêm tốn thừa nhận sẽ bất lực nếu không có ân sủng. Thế mà như phù sa
chỉ đọng lại vùng trũng; ân sủng Chúa cũng chỉ lưu lại nơi những tâm hồn trũng
vốn sẽ lệ thuộc tuyệt đối vào Chúa. Chỉ khi đó, ân sủng mới có khả năng thấm
vào cuộc sống chúng ta; từ đó, chảy tràn cho người khác.
Bài đọc Cựu Ước cho thấy tiến trình của dòng chảy ân sủng
nơi Giêrêmia, một đại ngôn sứ. Chúa phán, “Trước khi tạo thành ngươi trong lòng
mẹ, Ta đã biết ngươi; Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân”. Và tôi thưa, “Ôi!
Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói!”. Tâm
hồn Giêrêmia quả là vùng ‘đất trũng!’. Từ con người đó, Thiên Chúa sẽ nói, sẽ
làm những việc cả thể. Và Giêrêmia đã mềm mỏng thưa lên, “Lạy Chúa, miệng con sẽ
tường thuật ơn cứu độ Ngài ban!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Anh Chị em,
“Có hạt được một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi!”. Đức
Phanxicô nói, “Lời đã hiện diện trong tâm hồn chúng ta rồi, nhưng việc làm cho
nó sinh hoa kết trái còn tuỳ thuộc vào chúng ta; nó tuỳ thuộc vào sự ôm ấp mà
chúng ta dành cho hạt giống này. Thường thì người ta bị phân tâm bởi quá nhiều
nhu cầu, quá nhiều cám dỗ và thật khó để phân biệt giữa nhiều tiếng nói và Lời
của Chúa, Đấng duy nhất giải phóng chúng ta. Đây là lý do tại sao điều quan trọng
là phải tập thói quen lắng nghe Lời Chúa, đọc Lời Chúa. Và tôi xin trở lại một
lần nữa với lời khuyên đó: “Hãy luôn mang theo một bản Phúc Âm tiện dụng bên
mình, một ấn bản bỏ túi, trong túi, trong ví… và sau đó, hãy đọc một đoạn ngắn
mỗi ngày, để quen dần với nó!”. Hãy đọc, hiểu rõ hạt giống Chúa ban cho bạn và
suy nghĩ xem bạn sẽ nhận được nó từ loại đất nào, đất giàu, ‘đất trũng’ hay bụi
mâm xôi?”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để ân sủng Chúa trôi đi và hạt Lời nơi con
chỉ làm mồi cho lũ sẻ. Ngay hôm nay, con sẽ chọn cho mình một cuốn Phúc Âm bỏ
túi, giúp con yêu mến, đọc và thẩm thấu Lời mỗi ngày!”, Amen.
Thứ năm: 2Cr 4, 7-15; Mt 20, 20-28
KÍNH THÁNH GIA-CÔ-BÊ, TÔNG ĐỒ
CHUNG
CHÉN
“Các người có uống nổi chén
Thầy sắp uống không?”.
“Cám dỗ của Kitô giáo không có thập giá - một Giáo Hội nửa
vời không muốn đến nơi Chúa Cha muốn - là cám dỗ của chủ nghĩa chiến thắng.
Ngày nay, chúng ta muốn chiến thắng mà không đi qua thập giá. Nhưng đó là một
chiến thắng hoàn toàn thế tục, mà với nhiều người, nó là một chiến thắng hợp
lý!” - Phanxicô.
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng lễ kính thánh Giacôbê tông đồ đặt chúng ta trước một
tình huống; đúng hơn, một cám dỗ ‘không có gì lạ’ trong các cộng đồng Kitô giáo
khác nhau, “Cám dỗ chiến thắng mà không đi qua thập giá!”; đang khi Chúa Giêsu
lại muốn chúng ta ‘chung chén’ với Ngài, “Các con có uống nổi chén Thầy sắp uống
không?”.
