SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN II
PHỤC SINH
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH-B:
KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
Cv 5,12-16; Kh 1,9-11a.12-13.17-19; Ga 20,19-31
Suy
niệm 1:
Hàng
năm Giáo Hội dành một ngày Chúa nhật II Phục sinh để suy tôn Lòng Thương Xót
Chúa. Tin Mừng hôm nay trình thuật lại sự kiện Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với
các tông đồ, nhất là đối với Tôma để bày tỏ lòng thương xót của Người ngang qua
các vết thương mà Người đã mang lấy vì tội lỗi chúng ta. Xin
Chúa phục sinh củng cố lại niềm tin, trao ban bình an và sức mạnh của CTT, để
chúng ta can đảm thực thi sứ mạng lòng thương xót của Chúa cho mọi người, với
mong muốn ai nấy đều được đón nhận lời chúc phúc của Chúa phục sinh: “phúc
cho những ai không thấy mà tin”.
Theo
như lịch phụng vụ, thì cứ vào Chúa nhật II Phục sinh hàng năm, GH suy tôn Lòng
Thương Xót Chúa. Vậy lý do nào mà GH lại chọn Chúa nhật hôm nay mà không phải
những ngày khác trong năm để tôn kính lòng thương xót Chúa? Thưa có 3 lý do
chính:
1.
Thứ nhất là do chính Chúa Giêsu mạc khải cho nữ tu Faustina.
Ngày
22/02/1931, Chúa Giêsu đã hiện ra và mặc khải cho nữ tu Faustina, thuộc dòng
Đức Mẹ Từ Bi ở Balan về lòng thương xót của Chúa và dạy chị phải rao truyền
lòng thương xót đó qua bức ảnh thánh cũng như chọn lấy ngày Chúa nhật II Phục
sinh làm ngày lễ kính lòng thương xót của Chúa. Chúa Giêsu nói với chị Faustina
rằng: “Hãy vẽ bức ảnh như con nhìn thấy đây với hàng chữ: Lạy Chúa Giêsu,
con tín thác vào Chúa. Ta hứa, nếu ai tôn kính ảnh này sẽ không bị hư mất.
Ta cũng hứa sẽ giúp cho linh hồn đó toàn thắng các kẻ thù trong cuộc sống, nhất
là trong giờ lâm tử. Ta sẽ bảo vệ, gìn giữ linh hồn nó. Ta mong muốn tấm ảnh
này được tôn kính trên toàn thế giới.”
Theo
lời đề nghị của cha linh hướng, chị Faustina có hỏi Chúa về ý nghĩa màu sắc của
hai luồng sáng của bức ảnh, thì Chúa trả lời: “Hai luồng sáng đó biểu thị cho
máu và nước, luồng trắng chỉ nước, nó làm cho linh hồn nên công chính. Luồng đỏ
chỉ máu, đó là sự sống của linh hồn. Hai luồng sáng này được ban ra do lòng
thương xót vô bờ của trái tim Ta, mà người lính đã lấy đòng đâm thâu khi Ta bị
treo trên Thập giá. Phúc thay những linh hồn nào luôn biết nương náu trong nơi
trú ẩn này, vì cánh tay công thẳng của Thiên Chúa sẽ không đánh phạt họ.”.
2.
Thứ hai là do chính thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thiết lập.
Ngày
30/04/2000, Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phong hiển thánh cho chị nữ
tu Faustina, vị tông đồ của lòng thương xót và đã thiết lập lễ kính lòng thương
xót của Chúa trên toàn Giáo hội vào chúa Nhật II Phục sinh, đúng như ước muốn
của Chúa đã nói với chị Faustina: “Ta ao ước là lễ kính lòng thương xót của Ta
phải được cử hành vào Chúa nhật 2 Phục sinh”. Như vậy đức thánh Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II đã chính thức công nhận việc tôn sùng lòng thương xót của Chúa,
để từ nay mọi người, đặc biệt là các tội nhân biết tin tưởng mau mắn chạy đến
với tình yêu đầy nhân ái của Người, như Chúa Giêsu đã nói với thánh nữ Faustina
rằng: “không một linh hồn nào phải sợ sệt khi đến gần Ta, dù tội lỗi của nó có
đỏ như máu đi nữa...”. Đúng như lời Chúa đã phán qua miệng tiên tri
Isaia: "Tội các ngươi dầu có đỏ như son, cũng hóa nên trắng như
tuyết. Có thẳm tựa vải điều, cũng nên trắng như bông." (Is 1,18)
3.
Thứ ba do phụng vụ lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến lòng thương xót Chúa.
1.
Tin mừng hôm nay cho biết cả hai lần hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu
phục sinh đều trao chúc bình an cho các ông. Bình an phải là món
quà quý giá nhất mà các tông đồ đang cần trong lúc hoang mang, sợ hãi vì những
người Do Thái đang tìm cách giết hại. Với lòng thương xót, Chúa Giêsu thấu hiểu
điều ấy nên Người đã hiện ra chấn an các ông, trao ban CTT và lời chúc bình an,
để củng cố niềm tin cho các ông.
2.
Cũng vì lòng thương xót, Chúa đã không hề chấp nhất trước thái độ thách thức
của tông đồ Tôma. Trái lại, Người cảm thông tha thứ cho Tôma và còn chiều ý
Tôma mà hiện ra lần hai để củng cố thêm đức tin cho ông.
3. Mỗi
lần hiện ra Chúa đều mời gọi tông đồ nhìn vào những vết đinh nơi tay và vết
giáo nơi cạnh sườn Người. Chính những vết thương ấy là dấu chứng hùng hồn của
một vị TC giàu lòng thương xót, đã sẵn sàng ôm lấy hết những vết thương do tội
lỗi con người gây ra vào thân thể Người, để đóng đinh nó vào thập giá. Và sẵn
sàng đổ đến giọt máu cuối cùng từ trái tim nhằm tẩy xóa mọi vết nhơ tội lỗi của
con người. Và từ cạnh sườn, Người đã để cho nước và máu tuôn trào đến giọt cuối
cùng hầu khơi nguồn ân sủng và tuôn tràn sự sống mới qua các bí tích do Người
lập.
4.
Lòng thương xót Chúa không chỉ dừng lại nơi các tông đồ mà Người còn muốn trao
ban cho hết mọi người nên sau khi trao ban bình an và củng cố đức tin cho các
tông đồ, Chúa phục sinh tiếp tục trao ban Thánh Thần và năng quyền tha tội cho
các tông đồ, để qua các tông đồ, nhờ sự tác động của Thánh Thần, Chúa yêu
thương ban ơn tha thứ cho kẻ có tội thật lòng ăn năn. Chính vì thế mà GH đã xác
quyết: “Tha thứ chính là đỉnh cao của lòng thương xót”.
Xin
Chúa cho chúng ta cũng biết luôn tin tưởng vào Chúa trong mọi hoàn cảnh, biết
sống yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho nhau; nhất là biết luôn nghĩ đến mưu
cầu lợi ích cho tha nhân mà tận tình hy sinh phục vụ với niềm tín thác vào lòng thương xót Chúa.
Suy
niệm 2: BÀN TAY CỦA YÊU THƯƠNG
Truyện kể: Trong
một tiết dạy vẽ, cô giáo bảo các em học sinh lớp một vẽ điều gì đã làm các em
thích nhất trong đời. Cô thầm nghĩ: “chắc rồi các em cũng lại vẽ những gói quà,
những ly kem hoặc những món đồ chơi, hay quyển chuyện tranh nào
đó…”. Thế nhưng cô hoàn toàn ngạc nhiên trước một bức tranh lạ của em học
sinh tên là Douglas: Bức tranh vẽ một bàn tay!
Nhưng
đây là bàn tay của ai? Cả lớp bị cuốn hút bởi hình ảnh đầy biểu tượng này. Một
em đoán: “Đó là bàn tay bác nông dân”. Một em khác cho rằng: “Bàn tay thon thả
thế này phải là bàn tay của một bác sĩ giải phẩu”. Cô giáo đợi cả lớp bớt xôn
xao dần rồi mới hỏi tác giả. Douglas cười ngượng ngịu: “Thưa cô, đó
là bàn tay của cô ạ!”.
Cô
giáo ngẫn ngơ. Cô nhớ lại những giờ ra chơi, cô thường dùng bàn tay
để dìu dắt Douglas bước ra sân, bởi em là một cô
bé khuyết tật, khuôn mặt không được xinh xắn như các bạn nhỏ khác,
gia cảnh em từ lâu rất nghèo. Cô chợt hiểu ra, tuy cô vẫn làm điều
tương tự ấy với các em khác, nhưng hóa ra đối với Douglas, bàn
tay cô lại mang một ý nghĩa sâu xa, một biểu tượng của tình yêu thương lớn
lao như vậy.
Nếu
bàn tay của cô giáo là hình ảnh đẹp nhất trong tâm
hồn của em bé khuyết tật Douglas, thì Bàn Tay Chúa Giêsu phải là
hình ảnh tuyệt vời nhất đối với nhân loại. Bởi lẽ bàn tay ấy mang đầy
những vết tích của lòng thương xót. Cho nên mỗi lần hiện ra với các
tông đồ, đặc biệt với Tôma, Chúa Giêsu đều mời gọi các tông đồ xem kỉ
đôi bàn tay và cạnh sườn Người.
1. Đó
là bàn tay mang vết tích vì lòng yêu mến Chúa Cha.
Chúa
Giêsu luôn hướng về Chúa Cha bằng một tình yêu mật thiết, được thể hiện qua đôi
bàn tay của cầu nguyện:
- Đôi
bàn tay hướng về Cha trong tư thế cầu nguyện mỗi khi bắt đầu ngày sống, xin Cha
hướng dẫn và ban ơn giúp sức để những việc làm trong ngày sống được hoàn thành
tốt đẹp theo ý Cha.
- Đôi
bàn tay hướng về Cha suốt đêm dài, mỗi khi quyết định những việc làm quan
trọng, để xin Cha ban ơn soi sáng suốt mà chọn lựa điều tốt nhất, theo ý muốn
của Cha.
- Đôi
bàn tay từng cầm bánh và rượu đưa lên cao hướng về Chúa Cha để chúc tụng, tạ
ơn, hầu xin Cha chúc lành cho những lương thực hưởng dùng cho nhân loại.
- Đôi
bàn tay hướng lên trời, để kêu xin sự sống cho La-da-rô đã chết 4 ngày được
sống lại.
- Đôi
bàn tay đã từng chấp lại trong nỗi hoang mang lo sợ, để thiết tha khẩn cầu Chúa
Cha cất khỏi chén đắng trong vườn dầu với tinh thần phó thác.
- Bàn
tay dang rộng trên thập giá đau đớn, gánh lấy tội nhân mà vang xin Chúa Cha tha
thứ cho những ai xúc phạm và giết hại mình.
2. Đó
là bàn tay mang vết tích vì yêu thương nhân loại.
- Đôi
bàn tay Chúa Giêsu luôn hướng đến mọi người để cảm thông chia sẻ và giúp đỡ
bằng tình yêu hy sinh.
- Bắt
đầu bằng đời sống lao động vất vả nơi gia đình Nazarét. Bàn tay từng cầm cưa,
búa, đục để làm mộc cùng với thánh Giuse lo của ăn cho gia đình.
- Bàn
tay sẵn sàng mở ra ban ơn tha thứ biết bao tội nhân biết ăn năn sám hối như
Maria Macdala, cho ngưuời phụ nữ ngoại tình, hay cho Giakêu…
- Bàn
tay đã chữa lành biết bao người đau ốm, đặt tay trên mắt người mù bẩm
sinh, trên tai và lưỡi của người câm điếc, trên thịt da lỡ lóet của người mắc
bệnh hủi, trên trán giá lạnh của con gái Giai-rô, trên tay nóng sốt của bà nhạc
mẫu Phêrô….
- Bàn
tay quyền thế đã truyền khiến giông tố và sóng gió yên lặng, đã cầm roi xua
đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi đến thờ, đã xua trừ ma quỷ, đã chúc dữ cho những
người biệt phái.
- Bàn
tay bị đâm thủng, nơi ấy vẫn còn lỗ đinh được ghi lại tình yêu Chúa dành muôn
thế hệ.
- Bàn
tay bị nộp cho lý hình, bị đóng đinh vào thập giá và phải mang lấy thân xác
nặng nề đau xé suốt ba giờ liền trên thập giá. Tất cả chỉ vì tình yêu con
người.
Khi
mời gọi các tông đồ nhìn xem tay Chúa vừa để chứng thực chính Người là Thiên
Chúa giàu lòng thương xót; vừa để mời gọi các ông học lấy bài học yêu
thương “như Người đã yêu”.
Khi
mời gọi các tông đồ nhìn vào đôi bàn tay của Chúa là để nhắc nhở các ông không
chỉ thi hành mệnh lệnh loan báo tin mừng trên môi miệng mà còn phải thực hiện
lời rao giảng trên đôi tay mở ra để giúp đỡ những người bé nhỏ, nghèo nàn, yếu
đau. An ủi những ai đau khổ, bất hạnh và vỗ về những ai cô đơn, tội lỗi. Hàn
gắn những gia đình bị rạng nứt và đổ vỡ.
Nhìn
bàn tay Chúa để các tông đồ hiểu rằng việc truyền giáo sẽ không bao giờ đạt kết
quả, nếu thiếu đời sống cầu nguyện nên “hãy xin với chủ ruộng” .
Đôi
bàn tay giơ cao hướng về Chúa để xin ơn. Xin Chúa ban ơn soi sáng, lòng nhiệt
thành và sức mạnh cho những nhà truyền giáo. Xin Chúa đánh đọng lòng người tiếp
nhận tin mừng. Xin Chúa chúc lành cho công cuộc truyền giáo.
Đôi
bàn tay dang rộng hướng về tha nhân, bằng cách chấp nhận chịu đâm thủng của
những dấu đinh vất vả, hy sinh, đau khổ vì tình yêu.
Bàn
tay yêu thương đó được minh chứng nơi cộng đoàn tín hữu đầu tiên. Họ đồng tâm
hướng đôi bàn tay lên Chúa bằng đời sống cầu nguyện, bằng lắng nghe Lời Chúa và
lời giảng dạy của các tông đồ, cùng hiệp thông trong nghi lễ bẻ bánh.
Họ
cũng dùng bàn tay hướng về anh em để chia sẻ trong tình bác ái. Tự nguyện dâng
cúng tài sản riêng làm của chung. Chấp nhận bán hết tài sản để trợ giúp cho
người túng thiếu. Họ cư xử với nhau như anh em một nhà. Chính đời sống ấy lôi
cuốn biết bao người xin gia nhập Kitô giáo.
Sứ
mạng loan báo Tin mừng tình thuơng được Chúa phục sinh trao ban cho các tông
đồ, qua các tông đồ cho các kitô hữu đầu tiên và hôm nay sứ mạng ấy Chúa trao
lại cho mỗi người chúng ta.
Xin
Chúa cho đôi bàn tay của chúng con luôn biết nắm chặt lấy bàn tay Chúa bằng đời
sống cầu nguyện để chúng con không cảm thấy mệt mỏi khi thực thi sứ mạng của
lòng thương xót Chúa qua những bổn phận hàng ngày.
BÀN TAY YÊU THƯƠNG
Bàn tay mang dấu yêu thương,
Nguyện xin Cha cả đêm trường, sớm mai.
Dang tay chúc tụng muôn loài,
Đưa lên bánh rượu dâng Ngài tri ân.
Chữa người bệnh tật muôn phần,
Mắt mù, tai điếc, lòng thân hủi lầy.
Đưa tay dẹp sóng gió bay,
Cầu xin tha thứ những ngày lỗi sai.
Thập giá tay giang hình hài,
Ba giờ chịu đựng, tình Ngài khôn vơi.
Dấu đinh minh chứng một thời,
Lòng thương xót Chúa sáng ngời ngàn sau.
Hỡi ai lãnh sứ mạng cao,
Hãy dang tay rộng, cùng nhau loan truyền.
Nguyện xin giữ lấy lời nguyền,
Nắm tay Chúa mãi kết liên ân tình!
Suy
niệm 3: LÝ TRÍ VÀ ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH
1. Giả
như bây giờ tôi mời một người lên cung thánh và bịt mắt người đó lại, rồi tôi
đặt một cái xô trước mắt người đó và đố xem trong xô có chứa nước hay
không? Vậy bằng cách nào để người ấy biết trong xô có nước hay
không? Thưa có ba cách để nhận biết mà không cần phải cởi khăn bịt mắt ra.
- Cách
thứ nhất là đến thẳng xô nước và đưa tay vào xô xem có
nước trong đó không. Cách này được gọi là nhận biết bằng kinh nghiệm giác quan.
Đây là tri thức có được nhờ Kinh nghiệm.
- Cách
thứ hai để biết cái xô ấy có chứa nước hay không ta thả
vào đó một vật, chẳng hạn một đồng xu. Nếu vật ấy chạm vào đáy xô tạo nên một
âm thanh vang lên, ta sẽ biết ngay cái xô ấy rỗng. Nhưng nếu đồng xu ấy va chạm
tạo nên âm thanh không rõ hoặc có những hạt nước bắn toé ra, ta biết ngay trong
cái xô ấy có nước. Tri thức hay cách biết này có được là nhờ lý luận.
- Cách
thứ ba để biết xem cái xô ấy có nước hay không là hỏi
thăm một ai đó tin cậy. Người ấy nhìn vào cái xô và nói cho ta biết trong xô ấy
có nước hay không. Cách biết này gọi là tin vào người khác. Đó chính được gọi
là tri thức do niềm tin.
Kinh
nghiệm, lý luận, và niềm tin đó chính là ba cách thức để ta biết được
những điều hiện hữu ở đời này.
2. Vậy
trong ba cách: kinh nghiệm bằng giác quan, đầu óc suy luận hay niềm tin vào
ngưòi khác, cách nào giúp ta biết nhiều nhất?
Nếu
anh chị em trả lời nhờ vào sự tin tưởng người khác, thì anh chị em hoàn toàn
đúng. Bởi lẽ xét cho cùng thì hầu hết những gì chúng ta biết ở đời này đều do
người khác nói lại với chúng ta. Những nhà chuyên môn ước lượng có đến 80%
kiến thức chúng ta biết được là do tin tưởng vào người khác. Ví dụ, trong
chúng ta ít ai được may mắn được du hành quanh thế giới. Cách duy nhất để chúng
ta biết về các quốc gia trên thế giới đều do người khác nói cho chúng ta biết,
bởi những người ấy đã từng đi đến những nơi đó. Cũng vậy, các tri thức
tôn giáo phần lớn chúng ta biết được cũng phải nhờ vào việc tin tưởng
những gì do Kinh Thánh thuật lại.
Thánh
kinh cho biết sau khi Đức Giêsu chết thì các môn đệ bị khủng hoảng tinh thần
tột độ. Họ chỉ còn là một nhóm người đại bại, một nhóm người thất chí, một nhóm
người nhát sợ. Thế rồi, vào Chúa nhật Phục sinh, có một biến cố nào đó đã biến
đổi họ một cách không tưởng. Lòng họ bổng chốc bừng lên niềm vui, niềm hạnh
phúc thực sự. Họ không thể cầm lòng được nên đã vội chạy đi loan báo cho mọi
người về biết về sự kiện Đức Giêsu sống lại và đã hiện ra với họ. Họ tin điều
ấy một cách chắc chắn đến độ họ sẵn sàng chịu bách hại cho dù phải chết cũng
không thể nào chối bỏ niềm tin vào Đức Giêsu đã phục sinh.