Thật vậy, Giacôbê và Gioan đã rất rộng lượng khi bỏ lại gia
đình và chài lưới để đi theo Chúa Giêsu. Họ đã nghe Ngài công bố một Vương Quốc
với lời hứa ban sự sống đời đời; thế nhưng, họ vẫn không hiểu được chiều hướng
mới mẻ Ngài đặt ra. Chính vì điều này mà mẹ của họ đã yêu cầu Ngài một điều gì
đó ‘đủ tốt’ nhưng ‘không vượt quá một tham vọng đơn giản’ của con người - chiến
thắng - “Xin Thầy truyền cho hai con tôi đây được ngồi, một người bên hữu, một
người bên tả Thầy trong Nước Thầy!”. Chúa Giêsu trả lời, “Các người không biết
các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?”, Ngài thách
thức họ cùng Ngài ‘chung chén!’.
Tương tự như vậy, bạn và tôi lắng nghe Chúa Giêsu, bước
theo Ngài như các môn đệ đầu tiên, nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng hiểu
hết sứ điệp của Ngài. Bởi lẽ, một đôi khi, dẫu ở đấng bậc nào, chúng ta vẫn thường
làm theo sở thích và tham vọng cá nhân của mình. Chúng ta quên rằng, khi đón nhận
Chúa, chúng ta phải phó mình hoàn toàn cho Chúa, tuyệt đối tin tưởng vào Ngài;
và rằng, chúng ta không thể nghĩ đến việc đạt được vinh quang nếu không chấp nhận
thập giá.
Câu trả lời Chúa Giêsu đưa ra cho họ nhấn mạnh chính xác
khía cạnh này: để được tham dự vào Vương Quốc, điều quan trọng là phải uống
‘chung chén’ của Ngài, tức là sẵn sàng cống hiến sức lực của mình, sống vì tình
yêu Thiên Chúa và hiến thân đến cùng để phục vụ tha nhân với một thái độ thương
xót như Ngài đã thể hiện.
Trong bài giảng đầu tiên ở triều đại mình, Đức Phanxicô nhấn
mạnh rằng, để theo Chúa Giêsu, chúng ta phải vác thập giá, bởi vì “Khi chúng ta
bước đi mà không có thập giá, khi chúng ta tuyên xưng một Đức Kitô mà không có
thập giá, khi chúng ta xây dựng mà không có thập giá… chúng ta là những người
trần tục; chúng ta là Giám mục, Linh mục, Hồng Y, Giáo hoàng nhưng không phải
là môn đệ Chúa Kitô!”.
Anh Chị em,
“Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?”. Gẫm suy
những lời này, thánh Gioan Kim Khẩu viết, “Chúa bảo, ‘Hãy nói cho Ta về những
vinh quang và những chiếc vương miện!’; tôi nói với Ngài, ‘Lạy Chúa, không đâu!
Chỉ toàn xung đột và lao nhọc. Vì đây không phải là mùa khen thưởng!’”. Quả thế,
cuộc sống theo Chúa Giêsu là một cuộc sống uống ‘chung chén’ của Ngài, là đi
con đường hiến thân phục vụ và hiến dâng mạng sống như Ngài. Bởi lẽ, đây không
phải là mùa khen thưởng!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, để con được biến đổi, xin giúp con biết tận dụng
ân sủng Chúa ban; nhờ đó, con trở nên một môn đệ đích thực chứ không là một con
người trần tục!”, Amen.
Thứ sáu: Hc 44,
1.10-15; Mt 13, 16-17
Nhớ Thánh Gio-an-kim và An-na; song thân Đức Maria
và Nhớ chân phước An-rê Phú Yên,
thầy giảng (bổn mạng các giáo lý viên Việt Nam)
HƯƠNG
THƠM CỦA KÝ ỨC
“Phúc cho mắt các con
vì được thấy; phúc cho tai các con vì được nghe!”.
“Ôi, đôi bạn diễm phúc! Mọi tạo vật đều mắc nợ quý ngài, vì
qua quý ngài, một quà tặng thanh khiết nhất, xinh đẹp nhất dâng cho Đấng Tạo
Hoá; đó là Thánh Mẫu tinh tuyền mà chỉ mình ‘Nàng’ xứng đáng cưu mang Đấng Tạo
Dựng muôn loài!” - Gioan Đamas.
Kính thưa Anh Chị em,
Đó là bút tích thâm trầm và sâu sắc của vị thánh tiến sĩ thế
kỷ thứ 8 khi nói về hai thánh Gioakim và Anna, song thân của Đức Maria như là
‘hương thơm của ký ức’ - theo Đức Thánh Cha Phanxicô - Giáo Hội mừng kính hôm
nay.
Trong một Thánh Lễ ban ơn toàn xá và cầu nguyện cho người
cao tuổi, Đức Thánh Cha nhấn mạnh, chúng ta phải biết thu thập, cẩn thận giữ gìn
và bảo vệ kho báu quý giá mà Thiên Chúa đã ban cho mỗi người, đó là các bậc
sinh thành. “Ông bà của chúng ta và người già không phải là đồ thừa của cuộc sống,
không phải là đồ vụn vặt bỏ đi; họ là những mẩu bánh quý giá còn sót lại trên
bàn ăn cuộc sống và vẫn có thể nuôi dưỡng chúng ta bằng một hương thơm mà chúng
ta đã đánh mất, ‘hương thơm của ký ức!”.
Lời Chúa được chọn hôm nay nhắc lại cùng một điều. “Chúng
ta hãy ca tụng những vĩ nhân và các tổ phụ của mình qua các thời đại. Có những
người nhân hậu mà việc thiện của họ không bao giờ bị lãng quên; tên tuổi của họ
sẽ được lưu truyền từ đời nọ sang đời kia; sự khôn ngoan của họ được cộng đoàn
truyền tụng”. Huấn Ca gọi các ngài là vĩ nhân; và còn hơn cả vĩ nhân, vì qua họ,
Thiên Chúa tặng ban cho thế giới, cho Giáo Hội không chỉ các vĩ nhân mà cả những
thánh nhân. Họ là vĩ nhân của các vĩ nhân!
Song thân của Đức Maria là ông bà ngoại của Chúa Giêsu;
chính các ngài đã giúp hình thành một môi trường đức tin lành thánh, trong đó,
trẻ Giêsu phát triển về trí tuệ, tâm đức và cả tầm vóc trước mặt Thiên Chúa và
loài người. Ngày lễ hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến ‘hương thơm của ký ức’ Chúa
ban cho mình; các ngài là những người đầy lòng tin “đã đi trước chúng ta và
đang nghỉ giấc bình an”. Không chỉ nhớ đến công ơn sinh thành dưỡng dục, chúng
ta còn nhớ đến đức tin; trong đó, các ngài đã sống, chiến đấu, cầu nguyện… và
thắp lên ngọn lửa đức tin trong linh hồn và cuộc sống bạn và tôi.
Anh Chị em,
“Phúc cho mắt các con vì được thấy; phúc cho tai các con vì
được nghe!”. Như vậy, chúng ta không chỉ mắc nợ các thế hệ đi trước, nhưng còn
nợ nần thế hệ cùng thời và nợ cả những thế hệ tương lai. Tại sao? Vì nhờ các đấng
sinh thành, chúng ta tin nhận Chúa Giêsu; và trong Chúa Giêsu, chúng ta được
lãnh nhận mặc khải trọn vẹn của Thiên Chúa. Vì thế, bổn phận của chúng ta là phải
chia sẻ đặc quyền đó, đặc quyền mà “Nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã
mong mỏi thấy, mà không được thấy; mong mỏi nghe mà không được nghe”; nghĩa là
không chỉ gìn giữ ‘hương thơm của ký ức’, chúng ta còn phải chia sẻ hương thơm
Giêsu cho các thế hệ hôm nay và mai ngày.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, chớ gì cuộc sống của con luôn toả hương nhân đức
của các đấng sinh thành; và nhất là ngạt ngào hương Giêsu mà con ra sức ướp lấy
mỗi ngày!”, Amen.
Thứ bảy: Mt 13, 24-30
ÔM LẤY NÓ!
“Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt!”.
“We Are the World”, “Chúng
Ta là Thế Giới”, một ca khúc Michael Jackson và Lionel Richie viết. Một đĩa đơn
“thu hút sự chú ý chưa từng có của quốc tế về châu Phi” ghi âm năm 1985 với sự
góp giọng của hơn 45 siêu ca sĩ; đạt doanh số hơn 20 triệu bản, thu hơn 75 triệu
dollars quỹ giúp châu Phi. “Chúng ta là thế giới, hãy học biết chia sẻ!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Nói rằng “Chúng ta là thế giới,
hãy học biết chia sẻ!”, khác nào nói, hãy ‘Ôm lấy thế giới!’. Vậy mà, Lời Chúa
hôm nay cảnh báo, đó là một thế giới ‘đầy cỏ!’; một thực tế vừa xót xa vừa đáng
mừng! Tại sao? Cỏ ở khắp mọi nơi, nhưng lòng thương xót của Thiên Chúa còn nhiều
hơn cỏ; nó bao phủ cả thế giới! Quan trọng hơn, bạn và tôi được kêu gọi để ‘ôm
lấy nó’ và cho phép Thiên Chúa ‘ôm nó’ qua chính mình!