Đời
sống và lời giảng của những người này đã thay đổi cục diện lịch sử của nhân
loại. Không một giả thuyết nào có thể giải thích được tại sao đời sống của họ
lại biến đổi lạ lùng như thế, ngoại trừ cách giải thích duy nhất là chính “họ
đã thấy Đức Giêsu hiện đang sống”.
Giả
như nhóm người thất học này đã phịa chuyện về Đức Giêsu và sự phục sinh của
Ngài thì chắc chắn rằng sớm hay muộn cũng sẽ bại lộ, bởi ít nhất cũng có người
trong nhóm họ phải nói ra sự thật, vì không chịu nổi sự bách hại và giết chóc.
Nhưng không một ai trong nhóm ấy đã làm thế.
Lời
chứng của họ về Đức Giêsu sống lại không bị lay chuyển chút nào, không bị giảm
cường độ chút nào. Ngược lại, lời chứng ấy càng ngày càng mạnh mẽ và ảnh hưởng
tới mọi người và mọi nơi. Họ đã cảm nghiệm được một năng lực mới lạ và dịu kỳ
đã khiến họ thực hiện được nhiều phép lạ. Chính sự biến đổi không thể nào giải
thích được nơi các môn đệ của Đức Giêsu khiến cho nhiều người nói rằng chính lý
trí cũng minh chứng rằng Chúa Giêsu đã thực sự phục sinh. Nói cách khác, lý trí
thuần lý cũng có thể xác quyết rằng có một biến cố nào đó rất ngoạn mục đã xảy
ra làm biến đổi lạ lùng nơi các môn đệ của Đức Giêsu. Chính lý trí thuần lý xác
nhận rằng sự phục sinh của Đức Giêsu thực sự xẩy ra.
Không
ai trong chúng ta được diễm phúc đặt bàn tay vào cạnh sườn của Chúa Giêsu phục
sinh, cũng không trực tiếp cảm nghiệm được Đức Giêsu phục sinh từ cõi chết như
tông đồ Tôma và các môn đệ khác. Tuy nhiên, chúng ta có thể tin tưởng vào những
chứng cứ của Thánh Kinh. Hơn thế nữa. Chúng ta có thể sử dụng tặng phẩm Chúa
ban là lý trí để xác quyết thêm điều Kinh Thánh đã truyền dạy chúng ta. Để rồi,
chúng ta cũng có thể quì gối xuống như thánh Tôma mà thân thưa với Chúa Giêsu
rằng: "Lạy Chúa Con, lạy Thiên Chúa của con". Đáp lại,
Chúa Giêsu sẽ nói với chúng ta: "Hạnh phúc biết bao cho kẻ không
thấy mà tin".
Để kết
thúc, chúng ta hãy dâng lên Chúa lời cầu nguyện sau đây: Lạy Chúa, bất cứ
khi nào đức tin của chúng con bị chao đảo, giống như trường hợp của thánh Tôma,
thì xin chúa hãy nhắc chúng con nhớ lại những lời Kinh Thánh đã nói về biến cố
đã xảy ra vào ngày Chúa Nhật Phục Sinh; cũng như nhớ lại biến cố tác động mạnh
mẽ đến các môn đệ của Chúa và trên toàn thể nhân loại để niềm tin của chúng con
được kiên vững hơn. Xin cho chúng con biết tích cực tham gia vào sứ vụ loan báo
Tin Mừng Phục sinh cho những người chung quanh, theo gương các môn đệ xưa đã
can đảm chia sẻ niềm vui Phục sinh cho mọi người. Amen.
Cha Mark Link, S.J.
Suy
niệm 4: TỪ LÒNG THƯƠNG XÓT-TA BƯỚC ĐI TRONG HY VỌNG
Hôm nay, toàn thể Giáo hội long trọng cử hành Chúa
Nhật II Phục Sinh, là Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa, một ngày lễ
được chính Chúa Giêsu mặc khải cho thánh nữ Faustina như là “nơi trú ẩn
và nương náu cho tất cả mọi linh hồn”.
Trong bối cảnh Năm Thánh Hy Vọng 2025, Giáo
hội mời gọi chúng ta hãy trở thành “những người lữ hành của hy vọng, ” thì Lòng
Thương Xót Chúa chính là nền tảng để mỗi người chúng ta vững vàng lên
đường mang theo lòng xót thương của Chúa.
Tin Mừng hôm nay thuật lại sự kiện Chúa Giêsu phục
sinh hiện ra hai lần với các môn đệ. Điều đầu tiên Ngài trao ban không phải là những
lời trách móc, mà là: “Bình an cho anh em!” Sau đó là hơi
thở Thánh Thần cùng quyền tha tội, như một dấu chỉ của lòng thương
xót Chúa trao ban cho nhân loại.
Sự sống lại của Đức Kitô không chỉ là chiến thắng
của sự chết, nhưng còn là khởi đầu cho một thời đại mới, thời đại của lòng
thương xót. Ngài sống lại không phải để xét xử, nhưng là để thứ tha và quy tụ
những ai bị tan vỡ bởi tội lỗi và thất vọng.
Tôma được xem là môn đệ cứng lòng tin, ông được
nghe các môn đệ khác thuật lại sự kiện Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra, nhưng
ông lại không tin. Dầu vậy, Chúa không bỏ rơi ông, nên 8 ngày sau, khi có mặt
Tôma, Chúa lại tiếp tục hiện ra một lần nữa,
và rồi mời gọi Tôma chạm vào các vết thương của Ngài. Chính nơi đó, lòng tin và hy vọng của Tôma được phục
hồi và ông đã thốt lên với tất cả niềm tin: “Lạy Chúa con, lạy Thiên
Chúa của con!”.
Trong cuộc sống nhiều khi chúng ta cũng mang đầy
những hoài nghi và lo âu như Tôma khi mà: tương lai bất định, những khủng hoảng
xảy đến trong gia đình, ngoài xã hội và
cả nơi Giáo hội...Nhưng cũng từ chính những vết thương ấy, Chúa Giêsu phục sinh
lại mời gọi chúng ta tin tưởng vào một lộ trình mới: lộ trình của lòng
thương xót và niềm hy vọng ở phía trước.
Trong Năm Thánh Hy Vọng này, Giáo hội không chỉ mời
gọi chúng ta tìm đến những nơi hành hương, mà còn phải hành hương trong chính
trong trái tim mình, nơi cần được chữa lành và được tha thứ. Vậy ta hãy tha thứ
cho mình để can đảm bước tới. Hãy tha thứ cho người khác để chúng ta cùng nhau
lên đường, với tất cả niềm tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa phục sinh, cho
dẫu cuộc đời vẫn còn đó những vết thương lòng.
Có thể nói, chúng ta đang sống trong một thời đại
có nhiều bóng tối... Nhưng lòng thương xót của Chúa luôn một ánh sáng rạng ngời
soi chiếu lộ trình đức tin của chúng ta. Nhờ năng lãnh nhận các bí tích, lời cầu nguyện và sống yêu thương qua
những việc làm bác ái cụ thể như: hy sinh phục vụ, an ủi kẻ âu
lo, tha thứ kẻ xúc phạm, thăm viếng bệnh nhân, chia sẻ cơm áo...sẽ làm nên một
dòng suối mát có khả năng thanh tẩy và làm mới niềm hy vọng nơi tâm hồn ta. Và
cũng nhờ đó biến chúng ta trở thành
những người lữ hành của lòng thương xót Chúa, đem đến niềm hy vọng
phục sinh cho những ai đang bước đi trong đau buồn và thất vọng.
“Lạy Chúa
Giêsu, con tín thác vào Chúa.” Xin dạy chúng con trở nên những chứng
nhân của lòng thương xót và niềm hy vọng phục sinh cho mọi người trong Năm
Thánh hy vọng 2025 này. Amen.
BÌNH MINH THƯƠNG XÓT VÀ TIN TƯỞNG
Bình minh thương xót ngời
lên,
Bàn tay dấu tích gọi tên ân tình.
Chúa không đòi nợ phản mình,
Mà đem hơi thở Thánh Linh dịu dàng.
Thương xót là dấu huy
hoàng,
Chữa lành tim vỡ, xóa tan muộn sầu.
Trong đời trăm nỗi thương đau,
Người con của Chúa sống màu ái nhân.
Tin yêu gieo giữa gian
truân,
Tựa mầm cây nhỏ âm thầm vươn cao.
Không cần mắt thấy ánh sao,
Vẫn tin Chúa sống nhiệm mầu trong ta.
Ơn thiêng tình mến thiết tha,
Dẫu cho sóng gió bủa vây bên đời.
Được sai thắp ánh mặt trời,
Gieo niềm hy vọng, dựng đời bình yên.
Suy
niệm 5:
Anh
chị em thân mến trong Chúa Kitô Phục Sinh,
Hôm
nay, trong Chúa Nhật thứ Hai Phục Sinh, Giáo hội dành một ngày đặc biệt để kính
Lòng Thương Xót Chúa. Tuy nhiên, niềm vui Phục Sinh năm nay lại mang một sắc
thái đặc biệt, bởi vì tâm trí và trái tim của chúng ta vẫn còn nặng trĩu nỗi
buồn và niềm tiếc thương sâu sắc trước sự ra đi của vị cha chung kính yêu là Đức
Giáo Hoàng Phanxicô.
Trong
giờ phút này, chúng ta hãy
hướng lòng lên Chúa Giêsu Phục Sinh, Đấng đã chiến thắng sự chết và mang lại hy
vọng cho nhân loại. Chúng
ta tìm thấy nguồn an ủi và sức mạnh để vượt qua nỗi đau mất mát, đồng thời tiếp
tục bước đi trên con đường đức tin mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã dày công vun
đắp.
- Bài
đọc I: Sách Công vụ Tông đồ trình thuật cho ta biết về đời sống của cộng
đoàn Kitô hữu tiên khởi. Họ sống hiệp nhất, yêu thương và chia sẻ mọi sự cho
nhau. Tinh thần bác ái và sự quan tâm lẫn nhau ấy chính là biểu hiện cụ thể của
lòng thương xót trong đời sống cộng đoàn.
Trong
những ngày này, khi Giáo hội toàn cầu cảm nhận sâu sắc sự mất mát của Đức Giáo
Hoàng Phanxicô, chúng ta được mời gọi noi gương cộng đoàn tiên khởi, hiệp nhất
trong cầu nguyện, chia sẻ nỗi buồn và nâng đỡ nhau bằng tình yêu thương. Đây
cũng chính là tinh thần mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã luôn khuyến khích chúng
ta thực hành.
- Tin
Mừng Thánh Gioan: cho biết Chúa Giêsu Phục Sinh hiện đến với các môn đệ
đang ẩn náu trong nỗi sợ hãi và đau buồn. Lời đầu tiên Ngài nói là: “Bình an cho anh em!”. Sự bình an mà
Chúa ban là một sự bình an sâu thẳm trong tâm hồn, vượt lên trên mọi lo lắng và
sợ hãi. Trong những ngày Giáo hội trải qua nỗi đau mất mát, chúng ta hãy tìm
kiếm sự bình an nơi Chúa Phục Sinh, tin tưởng vào tình yêu thương xót của Ngài,
Đấng luôn ở bên cạnh và nâng đỡ chúng ta.
Hành
động Chúa Giêsu trao quyền tha tội cho các tông đồ là một dấu chỉ cao cả nhất
của lòng thương xót Chúa. Qua Bí tích Hòa Giải, chúng ta được gặp gỡ Chúa Kitô
Phục Sinh, Đấng sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm và chữa lành những vết thương
lòng. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của Bí tích Hòa
Giải như một cơ hội để chúng ta đón nhận lòng thương xót của Chúa. Giờ đây,
chúng ta hãy cầu nguyện cho linh hồn Đức Giáo Hoàng được hưởng trọn vẹn lòng
thương xót ấy.
Câu
chuyện về tông đồ Tôma cho chúng ta thấy lòng kiên nhẫn và sự thấu hiểu của
Chúa đối với những yếu đuối của con người. Ngay cả khi Tôma nghi ngờ, Chúa vẫn
hiện ra để củng cố đức tin cho ông. Trong những ngày này, có lẽ nhiều người
trong chúng ta cảm thấy mất mát và hoang mang. Chúng ta hãy học theo gương
Tôma, tìm đến Chúa Giêsu Phục Sinh, chạm vào những “vết thương” của Ngài qua
cầu nguyện và Lời Chúa, để đức tin của chúng ta được củng cố và niềm hy vọng
được tái sinh.
Lòng
Thương Xót Chúa mà chúng ta cử hành hôm nay mang một ý nghĩa sâu sắc hơn khi mà
Giáo hội đang trải qua những ngày đau buồn vì sự ra đi của Đức Giáo Hoàng
Phanxicô, một vị mục tử nhân lành, một người cha hiền từ, đã để lại một khoảng
trống lớn lao trong trái tim của hàng triệu tín hữu trên khắp thế giới. Tuy
nhiên, trong ánh sáng Phục Sinh, chúng ta tin rằng sự chết không phải là dấu
chấm hết. Chúng ta tin rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã hoàn thành sứ vụ của
mình trên trần gian và giờ đây đang được Chúa Kitô Phục Sinh đón nhận vào vinh
quang Nước Trời. Chúng ta cầu nguyện cho ngài, xin Chúa thương xót ban cho ngài
được an nghỉ trong bình an vĩnh cửu. Đồng
thời, chúng ta cũng được mời gọi nhìn vào di sản mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã
để lại, một di sản thấm đẫm tinh thần của lòng thương xót. Suốt triều đại của
mình, ngài đã không ngừng kêu gọi Giáo hội và thế giới hãy mở rộng trái tim với
những người nghèo khổ, những người bị gạt ra bên lề xã hội, những người đang
chịu đựng đau khổ. Ngài đã sống và rao giảng về một Thiên Chúa giàu lòng thương
xót, một Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ và yêu thương.
Hơn
bao giờ hết, chúng ta được mời gọi sống theo gương của Đức Giáo Hoàng Phanxicô,
hầu trở thành những chứng nhân của lòng thương xót Chúa qua những hành động cụ
thể như: quan tâm, chia sẻ, tha thứ và hòa giải. Chúng ta hãy cầu nguyện cho
những người đang đau khổ, an ủi những người đang buồn bã và mang niềm hy vọng
đến cho những ai đang tuyệt vọng.
Sự ra
đi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô không phải là một kết thúc, mà là một sự chuyển
giao. Chúng ta, những người còn ở lại, được mời gọi tiếp nối sứ mạng của ngài,
xây dựng một Giáo hội ngày càng thể hiện rõ hơn khuôn mặt của lòng thương xót
Chúa. Nguyện xin Chúa Thánh Thần soi sáng và hướng dẫn Giáo hội trong những
ngày tới, để những vị đại diện GH có thể chọn được một vị mục tử mới, người sẽ
tiếp tục dẫn dắt đoàn chiên của Chúa trên con đường yêu thương và thương xót.
Chúng
ta hãy cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa vì đã ban cho GH chúng ta món quà vô giá là
Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Chúng ta hãy cầu nguyện cho ngài và xin Chúa thương
xót ban cho ngài được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Đồng thời, chúng ta hãy quyết
tâm sống theo tinh thần của lòng thương xót mà ngài đã rao giảng và thực hành,
với mong muốn trở thành những người mang bình an, niềm hy vọng và tình yêu
thương xót của Chúa đến cho mọi người, đặc biệt là những người đang cần đến sự
giúp đỡ và sẻ chia của chúng ta.
Nguyện xin Chúa Giêsu Phục Sinh, Đấng giàu lòng thương
xót, ban cho tất cả chúng ta sự bình an trong tâm hồn và sức mạnh để vượt qua
mọi thử thách. Xin cho lòng thương xót của Chúa luôn đồng hành và hướng dẫn
chúng ta trên hành trình đức tin. Amen.
Thứ
hai: Ga 3,1-8.
Tin
mừng hôm nay thuật lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Nicôđêmô. Qua cuộc đối
thoại này, Chúa giải thích cho ông Nicôđêmô hiểu được ý nghĩa của việc “tái
sinh”; đồng thời Chúa Giêsu cũng cho ông ta biết giá trị và mục đích của việc
“tái sinh” là để được làm con Chúa và được vào nước trời.
Xin
cho chúng ta biết quý trọng những ơn ích Chúa ban trong ngày lãnh
nhận bí tích rửa tội mà sống xứng danh làm con Chúa.
Nếu
phụng vụ lời Chúa trong tuần bát nhật phục sinh nhằm củng cố cho các tín hữu
mới tòng đạo xác tín niềm vững vàng vào sự phục sinh Chúa Giêsu; thì phụng vụ
lời Chúa tuần II phục sinh nhằm giúp các kitô hữu hiểu rõ hơn về giá trị, ý
nghĩa và mục đích của bí tích rửa tội mà sống niềm tin sao cho phù hợp với ơn
gọi của người kitô hữu.
Nicôđêmô,
thủ lãnh người Do Thái, có địa vị, có học thức cao và là thành
phần trong công nghị, được mọi người kính nể. Nghe những lời giảng dạy và
chứng kiến những phép lạ Chúa Giêsu làm, ông cảm phục, tin nhận Chúa Giêsu
là tôn sư đến từ Thiên Chúa. Tuy nhiên vì có nhiều điều không hiểu nên trong
đêm khuya ông không ngần ngại tìm đến để gặp Chúa Giêsu để xin Người giải đáp.
Nghe
những lời giảng hay, chứng kiến nhiều phép lạ nếu để vui tai, thích mắt thì
chẳng ích lợi gì nếu bản thân chúng ta không thay đổi trở nên tốt
hơn. Giảng dạy và phép lạ chỉ là phương tiện, nước trời mới là đích điểm.
Nhưng
làm thế nào để đạt được nước trời?
Trong
cuộc đàm đạo với Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã chỉ cho ông cách thức rất cụ thể để
vào nước trời đó là phải “tái sinh”. Nicôđimô, chỉ hiểu tái sinh theo
nghĩa xác thịt, theo cách thức tự nhiên nên ngây ngô thốt lên: “Một người đã
già rồi, làm sao có thể sinh ra được? chẳng lẽ người đó có thể trở vào lòng mẹ
lần thứ hai để sinh ra sao?”. Chứng tỏ ông không hiểu việc tái sinh theo nghĩa
siêu nhiên mà Chúa Giêsu đề cập đến : “Tái sinh bởi nước
và Thần Khí”.
Để là
người, chúng ta phải được sinh ra bởi cha mẹ. Các ngài đã truyền cho chúng ta
sự sống tự nhiên. Để trở nên người, chúng ta phải được hướng dẫn giáo dục
nhờ gia đình và xã hội. Nhưng để trở thành người con Chúa, chúng ta phải
được sinh lại trong Chúa Thánh Thần nhờ bí tích rửa tội. Qua bí tích rửa tội
Chúng ta được Chúa ban cho sự sống siêu nhiên.
Như
thế, để làm người và nên người, chúng ta phải được sinh ra theo lối tự nhiên
bởi cha mẹ. Nhưng để là người con Chúa, chúng ta phải được sinh ra theo lối
siêu nhiên bởi nước và Thánh Thần qua bí tích rửa tội. Nhờ tái sinh qua bí
tích rửa tội, chúng ta được Chúa tha thứ tội lỗi, được làm Con Chúa, được gia
nhập vào Hội Thánh, được trở nên tạo vật mới mặc lấy Đức Kitô và được kêu mời
trở nên ánh sáng giữa trần đời.
Chúa
Giêsu đã chết để tiêu diệt sự chết và sống lại để phục hồi sự sống cho chúng
ta. Vì thế chúng ta được Chúa kêu mời chết đi cho con người cũ bất tòan, tội
lỗi để sống con người mới hoàn hảo nhờ được tái sinh trong Chúa.
Xin
cho chúng ta biết ý thức gìn giữ và phát huy ơn trọng đại làm con
Chúa trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội. Biết chừa bỏ tội
lỗi, tính hư nết xấu mà sống con người mới thánh thiện tốt lành, trở nên ánh
sáng tin mừng phục sinh soi chiếu vào trần đời còn nhiều bóng tối, hầu
xứng đáng được vào Nước Chúa.
Thứ
ba: Ga 3,7b-15.
Nhớ
Thánh Ca-ta-ri-na Si-ê-na trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh
Suy
niệm 1:
Xây
dựng Họ đạo trở thành một cộng đoàn hiệp thông là một trong những tiêu chí mà
GH luôn hướng đến. Điều này đã được HĐGM VN nhấn mạnh đến trong thư mục vụ năm
2015, “Tân phúc âm đời sống Giáo xứ”.
Nhưng
làm thế nào để xây dựng Họ Đạo trở thành một cộng đoàn hiệp thông?
Thư
mục vụ 2015 mời gọi chúng ta hãy chiêm ngắm và noi gương đời sống cộng đoàn tín
hữu thời GH ban đầu được sách CVTĐ hôm nói đến. Đó là một cộng đoàn tín hữu
không những hiệp thông bên ngoài: “…đối với họ, mọi sự đều là của
chung”, nhưng trên hết là bên trong “một lòng một ý”. Qủa
là cộng đoàn tín hữu tuyệt đẹp, đáng mơ ước!
Vậy
nhờ vào đâu mà cộng đoàn GH non trẻ làm được điều kỳ diệu ấy?
Có
phải nhờ tài năng lãnh đạo của các tông đồ không? Chắc chắn là không. Vì các
tông đồ đa phần là những người bình dân học vụ, kiến thức và kinh nghiệm lãnh
đạo non nớt.
Có
phải nhờ vào tình trạng dân trí cao và hiểu biết giáo lý sâu rộng không? Chắn
chắn là trình độ hiểu biết về giáo lý, kinh thánh cũng như kiến thức khoa học
của các kitô hữu bấy không sánh được như ngày nay…
Có
phải nhờ vào nền kinh tế phát triển phồn vinh và đời sống vật chất dân chúng
bấy giờ dư đầy không? Chắn chắn là không!
Vậy
nhờ đâu?
Thưa
nhờ sức mạnh của đức tin.
Tin
vào quyền năng của Thiên Chúa nên họ không ngại từ bỏ ý riêng để cùng tùng phục
ý Chúa.
Tin
vào cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô do các tông đồ làm chứng nên họ đã
vượt lên những ích lợi vật chất đời này mà mưu tìm giá trị vĩnh cửu mai sau.
Tin
vào uy tín và thế giá của các tông đồ nên họ sẵn sàng gom góp của cải mình có
đem đến đặt dưới chân các tông đồ làm của chung.
Trên
hết là vì họ tin vào tình yêu chân thành của nhau và xem nhau như là anh em
một nhà nên mong muốn “không ai phải thiếu thốn điều gì”.
Đã có
thời nhiều quốc gia, nhiều triết thuyết muốn xây dựng xã hội thành một cộng
đoàn hiệp thông như cộng đoàn của các Kitô hữu đầu tiên, nhưng đều thất bại.
Bởi lẽ sự hiệp thông ấy không đến từ sức mạnh con người, nhưng đến từ sức mạnh
bởi ơn trên. Chính vì thế mà trong bài Tin mừng hôm qua Chúa Giêsu xác quyết
mạnh mẽ với Nicôđêmô: “…không ai có thể thấy nước Thiên Chúa , nếu không
được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên”.(Ga 3, 3). Chính nhờ ơn ban của Thiên
Chúa và sức mạnh biến đổi của Chúa Thánh Thần, con người mới có thể tin nhận
vào Chúa Giêsu, Đấng từ trời xuống, nhờ đó mà được sống muôn đời như lời Chúa
Giêsu nói với Nicôđêmô trong bài Tin mừng hôm nay .
Như
thế để xây dựng Họ đạo thành một cộng đoàn hiệp thông theo mô hình của các kitô
hữu ban đầu, cần phải có đức tin: Tin vào Thiên Chúa quyền năng, tin vào uy tín
và thế giá của GH cũng như tin vào sự chân thành của nhau. Mà đức tin là một ân
ban từ trên cao và từ bên trong. Vì thế chúng ta tha thiết xin
Chúa củng cố niềm tin nơi mỗi người chúng ta. Nhờ đó chúng ta mới có thể
xây dựng Họ đạo trở thành một cộng đoàn hiệp thông như cộng đoàn các tín hữu
ban đầu.
Suy
niệm 2:
Qua
cuộc đàm đạo với Nicôđêmô trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác nhận cho
biết về nguồn gốc và vai trò của Người trong việc cứu độ con người.
-
Trước hết Chúa Giêsu minh chứng về nguồn gốc của Người.
Nguồn
gốc của Người đến từ trời cao, nên Người biết và thấy hết những điều kiện cần
thiết để được sự sống đời đời. Điều kiện cần thiết ấy chính là “phải được sinh
lại bởi ơn trên”. Bởi vậy trước khi lên
trời, Chúa Giêsu đã truyền dạy các tông đồ đi loan báoTin Mừng và rửa tội cho
muôn dân: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin
Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép Rửa, sẽ được cứu độ; còn ai
không tin sẽ bị kết án…” (Mc 16, 15-16).
- Tiếp
đến Chúa Giêsu cho biết vai trò của Người trong việc cứu độ.
Với hình ảnh
con rắn đồng được treo trong sa mạc thời Mô-sê đã cứu chữa những người bị rắn
lữa cắn khỏi chết, nhờ tin nhận và nhìn lên rắn đồng, Chúa Giêsu mời gọi
Nicôđêmô hãytin vào Ngài để được cứu độ.
Nếu xưa kia
nguyên tổ đã nghe lời cám dỗ của ma quỷ, đưa tay hái trái cấm trên cây mà ăn để
rồi nhận lấy án tử, thì nay với cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu,
Thánh Giá trở thành cây quả phúc, Chúa Giêsu trở nên trái chín
thơm lành, mang lại sự sống trường sinh cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài và
can đảm ăn lấy Ngài.
Tin tưởng
nhìn lên Ngài và ăn lấy Ngài, đồng nghĩa với việc chấp nhận đồng thân, đồng
phận, và đồng tử với Chúa Giêsu trên con đường khổ giá.
Như thế để
được sự sống đời đời ngoài điều kiện được sinh lại bởi ơn trên nhờ tác động của
Chúa Thánh Thần, chúng ta còn phải can đảm dấn bước theo Chúa Giêsu trên con
đường thập giá, qua việc chấp nhận những thử thách, gian nan, khốn khó ở
đời này với lòng tin tưởng vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa
Giêsu.
Xin Chúa cho
mỗi người chúng ta trong mùa phục sinh này, biết ý thức sống trọn vẹn ơn
tái sinh làm con Chúa, dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần; nhất là
luôn can đảm chấp nhận vác thập giá mình, bước
theo Chúa Giêsu trong niềm xác tín: “Nếu
chúng ta cùng chết với Ðức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người…” (Rm
6,8).
Suy niệm 3: THÁNH CATARINA-SIENA SỐNG TINH THẦN LỜI CHÚA
- Trong bài đọc I, sách Công vụ Tông đồ trình bày cho
chúng ta một hình ảnh thật đẹp về đời sống của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi: "Cộng đoàn tín hữu đông đảo chỉ có một
lòng một ý; không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với
họ, mọi sự đều là của chung." (Cv 4,32)
Đó là đời sống hiệp nhất, chia sẻ, yêu thương nhau,
một cộng đoàn được Chúa Thánh Thần thúc đẩy sống trong tình bác ái huynh đệ.
- Bài Tin Mừng Thánh Gioan trình thuật cuộc đối thoại giữa Chúa
Giêsu với ông Nicôđêmô về sự tái sinh trong Thánh Thần. Người nói: "Nếu ai không được sinh ra bởi nước và
Thánh Thần, thì không thể vào Nước Thiên Chúa."
Qua đó, Chúa mời gọi chúng ta hãy sống bằng sức mạnh đổi mới từ trên cao;
đừng dựa vào khả năng tự nhiên của con người, nhưng hãy nương tựa vào ân sủng và quyền năng của Thánh Thần, để bước
vào sự sống thần linh.
- Thánh Catarina Siena chính là chứng nhân sống động của Lời Chúa hôm nay:
+ Một lòng một ý với Hội Thánh: Catarina, dù sống trong thời kỳ Giáo
Hội bị chia rẽ sâu sắc (cuộc Đại Ly Giáo), vẫn luôn một lòng gắn bó với Giáo
Hội, hết lòng cầu nguyện, viết thư, can đảm khuyên bảo cả giáo dân lẫn giáo sĩ,
và thậm chí can đảm khuyên Đức Giáo hoàng trở về Rôma để duy trì sự hiệp nhất.
+ Sống tinh thần nghèo khó và chia sẻ: Thánh nhân chọn đời sống đơn
sơ, khiêm tốn, luôn chia sẻ những gì mình có cho người nghèo, chăm sóc bệnh
nhân trong những giai đoạn dịch bệnh khủng khiếp.
+ Tái sinh trong Thánh Thần: Catarina không sống theo tinh thần thế
gian. Ngay từ nhỏ, ngài đã được Thánh Thần dẫn dắt, sống mật thiết với Chúa Kitô
qua cầu nguyện, ăn chay, hy sinh, và yêu mến tha nhân đến tận cùng.
+ Vượt trên lối sống cũ để bước vào sự sống mới: Ngài tin rằng chính
nhờ ơn Thánh Thần mà linh hồn được tái sinh, được lớn lên trong đức tin và lòng
yêu mến, bất chấp những khốn khó và hiểu lầm.
- Mẫu gương đời sống của thánh nhân mời gọi chúng ta:
+ Hãy để Thánh Thần đổi
mới: Đừng sống
theo thói quen cũ, theo kiểu thế gian, mà hãy mở lòng cho ơn Thánh Thần canh
tân, đổi mới tâm hồn mình mỗi ngày.
+ Sống hiệp nhất và chia
sẻ: Trong gia
đình, họ đạo, xã hội, ta hãy thực hành "một lòng một ý", sống tinh
thần yêu thương, bác ái, và quảng đại chia sẻ như cộng đoàn tiên khởi và như
Thánh Catarina Siena.
+ Trung thành với Hội
Thánh: Như Thánh
Catarina, ta được mời gọi yêu mến, cầu nguyện, và cộng tác xây dựng Hội Thánh dù
trong những lúc khó khăn nhất.
Xin Chúa ban Thánh Thần trên chúng con, để chúng
con biết sống hiệp nhất, yêu thương và đổi mới mỗi ngày theo gương Thánh
Catarina Siena. Xin cho chúng con biết đón nhận sự sống mới trong Chúa và can
đảm trở nên chứng nhân hy vọng giữa thế giới hôm nay. Amen.
Thứ
tư: Ga 3, 16-21
Suy
niệm 1:
Cùng
với GH chúng ta đang sống trong tuần của lòng thương xót Chúa.
Lòng
thương xót của Thiên Chúa thể hiện qua suốt chiều dài lịch sử và rộng khắp mọi
nơi, mọi thời. Lòng thương xót của Chúa cũng thể hiện qua muôn vàn cách thế với
nhiều hình thức khác nhau. Cụ thể phụng vụ lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhận
ra một vài cách thế của lòng thương xót Chúa:
- Bài
đọc I cho biết: lòng thương xót Chúa được thể hiện qua sự quan phòng kỳ diệu
bằng việc giải thoát các tông đồ ra khỏi ngục tù trong đêm tối, nhờ vào sự
hướng dẫn của vị Thiên Sứ Chúa sai đến; cũng như qua sức mạnh hỗ trợ của dân
chúng, khiến cho các thượng tế phải dè chừng trước những hành động sai trái của
họ.
- Còn
bài Tin mừng, Chúa Giêsu cho Nicôđêmô biết về lòng thương xót vô bờ bến của
Thiên Chúa qua việc trao ban chính Người Con yêu dấu của Ngài “Thiên
Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi dã ban chính người con của Ngài là đức
kitô. Để ai tin vào người con ấy thì không phải chết nhưng sẽ được sống đời
đời”.
Lòng
thương xót của Chúa thật vô biên. Đáng lẽ vì phạm tội con người phải nhận lấy
đau khổ và án chết đời đời, nhưng vì lòng thương xót, Thiên Chúa đã hy
sinh chính con mình là Đức Giêsu. Để nhờ và qua Người Con ấy, con người được
cứu độ.
Thánh
Gioan xác quyết: Đức Kitô chính là Ánh Sáng. Chúa đã đến thế gian nhằm xua tan
bóng tối của tội lỗi và sự chết. Vì thế từ nay ai tin nhận và bước theo Ánh
Sáng ấy soi dẫn thì sẽ không chết trong bóng đêm tội lỗi, nhưng sẽ đón nhận
được sự sống đời đời nhờ Ánh Sáng vinh quang của Thiên Chúa soi chiếu.
Nhưng
khốn thay, thế gian lại sợ ánh sáng và thích bóng tối, bởi vì ánh sáng phơi bày
tội ác xấu xa của họ. Vì thế mỗi chúng ta hãy can đảm bước vào vùng ánh sáng
chân lý, hãy mạnh dạn khướt từ bóng tối của đam mê dục vọng và sự dữ, nhờ đó
ánh sáng của lòng thương xót Chúa mới được lan tỏa đến mọi người và mọi nơi.
Xin
ánh sáng Chúa Kitô phục sinh được thắp lên trong lòng của mỗi chúng ta để ta
lan tỏa ánh sáng lòng thương xót Chúa đến những nơi còn sống trong bóng tối
tử thần với hy vọng mọi người tin nhận ánh sáng của lòng thương xót Chúa mà
được cứu độ..
Suy
niệm 2:
Ánh
sáng và bóng tối, thánh thiện và tôi lỗi, sống và chết... luôn tồn tại song
song nơi trần gian và ngay trong mỗi con người chúng ta. Muốn bước đi trong ánh
sáng chân lý để được sự sống đời đời, chúng ta cần phải đến cùng Đức
Giêsu, nguồn ánh sáng và là Đấng ban sự sống.
Tin
mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh Ánh Sáng để chỉ về Người.
- Ánh
sáng là thứ quan trọng và gần gũi với con người. Ánh sáng rất cần thiết cho sự
sống. Không có ánh sáng thì không có sự sống. Thảo mộc , súc vật và con người
nếu không có ánh sáng thì sẽ chết.
- Ánh
sáng giúp cho con người thấy nhau, thấy được vẽ đẹp vũ trụ vạn vật, phân biệt
được màu sắc và cảnh vật.
-
Trong lãnh vực siêu nhiên, Chúa Giêsu muốn nói đến sự cần thiết của Ngài như
ánh sáng không thể thiếu. Không có Người thì tạo vật không được tạo thành.
Không có Người không có ơn cứu rỗi. Không có Người không có sự sống đích thực
nơi con người.
Nhưng
con người chúng ta lại sợ ánh sáng và ngại đến cùng ánh sáng bởi lẽ ánh sáng
phơi bày tội lỗi chúng ta trước mặt Chúa và mọi người, nên chúng ta thích ở
trong bóng tối hơn là bước đi trong ánh sáng.
Xin
Chúa giúp chúng ta biết can đảm đẩy lui những bóng tối của gian dối,
bất công, chia rẽ hận thù và sự chết ra khỏi tâm hồn và môi trường sống
của ta.
Xin
cho chúng ta luôn yêu thích tắm dội ánh sáng chân lý, tình thương và sự
sống của Chúa Giêsu vào cuộc đời ta.
Suy
niệm 3:
Sống
trong xã hội vàng thau lẫn lộn, con người không còn khả năng phân biệt đúng
sai, tốt xấu, thật giả…vì thế, hơn bao giờ hết con người ngày hôm nay cần có
ánh sáng thật soi đường, chỉ lối.
Chúa
Kitô, ánh sáng thật, đến trần gian để soi đường chỉ lối. Xin cho chúng ta tin
nhận và sống theo sự hướng dẫn của Ngài.
Ánh
sáng là chủ đề tài nổi bậc trong tin mừng:
Ngay
những trang đầu của tin mừng, thánh Gioan đã cho biết Chúa Giêsu chính
là “ánh sáng, ánh sáng thật, ánh sáng đến trần gian và chiếu soi mọi
người”.
Tin
mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự xưng là ánh sáng thế gian và Ngài mời gọi con người
đi trong ánh sáng của Ngài.
Từ hai
ngàn năm qua, Ngôi Lời Thiên Chúa đã chiếu ánh sáng Thiên Chúa vào trần gian.
Người mang lửa xuống trần gian. Người mong ước cho ngọn lửa ấy cháy bừng lên,
lan rộng ra. Nhưng nhìn vào tình hình thế giới hôm nay, ta thấy bóng tối vẫn
còn vây phủ con người.
Bóng
tối chết chóc của chiến tranh, hận thù, của ô nhiễm môi trường, của đói nghèo,
áp bức, phân biệt chủng tộc, của nền văn hóa sự chết giết hại cả những mầm mống
sự sống.
Bóng
tối tội lỗi. Tội lỗi vẫn tiếp tục lan tràn. Sự dữ nổi lên dưới nhiều hình thức
khác nhau. Nguy hiểm nhất là người ta đánh mất cảm thức về tội lỗi, thản nhiên
sống trong tội, sống chung với tội lỗi.
Bóng
tối của hận thù ghen ghét. Trong thế giới văn minh mà con người hô hào hôm nay,
vẫn còn có những người say máu giết hại đồng bào của mình, gây nên tội ác diệt
chủng. Vẫn có những thế lực đen tối ngấm ngầm gây chia rẽ giữa các quốc gia,
dân tộc, giữa các cộng đoàn, hội thánh...
Sống
trong xã hội tràn ngập bóng tối của sự chết, của tội lỗi và hận thù…như thế,
Chúa Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta phải chiếu giãi trước mặt mọi
người.
“Các
con là ánh sáng thế gian”. Ngày nhận lãnh bí tích rửa tội, Giáo Hội trao cho ta
cây nến sáng để nhắc nhớ chúng ta hãy gìn giữ ngọn nến ấy luôn cháy sáng mãi
trong suốt cuộc đời.
Cây
nến phục sinh mà người kitô hữu chúng ta thắp lên trong đêm lễ phục sinh nhắc
nhở chúng ta nhiệm vụ mang ánh sáng Chúa Kitô chia sẻ cho mọi người chung
quanh.
Xin
Chúa giúp chúng ta tẩy sạch mọi bóng tối tội lỗi, để thực sự được sinh lại cùng
với Đức Giê-su. Trở nên con cái sự sáng bằng đời sống tươi vui, an hoà, khiêm
nhường, nhịn nhục, yêu thương, đoàn kết đến cho anh em.
Thứ
năm: Ga 3, 31-36
Suy niệm 1:
Cuộc sống là
một chuỗi những lựa chọn. Chọn đúng làm cho cuộc sống trở hạnh phúc. Chọn lựa
sai sẽ làm cho đời ta bất hạnh. Chọn lựa là quyền tự do căn bản của con người.
Chính quyền tự do ấy đã được Thiên Chúa ban tặng và Ngài luôn tôn trọng quyền
quyết định tự do của con người. Vì thế, con người phải chịu trách nhiệm về sự
lựa chọn của mình. Phụng vụ lời chúa hôm nay đặt
ra cho các tông đồ và Nicôđêmô những lựa chọn.
- Bài đọc I
đặt ra cho các tông đồ đứng trước giữa hai chọn lựa:
Chọn nghe
theo lời các Thượng Tế im lặng trước sự thật về sự kiện phục sinh của Chúa
Giêsu thì sẽ được an phận. Còn nếu lên tiếng rao giảng và làm chứng cho sự thật
ấy thì sẽ nguy hại đến bản thân. Nhưng nhờ vào sức mạnh của ơn Chúa Thánh
Thần thúc đẩy, các ngài đã mạnh mẽ chọn lựa đứng về sự thật: “Vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm”.
- Còn bài tin mừng hôm nay thì Chúa Giêsu lại đặt ra cho Nicôđêmô về
hai chọn lựa: tin hay không tin vào Ngài. Chúa Giêsu nói: “Ngài chính
là Đấng được Thiên Chúa sai đến, Ngài nói những lời của Thiên Chúa… ai
tin vào Ngài thì có sự sống đời đời. Còn ai không tin vào Ngài, thì sẽ không
được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy”.
Ta không biết sau đó ông đã chọn lựa thế nào, bởi Tin mừng bỏ ngỏ. Điều này
khiến chúng ta lại phải nghĩ đến quyết định lựa chọn của mỗi người chúng ta.
- Đúng vậy,
chọn lựa luôn gắn liền với đời sống chúng ta. Nhìn lại cuộc sống thường ngày,
chúng ta thấy mình thích chọn lựa những gì xem ra nhẹ nhàng, dễ dãi, không
thích chọn gian khổ hy sinh; chúng ta thích chọn nghe những lời ngon ngọt a
dua; ngợi khen và chúc tụng hơn là những lời góp ý chân thành, bởi lời thật thì
đắng lòng.
Cũng thế,
chúng ta thường thích nói những lời của con người hơn là nói những lời của
Chúa, thích chọn lựa đứng về lợi ích nhóm hơn là đứng về những ai cô thế cô
thân. Chúng ta thường hay chọn im lặng trước dối trá hơn là bênh vực cho sự
thật và công lý, bởi lẽ theo khuynh hướng tự nhiên ai trong chúng ta cũng thích
chọn an phận hơn là tạo ra phiền phức cho bản thân khi phải sống và làm chứng
nhân cho Chúa.
Xin Chúa
Giêsu Phục sinh ban dồi dào ơn khôn ngoan và sức mạnh của Chúa Thánh
Thần trên chúng ta, để chúng ta sáng suốt chọn lựa đúng ý Chúa muốn và can đảm
thực hiện cho những sự lựa chọn ấy vì biết rằng mình đã làm đẹp lòng
Chúa như các tông đồ xưa. Có như vậy ta mới xứng đáng đón nhận ơn cứu độ do
Chúa Giêsu phục sinh đem đến.
Suy
niệm 2:
Bằng
những hình ảnh đối lập: Cao và thấp, trời và đất, Chúa Giêsu muốn xác định về
thiên tính của Ngài và mời gọi chúng ta dấn bước theo Ngài với mong muốn chúng
ta có được sự sống đời đời. Vì Ngài đến từ trên cao nên Ngài cao trọng hơn hết
mọi người. Ngài được Thiên Chúa sai đi nên Ngài là Người của Thiên Chúa. Ngài
được Thiên Chúa yêu thương trao ban thần khí vô ngần vô hạn và được Chúa Cha
trao ban mọi sự trong tay Ngài nên Ngài là Đấng khôn ngoan và là đầy uy quyền.
Tất cả những lời Ngài đã mạc khải cho Nicôđêmô biết xác nhận Ngài chính là Con
Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật.
Vì
ngài đến từ trời cao, là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa làm người, nên Ngài
thấy hết, biết hết mọi sự. Do đó, lời chứng của Ngài là chân thật, để ai tin
vào Ngài thì có được sự sống đời đời, còn kẻ nào không tin thì sẽ bị luận phạt.
Là
Thiên Chúa làm người và đã trải qua kiếp người bằng cái chết đau thương, để rồi
phục sinh vinh hiển trở về cùng Thiên Chúa, nên ai tin theo con đường Ngài đã
đi thì sẽ không sợ lạc đường về quê trời.
Chúa
Giêsu không chỉ vạch ra cho ta con đường đạt đến sự sống đời
đời, mà Ngài còn dấn thân tiến bước trên con đường ấy. Vì thế, chúng ta
hãy vững tin tiến bước theo Ngài. Đường dẫn về quê trời đã có, người dẫn đường
đã sẵn sàng, điều quan trọng còn lại là tùy thuộc vào mỗi chúng ta có dám dấn
thân bước theo hay không? Chúa không thể bắt ép ta bước đi trên con đường
ấy, nếu như ta không muốn.
Xin
cho chúng ta biết ngước vọng lòng trí về quê trời vĩnh cửu mà ái mộ những sự
trên trời và sẵn sàng bước theo Chúa Giê-su đến cùng. Nhờ đó, ta mới thoát khỏi
cơn thịnh nộ của Thiên Chúa mà đón nhận ơn ban sự sống đời đời.
Suy niệm 3: GIỮ LẤY BẢN SẮC CỦA MÌNH
Ngày nay, trên thế giới, người Việt Nam của chúng ta
gần như có mặt hầu hết nơi các quốc gia! Để gợi nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn
của mình, đã có nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo về nguồn gốc, văn hóa Việt!
Trong các buổi hội họp đó, gần như không thể quên, người
ta luôn nhắc nhớ nhau hãy giữ gìn bản sắc, văn hóa, truyền thống của dân tộc
Việt, cho dù hiện diện ở bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì!
Tại sao vậy? Thưa, con người chỉ có thể lớn lên cách
quân bình khi người ta còn giữ được bản chất, văn hóa, truyền thống của dân tộc
mình. Nếu không, họ là một người thiếu trưởng thành!
Là người Công Giáo, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích
Rửa Tội, chúng ta được trở thành Kitô hữu, tức là chúng ta mang trong mình hình
ảnh Đức Kitô. Nói cách khác, chúng ta thuộc về Đức Kitô. Vì thế, bổn phận của
chúng ta phải làm sao cho Đức Kitô được hiện tại hóa trong lời nói, hành động
và cử chỉ của chúng ta. Đồng thời, chúng ta cũng cần phải khước từ những gì
không phù hợp với bản chất của mình.
Hôm nay, vẫn trong trình thuật giữa Đức Giêsu và
Nicôđêmô, nhưng câu chuyện ngày càng đi sâu vào cốt lõi của vấn đề, đó là, Đức
Giêsu cho Nicôđêmô biết được bản chất của Ngài và những công việc Ngài làm do
được lãnh nhận từ Chúa Cha, Ngài nói: “Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì
nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô
hạn. Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người” (Ga
3, 34-35).
Với câu chuyện trên, qua Nicôđêmô, Đức Giêsu mở rộng
ra cho mọi người thấy được tầm quan trọng và giá trị cho những ai được hạnh
phúc thuộc về Đức Giêsu, đồng thời cũng mạc khải cho biết hậu quả của những kẻ
không tin: “Ai tin vào người Con, thì được sự sống đời dời; còn kẻ nào
không chịu tin vào người Con, thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của
Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy” (Ga 3, 36).
Xin Chúa ban cho chúng ta biết luôn luôn ý thức mình
thuộc về Đức Kitô và phải có trách nhiệm làm cho Đức Kitô lớn lên và rạng ngời
ngang qua cuộc sống của chúng ta. Amen.
Ngọc Biển SSP
KÍNH THÁNH
GIUSE THỢ-THÁNG HOA KÍNH ĐỨC MẸ MARIA
St 1,26-2,3; Cl 3,14-15,17,23-24; Mt 13,54-58
Hôm
nay cùng với toàn thể Giáo Hội chúng ta Mừng kính lễ thánh Giuse
thợ, là Bổn mạng của anh em gia trưởng. Trong tình hiệp thông, chúng ta hãy
chia sẻ niềm vui và chúc mừng anh em bằng 1 tràng pháo tay thật to.
Có thể
nói Thánh cả Giuse có một vị thế rất quan trọng trước mặt Thiên Chúa. Vì thế mà
nữ Têrêsa Avila đã quả quyết một cách mạnh mẽ rằng: “Chưa
bao giờ tôi xin Thánh Giuse điều gì mà Ngài không nhận lời”
Trong
thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa, qua lời cầu bầu của Thánh cả
Giuse, ban cho chúng ta, đặc biệt quý anh em gia trưởng, có thật nhiều sức
khỏe, niềm vui và hăng say làm việc, nhằm tạo ra nhiều của cải vật chất để nuôi
sống bản thân gia đình, và góp phần thăng tiến xã hội .
Hôm
nay cũng là ngày đầu tiên của tháng 5, chúng ta vui mừng đón chào Tháng Hoa
dâng kính Mẹ Maria. Với muôn sắc hoa tươi thắm tỏa ngát hương thơm, hoà trong
những lời kinh nguyện mân Côi thắm nồng tình yêu dâng kính Mẹ. Xin Mẹ Maria và
thánh cả Giuse cầu bầu cùng Chúa ban cho mỗi người chúng ta luôn biết tin
tưởng, phó thác vào tình yêu và sức mạnh của Chúa dẫu cuộc sống còn nhiều vất
vả, khó khọc để ta chu toàn tốt bồn phận và trách nhiệm Chúa trao phó.
Ngày
1-5, Giáo hội mừng kính lễ Thánh Giuse thợ, bổn mạng của tất cả những người lao
động và cũng được thế giới chọn làm ngày Quốc tế lao động. Điều này giúp cho
chúng ta càng thấy rõ hơn nhu cần cần thiết và quan trọng của lao động trong
đời sống con người.
1. Lao
động là nhu cầu của con người.
Lao
động là để mưu cầu vật chất cho nhu cầu sinh hoạt đời sống của con người, vì
vậy mà người Việt có câu "tay làm hàm nhai" hay "có làm thì mới
có ăn". Lao động cũng còn có thể giúp cho con người tránh xa những dịp tội
không đáng có thường xảy ra trong cuộc sống, như người ta thường nói: “nhàn cư
vi bất thiện”. Lao động cũng có nhiều hình thức khác nhau : lao động bằng khối
óc, lao động bằng chân tay, lao động bằng máy móc. Cho dù bằng nhiều hình thức
khác nhau nhưng mục tiêu cuối cùng cũng là tìm kiếm hạnh phúc cho cuộc sống.
Trong
thế giới hôm nay, khi mà đồng tiền trở thành sức mạnh thống trị, thì nó có thể
biến con người lao động thành nô lệ tìm kiếm, nhiều người đã lao mình vào vòng
xoáy của nó để tìm kiếm, càng tìm kiếm con người càng trở nên nô lệ cho nó. Thế
là những mục đích tốt lành của lao động như kiếm tìm hạnh phúc, thăng tiến bản
thân, tránh xa dịp tội, tăng thêm bạn hữu và tinh thần hiệp nhất cũng dần dần
biến mất.
2. Ý
nghĩa cao quý của lao động.
Trong
sách Sáng thế ký chương thứ nhất cho chúng ta biết: Thiên Chúa, Đấng đã tạo
dựng con người và vạn vật, tất cả đều tốt lành và Thiên Chúa đã trao ban cho
nhân loại để con người sử dụng. Điều cốt yếu trong công cuộc sáng tạo, là phát
xuất từ tình yêu trao ban nhưng không của Thiên Chúa. Như thế, để sống hạnh
phúc bên Thiên Chúa và hưởng dùng những tạo vật Chúa ban cho, con người phải
luôn luôn cố gắng, để mỗi ngày mình được trở nên giống Thiên Chúa, và đồng thời
phải lao động, cộng tác với ơn Chúa làm cho mọi tạo vật ngày càng trở nên hoàn
hảo hơn. (x. St 1,1-31)
Chính
Chúa Giêsu là nhân danh Chúa Cha, làm theo ý muốn Chúa Cha khi Người nói : “Cho
đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc.” (Ga 5,17) ; “Tôi nói với
các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những
việc đó làm chứng cho tôi” (Ga 10, 25). Ý muốn của Thiên Chúa Cha không gì khác
hơn là muốn cho con người được sống và sống hạnh phúc. Như thế lao động không
còn dừng lại ở chỗ tìm kiếm vật chất cho mình được sung túc hơn người, lao động
cũng không dừng lại ở chỗ mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình, cũng không chỉ là
để thăng tiến bản thân hay là tạo cho mình có một chỗ đứng vững chắc nào đó
trong xã hội như quan niệm thông thường của con người, nhưng lao động đó là làm
theo Thánh ý Thiên Chúa.
3. Noi
gương thánh Giuse.
Khi
nhìn vào đời sống thầm lặng của Thánh cả Giuse, người mà Kinh Thánh rất ít nhắc
đến, nhưng mỗi lần nhắc đến là mỗi lần chúng ta nhìn thấy được thái độ tuyệt
vời của Ngài khi biết đặt thánh ý Thiên Chúa trên hết mọi suy nghĩ và hành động
của mình, và nhờ đó mà ngài xứng đáng người quản gia Chúa đã đặt để trông coi
gia đình Chúa, xứng với danh hiệu là người công chính, được chọn làm người
dưỡng nuôi Chúa Giêsu và chăm sóc cho Đức Maria.
Mừng
kính lễ Thánh Giuse thợ hôm nay, chúng ta cùng cảm tạ Chúa đã thương ban cho
chúng ta được làm con cái Chúa, cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta Thánh cả Giuse
làm mẫu gương lao động cần cù, khiêm tốn và tín thác.
Xin
Chúa cho chúng ta noi gương Thánh Giuse biết tin tưởng, tín thác và làm theo ý
Thiên Chúa trong đời sống lao động cần cù, chính đáng để mưu cầu hạnh phúc cho
mình và cho tha nhân. Noi gương Thánh Giuse biết tin tưởng tín thác và sống
đúng trách nhiệm của một người chồng, người cha trong đời sống gia đình, chu
toàn bổn phận trong đời sống đức tin và nhất là hăng say trong đời sống nhân
chứng. (St)
* THÁNG
NĂM HOA LÒNG DÂNG KÍNH MẸ MARIA
Trong
Giáo Hội, truyền thống dâng hoa kính Đức Maria luôn được giáo dân yêu thích.
Việc tặng hoa, hay dâng hoa cho một ai đó nói lên tình yêu, lòng tôn kính và sự
trân trọng của người trao dâng.
Hoa
luôn là biểu tượng, ngôn ngữ sống động trong mối tương giao giữa người với
người. Trong phụng vụ tôn giáo, hoa cũng có chức năng sống động nhằm biểu tỏ
tấm lòng tôn kính và yêu mến của con người.
Tháng
năm về, để biểu lộ lòng yêu mến và sùng kính Đức Mẹ Maria, GH muốn dâng lên Đức
Mẹ những bó hoa xinh, nhiều sắc màu, ngạt ngào hương thơm thay cho tấm lòng
thơm thảo của đoàn con Mẹ.
Có thể
sánh ví mỗi sắc hoa tượng trưng cho một nhân đức của Mẹ Maria. Hoa thì muôn
sắc, nhân đức của Mẹ Maria thì muôn vàn. Trong tháng năm này, chúng ta những
người con bé nhỏ của Mẹ, muốn tôn vinh muôn vàn nhân đức của Mẹ, nhưng có lẽ
trong muôn vàn nhân đức ấy, Mẹ chỉ mong muốn chúng ta chiêm ngắm và bắt chước
Mẹ qua 5 nhân đức sáng ngời sau đây:
• Hoa
Trắng: tượng trưng cho lòng tinh khiết vẹn tuyền, vô nhiễm nguyên tội của Mẹ.
Cuộc đời chúng ta ngày nay gặp rất nhiều thử thách về nhân đức cao quý này.
Dâng
lên Mẹ hoa trắng, chúng ta muốn tôn vinh sự trong trắng vẹn sạch của Mẹ và xin
Mẹ giúp chúng ta vượt thắng những mời mọc quyến rũ xấu xa của thế trần.
• Hoa
Vàng: Biểu tượng của lòng tin yêu, tín thác và cậy trông. Mẹ đã tuyệt đối xin
vâng thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh, từ khi Truyền Tin cho đến cuộc Khổ Nạn
của con Mẹ trên Thánh Giá.
Dâng
lên Mẹ Hoa Vàng, chúng con muốn ca ngợi sự tin tưởng tuyệt đối của Mẹ vào Thiên
Chúa và xin Mẹ cho chúng ta biết nhận ra tiếng Chúa mà thực thi ý Người trong
đời sống.
• Hoa
Tím: Sắc hoa của hy vọng, của niềm mơ ước. Mẹ Maria đã sống niềm hy vọng vào
Lời Hứa Cứu Độ của Chúa. Nhờ sự hy sinh, hãm mình, Mẹ Maria đã biến niềm mơ ước
thành sự thật và niềm hy vọng thành sự cứu rỗi.
Chúng
ta dâng lên Mẹ Maria hoa tím để cảm tạ Mẹ vì những hoa trái của hy sinh mà Mẹ
đã mang đến cho nhân loại và xin Mẹ giúp chúng ta vượt thắng những khuynh hướng
xấu với niềm hy vọng tốt đẹp vào ngày mai.
• Hoa
Đỏ: Tượng trưng cho nỗi nhọc nhằn hy sinh trong suốt 30 năm tần tảo nuôi Chúa
Giêsu, và 3 năm ngược xuôi theo con mình trên mọi nẻo đường đầy cát bụi, sỏi đá
cho sứ vụ rao truyền ơn Cứu Độ. Những làn roi, và từng mũi đinh mà Con Mẹ gánh
chịu cũng chính là những dao sắc thâu qua trái tim Mẹ vậy.
Chúng
ta dâng lên Mẹ hoa đỏ để cảm mến về những hy sinh mà Mẹ đã chịu và xin Mẹ giúp
chúng ta biết can đảm cộng tác với ơn Chúa cho phần rỗi của mình và cho thế
giới.
• Hoa
Xanh: Tượng trưng cho sự thanh cao của tâm hồn. Như mây mưa không thể che khuất
vừng trăng. Mẹ được ví như ngôi sao mai luôn toả sáng trên trời. Những đau khổ
gian chuân không thể che khuất sự thanh cao rạng ngời của Mẹ.
Chúng
ta dâng lên Mẹ Hoa Xanh để chúc tụng và tuyên dương nhân đức thanh cao của Mẹ.
Xin Mẹ giúp chúng ta bảo toàn, gìn giữ và sống ơn gọi cao quý được làm con
Thiên Chúa mà chúng ta đã lãnh nhận trong ngày chịu phép rửa tội sao cho xứng
hợp. St
Thứ
sáu: Ga 6, 1-15
Nhớ
Thánh A-tha-na-si-ô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh
- Sinh khoảng năm 296 tại Alexandria, Ai Cập.
- Thọ giáo với thánh giám
mục Alexandre và sớm nổi bật nhờ trí tuệ và lòng đạo đức.
- Tham dự Công đồng Nixêa (Nicaea)
năm 325 khi còn rất trẻ, góp phần lớn trong việc chống lại lạc giáo
Ariô, một tà thuyết phủ nhận thần tính của Đức Kitô.
- Soạn thảo bản tuyên tín Nixêa,
khẳng định Chúa Giêsu là "Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh
sáng".
- Năm 328, sau khi Đức Giám mục Alexandre qua đời, Athanasiô được chọn làm giám mục Alexandria, khi mới khoảng 30
tuổi.
* Cuộc đời đầy bách hại nhưng trung thành
Trong thời gian làm giám mục, ngài bị
lưu đày 5 lần, tổng cộng 17 năm,
do các hoàng đế theo phe lạc giáo chống đối.
- Dù phải sống trong gian nan, Thánh Athanasiô vẫn kiên vững bảo vệ đức tin chân chính, đặc biệt về Thần tính của Đức Kitô và mầu nhiệm Ba Ngôi.
* Công
trình và di sản
- Là một nhà thần học lỗi lạc,
ngài để lại nhiều tác phẩm giá trị, đặc biệt là cuốn “Bài giảng về Nhập thể”, trình bày cách sâu sắc về mầu nhiệm Ngôi
Lời Nhập Thể.
- Qua đời năm 373 tại Alexandria.
- Được tôn phong là Tiến sĩ Hội
Thánh vì những đóng góp to lớn cho giáo lý Kitô giáo.
* Mừng kính:
ngày 2 tháng 5 hằng năm.
Thánh Athanasiô là mẫu gương can
đảm bảo vệ đức tin, kiên trung
giữa bách hại, và là cột trụ
thần học trong thời kỳ sơ khai của Hội Thánh.
Suy niệm 1:
“Hãy tín thác
vào lòng thương xót Chúa”, đó là sứ điệp mà Chúa Giêsu gửi đến nhân loại qua
thánh nữ Faustina. Sứ điệp ấy càng được xác tín qua phụng vụ lời Chúa hôm nay.
Bài đọc I hôm
nay cho biết: trong lúc mà các giới chức lãnh đạo tôn giáo triệu tập họp hội
đồng Do Thái để tìm cách tiêu diệt các tông đồ nhằm dập tắt đạo Giêsu. Thì Chúa
lại quan phòng cho một người Pharisêu tên là Gamaliên đứng ra giữa hội đồng để
phân tích thiệt hơn nếu ra tay giết hại các tông đồ.
Sau khi ông
nhắc lại các phong trào mang tính nhân loại thuần túy nổi lên trước đây nhưng
đến nay tất cả đều bị tan rã. Thì ngay sau đó ông xác tín rằng:“Còn quả thật
là do Thiên Chúa thì không thể nào phá hủy được, không khéo lại quý vị lại
thành những kẻ chống Thiên Chúa”. Nghe những lời đó nên họ chùng
bước, chỉ quyết định đem các tông đồ ra đánh đòn và cấm không cho nói đến danh
Đức Giêsu nữa, rồi thả đi. Dẫu bị đánh đập nhưng các tông đồ cảm thấy “lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức
Giêsu và tiếp tục rao giảng và loan báo tin mừng tại tư gia và trong đền thờ”.
Còn bài tin
mừng thì tường thuật lại những hoạt động của Chúa Giêsu bên kia biển hồ
Ga-li-lê. Chiêm ngắm về tất cả những lời nói, cử chỉ, việc làm của Chúa Giêsu
được thể hiện trong bài tin mừng hôm nay, ta nhận thấy Chúa Giêsu không chỉ
quan tâm đến nhu cầu tâm linh mà còn cả nhu cầu vật chất của dân chúng nữa.
Với lòng thương xót trước sự bơ vơ và đói khát của đám đông dân
chúng theo Ngài nên Ngài đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi sống họ.
Như thế lời
Chúa hôm nay giúp chúng ta hiểu rằng một khi can đảm tín thác vào lòng thương
xót Chúa qua việc dấn bước theo và nghe Lời giảng dạy của Ngài (bài tin
mừng), cũng như hy sinh làm chứng cho tin mừng phục sinh của Ngài (bài đọc
I) thì Chúa không bỏ rơi bao giờ.
Xin cho chúng
ta luôn biết tín thác mạnh mẽ vào lòng thương xót của Chúa để can đảm loan
truyền tình thương của Ngài cho mọi nơi dẫu phải gặp nhiều thử thách
với niềm tin rằng: “có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại chúng
ta?”.
Suy
niệm 2:
Tin
mừng hôm nay, Đức Giêsu đã làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám đông. Cho
thấy Ngài quan tâm đến nhu cầu của thân xác của con người. Nhưng Ngài
không dừng lại ở việc thỏa mãn nhu cầu cơ bản là “đói cho ăn, khát cho uống”.
Cơm bánh chỉ là thứ lương thực mau qua dành cho thân xác, chứ không phải là thứ
lương thực đem lại sự sống đời đời. Do đó Ngài muốn ban cho con người thứ lương
thực trường tồn đem lại sự sống vĩnh cửu.
Để có
được của ăn mau qua, nuôi dưỡng thân xác, con người phải ra công làm việc vất
vã “đổ mồ hôi sót con mắt ”, cũng như biết nhường cơm xẻ áo cho nhau.
Để
có của ăn vĩnh cửu, nuôi dưỡng tinh thần và tâm linh, con người chỉ cần làm hai
việc: Đến với Chúa Giêsu và Tin vào Ngài.
Cái
đói của thân xác không cồn cào bằng cái đói tinh thần.
Con
người đói công bằng và hạnh phúc, đói yêu thương và kính trọng.
Con
người khát niềm vui và bình an, cảm thông và sự thật.
Trong
nơi sâu thẳm, con người đói khát Ai đó để mình yêu mến tôn
thờ.
Đức
Giêsu mời ta hãy tin vào Ngài là Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Hãy
đến với Giêsu để bắt đầu được nếm thử tấm bánh của Ngài, vì chính Ngài là Tình
yêu, Sự thật và Bình an.
Xin
cho chúng ta biết siêng năng đến với Chúa Giêsu với niềm tin yêu, để chúng ta
được chính Chúa nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Bánh Thánh, là thứ lương thực không
hư nát và đem lại sự sống đời đời cho chúng ta.
Suy niệm
3: PHÉP LẠ DO TÌNH THƯƠNG
Trong bài hát
“để gió cuốn đi” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ngay ở đầu bản nhạc có viết:
“Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”.
Thật vậy,
trong cuộc sống, nếu ai ai cũng có tấm lòng, dù chỉ một chút thôi, thì chắc con
người sẽ sống với nhau trong cảnh hòa bình, ấm no và hạnh phúc! Nhưng tiếc
thay, xã hội ngày càng phát triển, nhiều người giàu có, nhưng cùng lúc, phát
sinh nạn phân biệt giàu nghèo rõ rệt hơn bao giờ hết! Vì vậy, vẫn còn đó chuyện
“nơi ăn không hết, chỗ lần không ra”.
Hôm nay, Tin
Mừng trình thuật việc Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Khởi đi từ lòng
thương xót của Ngài: “Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến
với mình. Người hỏi ông Philípphê: ‘Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?’ (Ga 6,
5).
Tiếp theo là
tấm lòng quảng đại của một em bé: “Có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”,
và, Đức Giêsu đã tiếp nhận tấm lòng nhỏ bé nhưng tinh thần lớn lao của em để
kết hợp với lòng thương xót của Ngài, Ngài làm nên chuyện phi thường là làm
phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân chúng (x. Ga 6, 11).
Ai nấy đều
được no nê nhờ vào tấm lòng của vị Mục Tử Giêsu và sự quảng đại của em nhỏ.
Sứ điệp Lời Chúa
hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chia cơm sẻ bánh cho nhau, tức là sống với
nhau trong tinh thần liên đới, trách nhiệm. Đạo Công Giáo không bao giờ chấp
nhận chuyện mạnh ai nấy sống. Sống như thế là ích kỷ, là chỉ biết đến cái bụng
mà không hề làm cho trái tim lớn lên trong tình yêu.
Bên cạnh đó,
chúng ta còn học được bài học tin tưởng, phó thác nơi Chúa, vì có Chúa là có
tất cả, không chỉ vậy, mà còn dồi dào. Hình ảnh các môn đệ “thu những miếng
thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai
thúng” có ý muốn nói và củng cố cho chúng ta về lòng tín thác nơi Thiên Chúa.
Lạy Chúa
Giêsu, xin ban cho chúng con biết sống quảng đại, biết nghĩ đến người khác hơn
là nghĩ đến bản thân mình. Biết sống tình bác ái huynh đệ để trở thành môn đệ
của Chúa đích thực. Xin cũng ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con luôn
vững tin vào quyền năng Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Thứ
bảy: 1Cr 15,1-8; Ga 14,6-14
Kính
Thánh PHI-LIP-PHÊ VÀ THÁNH GIA-CÔ-BÊ, TÔNG ĐỒ
Suy
niệm 1:
Thánh
Philipphê thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy
Chúa Cha, như thế chúng con mãn nguyện.” (Ga 14,8). Ước muốn của Thánh
Philipphê cũng chính là niềm khát khao của con người mọi thời vì: “chỉ
trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.” (Tv 62,1).
Thế nên, dọc dài thời gian, xuất hiện rất nhiều bậc hiền nhân đưa ra những
phương cách, lời hay ý đẹp để giúp con người thấu đạt Thượng Đế. Nhưng không
một ai đưa con người đến được với Thiên Chúa; ngoại trừ Chúa Giêsu, Đấng là
Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúa Giêsu xuất phát từ Thiên Chúa, là dung
nhan lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Chúa biết cách nói về Thiên Chúa, dạy
cho con người chân lý yêu thương đích thực. Hơn hết, Chúa Giêsu chính là Con
Đường để con người bước vào sự sống của Thiên Chúa.
Con
Đường Giêsu đã được khẳng định rõ nét qua lời nói và hành động của Chúa trong
những tháng năm trên trần thế.
Người
đời cho rằng của cải đời này là sự đảm bảo cho cuộc sống thì Chúa Giêsu nói với
chúng ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì
những gì ngươi sắm sẵn sẽ về tay ai?” (Lc 12, 20).
Con
người cứ lo kiếm tìm danh lợi thú trần gian, Chúa Giêsu lại đến trần không một
nơi gối đầu để phục vụ và hy sinh mạng sống vì đàn chiên.
Con
người đối xử với nhau bội bạc, vô tình, tàn nhẫn; Chúa Giêsu đến với mọi người
bằng tình yêu và chân thành: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi
dào.” (Ga 10,10).
Con
người những tưởng đã tha thứ đủ khi tha đến bảy lần thì Chúa Giêsu dạy phải tha
thứ đến bảy mươi lần bảy.
Con
người vô ơn quên tình yêu Thiên Chúa, bất tuân lệnh Thiên Chúa; Chúa Giêsu vâng
lời Chúa Cha và thực thi mọi phán quyết của Thiên Chúa: “Này con đây,
con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10, 9).
Chúa
Giêsu là Đường Hoàn Hảo mà Chúa Cha gửi đến cho con người với tất cả lòng
thương xót. Chúa đã chết trên thập giá để cứu độ con người: “Khi các
ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga
8,12). Và Chúa Giêsu đã Phục Sinh để minh chứng lời Chúa nói là chân
thật: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi
ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn
dân” (Lc 24, 46-47).
Lạy
Chúa Phục Sinh, đường đời trăm phương ngàn lối, tất cả đều dẫn chúng con đi vào
sự diệt vong. Chỉ duy Chúa là Đường đích thực đưa chúng con đến sự sống nơi
cung lòng Chúa Cha vì Chúa là Thiên Chúa, là Đấng giàu lòng thương xót đã chết
và phục sinh sự sống cho chúng con. Amen. St
Suy
niệm 2:
Khao
khát được biết Thiên Chúa Cha là khát vọng chính đáng của con người, và cùng
đích của con người chính là được đời đời chiêm ngưỡng thánh nhan Cha.
Chính vì thế mà sau khi Chúa Giêsu nói về Thiên Chúa Cha, thánh Philípphê đã
không ngần ngại thưa với Chúa Giêsu rằng: “Xin Thầy tỏ cho chúng con thấy
Chúa Cha, như thế là chúng con đã mãn nguyện”.
Thấy
Thiên Chúa Cha ư? Con mắt phàm tục không thể nhìn thấy Thiên Chúa. Đó là điều
được nói đến trong Cựu Ước, rằng không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa mà còn
sống: Môsê phải che mặt khi đối diện, Êlia chỉ được nhìn thấy phía sau, các tổ
phụ, thẩm phán và ngôn sứ chỉ được thấy Chúa qua các thiên sứ hoặc các biến cố
như mây, lửa… Và chính Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Không ai thấy Thiên
Chúa bao giờ, nhưng phải nhờ Chúa Con mặc khải cho”.
Mở đầu
bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Không ai đến được với Cha mà
không qua Thầy”. Như thế, chỉ có Chúa Giêsu là mặc khải tròn đầy về
Thiên Chúa Cha. Câu trả lời cho Philípphê hôm nay chứng minh điều đó, đồng thời
mạc khải chắc chắn về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi: Ba Ngôi vừa hiện hữu tại thân
vừa hiện hữu hướng về đến duy nhất, như Chúa Giêsu nói: “Ai thấy Thầy
là thấy Cha, Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”.
Vì thế
Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta hiểu rằng:
-
Không phàm nhân nào nhìn thấy Thiên Chúa mà còn sống.
-
Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ, trừ khi Chúa Con mặc khải cho.
-
Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.
- Chúa
Giêsu là mặc khải tròn đầy về Chúa Cha, nên tất cả mọi mặc khải khác đều phải
quy về Chúa Giêsu và vâng phục Giáo Hội.
- Chúa
Giêsu làm tất cả những gì mọi người cầu xin với Chúa Cha nhân danh Chúa Giêsu.
Đó là
tất cả những gì được nói tới trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu là đường,
là sự thật và là sự sống. Đó là đức tin tông truyền của Giáo Hội, vì thế không
có con đường chui nào khác mà không qua Chúa Kitô là Đấng Trung Gian duy nhất.
Những
linh đạo qua Đức Mẹ và các thánh đều quy hướng về Chúa Kitô. Mọi điều lớn lao
mà các Kitô hữu làm được không phải do công chính mình, mà là do niềm tin vào
Đức Kitô. Vì Chúa Giêsu ngự bên hữu Chúa Cha để ban ơn và chuyển cầu, nên những
ai tin vào Người còn làm được những việc lớn lao hơn. Cụ thể là như các tông
đồ, chỉ trong một bài giảng của Phêrô mà có tới 5000 người trở lại, thậm chí có
những lần khi thánh Phêrô đi qua cái bóng của ngài cũng làm cho bệnh nhân khỏi
bệnh…
Lạy
Chúa Giêsu, với niềm khao khát như thánh Philípphê chúng con mừng kính hôm nay,
xin cho chúng con được nhìn thấy Thiên Chúa Cha hiện hữu trong mọi nơi mọi lúc,
đặc biệt trong mọi biến cố cuộc đời, để chúng con sống trọn niềm thảo hiếu với
Người. Amen. St
Suy
niệm 3:
Khi
xây một ngôi nhà, trước hết trong đầu chúng ta phải có mô hình, rồi mới thể
hiện mô hình đó ra bản vẽ, sau đó chúng ta mới dựa vào bản vẽ đó mà thực hiện.
Tương tự như thế, để xây dựng người con Chúa, ta phải theo mô hình. Mô hình đó
là Đức Giêsu Kitô “Con Chúa ” và “ là đường, là sự thật và là sự
sống”. Thánh Philipphê và Giacôbê đã nghe lời Chúa và đã xây dựng con
người mình theo mô hình Đức Giêsu Kitô nên được thừa hưởng gia tài hạnh phúc
nước trời.
Xin
cho chúng ta biết xây dựng đời mình theo mô hình Đức Giêsu Kitô theo gương hai
thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ.
Ước
nguyện được nhìn thấy Thiên Chúa không chỉ là ước nguyện của Philipphê và các
tông đồ nhưng còn là ước mong của mỗi chúng ta.
Tin
mừng hôm nay, Chúa Giêsu đáp ứng mong ước đó của chúng ta bằng cách cho biết
chính Người là hiện thân và là Thiên Chúa : “Ai thấy Thầy là thấy Chúa
Cha”, “ Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy”. Do đó lời Người
nói là nói lời Chúa Cha. Những việc làm của Người chính là Chúa Cha làm trong
Người. Nếu ai tin vào Người thì sẽ làm được những việc Người làm và còn lớn lao
hơn nữa, vì Người về cùng Chúa Cha và sẽ ban ơn cho những ai tin vào Người.
Theo
Đức Dalai-Lama có một điều cần quan tâm trong giáo dục. Ngài nói: “trong Phật
giáo, khi nói đến giáo huấn hay giáo thuyết, chúng tôi nhìn ở hai mức độ:
- Mức
độ thứ nhất liên quan đến các bản văn.
- Mức
độ thứ hai liên quan đến sự thể nghiệm.
Liên
quan đến sự thể nghiệm, điều rất quan trọng là một người muốn dạy người khác,
thì chính mình phải có kinh nghiệm tối thiểu về điều mình giảng dạy, phải hoàn
tất đoạn đường nào đó trong sự thể nghiệm thiêng liêng. Như thế nó hoàn toàn
khác với loại hình truyền thông khác, khi người ta kể lại câu chuyện lịch sử
hoặc một sử gia tuờng thuật lại những biến cố đã qua. Trong trường hợp đó,
người ta kể lại sự kiện mà không hề sống. Còn việc giảng dạy về đời sống tâm
linh, điều thiết yếu là người giảng dạy phải có một chút thể nghiệm và kinh
nghiệm bản thân”.
Chúa
Giêsu không chỉ thể nghiệm mà Người còn chính là mô hình là khuôn mẫu để mọi
người noi theo “ Thầy là đường là sự thật và là sự sống”. Chỉ những
ai tin nhận và xây dựng cuộc sống mình trên mô hình Đức Giêsu Kitô thì mới có
được sự sống đời đời.
Xin
cho chúng ta biết xây dựng đời kitô hữu mình trên khuôn mẫu là Đức Giêsu Kitô.
Nghĩa là khi nói phải nói lời của Chúa. Khi làm thì làm việc trong Chúa và vì
Chúa. Trong mọi sự luôn tin nhận và đi theo con đường Chúa Giêsu hướng dẫn.
Suy niệm 4:
Cùng GH, hôm nay chúng ta mừng kính hai thánh
tông đồ Philipphê và Giacôbê. Để tiếp nối sứ mạng loan báo tin mừng cứu độ,
Chúa Giêsu đã chọn gọi hai ông vào danh sách 12 tông đồ thân tín của
Người. Sau khi xác tín được
Chúa Giêsu chính “là đường, là sự thật và là sự sống”, hai ông đã bỏ lại mọi sự
mà dấn thân cho Chúa đến cùng để làm chứng cho Tin mừng cứu độ cho dẫu phải hy
sinh mạng sống mình. Xin cho chúng ta cũng biết noi gương hai ngài
luôn kiên vững trong niềm tin và can đảm hy sinh làm chứng cho Chúa trong đời
sống hằng ngày.
Dựa vào Phúc âm, chúng ta biết rất ít về lý lịch của
hai vị tông đồ này.
1. Trước hết là thánh Philipphê: Thánh kinh cho
biết ngài là người cùng quê với thánh Phêrô và Anrê sinh tại Betsaiđê, một
làng trên bờ biển Tibêriát (Ga 1,43-44). Trước đây ngài đi theo làm môn đệ của thánh Gioan Tẩy
Gỉa. Sau này có lẽ được thánh Gioan Tẩy Gỉa giới thiệu với Chúa Giêsu, ông đã đến với Chúa Giêsu để tìm hiểu và đã bị Chúa Giêsu hấp dẫn và trở thành một trong những tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu. Dựa vào những lần
Phúc âm đề cập đến ngài, ta có thể nhận ra nơi thánh Phillipphê hai tính cách
nổi bật:
- Vai trò trung gian: Thánh Philipphê có tài làm trung gian giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người: (1) sau khi được Chúa kêu gọi và đã tin vào Chúa Giêsu, ông đã tìm đến
Nathanael để giới thiệu về Chúa Giêsu cho Nathanaen cũng được diễm phúc làm môn
đệ Chúa sau đó (x.Ga 1,45). (2) Khi
những người Hy lạp hành hương về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, họ muốn gặp Chúa
Giêsu, cũng chính Philipphê cùng Andrê dẫn họ đến gặp Chúa Giêsu (Ga
12, 20-33). (3) Tin mừng hôm nay cũng cho thấy
chính ngài giữ vai trò trung gian để xin Chúa Giêsu tỏ cho ngài và các Tông đồ được thấy Đức Chúa Cha và
Chúa Giêsu đã trả lời: "Ai thấy Ta là thấy Chúa Cha." (Ga 14,7-9).
- Là người rất thực tế: Khi
giới thiệu với Nathanaen về Chúa Giêsu mà ông đã tin nhận là Đấng Kitô. Ông
không dài dòng để thuyết phục Nathanaen nhưng rất thực tế là kêu gọi Nathanaen: "Cứ
đến mà xem!" (Ga 1,46).
Trước khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi năm ngàn
người đàn ông ăn no nê dư 12 thúng đầy, Chúa Giêsu đã hỏi riêng
Philipphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?” (Ga 6,
5). Rất thực tế Philipphê trả lời: "Thưa có mua đến 200 đồng bạc
bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút." (Ga 6,7).
Người ta cho rằng Philípphê là con người sống thực tế, giống như thánh Tôma tông đồ, bởi ông cũng đòi hỏi được xem tận mắt Chúa Cha mới mãn nguyện. Hơn nữa ông còn là con người có đầu óc rất thực tế. Nhưng sau ngày nhận lãnh Thánh Thần, ông đã đem hăng hái ra đi đem Tin Mừng đến cho toàn thể dân thành Sitti. Sau đó, ông đến giảng dạy ở Hiêrapoli, xứ Rigie
và sẵn sàng chịu đóng đinh vì danh Chúa. Xác ngài được các tín hữu ở đó mai táng, sau này được đem về Rôma đặt bên mồ thánh Giacôbê.
2. Thứ hai về thánh Giacôbê: Trong
danh sách 12 tông đồ có đến 2 tông đồ tên Giacôbê. Giacôbê được mừng kính hôm
nay là Giacôêe hậu (gọi ngài như thế là để phân biệt với thánh Giacôbê
con ông Alphê). Ngài là anh em họ với Chúa Giêsu. Ngài làm
Giám Mục đầu tiên cai quản thành Giêrusalem.
Trong công đồng chung thứ nhất họp tại Giêrusalem,
Sách Cvtđ cho biết ngài đã viết bức thư kêu gọi người Do Thái đừng đặt lên vai
dân ngoại một gánh nặng nào nữa với quyết định bãi bỏ luật cắt bì đối với dân
ngoại, và kêu gọi họ giữ một số điều như: tránh gian dâm, không được ăn tiết và
đồ đã cúng. Quyết này cho thấy ngài là một con người hài hòa biết lắng nghe và
tôn trọng ý kiến mọi người, biết dug hòa và rất nhạy bén thích ứng Tin mừng cho
phù hợp với thời đại.
Vì trung thành với đức tin, ngài bị bọn Biệt Phái và
một số người cứng lòng tố cáo và kết án. Ngài bị chúng xô từ trên nóc đền thờ
xuống và ném đá cho đến chết. Trước khi chết, ngài còn quỳ gối cầu nguyện xin
Chúa tha thứ cho kẻ thù của mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có được những đức
tính đáng quý của hai thánh tông đồ: Biết sống chân thành, hòa đồng, quan tâm
và cởi mở với mọi người nhằm trở nên chiếc cầu vững vàng đưa dẫn nhiều người
đến với Chúa.
Xin cho chúng ta cảm nếm được tình yêu ngọt ngào của
Chúa dành cho chúng ta. Để từ đó chúng ta tích cực hơn cho việc dấn thân loan
báo tin mừng tình thương của Chúa cho hết mọi người theo tinh thần của hai
thánh tông đồ chúng ta mừng kính hôm nay.
* Mùa
phục sinh
Suy
niệm 1: Ga 6, 16-21
Các
nhà xã hội học định nghĩa: “con người là con vật có xã hội tính”. Do đó không
ai là một hòn đảo. Chúng ta sống là sống với, sống cùng, sống cho, sống vì,
sống nhờ nhau… Nhờ đời sống cộng đồng mà con người được lớn lên, phát triển và
thành toàn hơn nhờ sự tương trợ lẫn nhau. Tuy nhiên cũng vì sống chung mà
cuộc sống chúng ta gặp phải không ít khó khăn và thử thách.
- Bài
đọc I hôm nay cho thấy có một vấn đề khó khăn được đặt ra trong đời sống của
cộng đoàn sơ khai. Đó là sự ghen tỵ, phân bì xảy ra, bởi lẽ có những bà góa Do
Thái gốc Hy Lạp chịu thiệt thòi bởi không được các tông đồ quan tâm nhiều.
Điều này có nguy cơ đưa đến sự chia rẽ, hận thù và trở thành gương mù.
Sáng suốt nhận ra nguy hại ấy nên các tông đồ đã tìm cách giải quyết. Thay vì
dùng quyền bính của mình để chống chế hoặc tìm cách loại trừ họ ra khỏi
cộng đoàn, thì trái lại các tông đồ lại biết khiêm tốn nhận ra sự thiếu sót
của mình vì đã không quan tâm chăm lo cho họ đủ. Để giải quyết cho nhu cầu
chính đáng ấy của mọi thành phần, các tông đồ đã đề nghị chọn thêm 7 phó tế nữa
để phụ giúp các ngài phục vụ cho các bà góa, cho dẫu đây thành phần không được
xã hội đề cao lúc bấy giờ. Nhờ đó mà cuộc sống của cộng đoàn bấy giờ trở nên
hài hòa và êm đẹp.
- Bài
Tin mừng hôm nay thì nêu lên những sóng gió mà các tông đồ gặp phải khi xuống
thuyền sang bờ bên kia biển hồ trong đêm tối. Trong bóng đêm ngoài việc phải
vất vả chống chọi với sóng to gió lớn, các ông còn phải đối mặt với sự
sợ hãi kinh hồn khi thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với họ, vì tưởng là
ma. Nhưng nhờ lời trấn an của Chúa Giêsu: “Thầy đây mà, đừng sợ!”,
bấy giờ các ông mới tìm lại được sự bình an và con thuyền cũng được cập bến an
toàn.
- Cuộc
đời ta của chúng ta cũng tựa như một cuộc hải trình vượt biển trần, có lúc
thuyền đời của ta cảm thấy bình yên, nhưng cũng có lúc bất an sợ hãi vì sóng to
gió lớn nổi lên. Tuy nhiên nếu chúng ta nhạy bén nhận ra Chúa cùng đồng hành
với chúng ta trong mọi cảnh huống, thì ta sẽ cảm thấy bình an cho dẫu phải dối
mặt với nhiều sóng gió cuộc đời.
Xin
Chúa phục sinh luôn hiệp hành với chúng ta để bảo vệ, che chở và hướng dẫn
chúng ta đi đúng theo lối đường của Chúa, nhờ đó thuyền đời của ta mới dễ
dàng vượt thắng mọi sóng gió hiễm nguy mà đạt đến bến bờ của bình an
và hạnh phúc, nhờ vào sức mạnh của quyền năng Chúa.
Suy
niệm 2:
Suy
niệm về bài tin mừng hôm nay, ta nhận ra rằng:
- Các
môn đệ chính là mỗi người chúng ta.
- Con
thuyền là hình ảnh của Giáo Hội.
- Biển
Hồ là hình ảnh trần gian.
- Đêm
tối, bảo tố, gió mạnh là những thử thách do ma quỷ gây nên.
- Bờ
bên kia là hạnh phúc nước trời mà con người cần vươn tới.
Cũng như các
môn đệ xưa, chúng ta đã bước vào con thuyền của Giáo Hội khi lãnh nhận bí
tích thánh tẩy. Cùng với con thuyền Giáo hội, chúng ta đang tiến bước trên biển
đời trần gian.
Giống như con
thuyền của các môn đệ bị những cơn sóng to, gió lớn đánh dữ dội, thì ở mọi
thời, mọi nơi Giáo Hội cách chung, cách riêng mỗi chúng ta cũng đương
đầu với những chống đối, những vu khống, bôi nhọ và loại trừ do thế lực ma quỷ
gây ra.
Có khi những
bóng tối, những vết đen đáng tiếc xảy ra trong Giáo Hội cách chung hay
những đau khổ, những thất bại và những bất hạnh xảy
đến cho bản thân, làm cho ta dao động, mất hướng sống. Khi đó là
lúc thuyền đời của ta đang đi trong đêm tối đức tin, đến
nỗi ta muốn buông xuôi tất cả. Quan trọng là Chúa Giêsu phục sinh không
bỏ rơi chúng ta khi gặp gian nan thử thách. Chính lúc đó, Chúa sẽ ra
tay cứu giúp chúng ta, không để cho sóng gió nhận chìm chúng
ta vì “Ơn Ta đủ cho con”. Ngài vẫn ở bên Giáo Hội. Ngài
luôn đồng hành và hiện diện bên mỗi người chúng ta. Ngài ban Chúa Thánh
Thần hướng dẫn Giáo Hội và ban ơn trợ giúp chúng ta đủ sức lướt thắng mọi
sóng to gió lớn và dìu bước chúng ta cập bến bình an,
nếu chúng ta biết tin tưởng cậy trông và phó thác vào Ngài.
Xin Chúa phục
sinh ban thêm lòng tin kiên vững nơi chúng
con, để dù trong bất cứ hoàn cảnh thử
thách nào, ngay cả những lúc bước đi trong đêm tối của đức tin, chúng
con vẫn an tâm tiến bước trên biển đời.
Xin Chúa luôn
hiện diện và đồng hành với chúng con, để đưa dẫn chúng con đạt tới bến bờ bình
an.
Suy niệm 3: ĐỪNG SỢ, THẦY ĐÂY.
Chiều đến các môn đệ xuống Biển Hồ, rồi xuống thuyền
đi về phía Ca-phác-na-um bên kia Biển Hồ. Trời đã tối mà Đức Giêsu còn chưa đến
với các ông. Biển động vì gió thổi mạnh. Khi đã chèo được chừng hai mươi lăm
hoặc ba mươi chặng đường, các ông thấy Đức Giêsu đi trên mặt Biển Hồ và đang
tới gần thuyền. Các ông hoảng sợ. (Ga. 6, 16-19)
Sau ngày làm phép lạ bánh hóa nhiều đáng ghi nhớ, các
môn đệ lại xuống thuyền vượt biển trở về Ca-phác-na-um. Còn Đức Giêsu ở lại cầu
nguyện tới khuya như thói quen mọi ngày. Các tông đồ vất vả chèo thuyền vượt
bão biển.
Đó cũng là những kinh nghiệm thường xảy ra trong cuộc
đời chúng ta. Sau khi chúng ta được nuôi dưỡng bằng bánh hằng sống, sau những
cảm nghiệm sống đức tin mạnh mẽ, chúng ta lại cảm thấy cô đơn bắt tay vào công
việc chẳng thấy tiến bộ gì.
Bao nhiêu thắc mắc vùng dậy: tại sao Đức Giêsu không
đến với chúng ta, đồng hành với ta, nâng đỡ ta?
Cần phải nhận biết rằng Đức Giêsu muốn để chúng ta đi
một mình, vì chúng ta là tạo vật có trách nhiệm. Đức tin vào Người không san
bằng những khó khăn, không dẹp tan giông tố. Đức tin không nhổ sạch các chông
gai, trở ngại. Kitô hữu đừng lầm tưởng đạo Chúa Kitô là một đạo dễ dãi, một đạo
xây nhà trú ẩn khỏi mọi nỗi lo sợ chiến đấu.
Hơn nữa, nếu Đức Giêsu để các môn đệ đi một mình,
chính là chỉ cho ta biết phải lo hành động, phải tập bước, phải cố gắng tự làm
một mình, không lười biếng, ỷ nại vào Thiên Chúa. Đó là những thái độ quyết
định và giải đáp của con người có nhân bản.
Có thể chúng ta sợ thiếu vắng Đức Giêsu vì chúng ta đã
quá quen với những sự bao che của gia đình, của trường học và xã hội. Nay đã
đến thời tất cả các thể chế đó không còn nói gì đến Đức Giêsu nữa, nên chúng ta
bơ vơ lạc lõng không dám tự đi, không dám tiến lên, không dám tự động hành đạo.
Chúng ta sợ không thấy Đức Giêsu đứng chờ bên kia chướng ngại vật, sau cơn bão
tố nữa.
Tin mừng cho chúng ta thấy lý do cần phải chúc tụng
Thiên Chúa vì biết rằng Thiên Chúa đã ban cho chúng ta có tự do và trách nhiệm
để chúng ta biết quyết định và thăng tiến.
Nhưng chúng ta phải biết luôn luôn cầu nguyện xin Chúa
nối kết, đồng hành và tiếp sức cho chúng ta tới bến bờ bên kia, cầu nguyện để
tăng thêm lòng trông cậy tin tưởng Ngài ở đó để ban sức mạnh cho chúng ta đạt
tới đích muôn đời.
C.G
Suy niệm 4: “THẦY ĐÂY ĐỪNG SỢ”
Ai đã từng chứng kiến cảnh biển động hay nhất là khi
nó dậy sóng mà vẫn ở ngoài khơi, thì mới thấy sự sợ hãi là dường nào!
Thật vậy, nếu chẳng may đi biển mà gặp phải bão tố,
cảnh biển gầm sóng thét, con người mới thấy giữa sự sống và cái chết chỉ cách
nhau bằng gang tấc!
Những lúc như thế, ta thấy mình quá nhỏ bé và mong
manh trước sự hùng vĩ của thiên nhiên… mạng sống của con người lúc này được ví
như: “Ngàn cân treo sợi tóc”; hay “chỉ mành treo chuông”.
Tin Mừng hôm nay cũng trình thuật việc các Tông đồ gặp
phải hiểm nguy khi đang lênh đênh trên biển.
Cuộc đi biển của các ông lần này không có Đức Giêsu
hiện diện, bởi lẽ Ngài đã đi trước một mình vì dân chúng đang muốn tôn Ngài lên
làm vua theo ý của họ.
Đang đi theo lộ trình và khi trời đã tối, họ bị trận
cuồng phong bất ngờ ập tới. Tuy các ông là những người có nhiều kinh nghiệm về
biển cả, họ là những tay nghề lão luyện trong giới thủy trình. Ấy vậy, khi sóng
gió nổi lên, họ cũng trở thành bé nhỏ và yếu ớt trước sức mạnh của cuồng phong.
Sự sợ hãi đó được cộng thêm với hình bóng của Đức Giêsu đi trước mặt thuyền mà
họ không biết… Vì thế, trong đầu các ông đang hốt hoảng, hoang mang, và ai nấy
đều run sợ, thì Đức Giêsu lên tiếng trấn an các ông: “Thầy đây đừng
sợ”.
Đọc lại bài Tin Mừng này trong thánh lễ hôm nay, Giáo
Hội mời gọi chúng ta ý thức rằng: cuộc đời lữ thứ trần gian của mỗi người như
một hành trình của các thuyền nhân đi biển. Sống lênh đênh trên biển, mới thấy
mình nhỏ nhoi. Đối diện với bão táp phong ba mới thấy mình bất lực, và được
Chúa yêu thương, hiện diện thì ngay lập tức được bình an.
Xét về góc độ luân lý, cho phép chúng ta liên đới với
đời sống đức tin của mình để nhận ra rằng: có những lúc trong cuộc đời, chúng
ta gặp không ít khó khăn, thử thách đến từ nhiều phía, nhất là do tội lỗi, ích
kỷ, kiêu ngạo gây nên. Những khó khăn đó được khởi đi từ lòng mến lạnh nhạt của
chúng ta với Chúa, làm cho đức tin bị hao mòn, lòng trông cậy bị lung lay.
Những lúc như thế, chúng ta hãy xin Chúa ban cho mình được bình an nhờ nhận ra
có Chúa hiện diện trong cuộc đời mình.
“Thầy đây, đừng sợ” chính là điều mà chúng ta phải xác tín trong cuộc
sống hiện tại của mình.
Lạy Chúa Giêsu, con thuyền của Giáo Hội luôn gặp phải
những sóng gió do ma quỷ gây nên. Con thuyền cuộc đời của chúng con cũng vậy.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết khiêm tốn, tín thác vào Chúa để lời
Chúa nói với các Tông đồ khi xưa: “Thầy đây đừng sợ” cũng là niềm an ủi cho
chúng con hôm nay. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 5: ƠN GỌI VÀ SỨ VỤ TÔNG ĐỒ PHILIPPHE
Trong niềm hôn hoan mừng kính thánh Philipphe Tông
đồ, người môn đệ thân tín của Chúa Giêsu, đồng thời cũng là bổn mạng của Cha sở...
Chúng ta cùng nhau suy ngẫm một chút về đời sống của một vị Tông đồ này.
Dự vào những gì mà Phúc âm đề cập, ta có thể nhận
thấy 2 điểm nổi bật nơi con người của Thánh Philipphê:
1. Trung gian cho Đấng Cứu Thế:
Trong Tin Mừng Gioan, chúng ta biết đến thánh
Philipphe là người đầu tiên được Chúa Giêsu trực tiếp gọi: “Anh hãy theo
tôi” (Ga 1,43). Ngay sau đó, ngài đã đi tìm Nathanael và giới thiệu Chúa
Giêsu cho bạn mình. Một hành động đơn sơ, nhưng chất chứa cả một trái tim mục
tử: thấy được điều quý giá thì muốn chia sẻ, gặp được Đấng Cứu Thế thì không
giữ riêng cho mình.
Thánh Philipphe là mẫu gương của người môn đệ biết tìm
gặp, gắn bó và giới thiệu Chúa cho người khác, một mẫu gương thật đẹp cho
tất cả chúng ta, đặc biệt là cho một mục tử.
2. Khao khát gặp gỡ Chúa
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nghe lời thỉnh
cầu đầy chân thành của thánh Philipphe với Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, xin tỏ cho
chúng con thấy Chúa Cha”. Lời xin ấy không chỉ thể hiện một khát khao thần
thiêng, mà còn cho thấy một tấm lòng đơn sơ, mộc mạc, và một trái tim khao khát
Thiên Chúa.
Câu trả lời của Chúa Giêsu: “Ai thấy Thầy là
thấy Chúa Cha” chính là mặc khải trọn vẹn về mầu nhiệm Thiên Chúa. Thánh
Philipphe, nhờ sự chân thành và lòng khao khát của mình, đã được dẫn vào chiều
sâu đức tin, trở thành chứng nhân cho Chúa Kitô, là hình ảnh hữu hình của
Thiên Chúa vô hình.
* Noi gương Thánh Philipphe
Trong ngày lễ bổn mạng hôm nay, chúng ta không thể
không nghĩ đến Cha sở kính yêu, người đã
chọn thánh Philipphe làm bạn đồng hành trong đời linh mục.
Như Philipphe đã “giới thiệu Chúa” cho Nathanael,
Cha sở cũng không ngừng giới thiệu Chúa cho đoàn chiên mình: qua bài giảng, qua
bí tích, qua sự hiện diện âm thầm, qua đời sống gương mẫu.
Như Philipphe khát khao được thấy Chúa Cha, Cha sở
cũng sống tinh thần cầu nguyện, tìm kiếm, và dẫn dắt cộng đoàn đi vào mối tương
quan sâu xa hơn với Chúa.
* Lời cầu chúc
Trong ngày lễ thánh
bổn mạng hôm nay, chúng con xin dâng lên Cha lời cầu chúc thân tình:
- Xin Chúa ban cho Cha sức khỏe dồi dào và tâm hồn
bình an,
- Xin ban cho Cha trái tim mục tử đầy lòng thương
xót, như Chúa Giêsu,
- Và xin cho đời sống mục vụ của Cha luôn tràn đầy
hoa trái Thánh Thần, như Philipphe xưa đã làm cho cả thành Sa-ma-ri-a “vui mừng
khôn xiết” (x. Cv 8,5-8).
Xin cộng đoàn chúng ta hiệp lời tạ ơn Chúa và cầu
nguyện cho Cha sở trong ngày lễ đặc biệt này.
Nguyện xin Thánh Philipphe tiếp tục đồng hành với Cha
sở trong sứ vụ loan báo Tin Mừng. Và xin cho mỗi người chúng ta cũng biết noi
gương ngài, sống trọn vẹn ơn gọi Kitô hữu, trở thành những nhân chứng can đảm
và trung tín của Đức Kitô phục sinh. Amen.
PHILIPPHE – MÔN ĐỆ TRUNG KIÊN
Philipphe
thuở mới theo Thầy,
Tâm hồn đơn sơ tràn đầy niềm tin.
Nghe lời Giêsu gọi mình,
Liền đi giới thiệu Ngài nhanh cho người.
Tông đồ chẳng nói quá lời,
Nhưng lòng thao thức rạng ngời niềm trông.
“Xin tỏ Cha Thánh cho con”,
Là câu tha thiết vẫn còn vang xa.
Giêsu trả lời thiết tha:
“Ai thấy Thầy đó chính là thấy Cha.”
Thánh nhân lòng sáng như pha,
Bước theo chân Chúa, thiết tha đến cùng.
**
Hôm nay xứ đạo hợp chung,
Chúc mừng Cha sở, tận trung một đời.
Tấm lòng đơn hậu, sáng ngời,
Yêu thương đoàn chiên, chẳng ngơi nhọc nhằn.
Bao năm gắn bó âm thầm,
Cầu kinh, giảng dạy, góp phần dựng xây.
Noi gương Philip hằng ngày,
Cha đem Chúa đến, dẫn tay từng người.
**
Chúng con xin Chúa cao vời,
Thêm ơn sức khỏe, đầy ơn Thánh Thần.
Cho Cha nhiệt huyết bội phần,
Một đời mục tử trung kiên vững vàng.
Xin Thánh Philip dịu dàng,
Đồng hành Cha mãi trên đường đức tin.
Dắt Cha qua bước hành trình,
Bên nhau xây đắp ân tình mến thương.
SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH
Lm. Minh Anh, Tgp Huế
CHÚA
NHẬT II PHỤC SINH-NĂM C
HÃY
NHÌN XEM!
“Đặt
ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy!”.
Cuộc sống là một quá trình liên tục làm
quen với những điều không ngờ! Cũng thế, sự hiện diện và hoạt động của Chúa Phục
Sinh trong thế giới là một quá trình liên tục không ngờ. Vì ‘liên tục’ là thuộc
tính của lòng xót thương nơi Ngài. Hãy nhìn xem và trải nghiệm!
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa Chúa Nhật Lòng Thương Xót phản
ánh sự liên tục trong việc thực thi quyền năng của Chúa Phục Sinh. Lời Ngài nói
với Tôma, “Hãy nhìn xem tay Thầy!” khác nào nói, “Hãy tin!” chứng tỏ tình yêu
Ngài, “Muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương!” - Thánh Vịnh đáp ca.
“Hãy nhìn xem!”. Từ những ngày đầu mãi
cho đến thế kỷ thứ IV, Hội Thánh vẫn quy tụ, dẫu không có một nhà thờ nào, “Các
tín hữu thường hội họp tại hành lang Salômon” - bài đọc một. Đó là khu công cộng
được che chở khỏi các yếu tố; ở đó, Chúa Phục Sinh có mặt. Các tông đồ được ban
quyền năng ‘còn hơn cả Thầy’; đến nỗi người ta khiêng những kẻ ốm đau ra đường,
“Để ít nữa khi Phêrô đi ngang qua, chiếc bóng ông cũng phủ trên một bệnh nhân
nào đó và tất cả được chữa lành!”. Luca muốn nói, “Hãy nhìn xem!”, Thiên Chúa
không ngừng xót thương, Ngài chỉ thay đổi phương thức và cách thế!
Cũng thế, bị lưu đày ở đảo Patmos, Gioan
vẫn rao giảng ‘Đấng là Đầu và là Cuối’ - bài đọc hai. Là một mục tử trải nghiệm
sâu sắc, Gioan truyền đạt cho các Giáo Hội những bản văn được gọi là Khải Huyền.
“Hãy nhìn xem!”, Chúa Phục Sinh luôn ở với Hội Thánh; lòng thương xót của Ngài
vẫn thể hiện tỏ tường ngay giữa chốn Gioan lưu đày.
Với bài Tin Mừng, Gioan cho biết, Chúa
Phục Sinh - Đấng đi qua các cửa đã khoá. Tuy nhiên, hơn cả cửa khoá, chính sự sợ
hãi khiến các tông đồ bị giam cầm! Vậy mà, bất kể nguồn gốc của nỗi sợ là gì,
Chúa Phục Sinh vẫn mời gọi “hãy nhìn xem” lòng thương xót của Ngài, Đấng vượt
qua cái chết, và nay, đang sống, đang vượt qua ‘mọi loại hình cánh cửa khoá chặt’
của bất cứ nỗi sợ nào nơi con cái Ngài!
Đặc biệt với Tôma, một người ‘bi quan bẩm
sinh’ - “Chúng ta cùng đi và chết với Người!” - và hôm nay, “Nếu tôi không nhìn
thấy dấu đinh, lỗ đinh… tôi không tin”. Lịch sử đã gán cho Tôma một ‘bản rap tệ’;
nhưng Chúa Giêsu thật dịu dàng với ‘bản rap tệ’ này. Ngài chiều chuộng và tưới
gội Tôma bằng tất cả tình yêu. Và như thế, qua Tôma, Ngài muốn nói, Ngài không
đợi cho đến khi chúng ta hoàn hảo để tìm kiếm chúng ta. Trái lại, ai càng xa
cách, Ngài càng tìm kiếm; ai càng cứng cỏi, Ngài càng xót thương, “Phúc cho ai
không thấy mà tin!”.
Anh Chị em,
“Hãy nhìn xem tay Thầy!”. “Phúc âm gọi
Tôma là Didymus - Song Sinh - và trong điều này, ông thực sự là anh em song
sinh của chúng ta. Vì đối với chúng ta, biết rằng Thiên Chúa hiện hữu là chưa đủ.
Một Thiên Chúa đã phục sinh nhưng vẫn xa cách không lấp đầy cuộc sống chúng ta;
một Thiên Chúa ở xa không thu hút đủ chúng ta, dù Ngài công bằng và thánh thiện
đến đâu. Không, chúng ta cần “nhìn thấy Thiên Chúa”, chạm tay vào Ngài và biết
rằng Ngài đã phục sinh và đã phục sinh vì chúng ta. Làm sao có thể nhìn thấy
Ngài? Như các tông đồ: qua các vết thương của Ngài!” - Phanxicô.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, hãy đến với con hôm nay, tại
đây, sau cánh cửa khoá chặt trong nỗi sợ hãi và nghi ngờ của con. Con tin, với
lòng thương xót Chúa, con sẽ vượt qua tất cả!”, Amen.
Thứ
hai: GIÃ TỪ BÓNG TỐI
“Nicôđêmô,
một thủ lãnh của người Do Thái; ông đến gặp Chúa Giêsu ban đêm”.
Một ngọn hải đăng thật cần thiết trong
việc soi dẫn tàu thuyền ở các bãi cạn, các vịnh hay các lối vào cảng. Một trong
những ngọn hải đăng nổi tiếng nhất là “Hải Đăng Alexandria”; xây từ thế kỷ thứ
3 trước công nguyên, tồn tại đến thế kỷ 15 và là kỳ quan của thế giới cổ đại.
Kính thưa Anh Chị em,
Ai Cập có một hải đăng 18 thế kỷ tuổi;
nhân loại có một hải đăng ‘vô cùng tuổi’, chiếu sáng thế giới cổ đại lẫn hiện đại
- ‘Hải Đăng Giêsu’ - vốn không chỉ soi rọi biển ‘Hồng Trần’ mà còn dẫn con người
vào cảng cực lạc ‘Thiên Quốc’. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho thấy một người
được soi rọi bởi ngọn hải đăng ấy. Chi tiết thú vị là vị khách đến với Ngài vào
ban đêm, và người ấy đã ‘giã từ bóng tối’ sau khi gặp Ngài!
Tin Mừng Gioan, “Tin Mừng của những biểu
tượng”; Nicôđêmô đến với Chúa Giêsu “ban đêm” - theo Augustinô - vì lẽ ông chưa
được sinh lại hoàn toàn và do đó, chưa sống trọn vẹn dưới ánh sáng đức tin. Tiến
trình đức tin của Nicôđêmô là tiến trình ‘đến với ánh sáng’; đúng hơn, tiến
trình được tái sinh trong nước và Thánh Thần. Thoạt đầu, ông rụt rè, sợ hãi; hiểu
biết của ông về Chúa Giêsu còn rất ít, nhưng sau khi gặp Ngài, ông trở nên mạnh
mẽ. Về sau, Nicôđêmô bênh vực Ngài; Ngài chết, ông công khai trợ táng. Nicôđêmô
đã ‘giã từ bóng tối’, ‘ra với ánh sáng’, ‘được sinh lại’ bởi trên.
Khá trùng hợp, Phêrô và Gioan bước ra từ
ngục tối và hân hoan cất bước trong ánh sáng, quyền năng và sức mạnh của Đấng
Phục Sinh; hai ngài bước đi trong Thánh Thần, lòng hân hoan và can đảm bênh vực
niềm tin của mình - bài đọc một. Thánh Vịnh đáp ca bày tỏ nỗi vui mừng, “Lạy
Chúa, hạnh phúc thay những ai ẩn náu bên Ngài!”.
Nicôđêmô là một tấm gương tuyệt vời cho
chúng ta trong thế giới hôm nay. Nhiều Kitô hữu cảm thấy việc sống đức tin một
cách triệt để, đặc biệt trong môi trường làm việc, học đường và các cộng đồng
là một thách đố. Như Nicôđêmô, nhiều người cảm thấy dễ dàng hơn khi đến với
Chúa Giêsu “ban đêm”; thế mà, dẫu đã đến với Ngài theo cách này, họ vẫn không
‘giã từ bóng tối’ để ‘ra với ánh sáng!’. Tại sao? Họ không muốn để mình được biến
đổi; nói đúng hơn, được sinh lại bởi trên.
Anh Chị em,
‘Ra với ánh sáng’ đồng nghĩa với việc sống
trong ánh sáng, trong Thánh Thần. Đó là sống đời sống mới mà Chúa Phục Sinh
mang lại. “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em là ánh
sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng!” - Phaolô. Hãy để Thánh Linh đi
vào bên trong bạn, dẫn dắt linh hồn bạn, dẫn đến nơi Ngài muốn. Thông thường,
chúng ta chùn chân, dè dặt như Nicôđêmô trước đó; chúng ta không biết phải đi
những bước tiếp theo, không biết phải làm gì để thực hiện những bước quan trọng.
Hãy như Nicôđêmô, ý thức rằng, bước quan trọng là để Thánh Linh dẫn dắt, để
Ngài sinh chúng ta một lần nữa; và với sự tự do của Thần Khí, chúng ta không biết
nó sẽ kết thúc ở đâu, vì “gió muốn thổi đâu thì thổi”, nhưng tin chắc một điều,
chúng ta đã ‘ra với ánh sáng!’.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, giúp con ‘giã từ bóng tối’ mỗi
ngày để sống trong ánh sáng phục sinh, hầu mọi người biết rằng, “Hải Đăng
Giêsu” đang soi rọi đời con, soi rọi thế giới!”, Amen.
Thứ
ba: SỢ TẦM THƯỜNG
“Ông
là bậc thầy trong dân Israel, mà lại không biết những chuyện ấy?”.
“Động lực sống của tôi bắt nguồn từ một
nỗi sợ - ‘sợ tầm thường!’. Nỗi sợ đó luôn thúc đẩy tôi! Vì dẫu đã là ‘một ai
đó’, nhưng tôi luôn phải chứng tỏ điều này. Cuộc chiến của tôi chưa kết thúc và
sẽ không bao giờ kết thúc!” - Madonna, ‘Nữ hoàng nhạc Pop’.
Kính thưa Anh Chị em,
Nỗi sợ của Madonna hẳn cũng là nỗi sợ của
Nicôđêmô! Vì sau câu hỏi đầy thách thức của Chúa Giêsu dường như cả con người
Nicôđêmô đảo lộn - “Ông là bậc thầy trong dân Israel, mà lại không biết những
chuyện ấy?” - những gì ông suy tính đảo lộn, hướng đi của cuộc đời ông đảo lộn!
Tại sao? Và đâu là lý do? Bởi lẽ, bên trong ông, đã có một động lực thánh; dễ
hiểu hơn khi nói, ông ‘sợ tầm thường!’.
Ngoài Nicôđêmô, những người Pharisêu ít ỏi
khác được ghi nhận đã cải đạo là Phaolô và Gamaliel; tuy thế, Công Vụ Tông Đồ
15, 5 còn chỉ ra một số biệt phái vô danh khác. Nhưng nếu xét toàn bộ các cuộc
gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và những con người này, thì rõ ràng, họ là những người
đã từng chống đối Ngài; để cuối cùng, cùng các vị lãnh đạo đương thời, họ chịu
trách nhiệm về cái chết của Con Thiên Chúa.
Đó chính là bối cảnh của Tin Mừng khi biệt
phái Nicôđêmô tìm đến với Chúa Giêsu. Biết ông có thiện ý, Ngài mời ông ngước mắt
lên, chiêm ngắm một Đấng đến từ trời, “Đấng mà Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi
đã ban tặng”. Đúng hơn, Ngài chỉ cho ông con đường về trời, đó là tin vào Ngài,
Đấng được “giương cao như con rắn trong sa mạc, để ai tin thì được sống đời đời”.
Vì thế, sẽ rất hữu ích khi chúng ta hiểu
rằng, trách cứ Chúa Giêsu dành cho Nicôđêmô không phải là lên án; đúng hơn, một
thách đố nhẹ nhàng nhưng trực tiếp. Ngài dịch chuyển ông từ một câu hỏi gây bối
rối sang việc đào sâu đức tin. Và đó là chìa khoá! Nói cách khác, đó là một động
lực thánh. Chính nhờ thách đố khá táo bạo nhưng đầy yêu thương này - ‘một cú
hích’ cần thiết - Chúa Giêsu có thể đẩy Nicôđêmô vào tận ‘không gian ân sủng’ của
Thánh Thần - nghệ nhân thực sự của sự thánh thiện - Đấng “muốn thổi đâu thì thổi”;
để từ đó, ông có thể đón nhận quà tặng lớn lao: đức tin. Tất nhiên, thử thách của
Ngài, cuối cùng, đã chiến thắng con người biệt phái ngay thẳng này.
Anh Chị em,
“Ông là bậc thầy trong dân Israel, mà lại
không biết những chuyện ấy?”. Như Madonna, như Nicôđêmô, ai trong chúng ta cũng
bị ám ảnh bởi một nỗi sợ có tên ‘Tầm Thường’. Và còn hơn thế! Mặc dầu không cần
chúng ta trở thành ‘một ai đó’, Chúa Giêsu đòi chúng ta trở thành ‘một vị thánh
nào đó’; hoặc như Têrêxa Hài Đồng Giêsu, “Hãy nở hoa nơi Chúa đã gieo trồng!”.
Cuộc chiến ‘nên thánh’ này “không bao giờ được phép kết thúc” và “sẽ không bao
giờ kết thúc!”. Gió Thánh Linh sẽ thổi chúng ta không biết đến tận phương nào nếu
mỗi ngày bạn và tôi một ước ao nên thánh hơn. Vậy điều gì đang khiến bạn bất
an, bối rối? Áp lực nào, huyễn danh nào đang cầm chân khiến bạn và tôi chưa nên
thánh? Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta, đừng tự quyết một điều gì, hãy phó mình
hoàn toàn cho Chúa Thánh Linh.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cho con sợ trở nên ‘tầm thường’;
giúp con vượt mọi chướng ngại, không để trở nên ‘một ai đó’, nhưng trở thành ‘một
vị thánh nào đó!’. Tại sao không?”, Amen.
Thứ
tư: NỬA VỜI CAO CẢ
“Người
ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng!”.
“Chúng ta có thể dễ dàng tha thứ cho một
đứa trẻ sợ bóng tối, nhưng bi kịch thực sự của một cuộc đời là khi con người sợ
ánh sáng!” - Platon.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay nói đến bóng tối và ánh
sáng. Tin Mừng tiếp tục trình bày cuộc đàm đạo về ánh sáng giữa Nicôđêmô và
Chúa Giêsu trong đêm. “Ánh sáng”, điều làm con người nên cao cả - nhưng với con
người, nó chỉ ‘nửa vời cao cả!’. Tại sao? Vì “Người ta đã chuộng bóng tối hơn
ánh sáng” - “sợ ánh sáng”. Và đó là bi kịch!
Trong cuốn ‘Le Maître du désir’, ‘Thầy Dạy
Khát Khao’ - người viết dịch - Éloi Leclerc nhận định, “Nicôđêmô, một thầy dạy
vị vọng, không chỉ đến với Chúa Giêsu vào ban đêm; ông ‘đến từ đêm’, ‘lộ ra từ
đêm’ như một người khát khao ánh sáng thức chờ bình minh. Bởi lẽ, con người chỉ
thực sự tồn tại trong chuyển động vốn đem nó lại gần ánh sáng; ở ngoài chuyển động
ấy, con người chỉ là một ‘mảng đêm’. Vì thế, con người chỉ tìm thấy mình trong
chân lý bằng cách sinh ra trong ánh sáng. Đó là sự cao cả của nó! Thế nhưng, chỉ
‘nửa vời cao cả’; bởi lẽ, trong mọi khoảnh khắc, nó có thể để mình bị chộp lại
bởi các thế lực tối tăm!”. Bằng chứng là mỗi ngày, bạn và tôi thích đọc, nghe và
xem bao điều xấu xa hơn là điều tốt lành!
Dĩ nhiên, nhiều người không quan tâm đến
bóng tối và những tội lỗi nổi cộm đó đây; nhưng thực tế là bóng tối luôn bủa
vây chúng ta và điều đó nói lên một cảnh báo nhất định. Biết được vậy, chúng ta
chiến đấu cho ánh sáng, chống lại bóng tối đến cùng. Ánh sáng nơi chúng ta thật
cao cả nhưng nó quả mong manh; vì lẽ, chúng ta dễ dàng để mình bị cuốn vào ‘màn
đêm’ và cảm thấy ‘hạnh phúc’ khi ở đó; thật ra, chỉ là bất hạnh! Tốt biết bao
khi chúng ta ý thức điều này và xác định nó là một phần của xu hướng dễ sa ngã
của bản thân hầu một chỉ cậy trông vào Chúa; tìm cách đề phòng và tránh xa mọi
cám dỗ đưa đến hỗn loạn, mất trật tự và vô kỷ luật.
Vậy làm sao có thể luôn hướng về và yêu
mến ánh sáng? Phải không ngừng ‘cầu nguyện và cầu nguyện’. Từ ngục tối, các
tông đồ đã không ngừng cầu nguyện, để từ đó, họ được thiên thần dẫn ra ánh sáng
- bài đọc một. Rõ ràng, “Kẻ nghèo hèn kêu xin, và Chúa đã nhận lời!” - Thánh Vịnh
đáp ca.
Anh Chị em,
“Người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh
sáng!”. “Ai chọn bóng tối sẽ phải đối mặt với sự phán xét của lên án; ai chọn
ánh sáng sẽ hưởng sự phán xét của cứu rỗi. Sự phán xét luôn là hậu quả của việc
lựa chọn tự do. Ai thực hành điều ác sẽ tìm kiếm bóng tối; điều ác luôn ẩn núp,
nó tự che đậy. Ai tìm kiếm sự thật, nghĩa là người thực hành điều thiện, sẽ đến
với ánh sáng, soi sáng các con đường của sự sống. Ai bước đi trong ánh sáng, tiếp
cận ánh sáng, không thể không làm những việc tốt. Đây là những gì chúng ta được
kêu gọi làm với sự tận tụy!” - Phanxicô. Không ‘được cuốn hút về Chúa Kitô’,
ánh sáng nơi chúng ta thật ảo; sự cao cả nơi chúng ta chỉ nửa vời nếu không nói
là thê thảm!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con rơi vào “bi kịch
thực sự” khi con để mình cuốn vào bóng tối khiến sự sáng, sự cao cả nơi con trở
nên thê thảm hoặc nửa vời!”, Amen.
Thứ
năm: LAO ĐỘNG ( 01-5 )
Ngày 01-5 được thế giới chọn làm ngày quốc
tế lao động. Kitô hữu Công Giáo chúng ta tôn vinh một người lao động khả kính
là Thánh Cả Giuse. Xin được chia sẻ một vài nghĩ suy về Thánh Cả như là một người
lao động chân chính, gương mẫu.
Các nhà xã hội học đã phân biệt giữa lao
động và làm việc cách rõ ràng. Loài vật dưới con người cũng có những sinh hoạt
hái lượm, làm tổ…để sinh tồn và lưu truyền giống nòi, nhưng chỉ làm việc chứ
không lao động. Chúng làm các công việc ấy một cách theo bản năng thúc đẩy.
Trái lại con người là con vật biết lao động. Lao động là làm việc có ý thức và
có mục đích. Con người cũng làm việc nhưng biết mình làm gì, phải làm gì và sẽ
làm gì, đồng thời làm các công việc với mục đích vạch ra, định trước rõ ràng cụ
thể. Vì biết mình sẽ làm gì nên con người thực sự làm chủ và lựa chọn những
công việc mình làm.
Dưới cái nhìn Kitô giáo, đặc biệt qua
hình ảnh Thánh Cả Giuse thì chúng có thể thêm vào cái khái niệm mà các nhà xã hội
học đã nêu trên, một vài tiêu chí. Lao động là làm việc không những có ý thức
và có mục đích mà còn biết làm theo cách thức, cách thế hợp lý, chính đáng và
phải đạo, trong niềm tin. Với khái niệm này, chúng ta thử xem Thánh Cả Giuse đã
lao động ra sao?
Ý
thức: Làm việc có ý thức
là biết mình làm việc gì rõ ràng và cụ thể một cách nào đó. Dĩ nhiên Thánh Cả
Giuse biết mình làm nhiều việc, nhưng qua các trang Tin Mừng chúng ta thấy Ngài
biết mình “đón nhận Maria và Hài Nhi trong dạ về nhà” (x.Mt 1,24). Cuộc đời con
người chúng ta, có quá nhiều việc phải làm. Thế nhưng thử hỏi có công việc nào
quan trọng cho bằng việc đón nhận tha nhân và đón nhận Thiên Chúa. Đi kèm theo
sự ý thức đó là tinh thần trách nhiệm. Đón nhận Maria và Hài Nhi trong dạ về
nhà mình thì Giuse biết và sẵn sàng đảm nhận những phận việc gì, đó là những phận
việc không đơn giản chút nào, đòi hỏi nhiều nỗ lực gắng công và sự quảng đại hy
sinh quên mình.
Có
mục đích: Xin thử hỏi
thánh Cả Giuse đón nhận Thai nhi Giêsu và Mẹ Người về nhà để làm gì, nghĩa là với
mục đích gì? Qua lời sứ thần truyền cho thánh Cả trong giấc mộng chúng ta có thể
biết được hai mục đích chính đó là nhận Maria về nhà làm bạn và cùng với Maria
đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu. Đón nhận tha nhân không phải như người tôi tớ hay
là như kẻ cạnh tranh sinh tồn mà như người bạn nghĩa thiết thì mọi việc chúng
ta làm mới thực sự là lao động. Theo Thánh kinh, việc đặt tên mang ý nghĩa giáo
dục, đào tạo. Thiên Chúa đã tín nhiệm giao phó trách nhiệm cho thánh Giuse và Mẹ
Maria góp phần giáo dục đào tạo Con Thiên Chúa làm người thành Giêsu nghĩa là Đấng
Cứu Độ nhân trần. Đây chính là đỉnh cao của việc lao động.
Thánh Kinh tường thuật khi sáng tạo trời
đất muôn vật, trăng sao, chim trời cá biển và muông thú thì Thiên Chúa chỉ phán
một lời và Người thấy chúng tốt đẹp. Tuy nhiên khi tạo dựng loài người thì
Thiên Chúa xem ra phải vất vả hơn, lao công nhiều hơn và sau đó Thiên Chúa thấy
rất tốt đẹp. Có thể khẳng định rằng con người là kết quả đỉnh cao của lao công
của Thiên Chúa. Khi xem xét lao công một ai đó, chúng ta chớ dừng lại ở thành
quả là vật chất hay của tiền kiếm được mà hãy xem họ đã góp phần dệt nên những
con người như thế nào.
Mừng lễ thánh Giuse lao động hôm nay ước
gì chúng ta không dừng lại ở công việc thợ mộc của ngài hay ở các khoản thu nhập
mà ngài kiếm được để lo cho gia đình Nagiarét mà hãy nhìn vào thành quả mà ngài
in đậm dấu ấn nơi mái gia đình Nagiarret, nơi Đấng Cứu Độ khiến dân chúng không
thể quên gia đình quê quán của một Đấng có quyền năng trong lời nói và hành động.
“Chẳng phải ông ta là con ông Giuse, bác thợ mộc và bà Maria đấy ư?” (x.Mt
13,55)
Hiện thực cuộc sống cho ta xác nhận điều
này: ích gì khi ra công tìm kiếm của cải đủ đầy và thừa thải mà con cái lại hỏng
hư. Để xét xem lao công một ai đó thì phải xem con cái của họ như thế nào.
Đức cố Giáo Hoàng Phanxicô đã từng nói:
Một con người đúng nghĩa là người luôn biết sống trong các mối tương quan. Dĩ
nhiên trước hết phải biết cội nguồn, gốc gác của mình và từ đó đạo thảo hiếu là
lẽ đương nhiên phải có. Đó cũng là người nhận biết sự cần thiết của tha nhân
trong việc tồn tại và phát triển của bản thân. Khi nhìn nhận mình hiện hữu
trong các mối tương quan thì nó thúc giục chúng ta sống hữu ích, biết cống hiến
hơn là hưởng thụ ích kỷ. Đức Thánh Cha nhấn mạnh là hôm nay cần làm cuộc cách mạng
trong cung cách ứng xử. Vượt lên trên cả cung cách “sống tử tế”, chúng ta cần
biết sống trân trọng tha nhân dẫu cho họ có như thế nào.
Tháng 5 về chúng ta sống thảo hiếu với mẹ
Maria với những cánh hoa và điệu múa. Dĩ nhiên cần phải ý thức đúng việc dâng
hoa kính Đức Mẹ nghĩa là gì và với mục gì thì việc dâng hoa mới có ý nghĩa.
Chính vì thế mà Giáo hội dạy chúng ta rằng “việc tôn kính Mẹ Maria không hệ tại
ở những tình cảm chóng qua mà phải được dệt xây trên nền tảng một đức tin trưởng
thành, đích thật”. Ước gì mỗi người chúng ta bằng chính lao công của mình trở
thành một đóa hoa tô thắm cho đời, làm mặn nồng cho xã hội bằng chính cuộc sống
hữu ích và đầy chí cống hiến. Chắc chắn Mẹ Maria sẽ mĩm cười và chúc phúc cho
chúng ta. Xin Mẹ Maria và thánh cả Giuse cầu bàu cho chúng con.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
Thứ
sáu: DẪY ĐẦY
“Họ
liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại,
và chất đầy được mười hai thúng”.
Sau
cơn nguy kịch, một bệnh nhân biết mình phải trả 1,3 triệu tiền Oxy; anh thốt
lên, “Vậy tôi phải trả bao nhiêu cho khí trời đã hít thở trong suốt 53 năm? Trời
cho tôi nhiều quá!”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Trời cho tôi nhiều quá!”. Những gì Trời
cho thường dư dật ‘dẫy đầy!’. Tin Mừng hôm nay tường thuật phép lạ Chúa Giêsu
thết hơn năm ngàn người từ năm chiếc bánh và hai con cá; và sau khi tất cả đã
ăn no nê, người ta thu được “mười hai thúng”. Sao nhiều thế?
Augustinô giải thích, Chúa Giêsu đã cung
cấp nhiều hơn những gì người ta có thể hưởng dùng. Đây là cách thức mô tả đầy
biểu tượng những chân lý tâm linh. “Mười hai thúng” biểu tượng cho những chân
lý siêu việt hơn mà đám đông không thể lãnh hội, trừ những ai sống thiết thân với
Ngài. Họ được ban dư dật ‘dẫy đầy!’.
“Mười hai thúng” còn tượng trưng cho
“Nhóm Mười Hai”. Họ là những người được nhận nhiều hơn. Hãy nhớ lại, nhiều lần
- khi đã về nhà - Chúa Giêsu giải thích riêng cho các môn đệ một số chân lý mà
đại đa số không thể hiểu hoặc dễ chấp nhận. Sẽ rất hữu ích nếu chúng ta xét xem
ba nhóm khác nhau trong phép lạ này.
Nhóm đầu tiên là những người thậm chí
“không có mặt” khi phép lạ xảy ra; đây là những kẻ không cùng hành trình với
Chúa Giêsu. Nhóm này ‘lớn nhất’ trong thế giới, họ sống mà không hề biết phải
tìm cho mình một nguồn ‘lương thực thiêng liêng’ tối thiểu. Tiếp đến, “đám
đông” theo Chúa từ những vùng xa xôi, họ ở lại với Ngài. Nhóm này đại diện cho
những ai trung thành tìm kiếm Chúa mỗi ngày qua Thánh Lễ, đọc Thánh Kinh, cầu
nguyện, lắng nghe và được các Bí tích nuôi dưỡng. Nhiều người ước ao được như họ;
nhìn họ bình an, hạnh phúc - dẫu không miễn trừ gian nan, thử thách - không ít
người thèm thuồng.
Cuối cùng, “Nhóm Mười Hai” - những môn đệ
gắn kết với Chúa Giêsu, tiếp tục được Ngài nuôi dưỡng một cách đặc biệt - dư dật
‘dẫy đầy’ đến nỗi nhiều lúc, họ thốt lên “Trời cho tôi nhiều quá!”. Đây là những
người tìm cách đào sâu và nắm lấy những chân lý tâm linh siêu việt và họ được
biến đổi ở mức độ sâu sắc nhất; sau đó, ra đi, họ chia sẻ cho người khác. Nhật
ký Hội Thánh sơ khai cho biết, “Mỗi ngày, trong đền thờ và tại tư gia, các ông
không ngừng giảng dạy và loan báo Tin Mừng Đức Giêsu Kitô!” - bài đọc một.
Anh Chị em,
“Họ chất đầy được mười hai thúng!”.
Thiên Chúa quảng đại vô song; hồng ân Ngài khôn lường - chính Ngài - “Tôi đến
cho chiên tôi được sống và sống dồi dào!”. “Đối mặt với tiếng kêu đói - đủ mọi
loại “đói” - của nhiều anh chị em ở khắp mọi nơi trên thế giới, chúng ta không
thể là những khán giả vô cảm và bình tâm. Việc loan báo Chúa Kitô - Bánh sự sống
vĩnh cửu - đòi hỏi một cam kết quảng đại đối với những người nghèo, những người
yếu đuối, những người bé nhỏ nhất, những người không có khả năng tự vệ!” -
Phanxicô. Hãy ra sức tìm kiếm “mười hai thúng” chân lý thiêng liêng còn lại, bạn
và tôi khám phá ra rằng, sẽ không có hồi kết đối với chiều sâu biến đổi của ân
sủng ‘dẫy đầy’ Thiên Chúa ban.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con ‘hời hợt thiêng
liêng’ trước bất cứ ân huệ lớn nhỏ nào. Dạy con ‘hít thở’ bầu khí tạ ơn, vì
luôn xác tín rằng, ‘Trời cho tôi nhiều quá!’”, Amen.
Thứ
bảy: KHÔNG BAO GIỜ LẠC LỐI
“Thầy
là con đường, là sự thật và là sự sống!”.
“Người chọn nơi bắt đầu của một con đường,
sẽ chọn nơi nó dẫn đến!” - H. E. Fosdick.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa lễ kính hai thánh Philipphê và
Giacôbê tông đồ chứng thực câu nói của Fosdick, “Người chọn nơi bắt đầu của một
con đường, sẽ chọn nơi nó dẫn đến!”. Ai chọn Chúa Kitô, người ấy ‘không bao giờ
lạc lối’ vì đã chọn đúng tuyệt đối. Ngài nói, “Thầy là con đường, là sự thật và
là sự sống!”.
Chúa Kitô là Thiên Chúa, cũng là con người!
Vì thế, bước theo Chúa Kitô, bạn tìm thấy đường đến với Thiên Chúa; tin Chúa
Kitô, bạn nhận ra lẽ thật là chính Thiên Chúa; chấp nhận Chúa Kitô, bạn có sự sống
của Thiên Chúa! Là Kitô hữu, bạn không chỉ tuân theo một số quy tắc, một số tín
điều; nhưng là đi theo một Con Người! Fulton Sheen thật gãy gọn khi nói, “Tất cả
giáo lý là Chúa Kitô!”. Chúa Kitô là câu trả lời cho mọi vấn đề; vấn đề sự sống,
sự chết; vấn đề bên kia cái chết và sự sống vĩnh cửu. Ai chọn Chúa Kitô sẽ
‘không bao giờ lạc lối’ vì đã chọn đúng đường - đúng đích - dẫn đến Thiên Chúa!
Philipphê nói, “Xin tỏ cho chúng con thấy
Chúa Cha!”; Chúa Giêsu đáp, “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha!”. Một câu trả lời
khá mơ hồ cho một người thực dụng; ấy thế, đó là câu trả lời không thể đúng
hơn! Bởi lẽ, không ai thấy Thiên Chúa mà không chết, nên Con Thiên Chúa làm người
để ai ‘thấy’ Ngài thì luôn ‘sống!’. Cốt lõi giáo lý về Nhập Thể là - giờ đây -
“khuôn mặt” Thiên Chúa đã hiển hiện nơi Chúa Kitô. Thấy Chúa Kitô là thấy Chúa
Cha, thấy sự sống, thấy thiên đàng. Rất nhiều điều kỳ diệu đang chờ đợi bên kia
cuộc sống, nhưng chúng ta có thể hưởng nếm chúng trước trong Chúa Kitô. Ngài
‘mang trời xuống đất’ khi nhập thể; ‘mang đất lên trời’, khi đem chúng ta về
‘Nhà Cha’. Với tư cách con đường, Ngài đưa chúng ta đến với Chúa Cha; tư cách sự
thật, Ngài mặc khải Chúa Cha; và tư cách sự sống, Ngài chia sẻ sự sống của Cha.
Một trùng hợp thú vị khi Phaolô - đến mấy
lần - đề cập việc nhìn thấy Chúa Phục Sinh. Chúa Phục Sinh đã hiện ra “với ông
Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em
một lượt”; Ngài cũng hiện ra “với Giacôbê, với tất cả các tông đồ”; và sau
cùng, với Phaolô như “một đứa trẻ sinh non”. Nhờ việc thấy Ngài, các tông đồ mạnh
dạn đi đến tận cùng trái đất, rao giảng Tin Mừng Phục Sinh; “Tiếng các ngài
vang dội khắp hoàn cầu!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Anh Chị em,
“Thầy là con đường, là sự thật và là sự
sống!”. Mỗi ngày, đi trên con đường Giêsu, mỗi bước chân của chúng ta đã “chọn
nơi nó dẫn đến” - Chúa Cha! Có Chúa Cha, bạn và tôi có tất cả; có thiên đàng,
có sự sống hôm nay, có sự sống vĩnh cửu! Vậy Kitô hữu sẽ không còn gặp bất cứ vấn
đề nào nữa sao? Có chứ! Vấn đề cuộc sống vẫn còn đó, nhưng vì Con Thiên Chúa đã
đi qua mọi nẻo gian khó của nó, và trên đường, Ngài đã toàn thắng khi đánh bại
thần chết; vì thế, Ngài có thể dẫn chúng ta đi, cứu thoát chúng ta ở bất cứ
hoàn cảnh nào. Và chắc chắn, Ngài sẽ dẫn chúng ta đến cùng đích!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đường đời muôn hướng nhưng
‘không dẫn đến đâu’. Giúp con chọn đường Giêsu mỗi ngày; vì chọn Ngài, con sẽ
‘không bao giờ lạc lối!’”, Amen.