Nếu coi lúa tốt là tất cả những
gì Chúa Kitô dạy thì thế giới ngày nay có rất nhiều điều trái nghịch Kitô giáo;
nói cách khác, lắm cỏ! Cỏ thậm chí sinh sôi nhiều hơn và dễ thấy hơn lúa. Vậy
không lẽ Chủ Mùa cho phép cỏ át lúa? Không đâu! Chúa Giêsu nói, “Cha trên trời
cho mặt trời mọc trên kẻ xấu và người tốt!”. Vì thế, khi thấy cỏ hầu như ở khắp
mọi nơi, chúng ta không nản chí; trái lại, cứ ‘ôm lấy nó’, để Vương Quốc Đức
Kitô hiện diện trong đó, ít nữa là ‘thế giới quanh mình!’.
Cần nhớ, cỏ luôn luôn có và
nó sẽ có cho đến tận thế! Tập trung vào lúa, đừng tập trung vào cỏ! Tập trung
vào cỏ, chúng ta có thể rơi vào phê phán hoặc rút lui khỏi những tương tác với
ai không nhìn mọi thứ như chúng ta nhìn; và như thế, trở nên tiêu cực, đánh mất
hy vọng và niềm vui. Không! Tình yêu kêu gọi chúng ta không chỉ thấy ‘những gì
đang có’ nhưng còn mời gọi chúng ta thấy ‘những gì có thể!’. Mẹ Têrêsa nói,
“Tôi tin rằng, Thiên Chúa yêu thương thế giới qua chúng ta!”. Vậy tôi có cho
phép Thiên Chúa yêu nó qua tôi, và tôi có cùng Ngài ‘ôm lấy nó’, một thế giới
đáng thương?
Thật trùng hợp, điều chúng
ta được mời gọi cũng là điều Giêrêmia đã sống! - bài đọc một. Giêrêmia không
nguyền rủa dân, một Israel phản nghịch; trái lại, ông ôm lấy dân! Đúng hơn,
Giêrêmia cho phép Thiên Chúa qua ông, ôm lấy Israel, “Hãy cải thiện lối sống và
hành động của các ngươi, Ta sẽ cho các ngươi lưu lại nơi này!”. “Nơi” của Chúa
là ‘đất Hứa’, là đền thờ, là “Cung điện khả ái” như Thánh Vịnh đáp ca hoài niệm.
Anh Chị em,
“Cứ để cả hai cùng lớn lên
cho tới mùa gặt!”. “Mùa gặt” là ‘mùa xót thương!’. Với Chủ Mùa, ‘cỏ thành lúa’
vẫn là điều có thể. Lòng thương xót là nguồn gốc và động lực của mọi cuộc hoán
cải. “Lòng thương xót là gì nếu không phải là tình yêu vô bờ của Thiên Chúa, Đấng
đã đương đầu với tội lỗi của con người, kiềm chế xung năng của công lý nghiêm
khắc, và để cho mình ‘bị lay động’ bởi sự khốn khổ của các tạo vật vốn thúc đẩy
đến toàn bộ, đến nỗi trao cả món quà của bản thân, Con Một, trên thập giá!” -
Gioan Phaolô II. Cả chúng ta, hãy ước ao thật nhiều về một kinh nghiệm tái tạo
của lòng thương xót, để có thể cùng Chúa ‘ôm lấy nó’, một thế giới đáng thương
hơn là đáng ghét!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, để có thể ôm lấy
một thế giới ‘ít lúa, lắm cỏ’, tiên vàn, xin ân sủng Chúa hoán cải tâm hồn con;
nhờ đó, nó ‘đầy Chúa’ và ‘sạch cỏ!’”, Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét