SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN THÁNH-PHỤC SINH
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT LỄ LÁ
Is
50,4-7; Pl 2,6-11; Lc 22, 14-23,56
SUY
NIỆM TIN MỪNG TRƯỚC RƯỚC LÁ
1. Hôm
nay cùng với GH chúng ta tưởng niệm cuộc khải hoàn vào thành thánh Giêrusalem
của Chúa Giêsu, trước khi Người bước vào cuộc khổ nạn và chết trên thập giá.
Tin
mừng cho chúng ta biết lần đầu tiên Chúa Giêsu đã đồng ý để cho dân chúng chào
đón Ngài như là một vị Vua. Dân chúng cuồng nhiệt đến độ cởi cả áo mình ra để
trải trên đường cho Chúa đi qua, tay thì liên tục vẫy cành lá, miệng thì không
ngớt tung hô: “Hoan hô Chúa! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!
Vạn tuế Con vua Đavít!”. Dân chúng thực sự đã tôn vinh Đức Giêsu là
Vua, là Chúa nên họ đã chào đón Đức Giêsu như là một thần tượng vĩ đại của họ
vậy.
Qủa
thật Đức Giêsu là thần tượng, nhưng là thần tượng của hy sinh đến cùng vì
yêu thương con người. Mặc cho người đời có lật lọng tráo trở, thay lòng đổi dạ,
đổi trắng thay đen để rồi kết tội, chế giễu, nguyền rủa, đánh đòn, đóng đinh
Ngài vào thập giá thì Ngài vẫn cứ một lòng một dạ yêu thương con người cho đến
cùng.
Xin
Chúa cho chúng ta cảm nhận được tình yêu cao vời của Chúa mà sẵn sàng tin nhận
Đức Giêsu là Vua thật của lòng mình và là Thần Tượng duy nhất của cuộc đời ta.
Nhờ đó ta mới can đảm dấn thân hiệp hành theo Chúa trên con đường hy
sinh phục vụ mọi người bằng một tình yêu nhưng không, cho dẫu bản
thân mình phải chịu nhiều thiệt thòi và thương đau. Amen.
Anh
chị em thân mến, với những tâm tình đó,
Giờ
đây chúng ta hãy noi gương dân thành Giêrusalem mà hoan hỷ lên đường
nghênh đón Đức Kitô!
2. Nếu ví
đời người là một cuộc hành trình, thì cuộc hành trình dương thế của Chúa Giêsu
khá ngắn, chỉ vỏn vẹn có 33 năm. Trong đó có đến 30 năm Ngài sống ẩn dật
tại miền quê Nagiaret, chỉ còn lại 3 năm sau hết, Ngài mới bôn ba khắp các nẻo
đường Palestin để thi hành sứ mạng loan báo tin mừng, đem ơn cứu độ cho trần
gian. Tuy nhiên đoạn hành trình ngắn ngủi ấy lại hết sức quan trọng. Bởi lẽ trên
chặng đường cuối cùng ấy, Chúa Giêsu đã phải đối mặt với biết bao gian lao thử
thách, cùng với những cung bậc cảm xúc vui buồn đan xen.
-
Vui vì khi tiến vào thành thánh Giêrusalem, Ngài được
dân chúng đón chào hồ hởi như một vị Vua. Họ đã cầm những
cành lá reo hò tung hô bằng những mỹ từ tuyệt hảo: “Chúc tụng
Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa!” (Tv 118,2b) Họ sẵn
sàng cởi áo choàng mình ra và chặt những nhành lá chiến thắng
trải đường cho Đức Giêsu cưỡi lừa con đi qua...
- Buồn vì
cho dẫu Đức Giêsu là một vị Vua đúng nghĩa, "Vua của hòa bình",
"Vua chân lý", "Vua của Tình Yêu". một vị Vua sẵn sàng sống
và chết cho tình yêu. Một vị Vua "đến không phải để được
người ta phục vụ nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn
người" ( Mc 10,45). Tuy nhiên, Ngài lại bị nhân thế chối từ,
loại bỏ và giết chết, bởi lẽ Ngài không đáp ứng lại những yêu sách trần tục
theo quan niệm ích kỉ của họ.
Lễ Lá
là dịp mời gọi chúng ta sống lại những cảm xúc vui buồn cùng với Chúa
Giêsu. Vui vì chúng ta may mắn tin vào Đức Giêsu là Vua tình
yêu. Buồn vì chúng ta thấy mình chưa sống hết tình với Chúa. Chưa
dám tiến bước trên con đường hy sinh phụng sự Chúa; chưa
tích cực sống hết tình và hết mình cho tha nhân theo gương Vua tình yêu. Buồn
vì chúng ta chưa cảm nhận được niềm vui Tin mừng do Chúa mang đến nên còn
ngại ngùng hiệp hành bước theo Chúa trên hành trình sống và minh chứng niềm tin
của mình.
Xin Chúa cho chúng ta cảm nhận được tình yêu cao vời của Chúa mà sẵn sàng tin nhận Đức Giêsu là Vua thật của lòng mình và là Thần Tượng duy nhất của cuộc đời ta. Nhờ đó ta mới can đảm dấn thân hiệp hành theo Chúa trên con đường hy sinh phục vụ mọi người bằng một tình yêu nhưng không, cho dẫu bản thân mình phải chịu nhiều thiệt thòi và thương đau. Amen.
3. Nghi
thức làm phép và rước lá chiều hôm nay, gợi lên trong tôi hai suy nghĩ: tích cực và tiêu cực về hình ảnh của chiếc
lá:
- Suy
nghĩ tiêu cực: Nhìn vào chiếc lá ta thấy “có mặt
trái mặt phải”. Điều này khiến ta nghĩ đến sự lật lọng, tráo trở, thay lòng đổi
dạ của con người. Thật vậy dân Do Thái ngày xưa, có lúc thì hò reo tung hô Chúa
là Vua, sau đó thì hò hét đòi đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá; hôm nay thì
yêu mến đến độ cởi cả áo ra để trải đường cho Chúa đi qua, nhưng liền sau đó
lại căm ghét lên án và hò hét đòi đóng đinh Ngài vào thập giá.
Các
tông đồ cũng vậy, các ông đã thay lòng đổi dạ: Giuđa thì dùng nụ hôn để bán
đứng Thầy mình; Phêrô trước đó thì thề sống chết với Thầy nhưng sau đó lại chối
bay, chối biến là không biết Thầy.
Vậy
còn lòng dạ chúng ta đối với Chúa và với người khác thì sao? Chúng ta có thay
lòng đổi dạ hay một lòng một dạ yêu mến và trung tín với Chúa, với nhau cho đến
cùng không hay chúng ta cũng thay lòng đổi dạ khi hoàn cảnh đổi thay?
- Suy
nghĩ tích cực: để khuyến khích, vận động con người yêu thương giúp
đỡ nhau trong những lúc khó khăn hoạn nạn, người đời thường hay nói “lá lành
đùm lá rách”. Điều này đúng với Chúa Giêsu. Bởi cho dẫu con người
có lật lọng tráo trở, có thay lòng đổi dạ thế nào đi nữa, thì Chúa Giêsu vẫn
một lòng một dạ yêu thương con người đến cùng. Lòng Chúa luôn mở rộng như chiếc
lá để đùm bọc, cưu mang, ôm ấp nhân loại khổ đau. Chúa đã chấp nhận mang lấy
những bệnh tật, đau khổ và tội lỗi của con người, sẵn sàng sinh nơi hang đá bò
lừa, chấp nhận sống nghèo và chết đau thương trên thập giá không mảnh vải che
thân chỉ vì yêu thương chúng ta, chết thay cho chúng ta và để cứu chuộc chúng
ta.
Tạ ơn
Chúa là chiếc "lá lành đùm lá rách" là chúng ta. Xin cho mỗi
chúng ta đừng bao giờ trở thành “lá mặt lá trái”, nhưng hãy trở nên “lá lành
đùm lá rách” mà một lòng một dạ trung thành với Chúa và yêu thương nhau đến
cùng, như Chúa đã yêu thương và dành tất cả cho chúng ta.
Với những tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy noi gương dân thành Giêrusalem cầm lá trên tay mà hoan hỷ lên đường nghênh đón Đức Kitô!
4. Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Thánh
Luca trình thuật lại sự kiện Chúa Giêsu tiến vào thành
Giêrusalem cách long trọng, được dân chúng chào đón như một vị vua. Nghi thức
làm phép lá hôm nay tái hiện lại khoảnh khắc ấy. Qua đó mời gọi chúng ta suy
nghĩ sâu xa hơn về ý nghĩa của sự kiện này:
- Sự khiêm nhường của Đấng Cứu Thế:
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế, đã chọn một con lừa non để vào
thành, một phương tiện di chuyển trái ngược với hình ảnh của một vị vua trần
thế oai phong trên lưng ngựa chiến. Điều này cho thấy sự khiêm nhường sâu sắc
của Vua Giêsu. Ngài đến không phải để thống trị bằng quyền lực thế gian, mà để
phục vụ và hiến dâng mạng sống vì phần rỗi của nhân loại.
- Lời tung hô của dân chúng:
Dân chúng hân hoan trải áo choàng và rải những cành lá trên đường Chúa đi
qua, với lời tung hô: "Chúc tụng
Đấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng
trời!" Lời tung hô này thể hiện niềm tin của họ vào Chúa Giêsu như là Đấng
Messia, vị vua mà họ hằng mong đợi. Tuy nhiên, sự hiểu biết của họ về vương
quyền của Ngài còn bị giới hạn trong những kỳ vọng mang tính trần thế.
- Bước ngoặt của Tuần Thánh:
Nghi thức làm phép lá và kiệu lá trang trọng mở đầu Tuần Thánh, khai mạc tuần lễ tưởng niệm cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh vinh quang của Chúa Giêsu. Cùng với lời tung hô "Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến" vang vọng như một lời mời gọi chúng ta cùng bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá, để rồi cùng Ngài được hưởng vinh quang phục sinh.
Tóm lại: Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn sâu vào lòng mình, để thanh tẩy những động cơ sai lệch và đón nhận Chúa Giêsu với tất cả lòng thành. Xin cho chúng ta biết noi gương Chúa Giêsu, sống khiêm nhường, yêu thương và sẵn sàng hy sinh vì người khác, để xứng đáng với lời tung hô "Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến".
SUY NIỆM TRONG
THÁNH LỄ
Suy
niệm 1: ĐƯỜNG THẬP GIÁ, CON ĐƯỜNG TÌNH
Phụng
vụ Lời Chúa Lễ Lá hôm nay đã khắc họa đậm nét về dung mạo của một vị TC Giàu
Lòng Thương Xót dành cho chúng ta nơi Đức Giêsu Kitô:
- Bài
đọc 1, trích sách tiên tri Isaia: cho chúng ta thấy rõ dung dạo của Người Tôi
Trung TC. Người tôi trung này rất hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Người
đã đón nhận mọi sĩ nhục do người đời đối xử bất công. Hình ảnh người tôi trung
ấy mà ngôn sứ Isaia trình bày không ai khác đó chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa
chúng ta. Chúa Giêsu trong cuộc thương khó đã phải chịu đánh đòn, bị chế nhạo,
bị hành hạ, bị lăng nhục… bởi người đời, nhưng Ngài đã chấp nhận tất cả chỉ vì
vâng lời Chúa Cha và yêu thương nhân loại đến cùng.
- Bài
đọc II, trích thư thánh Phaolô tông đồ gửi cho tín hữu Philipphê: Trong
đoạn thư này, thánh Phaolô trình bày cho biết Đức Giêsu chính là Ngôi Hai TC
làm người. Ngài không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với TC. Trái lại,
Người đã tự hủy mình ra không ngang qua việc mặc lấy thân phận tôi đòi, từ bỏ
trời cao xuống thế làm người để ở cùng chúng ta, nhằm cảm thông và chia sẻ kiếp
người với chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Qua cái chết đau thương trên thập giá,
Người đã chuộc tội cho nhân loại, đã phục hồi chức vị làm con TC mà chúng ta đã đánh mất kể từ khi ông bà nguyên tổ phạm tội trong vườn địa
đàng năm xưa.
- Bài
thương khó hôm nay khá dài: trình thuật về cuộc khổ nạn và cái chết đau
thương của Chúa Giêsu trên thập tự giá. Trong biến cố đau thương này, Tin mừng
nêu bật những vấn đề xảy ra trong cuộc sống thường ngày của nhân thế:.
Nếu
nhìn vào những năm tháng êm đềm khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin mừng, ai cũng
nghĩ rằng Giuđa, Phêrô và các tông đồ… chính là những người bạn tâm giao với
Thầy Giêsu, thì lẽ nào lại phản bội lại Thầy mình. Nhưng tình người thật trái
ngang, lòng người dễ đổi thay. Chính những môn đệ thân tín của Chúa Giêsu là
Giuđa Iscariô lại nhẫn tâm bán thầy; Phêrô thì nhác đảm chối bỏ thầy; còn
các môn đệ khác thì trốn chạy biệt tâm đang lúc Thầy mình gặp hoạn nạn; cả như
môn đệ Mar-cô cũng sợ hãi và bỏ chạy đến “tuột quần” khi Thầy mình bị bắt. Đúng
là như người đời đã nói: “khi hoạn nạn mới biết ai là bạn.”.
Nhưng
cũng thật an ủi vì cuộc đời vẫn còn đó những con người sẵn sàng sống trung tín
với thầy Giêsu. Tình yêu của họ thật tuyệt vời, đáng trân quý biết bao. Trong
số ấy phải kể đến tông đồ Gioan đã can đảm theo Chúa Giêsu đến tận chân thập
giá; như Mẹ Maria sẵn sàng thông phần đau khổ với con mình trên mọi nẻo đường;
như bà Maria Mađalêna, bà Maria mẹ của Giacôbê hậu và của Giuse, bà
Salômê… họ không ngần ngại bước theo Chúa đến cùng trên con đường thập
giá. Nổi bật nhất là khuôn mặt của ông Simon, quê ở Xy-rê-nê;
bà Vê-rô-ni-ca và ông Giu-se quê ở Arimathia dẫu không hề
quen biết Chúa Giêsu, nhưng họ lại sẵn lòng giúp đỡ Người với hết khả năng của
mình.
Nhưng
có lẽ điểm nhấn mà bài thương khó hôm nay muốn hướng đến
chính là tình yêu như trời biển mà TC dành cho nhân loại chúng
ta. Vì yêu thương nhân loại quá đỗi nên TC đã sẵn lòng ban Con Một của Ngài cho
chúng ta, để ở cùng chúng ta nên Người được gọi là “Đấng Emmanuel”.
Người đã chấp nhận mặc lấy thân phận con người, trở nên đồng thân, đồng phận và
đồng tử với chúng ta ngoại trừ tội lỗi, hầu cứu chuộc chúng ta khỏi án chết đời
đời trong đau khổ. Qủa đúng như lời thánh Gioan tông đồ đã nói: “Không
có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hi sinh
tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13).
Xin
cho mầu nhiệm thập giá, mầu nhiệm của tình yêu, một tình yêu hy sinh phục vụ
đến chết và chết trên thập giá được thấm nhập vào trong từng suy nghĩ, lời nói
và hành động của chúng ta, để mong sao dung mạo của một vị TC Giàu Lòng Thương
Xót ấy cũng được khắc họa qua đời sống khiêm nhường, hy sinh và tận tâm phục vụ
nơi mỗi người kitô hữu chúng ta hàng ngày trong cuộc sống.Amen.
Suy
niệm 2: “THƯƠNG KHÓ VÌ KHÓ THƯƠNG”
Tin
mừng hôm nay, tường thuật lại cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Nguyên nhân
dẫn đến cuộc “Thương khó” của Chúa Giêsu là vì Người trở nên “khó thương” đối
với nhiều người, thuộc mọi thành phần trong xã hội:
1. Khó
thương đối với dân Do Thái
Nhiều
lần dân chúng đã nhiệt liệt vỗ tay, tét đùi khi chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu
thực hiện: Trừ quỷ câm ( Lc11,1 4-23), cứu chữa con trai của viên sĩ quan ngoại
giáo (Ga 4,43-54), chữa người bất toại 38 năm được khỏi bên bờ hồ Bết-da-tha
(Ga,1-16), cho người mù từ lúc mới sinh được xem thấy (Ga 9,1-38) và cho
La-da-rô sống lại (Ga1,1-45).
Mới
hôm nào họ được no lòng thoả dạ khi chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra
nhiều, nuôi năm ngàn người ăn no nê.
Trước
đây, họ đã nức tiếng khen ngợi về những lời giảng dạy khôn ngoan của Chúa
Giêsu và tin nhận: “ông này thật là vị ngôn sứ”; kẻ khác
rằng “ông này là Đấng Kitô.” (Ga 7,40). Họ kháo nhau: “Ông
này không học hành gì mà sao lại thông thạo chữ nghĩa thế!” (Ga 7,15).
Và mới
đây, đám đông dân chúng thành Giêrusalem nô nức phấn khởi, trải áo choàng, chặt
những nhánh lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò
tung hô, họ dành cho Người một nghi lễ đón rước như là một vị vua vĩ đại của
họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavít”; “Vạn tuế Đấng nhân danh
Thiên Chúa mà đến”. Thế mà liền sau đó họ lại chống đối, lên án và la
hét đòi "đóng đinh nó vào thập giá".
Trước
đây, Chúa Giêsu là thần tượng được dân chúng ngưỡng mộ yêu mến, thì trong
thời điểm “thương khó” này, Người lại trở thành nhân vật “khó thương” đối với
họ.
2. Khó
thương đối với giới chức lãnh đạo tôn giáo
- Vì
Chúa Giêsu đụng chạm đến uy tín họ:
Chúa
Giêsu nhiều lần lên án gắt gao lối sống giả hình của giới chức tôn giáo. Chỉ
chích họ giữ đạo hình thức, không có tâm tình yêu mến. Vạch mặt những việc
đạo đức giả của họ làm, cốt để lòe mắt thiên hạ. Khiến cho uy tính của họ
càng lúc bị lu mờ đi.
- Vì
Chúa Giêsu đã đụng chạm đến quyền lợi vật chất của họ:
Thu
nhập kinh tế của hàng ngũ giới chức tôn giáo chủ yếu nhờ vào việc buôn bán và
đổi tiền nơi đền thờ. Đặc biệt vào những ngày lễ lớn, nguồn thu nhập của họ và
con cháu họ rất lớn. Vậy mà Chúa Giêsu dám động đến nồi cơm của họ. Ngài đã đi
vào đền thờ đánh đuổi những con buôn và lật tung những bàn đổi tiền của họ.
Người còn thách thức: “Cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi
sẽ xây dựng lại.” Và tự xưng mình là Con Thiên Chúa (x. Mt 26,61; Mc
14,58).
Có lẽ
vì những lý do trên mà Chúa Giêsu đã trở nên nhân vật “khó thương” trong con
mắt của hàng lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ. Nên không lạ gì, họ quyết tâm lên
án tử Chúa Giêsu.
3. Khó
thương đối với giới chức lãnh đạo chính quyền
Để tạo
được sự đồng thuận đối với giới chức chính quyền, giới chức tôn
giáo đã gắn Chúa Giêsu vào tội chính trị. Họ tố cáo Chúa Giêsu đã xách
động dân chúng chống lại chính quyền: “Chúng tôi phát giác ra tên này
xách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xêda,
lại còn xưng mình là Mêsia, là vua nữa.” (Lc 23, 2).
Do đó,
Chúa Giêsu bị xem là nhân vật nguy hiểm đối với giới chức lãnh đạo của đế quốc
Rôma, vì có âm mưu lật đổ chính quyền và lãnh đạo dân chúng nổi dậy làm cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc. Chúa Giêsu đương nhiên trở thành đối tượng nguy
hiểm đối với các giới chức chính quyền. Nên cần phải tìm cách tiêu diệt ngay!
4. Khó
thương đối với chính các môn đệ của mình
- Chúa
Giêsu đã trở nên khó thương trong mắt của môn đệ Giuđa: Giuđa, một con
người được Chúa yêu thương và chọn gọi làm môn đệ Ngài. Được Chúa dạy dỗ và cho
chứng kiến bao phép lạ Chúa làm. Được Chúa tín nhiệm giao cho làm thủ quỹ, giữ
túi tiền. Nhưng vì tham lam tiền của, say cuồng theo đuổi mục tiêu
chính trị là giải phóng dân tộc nên Giuđa đã phản lại thầy mình. Ông dùng một
cái hôn xảo trá để bán đứng thầy. Trong mắt ông, Chúa Giêsu đã trở
nên ông thầy “khó thương”, đáng để cho ông lợi dụng.
-
Phêrô cũng chẳng hơn gì! Tự hào về lòng trung tín đối với thầy: “Dù mọi
người có bỏ thầy, thì con sẽ không bỏ thầy”. Vậy mà ông đã dễ
dàng chối bỏ thầy mình trước một cô đầy tớ. Chẳng những chối một lần mà cả đến
ba lần. Không chỉ chối thầy mà còn chối bỏ cả nguồn gốc, quê hương xứ sở của
mình nữa. Với Chúa Giêsu, trong cuộc thương khó đã trở nên “khó thương” đối với
Phêrô thế sao!
- Cũng
như Giuđa và Phêrô, các tông đồ khác cũng đã được Chúa Giêsu hết lòng thương
yêu, dạy bảo. Được Chúa ban cho diễm phúc đồng thân, đồng phận với Chúa. Nhưng
vì sợ đồng tử nên các ông đã bỏ thầy mình trong lúc hoạn nạn, để chạy thoát
thân. Ôi, thầy Giêsu "khó thương" đến thế sao!
5. Khó
thương đối với cả chúng ta nữa:
Nếu
xưa kia, Chúa Giêsu trở nên “khó thương” trong mắt mọi người, thuộc mọi thành
phần. Từ giới chức tôn giáo đến quan chức lãnh đạo đời. Từ dân chúng bình dân
đến giới trí thức kinh sư, luật sĩ. Từ những bà con làng xóm đến những môn đệ
thân tín. Thì ngày nay, Chúa Giêsu cũng có thể trở nên “khó thương” đối với
nhiều người trong chúng ta:
- Như
Giuđa, Chúa Giêsu trở nên “khó thương” đối với chúng ta. Bởi vì Ngài không đáp
ứng được những yêu sách đòi hỏi của chúng ta, khi ngăn cản lòng tham
lam và những việc làm giả dối của chúng ta.
-
Giống như Phêrô, Chúa Giêsu trở nên “khó thương” với chúng ta, vì Ngài bắt tôi
phải trung thành với Ngài trong việc tuân giữ Lề Luật và Giáo huấn của
Ngài. Ngài còn đòi hỏi tôi phải thể hiện niềm tin trước mặt mọi người. Trong
khi tôi đang sống trong xã hội vô thần. Ôi khó biết bao!
- Như
giới chức tôn giáo, tôi cảm thấy khó chịu. Bởi vì lời dạy của Ngài ngăn
cản lối sống gian dối và giả hình của tôi. Đã lên án tính kiêu căng tự mãn và
công kính mạnh mẽ đến những việc làm sai trái của tôi.
- Cũng
giống như giới chức chính quyền, nhiều lúc tôi không có chút cảm tình
với Chúa Giêsu. Bởi Ngài chính là đối tượng nguy hại, ảnh
hưởng đến cuộc đời tôi. Chính vì Ngài mà tôi bị loại ra khỏi
hàng ngũ lãnh đạo xã hội. Vì Ngài mà tôi mất đi cơ hội ngồi vào chiếc ghế quyền
lực chính trị. Vì Ngài mà tôi mất đi việc béo bở…. Vì thế tôi cần phải đánh
chéo tên Giêsu trên văn bản và loại trừ Người ra khỏi cuộc đời tôi.
- Tệ
hại hơn, giống như đám đông dân chúng, tôi cũng nông nổi nhẹ dạ, dễ nghe theo
dư luận, hùa theo đám đông lúc thì vỗ tay ủng hộ đạo thánh Chúa,
lúc thì gào thét đả đảo Giáo Hội Chúa. Vì chức quyền, danh
vọng, tiền bạc… tôi sẵn sàng bất trung với Chúa và vì lợi ích mau qua tôi sẵng
sàng chống lại Thiên Chúa.
Một
nỗi buồn thấm thía, sao Chúa lại trở nên “khó thương” và bị bạc bẽo đến mức như
vậy!
Suy
niệm 3:
Ngày
xưa, có 2 anh em nọ sống trong cùng một căn nhà. Người anh rất tốt lành, siêng
năng làm việc và kính sợ TC. Còn đứa em thì lọc lừa, gian manh, và phạm đủ mọi
thứ tội ác. Một đêm nọ, đứa em chạy về nhà, quần áo đính đầy máu. Nó tự thú với
người anh: “em đã phạm tội giết người”. Vài phút sau đó, căn nhà đã bị cảnh
sát bao vây, không còn cách nào trốn thoát được. Đứa em rất sợ hãi nói rằng:
“em không có ý giết người” và “em cũng không muốn chết”. Ngay lúc đó có
tiếng cảnh sát gõ cửa. Người anh liền cởi quần áo mình ra cho đứa em mặc
vào và lấy bộ quần áo đang dính đầy máu của đứa em mặc vào mình. Sau
đó cảnh sát xông vào nhà, cồng tay người anh và bắt đi giam giữ chờ ngày xét
xử. Sau cùng người anh đã bị tòa kết án tử hình, chết thay cho đứa
em.
Câu
chuyện trên giúp chúng ta hiểu được phần nào về tình yêu tột cùng mà Chúa Giêsu
dành cho nhân loại chúng ta. Tuy Người vô tội, nhưng
Người lại sẵn sàng mặc lấy thân phận tội lỗi con người chúng ta và đã
chấp nhận chịu chết đau thương trên thập giá để đền tội thay cho
chúng ta.
Chúng
ta vừa nghe lại bài thương khó khá dài, trình thuật lại cuộc khổ nạn
và cái chết thảm thương của Chúa Giêsu. Khi để tâm theo dõi và
suy niệm cuộc khổ nạn và cái chết của
Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra
rằng không ai trong chúng ta là vô tội trước cái chết
của Chúa Giêsu.
REMBRANDT,
một hoạ sĩ tài danh thế giới, người Hoà Lan đã vẽ lại bức
tranh về “Ba Cây Thập Tự” rất nổi tiếng. Những ai có
dịp đến chiêm ngắm bức tranh này thì đều bị thu hút vào 3 cây
thập giá. Bởi giữa hai cây thập giá treo 2 tên gian phi là
thập giá treo Chúa Giêsu được vươn cao hơn. Và bên dưới chân thập giá của Chúa
Giêsu là cả một rừng người, nhưng lạ thay trên khuôn mặt ai nấy
đều tỏ lộ một vẻ căm thù và oán hận. Đặc biệt trong số những
khuôn mặt đó lại có cả khuôn mặt của chính tác giả bức tranh ấy.
Qua tác
phẩm đó, một mặt tác giả Rembrandt như muốn nói với chúng ta
rằng: không ai là vô tội trước cái chết đau thương của Đức Giêsu trên
thập giá. Có thể tôi là Giuđa, Phêrô, Philatô, Caipha, quân lính, đám đông hay
những nhà chức trách trong đạo ngoài đời…tất cả đều tham gia vào vụ án giết
Chúa Giêsu. Mặt khác tác giả cũng nói cho ta hiểu rằng vì quá yêu thương chúng
ta nên Chúa Giêsu đã xuống thế làm người, mặc lấy thân phận tôi
đòi, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi để gánh lấy tội lỗi
và chết thay cho chúng ta, cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Nên mỗi người
trong chúng ta đều là hiện thân của Chúa. Vì thế, khi ta giúp đỡ cho ai
đó, là chúng ta đang giúp cho chính Chúa vậy.
Ngày
nay chung quanh chúng ta vẫn còn đó những Đức Kitô nơi những người nghèo khổ,
bệnh tật. Họ là những người mắc bệnh nan y không tiền chữa trị; họ là
những người bị vụ khống, bị tù đày cách bất công; họ là những người đau
khổ què quặt, đui mù, câm điếc không cơm ăn áo mặc, không chốn nương thân...Đó
chính là những hình ảnh của Chúa Giêsu đang bị bỏ rơi trên thập giá, đang
mong đợi chúng ta an ủi và giúp đỡ họ cách tận tình.
Chúng
ta thường tự hỏi, với khả năng hạn hẹp và giới hạn của mình, ta có thể làm được
gì? Chắc hẳn ta không thể làm được những điều vĩ đại để làm tan
biến hết những khổ đau cho tha nhân, nhưng chúng ta vẫn có thể thực hiện
những điều bé nhỏ làm vơi đi một phần gánh nặng của anh chị em mình bằng
những hành động cụ thể như: cảm thông với những ai nghèo
khổ giống như các phụ nữ Giêrusalem xưa đã đi
theo và khóc thương Chúa Giêsu trên con đường thập giá. Chúng ta
có thể trợ giúp tha nhân như ông Simon đã kê vai vác đỡ
thập giá nặng nề với Chúa. Chúng ta có thể an ủi những
ai đau khổ như bà Vêrônica trao khăn cho Chúa lau mặt khi đẩm mồ hôi
và máu. Chúng ta cũng có thể lên tiếng bênh vực những ai đang
gặp bất công như người trộm lành bên hữu
Chúa. Chúng ta cũng có thể cảm thông với sự đau khổ
của anh em mình như Mẹ Maria, như môn đệ Gioan và các bà
đạo đức…Tất cả họ đã hiệp hành theo Chúa đến cùng và đã kiên
trung đứng dưới chân thập giá Chúa cho đến giây phút cuối cùng để đồng
cảm, an ủi, đỡ nâng.
Xin
cho chúng ta khi bước vào tuần thánh, biết can đảm chết đi cho con người
cũ của mình với những tính hư nết xấu và tội lỗi và sống lại con người mới
trong Chúa Kitô bằng cách tích cực tham gia vào các việc đạo đức chung, siêng
năng cầu nguyện, chu toàn tốt giờ kinh hôm kinh mai nơi gia đình, thường xuyên
đến nhà thờ tham dự thánh lễ và rước lễ sốt sắng, nhất là biết nhiệt tâm làm
việc bác ái tông đồ nhằm đáp lại phần nào tình yêu mà Chúa dành cho ta. Nhờ
thế, ta mới xứng đáng đáng được Chúa ban dồi dào ân sủng, phúc lành, niềm vui
phục sinh như lời Chúa đã hứa ban cho người trộm lành có
lòng ăn năn hối cải vì đã đặt trọn niềm tin yêu vào Chúa. Amen.
Suy
niệm 4:
Hôm
nay Chúa nhật Lễ Lá, là ngày Giáo Hội kỷ niệm dân Do Thái ngày xưa đã đón Đức
Chúa Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem cách long trọng, và để mở đầu cho cuộc
thương khó của Đức Chúa Giê-su vì yêu thương nhân loại mà phải chịu chết trên
thánh giá. Ý nghĩa của ngày lễ Lá là như thế, nhưng tâm tình của bạn và tôi cũng
như của những người Ki-tô hữu khác trong thánh lễ này lại mang tâm trạng khác,
tôi xin chia sẻ với bạn những tâm tình này:
1.
Tình cảm của con người.
Bạn có
thấy tình cảm của con người không, cụ thể là người Do Thái đối với Đức Chúa
Giê-su đó, hôm nay tình cảm họ dành cho Ngài thật dạt dào trân trọng, họ tôn
sùng Ngài cách cuồng nhiệt, và nếu giờ phút ấy Đức Chúa Giê-su xách động quần
chúng đứng lên lật đổ nhà vua, đuổi quân Rô-ma ra khỏi đất nước, thì chắc quần
chúng vẫn nghe theo, nhưng Đức Chúa Giê-su không làm như thế, bởi vì Ngài biết
lòng dạ của người dân, tình cảm của con người hay thay đổi, nay trắng mai đen,
nay hoan hô mai đả đảo.
Tình
cảm của dân Do Thái hôm qua cũng là tình cảm của bạn và tôi hôm nay, giống nhau
như đúc ở sự hay thay đổi: thích thì hoan hô, không thích thì đả đảo, dù cho
đối tượng là người tốt hay người vô tội.
2. Sự
khiêm hạ và hiền hòa của Đức Chúa Giê-su.
Trước
một đám người cuồng nhiệt hoan hô mình, Đức Chúa Giê-su biết đó chỉ là sự phấn
chấn nhất thời của họ, và ngày mai chính họ sẽ lên án mình cách bất công, nhưng
Ngài vẫn cứ đón nhận lời tung hô của họ mà không cau có, dỗi hờn hay chỉ trích.
Thái độ hiền hòa ngồi trên mình lừa mẹ tiến vào thành Giê-ru-sa-lem của Đức
Chúa Giê-su đã nói lên tất cả sự khiêm cung của Ngài, chính những lời tung hô
“vạn tuế con Vua Đa-vít” “Đấng ngự đến nhân danh Chúa” của người Do Thái như
một lời tiên tri ứng nghiệm nơi Ngài, Đấng Thiên Chúa làm người.
Sự
khiêm cung và hiền hòa của Đức Chúa Giê-su là một bài học cho chúng ta, khi
chúng ta biết bạn bè chơi khăm mình thì nhất định sẽ nổi giận và không thèm
tham gia với họ, khi chúng ta biết những lời khen ngợi của mọi người chỉ là lời
khen giả tạo và hàm ý chê bai, thì chúng ta đùng đùng nổi giận...
Bạn
thân mến,
Chúa
nhật lễ lá là bắt đầu tuần thánh mà cao điểm là Tam Nhật Vượt Qua, Giáo Hội cho
chúng ta nghe tường thuật bài Thương Khó của Đức Chúa Giê-su trong ngày chúa
nhật Lễ Lá, là để cho bạn và tôi cùng chia sẻ với những đau khổ của Ngài đã
chịu vì yêu thương bạn và tôi, cũng như yêu thương nhân loại. Và cũng để cho
bạn và tôi học được bài học khiêm tốn và hiền hòa nơi Đức Chúa Giê-su, Đấng
từng tuyên bố mình là Đấng hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.
Xin
Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Suy
niệm 5:
Bài tin
mừng rước lá hôm nay, thuật lại sự kiện Đức Giê-su khải hoàn vào
thành Giê-ru-sa-lem như một vị Vua Thiên Sai, Ngài được dân chúng theo sau
hoan hô như đón mừng một ông vua khải hoàn vào thành, hầu ứng nghiệm
lời sấm của ngôn sứ Gia-ca-ri-a.
Vào thời
Đức Giê-su, nhiều người Do thái đang chờ mong Đấng Thiên Sai đến để
lãnh đạo dân đánh đuổi quân Rô-ma ra khỏi bờ cõi Do thái và thiết lập
một Triều Đại Mới, giống như triều đại của vua Đa-vít và vua Sa-lô-mon
xưa. Nhưng thực ra sứ mệnh cứu thế của Đức Giê-su không phải như dân Do
thái đang trông đợi.
Người là
Đấng Thiên Sai nhưng là ông Vua “Mục Tử tốt lành, hiền hậu và khiêm
nhường”. Người đã xưng mình là Vua trước mặt quan Tổng Trấn Phi-la-tô, khi hai
tay đang bị trói, thân thể bị đòn đánh tan nát; khi phải đứng trước tòa án như
một tội nhân. Danh hiệu Vua của Chúa Giê-su được ghi bằng dòng chữ viết tắt
“INRI” gắn trên cây thập giá, nghĩa là : “Giê-su Na-da-rét Vua dân Do thái”.
Đức Giê-su
chính là Vua nhưng không phải như một ông Vua trần tục, đòi được người khác hầu
hạ, nhưng là ông Vua Mục Tử Tốt Lành, hiền hậu và khiêm nhường :
- Là
Vua Mục Tử : Người biết rõ đàn chiên, yêu thương mọi con chiên và
chăm sóc từng con, nhất là sẵn sàng đi tìm những con đi hoang, băng bó những
con bị thương tích, âu yếm và vác chúng trên vai mà đưa về đàn. Ngày nay Người
yêu thương đàn chiên Hội Thánh và yêu đến tột cùng, khi thiết lập bí tích Thánh
Thể để ở với Hội Thánh mọi ngày và trở nên lương thực thần linh nuôi dưỡng Hội
Thánh. Người cũng nêu gương khiêm nhường cho chúng ta, và mời gọi chúng ta hãy
học nơi Người sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
- Là
Vua Hòa Bình : Người không ngồi trên ngựa chiến uy quyền khải hoàn
vào thành thánh Giê-ru-sa-lem, nhưng khiêm tốn ngồi trên con lừa. Người đến
không để kết án và trừng phạt tội nhân, nhưng để yêu thương, tha thứ cho
những tội nhân thực lòng sám hối ăn năn như tha tội người trộm lành trên
cây thập tự.
Người là Vua
Mục Tử bảo vệ đàn chiên và sẵn sàng chịu chết để cho chiên được sống và sống
dồi dào.
Vậy chúng ta
ngày hôm nay sẽ làm gì để đáp lại tình thương vô biên của Vua Giê-su ?
+ Siêng
năng cầu nguyện : Lý do Tông đồ Phê-rô sa ngã và hèn nhát chối
Thầy ba lần là vì quá tự tin vào sức riêng hơn tin cậy vào ơn Chúa, đã
ăn uống no say và không theo lời Thầy dạy :” Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo
sa chước cám dỗ”.
+ Luôn vâng
theo thánh ý Chúa Cha : Khi gặp rủi ro, bệnh tật và những điều
trái ý cực lòng, chúng ta hãy xin vâng theo ý Chúa Cha. Tránh đi coi bói
toán, tin vào bùa phép và các thứ mê tín khác… Hãy xin Chúa thêm sức
mạnh giúp chúng ta chấp nhận những đau khổ không thể tránh khỏi, coi
đau khổ gặp phải như phương thế để đền tội mình và góp phần cứu rỗi anh
em.
+ Không
cố tình phạm tội như Giu-đa, vì sẽ bị phạt chung số phận với ma quỷ như
lời Chúa phán : “Khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì
hơn”.
+ Sẵn
sàng tha thứ cho những ai có lỗi với mình như lời kinh Lạy Cha dạy, noi gương Chúa Giê-su đã tha
thứ cho Phê-rô sau khi ông chối Thầy ba lần; hãy năng cầu xin Chúa Cha tha thứ
cho những kẻ làm hại mình noi gương Chúa Giê-su đã xin Cha tha cho những kẻ
làm khốn mình.
+ Luôn
giữ bình tĩnh và dùng tình thương để hoán cải kẻ thù, noi
gương Chúa Giê-su đã ứng xử với Giu-đa khi anh ta hôn mặt để nộp Người cho kẻ
thù.
+ Kiên
nhẫn chịu đựng khi bị khích bác, noi gương Chúa Giê-su đã im lặng chịu đựng trước những
lời hò hét đả đảo của đám đông cuồng nộ.
+ Thực
lòng sám hối và tin yêu Chúa noi gương kẻ trộm lành trên cây thập tự khi trách bạn
: “Mi chịu cùng một án, mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao ? Phần chúng ta,
bị như thế này là đích đáng, vì xứng với tội ta đã làm. Còn ông Giê-su này đâu
có làm điều gì xấu ?” và cầu xin Chúa Giê-su : “Lạy ông
Giê-su. Khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi cùng”. Chúa Giê-su đã lập tức tha
tội và ban ơn cứu độ cho anh khi phán: “Ta bảo thật. Ngay hôm nay anh sẽ được ở
trên Thiên Đàng với Ta”.
+ Quyết
tâm loại trừ tính ghen tị, ganh ghét : Sau
cùng, mỗi người chúng ta hãy quyết tâm loại trừ tính ganh ghét những ai hơn
mình, để tránh phạm thêm tội ác khác như các đầu mục Do Thái xưa đã ganh ghét
và giết hại Chúa Giê-su. (St)
Suy niệm 6:
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay là cánh cửa mở ra tuần Thương Khó, kiể niệm lại
cuộc thương khó của Chúa Giê-su đã chịu vì tội lỗi của nhân loại và của mỗi
chúng ta. Trong tuần này Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng nhau chia sẻ những đau
khổ của Chúa Giê-su đã chịu từ khi vào thành Giê-ru-sa-lem cho đến khi Ngài
trút hơi thở cuối cùng trên thập giá.
Nếu ai trong chúng ta đã từng bị hiểu lầm, đã từng bị kết án cách bất công,
hay đã hơn một lần nếm mùi nhục nhã trước những người đã chịu ơn mình, nhưng
bây giờ lại phản bội, đấu tố hãm hại lại mình, thì mới cảm nhận được thế nào
đau khổ trong tâm hồn của Chúa Giê-su.
Mới đó, Ngài đã được đặt trên mình lừa con tiến vào thành thánh Gierusalem
và được dân chúng cởi áo lót đường đi, được tung hô: “vạn tuế, vạn tuế”,
và được tuyên xưng là “Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến...” thật
oai hùng như một vị vua. Nhưng liền sau đó, Chúa Giê-su lại phải đau buồn đến
nỗi linh hồn Ngài phải chết được, vì thấy rằng chính những con người cầm những
cành lá tung hô vạn tuế Ngài trước đó, thì nay lại vung nắm tay la hét chống
đối và tố cáo Ngài trước tòa án Phi-la-tô: “đóng đinh nó vào thập giá”.
Khi suy gẫm về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta, mới cảm nhận được
nhân tình thế thái là dường nào! Trách người không bằng trách mình, rất có thể
chúng ta cũng đối xử như thế đối với Chúa. Đó là khi chúng ta cũng hùa theo
hiệu ứng của đám đông la to hét lớn đòi đóng đinh Chúa của chúng ta vào thập
giá mỗi khi chúng ta cố tình phạm tội, hay không dám can đảm sống và làm chứng
cho niềm tin của mình. Chắc chắn khi ấy Chúa Giê-su rất đau khổ bởi vì Ngài
nhìn thấy chúng ta đang sống nhưng tâm hồn như đã chết, vì sa vào những cám dỗ
của ma quỷ, thế gian và xác thịt.
Trong suốt những năm ở trần gian, Chúa Giê-su đã không ngừng thi ân giáng
phúc cho những người Do Thái, nhưng Ngài đã phí công vô ích, bởi lẽ những người
mà Ngài đã hết lòng yêu thương, ban ơn giáng phúc, giờ đây lại nhẫn tâm kết án
tử cho Ngài. Nhưng Ngài lại không oán hận, bởi Ngài tin chắc rằng với máu Ngài
đổ ra, với những cực hình mà Ngài phải chịu, và với cái chết nhục nhã trên thập
giá, Ngài sẽ cứu chuộc chúng ta là những người đang sống nhưng tâm hồn đã chết,
sẽ cùng được sống lại với Ngài.
Bài Thương Khó mà chúng ta vừa nghe, đã khiến cho nhiều tâm hồn tội lỗi trở
lại đường ngay nẻo chính, nó cũng đã đánh động nhiều tâm hồn kiêu ngạo chỉ biết
kết án tha nhân giờ biết khiêm tốn kết án chính mình.
Trong
Tuần Thánh này chúng ta học hỏi Chúa Giê-su những bài học cao quý sau: không
oán trách người hiểu lầm mình, không trả thù những kẻ vô ơn, không giận ghét
người bạc nghĩa, không nói xấu người chỉ trích mình.v.v... đó những là việc làm
tích cực nhất của chúng ta cần phải thể hiện trong đời sống thường ngày để xoa
dịu nỗi đau của Chúa phãi chịu và chúng ta, và đó cũng chính là tâm tình cần
phải có của mỗi chúng ta vì chúng ta được mang danh của Ngài, là kitô hữu trong
ngày lãnh nhận bí tích rửa tội. (St)
Suy
niệm 7: LỄ LÁ THẬT LÀ LẠ
Chúa Nhật Lễ Lá cho thấy dân chúng cuồng nhiệt reo hò tung hô Đức Giêsu là
vua là Chúa long trọng tiến vào thành Giêrusalem. Và chính Ngài cũng khẳng định
mình là vua. Nhưng thật là lạ: Ngài là Chúa mà quá đỗi khiêm nhường, Ngài là
vua mà lại chịu đau thương tột độ.
1. Khiêm nhường. Khi Chúa tiến vào thành, dân chúng reo hò tung
hô: Vạn tuế con vua Đavít! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa ngự đến! Dân chúng tôn
vinh Đức Giêsu là vua, là Chúa, vậy mà Ngài lại khiêm nhường cưỡi trên con lừa
con vào thành. Bài đọc 2 nói rõ: Ngài đích thực là Thiên Chúa mà lại khiêm
nhường hoàn toàn trút bỏ vinh quang để mặc lấy thân nô lệ giống người trần thế.
Ngài lại còn hạ mình đến nỗi bằng lòng chịu chết. Là vua Chúa mà quá đỗi khiêm
nhường.
2. Đau thương. Đức Giêsu là vua là Chúa nhưng không chăm lo cho
mình vinh thân phì gia, mà lại hy sinh quên mình chăm lo nhân loại. Thay vì
trừng phạt nhân loại tội lỗi, thì Chúa Giêsu lại gánh lấy tất cả những đau
thương của nhân loại vào thân mình: Ngài sẵn lòng chịu phản bội, vu cáo, nhục
mạ, nguyền rủa, kết án, đánh đòn, đóng đinh vào thánh giá. Chúa gánh lấy mọi
đau thương để bày tỏ tình yêu thương đích thực là hy sinh quên mình để đem hạnh
phúc sự sống cho người mình yêu.
Cuộc rước của Lễ Lá diễn tả chúng ta bước vào Tuần Thánh, bước đi theo con
đường Chúa đi. Đó là con đường khiêm nhường và đau thương, con đường của hủy
mình ra không và hy sinh quên mình. Đó là con đường của tình yêu thương đích
thực. Đấy là lối sống của hạt giống chịu vùi sâu trong bùn, chịu mục nát chết
đi, để rồi sinh nhiều bông hạt. Sống mầu nhiệm Vượt Qua là như thế. Amen.
Lm. Nguyễn Xuân Trường
Suy niệm 7: THẬP GIÁ ĐƯỜNG HY VỌNG
Anh chị em thân mến,
Hôm
nay, chúng ta bước vào Tuần Thánh với Chúa
Nhật Lễ Lá, tưởng niệm việc Chúa
Giêsu khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem trong tiếng hô vang "Hoan hô Con vua Đavít!" Nhưng
chỉ vài ngày sau, cũng chính đám đông ấy lại gào thét: "Đóng đinh nó vào thập giá!" Sự đối nghịch đó không chỉ
là một biến cố lịch sử, mà còn là tấm gương phản chiếu tâm hồn mỗi người chúng
ta.
Trong
Năm Thánh 2025 với chủ đề: “Hy vọng”,
Hội Thánh mời gọi chúng ta không chỉ chiêm ngắm Đức Kitô trên thập giá, mà còn bước theo Ngài để loan báo Tin Mừng hy vọng,
hy vọng được Thiên Chúa yêu thương, được thứ tha, và được sống lại trong ánh
sáng phục sinh.
1. Một Đấng Cứu Độ khác thường
Chúa
Giêsu tiến vào thành không phải như một vị vua cưỡi chiến mã, mà là cưỡi trên lưng lừa, biểu tượng của sự hiền
lành và khiêm tốn. Ngài không đến để áp đặt, nhưng để trao ban sự sống.
Ngài
chấp nhận đi vào cuộc thương khó, chịu đau khổ và cái chết không phải vì thất bại, mà là để thể hiện tình yêu cứu độ đến cùng. Qua
khổ nạn, hy vọng mới nảy sinh:
hy vọng cho kẻ tội lỗi được tha thứ, cho người tuyệt vọng được nâng dậy, cho
nhân loại được hòa giải với Thiên Chúa.
2. Loan báo Tin Mừng bằng đời sống hy vọng
“Cùng
nhau loan báo Tin Mừng hy vọng” không phải là chuyện của riêng các linh mục hay
tu sĩ. Đó là sứ mạng của mỗi người Kitô
hữu, đặc biệt trong bối cảnh xã hội còn nhiều đau thương, chia rẽ, thất
vọng.
Chúng
ta loan báo Tin Mừng khi:
- Sống bác ái và tha thứ, thay vì oán
thù và hận ghét.
- Kiên vững trong thử thách, không để
bóng tối làm tắt hy vọng nơi lòng mình.
- Gieo lời yêu thương, nói lời xây dựng
thay vì chỉ trích và thất vọng.
Gia đình, giáo xứ,
môi trường sống là nơi cụ thể để
chúng ta làm chứng cho một Thiên Chúa đầy lòng xót thương.
3. Đừng để niềm tin “rước lá” trở thành “đóng đinh”
Trong
bài Thương Khó, ta thấy sự đổi thay chóng vánh của đám đông. Họ dễ bị cuốn theo
tâm lý đám đông, dễ tung hô nhưng cũng dễ quay lưng.
Đó
cũng là thử thách cho đức tin của chúng ta hôm nay. Chúng ta tung hô Chúa trong
Thánh lễ, nhưng khi ra khỏi nhà thờ, ta có còn là người sống theo Tin Mừng
không?
Loan báo hy vọng đòi chúng ta sống thật với Chúa và
kiên trì bước theo Ngài mỗi ngày, kể cả lúc thập giá nặng nề.
Cùng
nhau bước theo Chúa và cùng nhau loan báo hy vọng
Lễ Lá
không chỉ là nghi thức khởi đầu Tuần Thánh. Đó là lời mời gọi dấn thân:
- Như
Chúa Giêsu bước vào Giêrusalem để hiến thân vì yêu thương. Chúng ta cũng bước
vào thế giới với sứ mạng trở nên men hy
vọng,
- Cùng nhau, trong tình hiệp nhất của
Giáo hội, chúng ta loan báo Tin Mừng hy
vọng, một Tin Mừng không chỉ nói bằng lời, mà bằng chính đời sống yêu
thương và phục vụ của mình.
Xin Chúa Kitô, Đấng đã chết
và sống lại củng cố đức tin, gìn giữ lòng mến và thắp sáng hy vọng trong chúng
ta, để ta trở nên những chứng nhân sống động cho Tin Mừng của Ngài. Amen.
Thứ
hai: Ga 12, 1-11
“Ai là
mẹ tôi? Ai là anh em tôi?...Ai thi hành ý muốn Cha tôi,…người ấy là anh chị em
tôi, là mẹ tôi.” (Mt 12,48-49). Gia đình của Chúa là gia đình
đức tin. Người thân của Chúa là những ai yêu mến và sống Lời Chúa. Gia
đình Bêtania là gia đình đức tin vì mỗi người trong gia đình này đều thể hiện
niềm tin của mình cách tích cực với hết khả năng của mình. Do đó họ xứng đáng
là anh chị em của Chúa và được Chúa yêu thương.
Xin
cho mỗi thành viên trong gia đình chúng ta, biết yêu Chúa với hết lòng qua những
việc làm cụ thể trong tuần thánh này, để xứng đáng là gia đình đức tin.
Tin
mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu đến làng Bêtania, (cách Giêrusalem độ
chừng 3km) để dùng bữa cơm tối tại nhà La-da-rô, người được Chúa Giêsu cho sống
lại.
Trong
bữa ăn tối thân tình này, ta nhận ra một mẫu gia đình cần phải có để
xứng đáng hưởng ơn cứu độ của Chúa.
-
Mác-ta: Vốn là con người năng động “lăng xăng nhiều việc”. Hôm
nay lại đuợc Chúa Giêsu viếng thăm và ở lại dùng bữa. Trong tâm tình biết ơn,
vì Chúa đã cho La-da-rô em mình sống lại nên đã chuẩn bị bữa tiệc chu đáo thết
đãi Chúa.
-
Maria: Tin Mừng cho biết là người thích ở bên chân Chúa để
nghe Chúa dạy bảo. Cô cũng là cô gái tội lỗi đi tìm Chúa và gặp Chúa đang dự
tiệc tại nhà ông Si-mon. Cô mang đến một cái bình bằng đá ngọc quý, đựng nước
hoa hảo hạng, cô đến quỳ bên chân Chúa rồi đập cả bình để đổ hết nước hoa trên
chân Chúa, khiến cả nhà thơm ngào ngạt, rồi cô lấy tóc mà lau. Tin mừng hôm nay
thánh Gioan cho biết, vì lòng yêu mến Chúa nên cô đã lấy một cân dầu thơm cam
tùng nguyên chất và quý giá mà xức chân Chúa Giêsu, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà
sực mùi thơm.
-
La-da-rô: Người được Chúa thương, được Chúa cho sống lại. Anh là
chứng nhân sống động cho mọi người tin Chúa. Anh được ngồi đồng bàn cùng với
Chúa.
Một
gia đình có ba người, mỗi con người mỗi tính cách, mỗi người thể hiện tình yêu
của mình nơi Chúa Giêsu mỗi cách thế khác nhau:
-
Mác-ta, không ngại vất vả làm việc nhiệt tâm để lo bữa ăn chu đáo cho Chúa và
các môn đệ.
-
Ma-ri-a, không sợ tốn hao tiền của vì Chúa. Cô không ngại thể hiện mọi cử chỉ
khiêm tốn nhất, để nói lên lòng kính yêu Chúa.
-
La-da-rô, người được gọi là bạn của Chúa Giêsu. Anh được Chúa thương mến cho
sống lại. Trong bữa tiệc, anh được ngồi bên Chúa. Chứng tỏ anh cũng đã yêu Chúa
hết lòng.
Một
gia đình toàn những con người chân tình, hết lòng yêu thương Chúa thì làm sao
Chúa không thương mến.
Xin
cho mọi gia đình Công giáo, biết bắt chước mẫu gương của gia đình Bê-ta-ni-a
hết lòng yêu mến Chúa. Sẵn sàng hy sinh làm tất cả vì tình yêu Chúa. Nhất là
trong tuần thánh này biết sẵn sàng hy sinh thời giờ, công việc riêng, để sống
thân tình với Chúa qua việc tham dự đầy đủ và tích cực các nghi thức phụng vụ.
Đồng thời cũng sẵn sàng hy sinh cả tiền của, công sức để góp phần vào việc tổ
chức các nghi lễ trong tuần thánh được trang trọng nơi giáo xứ mình.
Thứ
ba: Ga 13,21-33.36-38
Xã hội
xưa nay đều lên án những kẻ phản bội, bất trung. Ai cũng đều căm ghét những kẻ
“ăn cháo đá bát”. Nhưng bất trung và phản bội vẫn tồn tại trong xã hội con người,
rất có thể trong đó có cả chúng ta. Xin cho ta được lòng trung thành tin yêu
Chúa.
Thiên
Chúa là “Tình Yêu” nên khi tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa thì Người đã
muốn cho con người sống yêu thương nhau “như Chúa yêu”. Nên có
thể nói tình yêu chính là bản chất cốt yếu nhất làm nên con người. Nhưng tình
yêu lại thiêng liêng nhiệm mầu nên cần có những dấu chỉ để biểu tỏ. Mà một
trong những dấu chỉ căn bản để biểu tỏ tình yêu chính là lòng “trung
tín”.
Thế
nhưng, trong thời đại hôm nay, hai chữ “trung tín” hình như đã xuống
cấp trầm trọng, ngay trong đời sống hôn nhân và gia đình trước nay vốn dĩ được
xem là thành trì vững chắc nhất, bất khả xâm phạm, vậy mà cũng bị rạn nứt
và đỗ vỡ. Có nhiều nguyên nhân gây nên sự đỗ vỡ trong đời sống hôn nhân và gia
đình, nhưng có lẽ nguyên nhân lớn nhất vẫn là vì con người ngày nay quá đề cao
cái tôi của mình, say mê tiền bạc và thích chạy theo danh vọng. Từ đó đưa đến
sự bất trung với nhau, gây ra đau khổ và bất ổn trong đời sống gia đình và xã
hội.
Tin
mừng hôm nay cho biết, cũng vì quá đam mê tiền bạc và chạy theo theo danh vọng
mà tông đồ Giu-đa Ít-ca-ri-ốt đã xa dần tình yêu Chúa, để rồi cuối cùng ông đã
nhẫn tâm bán đứng Thầy mình.
Bằng
cử chỉ “chấm chung” chén, vốn dĩ là cử chỉ thể hiện tình yêu,
nhưng với Giu-đa thì đó lại là “cái chấm dối trá” của sự phản
bội.
Sự
phản bội của tông đồ Giu-đa đáng bị lên án và trừng phạt đích đáng. Tuy nhiên
khi lên án ông ta, chúng ta cũng cần nghĩ đến bản thân mình. Rất có thể chúng
ta cũng trở thành kẻ phản bội Chúa giống như Giu-đa nếu chúng ta cố tình loại
bỏ TC ra khỏi cuộc đời của mình để nhắm mắt chạy theo sức hấp dẫn của tiền bạc,
của cải, danh vọng và lạc thú.
Xin
Chúa thương tha thứ vì những lần chúng ta đã phản bội lại Chúa. Nguyện xin Chúa
ban thêm tình yêu vào tâm hồn chúng ta, để chúng ta luôn biết sống trung tín
với Chúa và luôn trung thành với nhau trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Thứ
tư: Mt 26,14-25
Suy
niệm 1:
Bài
tin mừng hôm nay cũng gần giống bài tin mừng hôm qua, thuật lại những tình tiết
diễn ra của bữa tiệc ly. Nhưng Tin mừng hôm nay nhấn mạnh đến nỗi buồn của Chúa
Giêsu khi biết Giuđa là kẻ phản bội. Chúa cũng sẽ rất buồn nếu ta phạm tội
phản bội lại tình thương của Người.
Nhân
loại chúng ta vừa trải qua cơn đại dịch đại dịch Covid-19 trong lo sợ và đau
buồn. Bởi lẽ đại dịch này đã gây ra biết bao tổn thất về kinh tế, sức khỏe và
cướp đi rất nhiều mạng sống con người.
Tin
mừng hôm nay cũng diễn tả nỗi buồn xé lòng của Chúa Giêsu khi phải chứng kiến
người môn đệ thân tín của mình là Giuđa Ítcariô đã bị lây nhiễm bởi loại Virus
độc hại, đó là Virus của tiền bạc và danh vọng. Loại Virus này tuy không gây
tổn thương đến hai lá phổi, nhưng lại làm xơ cứng con tim, khiến cho ông mất đi
cả nhân tính khi nhẫn tâm phản bội lại người Thầy đã hằng tin tưởng yêu mến ông
hết lòng.
Dẫu
biết Giuđa phản bội, nhưng Chúa Giêsu vẫn một lòng yêu thương ông cho đến cùng.
Trong bữa tiệc ly, Người đã dùng những cử chỉ và lời nói nhẹ nhàng, tế nhị nhằm
thức tỉnh Giuđa từ bỏ ý định đen tối. Nhưng vì quá đam mê chạy theo mục đích cá
nhân nên ông không còn lắng nghe được tiếng Thầy. Thế là ông đã quyết định nộp
Thầy mình với giá 30 đồng. Thật đau buồn biết bao!
Người
đời thường nói: “Nỗi đau lớn nhất không phải vì biết được sự phản bội của
người thân mà là vì phải tiếp tục yêu thương họ.” Đúng vậy, Giuđa là người
môn đệ được Đức Giêsu tín nhiệm và yêu thương ông hết lòng. Vậy mà giờ đây ông
lại nhẫn tâm phản bội lại tình nghĩa Thầy trò. Dẫu vậy, nhưng Chúa Giêsu vẫn
tôn trọng quyền tự do của ông và tiếp tục yêu thương ông cho đến cùng. Đúng
là “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí ”. Nỗi
đau chồng chất nỗi đau!
Đạo lý
Việt Nam chúng ta thường coi hành động lừa thầy phản bạn là một tội
ác về luân lý, không thể dung thứ. Nhưng với Chúa Giêsu thì lại không bao giờ
thất vọng về con người. Cho dẫu con người chúng ta xấu xa và tội lỗi tới đâu đi
nữa, thì tình yêu Chúa đối với ta không hề suy giảm đổi thay. Người vẫn yêu
thương và sẵn sàng tha thứ cho ta nếu chúng ta biết ăn năn sám hối.
Xin
Chúa cho chúng ta biết cảm nếm được nỗi đau chồng chất mà Chúa Giêsu phải chịu
vì tội lỗi chúng ta. Và mong sao cho tất cả chúng ta đừng có ai mắc phải lỗi
lầm của Giuđa là phản bội lại tình yêu Chúa.
Suy niệm 2:
Tin Mừng hôm nay cho ta thấy được tấm
lòng của Chúa Giêsu dành cho Giuđa trước khi ông phản bội Ngài.
Chúa Giêsu đau buồn: “Kẻ giơ tay
cùng chấm dĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy” (Mt 26,23).
Ngài tiếc xót: “Khốn cho kẻ nộp
Con Người. Thà kẻ đó đừng sinh ra còn hơn” (Mt 26,24). Các nhà chú giải bảo
đừng dựa vào câu này để nói Chúa Giêsu muốn nguyền rủa Giuđa. Thực ra, Ngài
đang nói theo giọng điệu của những bài ai ca.
Ngài vẫn tôn trọng: vừa trả lời thẳng
cho Giuđa biết hắn là kẻ phản bội, vừa kín đáo không nói lớn kẻo người khác
biết lòng dạ hắn.
Chúng ta hãy dừng lại một chút để suy gẫm về trường
hợp của Giuđa và nhận thấy rằng: phạm tội là cả một quá trình đi từ nhẹ tới
nặng.
Truyện: Có một câu truyện ngụ ngôn kể rằng: Lúc ông
Noe trồng nho, Satan tò mò để ý và mon men đến gạ chuyện.
- Ông trồng gì đấy?
- Cây nho.
- Thế, trồng nho thì được cái gì?
- Trái nho trông rất đẹp mắt, ăn vào ngon tuyệt, còn
nước ép lên men sẽ làm ngây ngất tâm hồn.
- Vậy thì tôi sẽ giúp ông.
Satan đi bắt một con chiên, giết đi và đổ máu nó vào
gốc cây nho. Hắn cũng giết một con sư tử, một con khỉ và một con heo, rồi cũng
đổ hết máu những con vật ấy vào gốc cây nho. Cây nho hút hết những thứ ấy mà
lớn lên.
Từ khi đó, mỗi lần người ta uống một chút rượu, họ trở
nên hiền lành và duyên dáng như con chiên. Nếu tăng “đô” lên, họ sẽ mạnh mẽ và
hung hăng như sư tử. Nếu cứ thế tiếp tục, họ sẽ trở nên ngổ ngáo, vô tư múa
nhảy như con khỉ. Và nếu, chẳng may, không chịu dừng ở đó, thì kết cuộc họ sẽ
không khác gì như con heo (Frech Legend).
Không ai phạm tội trọng trong một sớm một chiều. Phạm
tội là cả một quá trình từ nhẹ tới nặng, do để mình bị khống chế bởi những giá
trị trên thế gian mà bưng tai bịt mắt trước những lời mời gọi và nhắc nhở âm
thầm của Chúa.
Trường hợp Giuđa Iscariot là một ví dụ. Ông đã được
Chúa Giêsu yêu thương gọi làm môn đệ, chọn làm tông đồ; hắn còn được Chúa tín
nhiệm giao giữ tiền; nhưng đồng tiền đã dần dần kống chế hắn (xem bài Tin Mừng
ngày thứ hai: “Y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những thứ người ta
bỏ vào quỹ chung” (Ga12,6). Chúa Giêsu đã nhiều lần tế nhị đánh thức
lương tâm hắn, nhưng hắn cũng không hồi tâm. Cuối cùng hắn đã đi ra lao mình
vào bóng đêm.
Xin Chúa đừng để chúng ta sống trong sự tự mãn mà mù
quáng và cũng đừng để chúng ta sa vào những lợi lộc vật chất mà chống lại lời
nhắc nhở của Chúa. Nhưng xin cho chúng ta biết noi gương thánh Phaolô tông đồ
biết khiêm tốn nhận ra những lầm lỗi của mình mà quay về với Chúa và dùng phần
còn lại của cuộc đời mình để cộng tác chặt chẽ với ơn Chúa, đến độ có thể nói
như ngài: “Nhờ ơn Chúa tôi được như ngày nay. Ơn Chúa đã không trở nên vô ích
nơi tôi. Ước được như vậy!”. (St)
* TÌM
HIỂU THÊM: Mt 26, 14-25
1. Giu-đa
nộp Đức Giê-su (Mc 14: 10 -11; Lc 22: 3-6)
14 Bấy
giờ, một người trong Nhóm Mười Hai tên là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, đi gặp các thượng
tế15 mà nói: "Tôi nộp ông ấy cho quý vị, thì quý vị muốn
cho tôi bao nhiêu. "Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc.16 Từ
lúc đó, hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giê-su.
Họ
quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc
Giá
hợp đồng là 30 quan tiền, là giá bán của một người nô lệ theo luật cũ đã quy
định (Xh 21,32) Nếu bò húc tôi tớ nam nữ, thì người ta sẽ đưa cho
chủ của nạn nhân ba mươi đồng bạc.
Qua
đoạn Tin Mừng này Thánh Matthêu cho thấy, chính Thiên Chúa bị dân người ruồng
bỏ. Đức Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa bị người ta rao bán với giá của một tên nô
lệ.
2. Chuẩn
bị ăn lễ Vượt Qua (Mc 14: 12 -16; Lc 22: 7-13)
17 Ngày
thứ nhất trong tuần bánh không men, các môn đệ đến thưa với Đức Giê-su:
"Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu? "18 Người
bảo: "Các anh đi vào thành, đến nhà một người kia và nói với ông ấy:
"Thầy nhắn: thời của Thầy đã gần tới, Thầy sẽ đến nhà ông để ăn mừng lễ
Vượt Qua với các môn đệ của Thầy."19 Các môn đệ làm y như
Đức Giê-su đã truyền, và dọn tiệc Vượt Qua.
3. Đức
Giê-su tiên báo Giu-đa sẽ nộp Thầy (Mc 14: 17 -21; Lc 22: 21 -23; Ga 13: 21
-30)
20 Chiều
đến, Đức Giê-su vào bàn tiệc với mười hai môn đệ.21 Đang bữa
ăn, Người nói: "Thầy bảo thật anh em, một người trong anh em sẽ nộp
Thầy."
20 Chiều
đến, Đức Giê-su vào bàn tiệc với mười hai môn đệ.21 Đang bữa
ăn, Người nói: "Thầy bảo thật anh em, một người trong anh em sẽ nộp
Thầy."
22 Các
môn đệ buồn rầu quá sức, lần lượt hỏi Người: "Thưa Ngài, chẳng lẽ con sao?
" 23 Người đáp: "Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa
với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy.24 Đã hẳn Con Người ra đi theo như
lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra
thì hơn! "25 Giu-đa, kẻ nộp Người cũng hỏi: "Ráp-bi,
chẳng lẽ con sao? " Người trả lời: "Chính anh nói đó! "
- Diễn
biến của các sự việc trên đây: Việc mượn nhà của một người thân quen
và việc tiên báo Giuđa sẽ nộp Người, chứng tỏ Rabbi Giêsu biết rõ mọi chuyện sẽ
xảy đến cho mình.
- Chấm
chung một đĩa với thầy câu nói này gợi lại Thánh Vịnh 41 câu 10 “10 Cả
người bạn thân con hằng tin cậy, đã cùng con chia cơm sẻ bánh, mà nay
cũng giơ gót đạp con!”.
Ở đây
Đức Giêsu không chỉ rõ là ai, nhưng Ngài muốn tỏ bày nỗi niềm chua xót: Một
người đã cùng chia sẻ cuộc sống thân thiết với mình hằng ngày, và giờ đây đang
cùng ăn với mình, bề ngoài có vẻ hiệp thông, nhưng trong lòng thì rấp tâm phản
bội.
- Khốn
cho người nào nộp Con Người: chữ khốn ở đây cho thấy trước tình
trạng khốn nạn của Giuđa: Một con người tuyệt vọng. Sự tuyệt vọng có thể dẫn
đưa con người, hoặc hoá điên, hoặc tự sát. Giuđa rồi đây sẽ chọn con đường thứ
hai này. Rabbi Giêsu không nguyền rủa cũng chẳng lên án Giuđa, nhưng chỉ thương
hại đến thân phận của kẻ phản bội với một kết thúc bi thảm.
Gm. Stêphanô Tri Bửu Thiên
THỨ
NĂM TUẦN THÁNH: Ga 13,1-15
Dẫn 1:
Anh
chị em thân mến, ba ngày: thứ năm, thứ sáu và thứ bảy Tuần Thánh được gọi là
Tam Nhật Vượt Qua và là đỉnh cao của năm phụng vụ.
Trong
thời gian cao điểm này, được bắt đầu bằng Thánh lễ Tiệc Ly chiều hôm nay, nhằm
nhắc lại việc Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể và trao ban thánh chức Linh mục
và truyền dạy giới luật yêu thương.
Mỗi
khi chúng ta hiệp dâng Thánh Lễ là mỗi lần chúng ta hiện tại hóa hy tế thập giá
của Chúa Giêsu trên đồi Golgotha xưa.
Giống như các tông đồ năm xưa trong phòng tiệc ly, chiều hôm nay chúng ta cũng vây quanh bên Chúa Giêsu bên bàn tiệc Thánh Thể. Xin Chúa cho chúng ta có cùng một tâm tình, cùng một đức tin và cùng một lòng mến như các tông đồ xưa, với mong muốn cảm nếm được tình Chúa yêu ta là dường nào.
Dẫn 2:
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Chiều nay, cùng với Giáo Hội hoàn vũ, chúng ta bước
vào Tam Nhật Vượt Qua, ba ngày thánh thiêng tưởng niệm cuộc khổ nạn, sự chết và
phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu Kitô, trung tâm của đời sống đức tin của
chúng ta.
Trong Thánh lễ Tiệc Ly chiều hôm nay, chúng ta tưởng
niệm ba mầu nhiệm cao cả:
- Thứ nhất, Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể,
trao ban chính Mình và Máu Ngài làm lương thực nuôi sống linh hồn nhân loại.
- Thứ hai, Ngài thiết lập chức linh mục thừa tác,
để qua các linh mục, Bí tích Thánh Thể tiếp tục được cử hành giữa lòng Hội
Thánh.
- Và thứ ba, Ngài để lại giới răn yêu thương,
qua hành vi rửa chân khiêm hạ cho các môn đệ, như một lệnh truyền sống động cho
những ai muốn đi theo Ngài.
+ Với chủ đề mục vụ của năm nay là: "Cùng nhau
loan báo Tin Mừng hy vọng của Chúa Giêsu". Chiều nay, chúng ta được
mời gọi chiêm ngắm tình yêu hy sinh của Đấng Cứu Thế, để từ đó, chúng ta được
mời gọi ra đi để loan báo Tin Mừng cứu độ, mang ánh sáng hy vọng đến cho thế
giới đang chìm trong bóng tối của chia rẽ, ích kỷ và tuyệt vọng.
Xin cho mỗi người chúng ta, khi cùng nhau cử hành
Thánh lễ này, biết mở rộng tâm hồn đón nhận tình yêu cứu độ của Đức Kitô, và
can đảm trở nên chứng nhân sống động cho Tin Mừng hy vọng nơi gia đình, cộng
đoàn và giữa lòng xã hội hôm nay.
Định
luật tình yêu dạy cho ta hiểu rằng: yêu ai thì muốn ở gần người đó, yêu ai thì
muốn hy sinh phục vụ cho người đó, yêu ai thì muốn trở nên một với người
mình yêu. Tình yêu ấy được biểu tỏ cách rất cụ thể nơi Đức Giêsu qua bài
trình thuật Tin mừng hôm nay:
- Yêu
ai thì muốn ở gần người đó
“Ngài
đã yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian; và Ngài yêu thương họ đến
cùng.” (Ga 13,1). “Đức Giêsu biết giờ của người đã đến”,
thời gian mà Người phải lìa bỏ thế gian mà trở về cùng Thiên Chúa
Cha.
Khoảng
thời gian còn lại không bao nhiêu nên Ngài muốn tận dụng thời điểm mừng đại lễ
vượt qua của người Do Thái để tổ chức bữa tiệc với các môn đệ theo đúng luật
định, vừa để tranh thủ giờ phút ngắn ngủi trong phòng tiệc ly ấm cúng để được ở
bên các môn đệ yêu dấu của Ngài.
Thánh
Gioan cho biết Đức Giêsu đã ao ước mãnh liệt được dùng bữa ăn này với các môn
đệ vì đây là bữa tiệc cuối cùng. Trong bữa tiệc, Chúa Giêsu đã không ngại lên
tiếng bộc lộ những tâm tình sâu kín về lòng yêu thương của Ngài dành cho các
môn đệ. Ngài gọi họ bằng những lời lẽ đầy thân thương: “những người con
bé nhỏ của Thấy”. Lòng bên lòng, Chúa Giêsu giãi bày tâm sự vừa thắm thiết
vừa đượm chất u buồn. Nhưng vượt trên hết là linh cảm về cái chết, với những
lời tiên báo về sự phản bội, bỏ rơi, sự hy sinh mà Ngài phải chịu. Cuộc trao
đổi thân tình dần dần đi đến kết thúc, trong khi những lời của Chúa Giêsu vẫn
tiếp tục tuôn ra một cách dịu dàng và cuốn hút, mặc dù có một chút căng
thẳng khác thường ẩn trong những lời ám chỉ nghiêm trọng của Ngài giữa sự sống
và sự chết. Tất cả những gì mà Chúa Giêsu thể hiện trong bữa tiệc ly là muốn
được ở bên các môn đệ cách thân tình nhất, để Ngài thể tình yêu của Ngài.
- Yêu
nhau là sẵn sàng hy sinh phục vụ
Yêu
thương bằng lời thì có thể coi là đầu môi trót lưỡi, yêu thương bằng thái độ có
thể bị coi là giả hình. Chỉ có yêu thương bằng hành động mới là tình yêu chân
thực. Chúa Giêsu không chỉ dạy các môn đệ của Ngài : “Các con hãy yêu
thương nhau như Thầy yêu thương chúng con” mà Chúa Giêsu còn thể hiện
tình yêu cụ thể bằng cách cúi xuống để rửa chân cho các môn đệ. Ngài không
ngần ngại cởi bỏ chiếc áo cao sang của Thiên Chúa; nhận lấy chiếc áo của phận
người tôi đòi để cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Rửa chân xong, Chúa Giêsu
ngồi vào bàn tiệc và dạy cho các môn đệ về bài học yêu thương bằng
cách phục vụ trong khiêm tốn: “Anh em gọi Thầy là “Thầy, là
“Chúa, điều đó phải lắm. Vậy Thầy là Thầy, là Chúa mà còn rửa chân cho anh em,
thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.”
Bằng
hy sinh khiêm tốn phục vụ, người ta đo lường được sự chân thành và mức độ của
tình yêu.
- Yêu
nhau người ta muốn nên một với người mình yêu
Khi
Yêu nhau người ta không dừng ở việc phục vụ trong hy sinh, nhưng người ta còn
muốn nên một với người mình yêu vì mình với ta tuy hai mà một mà. Vì lẽ đó,
Chúa Giêsu đã lập Bí Tích Thánh Thể, biến bánh thành Thịt và rượu thành Máu
Người để ở lại mãi với người mình yêu.
Người
đời trước khi đi xa, xưa nay thường để lại cho người thân bằng những kỉ vật,
bằng của hồi môn quý giá. Đối với Chúa Giêsu những kỉ vật những của hồi môn dù
cho quý giá mấy cũng tầm thường, không đủ nói lên hết tấm lòng yêu thương của
Chúa dành cho nhân loại. Nên Chúa muốn dùng kỉ vật hết sức đặc biệt và cao
trọng nhất, đó chính bản thân Chúa. Nhưng bản thân bằng xường thịt của Chúa chỉ
có thể trao ban một lần, không thể trao ban mãi. Vì thế, Chúa muốn lưu lại bản
thân Ngài bằng hình thức nhiệm mầu dưới hình bánh và rượu làm của ăn của uống
thiên liêng dưỡng nuôi linh hồn ta. Làm như thế Chúa muốn ở lại với các tông đồ
và với chúng ta luôn mãi. Đồng thời qua việc kết hiệp với Mình Chúa, Chúa lưu
truyền sự sống của Ngài trong thân thể và trở nên một trong chúng ta.
Để thể
hiện yêu thương các môn đệ đến cùng, Chúa Giêsu còn muốn các môn đệ trở nên
đồng hình đồng dạng với Ngài và là hiện thân của Ngài giữa trần gian. Vì thế
Chúa Giêsu trao ban thánh chức linh mục cho các môn đệ “các con hãy làm
việc này mà nhớ đến Thầy”. Trong thánh lễ, nhờ việc đặt tay trên bánh rượu
và đọc lời truyền phép như Chúa Giêsu đã làm trong bữa tiệc ly, Chúa sẽ hiện
diện nơi hình bánh rượu ấy, trở nên của ăn bổ dưỡng thân xác nuôi sống linh hồn
cho những ai đón nhận Ngài, bởi thế Chúa trở nên một với chúng ta.
Tham
dự cử hành nghi thức rửa chân và thánh lễ chiều thứ năm hôm nay, ước gì giúp ta
hiểu được bài học khiêm tốn phục vụ và tình thương đến cùng mà Chúa dành cho
chúng ta. Xin cho chúng ta cảm nhận sâu sắc tình Chúa mà nỗ lực hết sức mình để
đáp lại tình Chúa yêu thương bằng đời sống gắn bó thân tình với Chúa; bằng
những hy sinh phục vụ quên mình vì Chúa và tha nhân, nhất là luôn biết gắn kết
với Chúa nơi Bí Tích Thánh Thể để Chúa ở lại trong ta và ta được sống trong
Chúa bằng chính tình yêu viên mãn của Ngài. Amen.
CẦU NGUYỆN TRƯỚC THÁNH THỂ
Mẫu 1:
KHI YÊU NGƯỜI TA MUỐN NÊN MỘT VỚI NHAU
Lạy
Chúa Giêsu Thánh Thể,
Khi
yêu nhau người ta không dừng lại ở việc phục vụ trong hy sinh, nhưng người ta
còn muốn nên một với người mình yêu : “mình với ta tuy hai mà một” là thế! Vì
lẽ đó, Chúa đã lập Bí Tích Thánh Thể, biến bánh thành Thịt và rượu thành Máu
Chúa để ở lại mãi với chúng con, những người được Chúa yêu.
Người
đời trước khi đi xa, xưa nay thường để lại cho người thân mình những kỉ vật quý
giá. Đối với Chúa những kỉ vật quý giá mấy cũng chỉ là tầm thường, không đủ nói
lên hết tấm lòng yêu thương Chúa dành cho nhân loại chúng con. Thế nên, Chúa đã
dùng cách thức hết sức đặc biệt và cao trọng, đó chính thân thể rất thánh của
Người để trao ban cho chúng con. Nhưng thân thể bằng xương thịt của Chúa cũng
chỉ có thể trao ban một lần chứ không thể nào trao ban và ở lại mãi với chúng
con. Vì thế, Chúa muốn lưu lại bản thân Ngài bằng hình thức nhiệm mầu dưới hình
bánh và hình rượu làm của ăn của uống thiêng liêng dưỡng nuôi linh hồn chúng
con. Làm như thế Chúa muốn ở lại với các tông đồ và với chúng con luôn mãi. Nhờ
việc kết hiệp mật thiết với Mình và Máu Chúa, mà sự sống bất diệt của Chúa được
tuôn chảy và lưu lại dồi dào trong thân thể chúng con vì Chúa đã trở nên một
trong chúng con.
Để thể
hiện tình thương với các môn đệ cho đến cùng, Chúa còn muốn các môn đệ trở nên
đồng hình đồng dạng với Ngài, trở nên hiện thân của Ngài giữa trần gian, Chúa
còn trao ban thánh chức linh mục cho các môn đệ khi phán rằng: “các con
hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Vì thế mà trong mỗi thánh lễ, khi
linh mục đặt tay trên hình bánh và hình rượu rồi đọc lời truyền phép như Chúa
Giêsu đã làm trong bữa tiệc ly, thì lập tức hình bánh hình rượu ấy trở nên Mình
và Máu Chúa. Cho nên những ai đón nhận Mình và Máu Chúa thì sẽ được
Chúa bổ dưỡng thân xác nuôi sống linh hồn vì có Chúa ở cùng.
Tham
dự cử hành nghi thức Rửa Chân và Thánh Lễ chiều thứ năm hôm nay, ước gì chúng
ta hiểu được bài học khiêm nhường phục vụ đến cùng mà Chúa Giêsu đã dành cho
chúng ta. Xin cho chúng ta cảm nhận được sâu sắc tình Chúa yêu ta mà nỗ lực hết
mình đáp lại tình Chúa yêu thương bằng cách gắn bó mật thiết với Chúa; sẵn sàng
chấp nhận hy sinh để phụng sự Chúa và phục vụ anh em hết mình như tình Chúa yêu
ta; nhất là biết siêng năng tìm đến Chúa nơi bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể,
với mong muốn được Chúa ở lại trong ta và ta được sống trong Chúa mỗi ngày sâu
xa hơn. Amen.
Mẫu 2: SÁNG KIẾN CỦA TÌNH YÊU
Lạy
Chúa Giêsu Thánh Thể, chính vì biết giờ của Chúa đã đến, giờ phải
bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Nhưng vì Chúa yêu
thương quá đổi những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, nên
Chúa đã có những sáng kiến thật kì diệu để minh chứng cho tình yêu của Chúa dành
cho nhân loại chúng con qua việc: Thiết lập BTTT, trao ban chức LM thừa
tác và truyền dạy giới luật Yêu Thương.
-
Thiết lập nên bí tích Thánh Thể: Đây
là sáng kiến độc nhất vô nhị trong toàn thể vũ trụ này. Chỉ một
mình Chúa với tình yêu thương tận cùng mới có thể nghĩ ra cách thức
để được ở lại với nhân loại chúng con. Cách thức này gọi là tình
yêu hiến mình.
- Trao
ban chức Linh Mục thừa tác: Cũng chính trong tình yêu, Chúa đã
thông ban thánh chức Linh Mục cho một số người do Chúa tuyển chọn, với
mục đích duy trì sự hiện diện của Chúa ở trần gian và thay mặt Chúa ban
phát Mình và Máu Chúa để nuôi sống chúng con trên đường lữ thứ trần gian.
Cách thức này gọi là tình yêu trao ban.
-
Truyền dạy giới luật yêu thương: Cuối cùng với hành động quỳ xuống
rửa chân cho các môn đệ như một người đầy tớ phục vụ cho chủ mình,
Chúa như muốn để lại cho các môn đệ và mỗi người chúng ta bài học
tuyệt đẹp về việc hy sinh phục vụ khiêm tốn và vô vị lợi. Cách thức này
được gọi là yêu thương đến cùng.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, đứng trước tình
yêu hiến mình, trao ban và phục vụ đến tận cùng của Chúa, xin cho
chúng con cũng biết tích cực đáp lại tình yêu của Chúa trong hy sinh
hiến mình, trong trao ban phục vụ bằng một tình yêu vô vị lợi theo gương
Chúa. Cách đặc biệt xin cho chúng con cảm nhận được nỗi buồn vô hạn của Chúa
trong đêm nay trong vườn dầu để chúng con dám can đảm tạm gác lại mọi công việc
bộn bề trong cuộc sống mà quảng đại hy sinh thời giờ đến với Chúa để
“thức với Chúa một giờ” trong đêm hôm nay. Amen.
Mẫu 3: YÊU ĐẾN CÙNG
Kính lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Trước lễ Vượt Qua, Chúa
biết giờ của Chúa đã đến gần, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Nhưng vì
yêu thương những kẻ thuộc về Chúa còn ở thế gian, và muốn yêu thương họ đến
cùng. (x. Ga 13,1). Nên trong bữa tiệc ly, Chúa đã có những sáng kiến thật bất
ngờ là thiết lập Bí Tích Thánh Thể, trao ban thánh chức linh mục và truyền dạy
giới luật yêu thương.
Người đời cho rằng, yêu thương thì phải làm những
điều tốt đẹp cho người mình yêu, dẫu mình phải chịu nhiều thiệt thòi và gian
khổ. Tình yêu Chúa dành cho chúng con còn vượt xa hơn thế. Chúa không chỉ làm mọi
điều tốt lành cho chúng con mà Chúa còn gánh lấy tất cả những đau khổ vì chúng
con và sẵn sàng hy sinh và hiến dâng mạng sống mình cho chúng con được sống và
sống dồi dào.
- Với tình yêu sáng tạo: Chúa đã dựng
nên chúng con giống hình ảnh của Chúa, và muôn loài muôn vật cho chúng con hưởng
dùng.
- Với tình yêu cứu chuộc: Chúa đã chấp
nhận trở nên người tôi tớ đau khổ để gánh lấy hết mọi tội lỗi cho chúng con,
sẵn sàng chịu đóng đinh vào thập tự giá (x. Is 52,14-15), và chết đi để giải
thoát chúng con khỏi tội lỗi và cái chết đời đời.
- Với tình yêu thánh hóa: Vì muốn ở lại mãi
với chúng con cho đến ngày tận thế, nên trong bữa tiệc ly, Chúa đã thiết lập
nên bí tích Thánh Thể, trao ban thánh chức linh mục, để qua đó Chúa hiện diện, đồng
hành và ban ơn giúp sức chúng con tiến bước trên con đường theo Chúa.
- Sau hết, vì muốn tất cả chúng con hiệp hành bước
theo Chúa trên con đường tình, nên Chúa đã trao ban cho chúng con giới
luật yêu thương mới: “là anh em hãy yêu thương nhau; như Thầy đã yêu
thương anh em” (Ga 13,34).
Sự mới mẻ của giới luật ấy chính là “yêu
thương như Chúa đã yêu.” Nghĩa là tình yêu của chúng con phải gập theo tình
yêu của Chúa. Tình yêu của Chúa phải là khuôn mẫu và nền tảng cho tình yêu của
chúng con. “Yêu như Chúa yêu” không
chỉ dừng lại ở lý trí, cảm xúc hay ở đầu môi chót lưỡi mà đòi buộc chúng con
phải thể hiện bằng những hành động cụ thể trong hy sinh phục vụ quên mình, với
lòng khiêm tốn, như chính Chúa đã noi gương cho chúng con.
Lạy Chúa, ước gì trong gia đình cộng đoàn họ đạo chúng
con, đừng có ai gây cớ chia rẽ loại trừ nhau. Nhưng xin cho chúng con biết sống
tinh thần hiệp thông, cùng nhau tích cực tham gia vào sứ mạng loan Tin Mừng, với
mong muốn xây dựng và phát triển gia đình họ đạo và giáo hội Chúa mỗi ngày thêm
vững mạnh và tốt đẹp hơn, bằng chính tình yêu như chính Chúa đã yêu chúng con.
Ước gì chúng con đừng trở thành gánh nặng thập giá của
nhau, nhưng luôn biết hy sinh kê vai vác đỡ thập giá cho nhau, nâng đỡ dìu dắt
nhau tiến bước trên con đường hiệp hành theo Chúa.
Ước gì mỗi người chúng con biết mở lòng ra để sống bao
dung, cảm thông và chia sẻ với nhau khi vui cũng như lúc buồn, theo như lời
thánh Phao-lô chỉ dạy: “Vui với
người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15)
Sống được như thế, là chúng con đang đi đúng con đường
tình mà Chúa đã đi qua. Khi hiệp hành bước đi trên con đường tình ấy của Chúa,
tin rằng Chúa sẽ đưa dẫn chúng con về đến bến bờ của niềm vui, hạnh phúc và
bình an đích thực.
Ước gì đêm nay, mỗi người trong chúng con dành chút thời gian ở lại bên Chúa và thức với Chúa một giờ, để chúng con cảm nhận được tình Chúa yêu con và nhận ra lối đường mà Chúa muốn chúng con bước đi trong Chúa với niềm tin, hy vọng và biết ơn của những người môn đệ Chúa. Amen.
THỨ
SÁU TUẦN THÁNH: Ga 18, 1-19, 42
KHÔNG
AI VÔ CAN TRƯỚC CÁI CHẾT CỦA CHÚA
OB và
ACE thân mến, chúng ta vừa nghe lại bài tường thuật về cuộc thương khó của Chúa
Giêsu đã chịu vì tội lỗi chúng ta. Suy niệm về cuộc thương khó của Chúa, chúng
ta cảm thấy không ai trong chúng ta vô tội trước cái chết đau thương của Chúa:
Có thể
ta là những Thượng tế, những biệt phái và Pharisêu muốn tiêu
diệt Chúa để Chúa đừng làm phiền, đừng nhắc nhở những sai
trái của ta.
Có thể
ta là dân chúng bàng quang, hoặc có tâm lý hùa theo đám đông mà
không dám nói lên chính kiến của mình, để bênh vực cho những người
anh em vô tội.
Có thể
ta là những tên lính đã đánh đòn, đóng đinh, hành hạ Chúa cho
hả cơn giận nơi những người anh em chúng ta tốt lành, hiền từ.
Có thể
ta là những người phụ nữ thành Giêrusalem khóc thương chỉ vì tội
nghiệp Chúa nơi những người khốn cùng, nghèo khó chứ chưa biết
phải làm sao để giúp cho họ đỡ khổ.
Có thể
ta là tên trộm dữ đã bao lần oán trách cuộc đời
và than trách Chúa khi thấy những điều trái ý xảy đến cho
chúng ta.
Hãy xin
cho chúng ta là Simon, sẵn sàng vác lấy thánh giá
Chúa qua việc chấp nhận thử thách gian khổ mà Chúa gửi đến và sẵn
sàng san sẻ nỗi đau với người khác.
Hãy xin
cho chúng ta biết noi gương Đức Mẹ mạnh dạn, can trường
bước theo Chúa Giêsu trên đường đau khổ mà không một
lời than thở, không một chút kêu ca.
Hãy xin
cho chúng ta là Gioan, đón lấy sứ mạng của Chúa trao
ban để sẵn sàng hiến thân phục vụ cho những chương trình,
hoạch định của Chúa.
Trên
hết, xin cho chúng ta giống như viên đại đội trưởng: “Thấy
sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên
Chúa”. (Lc 23,47).
Lạy
Chúa, đã biết bao lần chúng con ngước nhìn lên Chúa bị đóng
đinh, nhưng chúng con chưa xác tín niềm tin mạnh mẽ
vào Chúa; nhất là chưa dám sống chết vì niềm tin trước người đời. Xin Chúa tha
thứ và ban ơn oán cải sâu xa như tông đồ Phêrô khi xưa. Amen.
Suy
niệm 2: ĐAU KHỔ BIỂU TỎ TÌNH YÊU
Tam nhật vượt qua, là dịp GH tưởng niệm tình yêu
cao vời của Thiên Chúa dành cho nhân loại chúng ta.
Thứ năm tuần thánh, GH tưởng niệm tình yêu
hạ mình của Chúa Giêsu biểu lộ qua việc rửa chân cho các môn đệ và lập
nên Bí Tích Thánh Thể để ban Mình-Máu Ngài làm lương thực thần lương nuôi sống
chúng ta.
Thứ sáu tuần thánh, GH tưởng niệm tình yêu
hiến mình của Chúa Giêsu bằng cách tự nguyện hy sinh chết trên thập tự
giá để đền thay tội lỗi chúng ta.
Thứ bảy tuần thánh, GH tiếp tục tưởng niệm tình
yêu hòa mình của Đức Giêsu qua sự phục sinh vinh hiển nhằm đem lại sự
sống mới, sự sống vĩnh cửu cho chúng ta.
Như vậy tam nhật vượt qua, GH muốn mời gọi chúng ta
sống lại mầu nhiệm tình yêu hạ mình, hiến mình và hòa mình theo
mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô.
Cách riêng hôm nay, thứ sáu tuần thánh, chúng ta
được mời gọi tưởng niệm về tình yêu hiến mình của Chúa Giêsu
trên thập tự giá.
Vậy khi chiêm ngắm tình yêu tự hiến của
Chúa Giêsu trên đỉnh cao thập giá, mỗi người chúng ta có cảm nhận như
thế nào? và đâu là sứ điệp mà Chúa muốn gửi đến cho từng người trong chúng ta?
Riêng tôi khi chiêm ngắm tình yêu tự hiến của Chúa
Giêsu từ trên đỉnh cao thập giá, tôi có 2 cảm nhận sâu sắc, xin chia sẻ cùng
với quý ông bà và anh chị em.
1. Không ai là vô tội trước cái chết của Chúa
Giêsu.
Trước đây, khi nghe đọc hay hát bài thương khó của
Chúa Giêsu, tôi cảm thấy nóng lòng vì phải đứng lâu và có khi khó chịu vì cảm thấy
mình chẳng liên can gì trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Nhưng sau này khi
đặt mình vào vị trí của các nhân vật trong sự thương khó Chúa, tôi cảm thấy bị
thu hút, bời thấy mình có liên quan không ít tới cuộc khổ nạn và cái chết của
Chúa Giêsu.
- Rất có thể tôi là Philatô đã không dám lên tiếng
bênh vực cho công lý và sự thật.
- Rất có thể tôi là Giuđa khi đặt tiền bạc, quyền
lợi cá nhận làm ưu tiên hàng đầu, mà bất chấp lề luật, giới răn Chúa dạy. Ngay
cả sẵn sàng bán Chúa và làm hại GH và người khác.
- Rất có thể tôi là Phêrô vì sợ hãi nên sẵn sàng
chối bỏ Chúa trước mặt người khác.
- Rất có thể tôi là Thượng tế kiêu căng tự mãn
khi cho rằng ý mình là hay là đúng nhất. Từ đó tỏ ra khó chịu khi thấy
người khác tài giỏi, thành công hơn mình. Nguy hiểm hơn nữa là kết bè lập
nhóm để chống đối, tố cáo, hạ bệ những ai mình không ưa thích.
- Rất có thể tôi là quân dữ khi nhẫn tâm chế
diễu, đùa cợt, mỉm cười trên sự đau khổ, thất bại của người khác.
- Rất có thể tôi là người trộm dữ khi dám thách
thức, nghi ngờ quyền năng của Chúa , cũng như không dám chấp nhận sự
thật sai lầm tội lỗi của mình.
- Rất có thể tôi là đám đông dân chúng không kiên
định trong lập trường và chính kiến nên dễ dàng thay lòng đổi dạ, sẵn
sàng chạy theo sự dẫn dắt của dư luận để mưu tìm lợi
ích cho mình.
2. Không ai là xấu hoàn toàn, ai cũng
có những điểm sáng đáng trân quý.
- Tựa như Mẹ Maria, lắm khi tôi cũng can
đảm đón nhận thập giá và nghịch cảnh của cuộc sống để trung thành theo
Chúa đến cùng, với niềm tin và hy vọng vào tình thương của Chúa.
- Tựa như ông Simon, trái tim
tôi cũng biết đồng cảm và sẵn sàng kề vai chia sẻ
gánh nặng thập giá với tha nhân, chứ không phải lúc nào cũng vô
cảm bỏ mặc người khác trong những lúc gặp nguy khốn.
- Tựa như bà Vêrônica nhiều lần tôi cũng
đã nhạy bén nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu nơi những người khốn
khó, để rồi sẵn lòng an ủi, trợ giúp họ với mong muốn làm vơi đi những gánh
nặng mà họ phải chịu trong cuộc đời này.
- Hay cũng giống như người trộm
lành, nhiều lần tôi cũng đã khiêm tốn nhận thấy mình là kẻ
yếu đuối, tội lỗi mà thành tâm đấm ngực ăn năn sám hối, xin ơn tha
thứ của Chúa.
Ước gì trong những ngày này, mỗi người chúng ta
biết dành thời giờ để chiêm ngắm Chúa Giêsu Đấng chịu đóng đinh trên thập giá
mà cảm nhận tình yêu hải hà của Chúa; nhất là nhận ra tội lỗi của mình đã phạm
tựa như những gai nhọn, đinh sắt cắm sâu vào thân thể Chúa, gây ra cái
chết đau thương của Chúa trên thập giá mà chê ghét chừa bỏ, hầu đón
nhận ơn được tình thương và ơn tha thứ của TC, đấng giàu lòng thương
xót.
Sau khi cảm nhận về những bài học sâu sắc mà Chúa gửi đến, tôi đã tóm kết lại những tâm tình ấy bằng bài thơ sau đây, xin gửi đến cùng cộng đoàn:
CHIÊM NGẮM TÌNH YÊU TỰ HIẾN
Thứ Sáu Tuần Thánh lặng sâu,
Ngắm nhìn Thập Giá, cúi đầu tri ân.
Tình yêu tự hiến vô ngần,
Chúa trao mạng sống vì nhân thế này.
Trên đồi cao vút chiều nay,
Giêsu hấp hối, đắng cay tận cùng.
Tôi nhìn, tôi ngẫm trong lòng,
Lời mời tha thiết vang trong tim người:
Không ai vô tội – xin vâng,
Chính tôi cũng góp vào chăng vết hằn?
Có khi tôi giống Philatô,
Im lặng, bỏ mặc lẽ ngay công bình.
Cũng từng như Giuđa tình,
Bán Chúa vì chút lợi mình riêng tư.
Hay là Phêrô ngày xưa,
Vì sợ, vì yếu loại trừ Chúa xa.
Tôi như Thượng tế kiêu sa,
Thấy ai hơn chút là ra mặt buồn.
Có khi tôi cũng vô hồn,
Cười trên khổ lụy người còn khổ đau.
Hoặc như tên trộm dữ nào,
Không nhận tội lỗi, trách sao đời này.
Dân chúng ngày ấy đổi thay,
Theo chiều dư luận – lòng đầy hững hờ...
Nhưng rồi chợt hiểu bất ngờ:
Không ai xấu trọn, cũng mơ điều lành.
Giống như Mẹ thánh trung thành,
Vượt bao gian khó, dõi theo bước Ngài.
Simon giúp Chúa một vai,
Tôi cũng muốn gánh một vài khổ đau.
Vêrônica – tay nhiệm mầu,
Tôi cũng từng muốn lau màu lệ rơi.
Hay như trộm lành cuối đời,
Thành tâm sám hối – sáng ngời niềm tin.
Dẫu là yếu đuối, tội mình,
Tôi vẫn được mến – được nhìn bằng thương.
Xin cho tim mãi vấn vương,
Tình yêu Thập Giá – đoạn trường vì tôi.
Để rồi từ ấy trong đời,
Biết chê tội lỗi, sống lời Chúa răn.
Nguyện xin ơn Chúa vô ngần,
Thứ tha, cứu độ, dắt dân về trời.
THỨ
BẢY TUẦN THÁNH
Suy
niệm 1:
Tin
mừng đêm vọng phục sinh tường thuật lại sự kiện hai người phụ nữ Maria Mácđala
và Maria đến thăm mộ Chúa từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần. Hai bà chứng
kiến cảnh tượng đất chuyển động dữ dội và Thiên Thần Chúa từ trời xuống lăn
tảng đá đậy cửa mộ ra, rồi ngồi lên trên. Diện mạo Người như ánh chớp, y phục
nguời trắng như tuyết.
Lính
canh cũng như hai bà thấy vậy thì khiếp sợ. Tuy nhiên Thiên Thần chấn
an hai bà “đừng sợ” và nói: "Chúa Giêsu chịu đóng đinh, Người
không còn ở đây nữa. người đã sống lại như Lời Người phán trước…Hai bà vừa mừng
vừa sợ chạy về báo tin cho các tông đồ. Nhưng Chúa Giêsu đón hai bà lại. Hai bà
liền phục lạy và ôm chân Chúa. Chúa bảo hai bà về báo cho các môn đệ đến
Galilê. Họ sẽ gặp Người ở đó."
Trình
thuật của bài tin mừng đêm vọng phục sinh mà chúng ta vừa nghe muốn gởi đến
chúng ta hai sứ điệp quan trọng.
- Sứ
điệp I: Chúa phục sinh mang đến niềm hy vọng
Sau
khi Chúa Giêsu chết, các môn đệ đều hoang mang và lo sợ. Chính vì thế mà ngay
khi phục sinh, Chúa Giêsu muốn chấn an các môn đệ của Người khi sai
sứ Thần Chúa hiện ra để trấn an nỗi lo sợ của hai người phụ nữ, qua đó
cũng muốn chấn an các môn đệ của Người là “đừng sợ!”
“Đừng
sợ!” thập giá của đau khổ, bởi từ nay thập giá sẽ trở thành thánh giá vinh
quang.
“Đừng
sợ!" những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn.
"Đừng
sợ!" thế lực ác thần là thế gian, xác thịt và ma quỷ vì từ nay chúng sẽ bị
đánh bại.
"Đừng
sợ!" thần chết vì Chúa Giêsu phục sinh đã giải thoát chúng ta khỏi tử
thần.
Vì
thế, từ nay ai tin nhận Người cũng sẽ chiến thắng vinh quang như thế.
- Sứ
điệp II: Hãy tích cực tham gia vào sứ vụ loan báo tin mừng phục sinh
Sau
khi nhận ra Chúa phục sinh, hai bà Maria Mácđala và Maria liền tiến
đến định ôm chân Chúa và bái lạy. Thì ngay lúc đó Chúa phục sinh lại trao ban
cho hai bà sứ mạng loan báo tin mừng phục sinh: “Hãy về báo cho anh em
của thày để họ đến Galilê. Họ sẽ gặp thầy ở đó”
Như
vậy sứ vụ loan báo tin mừng phục sinh là một nhiệm vụ cấp bách cần phải được
loan báo, đó chính là lệnh truyền của Chúa Giêsu Phục sinh. Thánh Phêrô và các
tông đồ của Chúa đã vâng nghe lệnh truyền ấy nên đã thực thi hành cách cực.
Điều này đã được diễn tả trong bài đọc 1, trích sách công vụ tông đồ (Cv
10,34.37-43).
Viên
quan bách quản Rô-ma, là người ngoại giáo, khi nghe biết về Chúa Giêsu phục
sinh, ông đã đến và xin thánh Phêrô làm phép rửa để ông và gia đình được gia
nhập cộng đoàn các tín hữu đầu tiên. Khi ấy thánh Phêrô đã nhắc lại cho ông xác
tín mạnh mẽ vào niềm tin căn bản là "Đức Giêsu đã phục
sinh".
Có thể
nói đây là điều căn bản mà tông đồ Phêrô rao giảng cho dân chúng. Thánh Kinh
gọi bài giảng truyền giáo này của tông đồ Phêrô là Keryma. Như vậy ta có thể
tóm lược bài giảng Keryma gồm 4 điểm chính sau:
1. Tóm
tắt cuộc đời của Đức Giêsu ở trần thế.
2. Nói
về cái chết của Đức Giêsu.
3. Xác
quyết sự kiện Đức Giêsu sống lại.
4. Kêu
gọi mọi người hãy tin vào Đức Giêsu là Thiên Chúa để được hưởng nhờ ơn cứu
chuộc.
Qủa
thật, Chúa Giêsu đã chịu khổ hình, chịu chết trên thánh giá và đã phục sinh đem
lại sự sống đời đời cho chúng ta. Đó là tin mừng lớn lao mà chúng ta đã tin
nhận. Tuy nhiên tin chưa đủ mà chúng ta còn có bổn phận loan báo niềm vui lớn
lao ấy cho mọi người ở khắp mọi nơi qua mọi thời đại.
Xin
Chúa cho chúng ta biết chết đi cho con người cũ với những tính hư tật xấu và
tội lỗi của mình để được sống lại con người mới nhờ vào sức mạnh và
quyền năng của Chúa Phục sinh. Đồng thời cũng xin cho chúng ta biết tích
cực thi hành sứ vụ loan báo tin mừng phục sinh đến cho mọi người với hết khả
năng của mình với mong muốn góp phần xua tan bóng tối của sợ hải, hận thù, chia
rẻ, ích kỉ, bất công và chết chóc do ma quỷ, thế gian và xác thịt
gây ra để mọi người đón nhận được ánh sáng tình thương, công bằng ,chân lý và
sự sống đích thực do Chúa Giêsu phục sinh đem đến. Amen.
Suy
niệm 2:
Phụng Vụ Lễ Vọng Phuc Sinh đêm nay khởi đầu bằng nghi thức làm phép lửa mới
và thắp nến Phục Sinh, nhằm diễn tả cuộc vượt qua của Đức Giê-su từ bóng tối tử
thần đến ánh sáng Phục Sinh.
Qủa thật Đức Giê-su chính là Ánh Sáng đã đến thế gian để xua tan bóng tối
như Người đã tuyên bố : “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không
phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga
8,12). Và ánh sáng ấy đã được nêu bật qua nghi thức trong phần đầu lễ tối nay.
- Lúc đầu, bóng tối bao trùm không gian Nhà thờ, bởi các
ngọn đèn đều bị tắt hết. Sau đó Chủ tế làm phép lửa mới ở cuối Nhà thờ và đã
dùng lửa ấy để thắp sáng cây nến Phục Sinh. Tiếp đến là nghi lễ rước nến
Phục Sinh cách long trọng.
Trong cuộc rước, Chủ tế cầm cây nến Phục Sinh rồi lần lượt công bố ba lần:
“Ánh Sáng Chúa Ki-tô” và mọi người đáp : “Tạ ơn Chúa”.
Lần thứ nhất được công bố ngay sau khi thắp lửa mới vào cây nến Phục
Sinh
Lần thứ hai được công bố khi chủ tế bước đến giữa nhà thờ. Khi ấy ánh sáng
từ cây nến phục sinh được thắp lên dần dần cho đến khi vị chủ tế long
trọng công bố
Lần thứ ba trước cung thánh, thì lập tức ánh sáng phục sinh của Chúa
được tỏa sáng khắp cả Nhà thờ.
Và rồi niềm vui Phục Sinh được thể hiện một cách long trọng khi chủ sự công
bố bài Tin Mừng Phục Sinh “Exultet”, nghĩa là “Mừng Vui Lên”.
Ánh ánh chân lý, tình yêu, niềm vui và sự sống của Chúa đã chiếu giãi vào
trần gian cách đây hơn 2000 năm. Thế mà ngày nay vẫn còn đó nhiều người trong
chúng ta đang sống trong bóng tối của nấm mồ tội lỗi, vẫn muốn ở lì trong con
người cũ cùng với các thói hư tật xấu, khiến họ chưa đón nhận được niềm vui
trọn vẹn của Chúa Phục Sinh.
Cuộc sống của nhiều người trong chúng ta vẫn còn bị đè nặng bởi sự gian
dối, ham mê tiền bạc của cải vật chất, khiến chúng ta không thể trở thành người
loan báo tin vui phục sinh cho anh chị em mình.
Nhiều gia đình tín hữu vẫn còn bị đè nặng bởi bóng tối của sự cãi vã, giận
hờn ganh ghét và ích kỷ, khiến cuộc sống gia đình của họ luôn bị căng thẳng và
u buồn. Cho nên rất cần sức mạnh của ánh sáng Chúa chiếu giãi vào những
nấm mồ tối tăm ấy, để họ đón nhận được ánh sáng phục sinh của Chúa.
Mỗi tín hữu chúng ta không thể tuyên xưng Chúa phục sinh với khuôn mặt buồn
rầu thất vọng. Chúng ta cũng không thể nói về Chúa Phục Sinh khi lời nói và hành
động của chúng ta thiếu lòng bao dung, cảm thông trước nỗi đau của anh chị em
chung quanh mình. Niềm tin vào Chúa
Phục Sinh phải là động lực thúc đẩy chúng ta canh tân đổi mới nếp sống bản
thân, gia đình mình thì mới mong đem lại cho cuộc đời này một sức sống mới.
Nếu phiến đá trấn an ngoài cửa mộ đã không thể
cầm hãm được Đức Giê-su phục sinh. Và những băng vải, khăn liệm không tài
nào trói buộc được Ngài ở lại trong mồ đá, thì chúng ta cũng nên phá bỏ
những tảng đá của sự giận hờn, ghen ghét, hận thù...đang đè nặng tâm hồn chúng
ta; hãy để cho ánh sáng sự sống của Chúa phục sinh bừng lên xua tan bóng
tối âm u của thần chết, và ánh sáng tình yêu Chúa được vinh thắng khải
hoàn dù cuộc sống còn nhiều gian nan thử thách.
Niềm vui Phục sinh sẽ là quà tặng bất ngờ cho chúng ta giống như
Ma-ri-a Mác-đa-la đã nhận được khi gặp gỡ Chúa Phục Sinh ở bên cạnh nấm
mồ Chúa; và cho các môn đệ khi gặp lại Chúa tại xứ Ga-li-lê.
Điều quan trọng là sau khi gặp gỡ Chúa, chúng ta hãy noi gương bà
Ma-ri-a Mác-đa-le-na cũng như các tong đồ hăng hái ra đi loan báo Tin Mừng cho
anh chị em mà chúng gặp gỡ hàng ngày.
Xin
Chúa Phục sinh gia tăng lòng mến nơi chúng ta, thôi thúc chúng ta sẽ mau
mắn ra đi tìm đến Chúa nơi Thánh kinh, trong Thánh lễ và nhận thấy
Chúa đang hiện diện nơi những anh chị em bệnh tật đau khổ, cũng như qua
các biến cố vui buồn xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Nhờ đó, chúng
con sẽ vui tươi phấn khởi và nhiệt tâm loan báo Tin Mừng Phục Sinh theo
gương Ma-ri-a Mác-đa-la và như các Tông đô khi xưa. Amen. (St)
Suy
niệm 3:
Có thể
nói thánh lễ đêm nay là thánh lễ quan trọng nhất vì là đêm Mẹ
của các đêm; vui nhất vì Chúa Giêsu đã phục sinh vinh quang
đem đến niềm hy vọng sống lại cho chúng ta, giá trị nhất vì sự
phục sinh của Đức Kitô đem đến ơn cứu chuộc cho toàn thể nhân loại, cách đặc
biệt là dài nhất vì có nhiều nghi thức, cho nên trong bài
giảng tối nay tôi chỉ nêu lên hai điểm quan trọng sau đây:
- Thứ
nhất: nói về ý nghĩa của đêm vọng phục sinh.
- Thứ
hai: nêu lên hai sứ điệp căn bản mà lời Chúa muốn nói với chúng ta.
1. Ý
nghĩa của đêm vọng phục sinh:
Phụng
vụ đêm nay được khởi đầu bằng nghi thức làm phép lửa mới và thắp nến Phục Sinh.
Nghi thức này nhằm diễn tả cuộc vượt qua của Đức Giê-su từ trong bóng tối của
sự chết đến Ánh sáng của sự sống.
Đức
Giê-su chính là Ánh Sáng thật đã đến trần gian để xua tan bóng tối của tội lỗi
và sự chết như Người đã tuyên bố: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo
Tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự
sống.” (Ga 8,12). Cho nên lúc đầu lễ, các đèn trong Nhà thờ đều được
tắt hết, bóng tối bao trùm khắp không gian. Sau đó, Chủ tế cử hành nghi thức
làm phép lửa mới ở cuối Nhà thờ và đã dùng ngọn lửa ấy để thắp sáng cây nến
Phục Sinh, rồi rước cây nến Phục sinh vào Nhà thờ cách long trọng. Trong
cuộc rước ấy, Chủ tế cầm cây nến Phục Sinh đưa lên cao và lần lượt công bố ba
lần: “Ánh Sáng Chúa Ki-tô”, mọi người cùng đáp : “Tạ ơn Chúa”.
Tại
cung thánh Nhà thờ khi chủ tế công bố lần thứ ba “Ánh sáng Chúa Ki-tô”, thì lập
tức tất cả đèn trong nhà thờ được bật lên sáng rực, đem đến niềm vui cho chúng
ta.
Nghi
thức ấy cho chúng ta hiểu rằng: Chúa Ki-tô chính thật là “ánh sáng đem
lại sự sống”. Cảm nhận được niềm vui lớn lao về ánh sáng sự sống do
Chúa đem đến, nên Giáo hội mời gọi cộng đoàn tín hữu chúng ta cùng hiệp lời với
chủ tế cất cao niềm vui Phục Sinh qua bài ca “Exultet”, nghĩa là “Mừng Vui
Lên!”.
ÔBACE
thân mến, Chúa Giêsu đã đến trần gian và đã thắp lên ánh sáng chân lý, tình
yêu, niềm vui và sự sống cách đây hơn 2000 năm. Thế mà ngày nay vẫn còn nhiều
người đang sống trong bóng tối của nấm mồ tội lỗi, bởi sự gian dối, hận
thù, ham mê danh vọng và tiền bạc vật chất…Nên vẫn còn đó những bóng tối của
nghi ngờ, cãi vã, giận hờn, ganh ghét và ích kỷ… khiến cho cuộc sống luôn bị
căng thẳng và u buồn. Cho nên rất cần đến ánh sáng phục sinh của Chúa
chiếu giãi vào những nấm mồ tối tăm ấy, để mọi người cảm nhận được niềm vui,
bình an và hạnh phúc thật sự trong tâm hồn.
2. Vì
thế mà bài Tin mừng hôm nay, Chúa muốn gửi đến với chúng ta hai sứ điệp
quan trọng:
- Sứ
điệp I: Chúa phục sinh là Đấng xua tan bóng tối của lo sợ.
Sau
khi Chúa Giêsu chịu chết, hầu hết các môn đệ đều hoang mang, sợ hãi. Chính vì
thế mà ngay khi phục sinh, Chúa Giêsu đã xua tan bóng tối của lo sợ nơi hai
người phụ nữ Maria Mácđala và Maria bằng lời chấn an: “đừng sợ!”
“Đừng
sợ!” Đừng sợ thập giá của đau khổ, bởi từ nay thập giá đã trở thành thánh giá
vinh quang.
“Đừng
sợ!" những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn.
"Đừng
sợ!" thế lực của ác thần là thế gian, xác thịt và ma quỷ vì từ nay chúng
đã bị đánh bại.
"Đừng
sợ!" thần chết vì Chúa Giêsu phục sinh đã chiến thắng tử thần.
Cho
nên, từ nay những ai tin nhận vào Chúa Giêsu phục sinh sẽ vượt thắng mọi nỗi sợ
hãi cho dẫu cuộc đời mình phải đối mặt với nhiều gian nan thử thách.
- Sứ
điệp II: Cần phải hăng say loan báo Tin mừng phục sinh.
Sau
khi nhận ra Chúa phục sinh, hai bà Maria Mácđala và Maria liền tiến
đến ôm chân Người và phục lạy. Nhưng Chúa Giêsu lại với các bà “Hãy đi
báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó, họ sẽ gặp Ta.” Điều
này cho thấy sứ vụ loan báo tin mừng phục sinh là một nhiệm vụ cấp bách cần
phải được thi hành ngay.
Thánh
Phao-lô trong bài thánh thư cũng đã xác quyết với chúng ta rằng: “nếu
chúng ta được liên kết với Người trong cùng một cái chết, giống như cái chết
của Người, thì chúng ta cũng được hợp nhất với Người trong sự sống lại giống
như vậy.” Tin nhận và chịu phép rửa trong Ðức Giêsu là cách
chúng ta liên kết với Chúa Kitô trong cùng một cái chết, nên chúng ta cũng sẽ
được sống lại với Người (x. Rm 6,3-4). Đó là niềm tin lớn nhất của
người kitô hữu chúng ta.
Vậy chúng
ta hãy mạnh dạng ra đi loan báo niềm tin ấy cho hết mọi người ở khắp mọi nơi
qua mọi thời đại không hề sợ hãi, để nhờ đó mọi dân nước đều tin nhận và chịu
phép rửa trong Chúa Kitô, ngỏ hầu tất cả đều đón nhận được sự sống mới do chính
Chúa Giêsu phục sinh đem đến.
Đêm
hôm nay, trên tay mỗi người Ki-tô hữu chúng ta khi tham dự thánh lễ đều cầm
trên tay mình một cây nến nhỏ, được thắp lên từ cây nến Phục sinh. Đó chính là
biểu tượng đức tin của chúng ta. Cây nến ấy rồi sẽ cháy hết và sẽ tắt, nhưng
đức tin của chúng ta vào Chúa Giêsu phục sinh cần được thắp sáng và cháy mãi,
cho dẫu những phong ba bảo táp có ập đến trong cuộc đời chúng ta.
Nguyện
xin ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô luôn được thắp lên trong tâm hồn của mỗi
chúng ta và cầu mong ánh sáng niềm vui, bình an và sự sống của Chúa Giêsu phục
sinh mang đến trần gian được chiếu sáng và lan tỏa đến hết mọi người ở khắp mọi
nơi. Amen.
CHÚC MỪNG PHỤC SINH
Trong niềm hân hoan mừng Chúa chúng ta Phục sinh khải hoàn,
Xin kính chúc quý Cha, quý Tu sĩ, quý ông bà và anh chị em luôn được an
bình, vui tươi, hạnh phúc trong Chúa Giêsu Phục Sinh và một mùa Phục Sinh tràn
đầy ân sủng, niềm vui và hy vọng. Nguyện xin
tình yêu và bình an của Đấng Phục Sinh ở cùng tất cả anh chị em.
Chúa đã sống lại! Chúc Mừng Phục
Sinh! Alleluia! Alleluia!
RẢY NƯỚC THÁNH THAY SÁM HỐI ĐẦU LỄ
CÁC CHÚA NHẬT MÙA PHỤC SINH
X. Lạy
Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con (MPS. Al-le-lui-ia).
Đ. Và
ban ơn cứu rỗi cho chúng con (MPS. Al-le-lui-ia).
X. Lạy
Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện.
Đ. Và
cho tiếng con kêu lên tời Chúa.
X.
Chúa ở cùng anh chị em.
Đ. Và
ờ cùng cha.
Chúng
ta dâng lời cầu nguyện,
Lạy
Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin nhậm lời chúng con
và đoái thương sai Thánh Thiên Thần Chúa từ trời xuống, để canh giữ, nâng đỡ,
bảo vệ, viếng thăm, và bên vực mọi người sum họp trong nhà này. Chúng con cầu
xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen
X. Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời….
CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Cv 10,34a-37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
Suy niệm 1: PHƯƠNG CÁCH NHẬN RA CHÚA KITÔ PHỤC SINH
Hiệp
thông cùng Giáo Hội, hôm nay chúng ta hân hoan mừng trọng thể lễ Chúa Phục
sinh, kỉ niệm biến cố Đức Kitô đã chết và sống lại. Đây là mầu nhiệm nền tảng
và cao cả nhất của người Kitô hữu chúng ta. Bởi như lời thánh Phao-lô tông đồ
đã xác quyết: "Nếu Chúa Kitô không
sống lại thì niềm tin của chúng ta là hão huyền và lời rao giàng của chúng ta
là vô ích. Chúng ta là những người khờ dại nhất." (x.1Cr 15,12-19). Nhưng Đức Kitô đã sống lại nên đem đến niềm
vui, hy vọng cho chúng ta.
Vui vì
Đức Giêsu là người nên Ngài cũng đã chết thật nhưng Ngài là Thiên Chúa nên Ngài
đã sống lại thật, vì thế từ này sự chết không còn làm chủ được chúng ta nữa.
Hy
vọng vì qua mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô, chúng ta tin rằng nếu chúng ta
cùng chết với Đức Kitô thì chúng ta cũng sẽ được cùng sống lại với Người.
Vậy xin Chúa thương củng cố đức tin nơi mỗi người chúng ta để chúng ta kiên
cường sống và làm chứng cho niềm tin của mình với niềm hy vọng vào sự sống vĩnh
cửu mai sau.
Truyện
kể:
Trong kho tàn truyện cổ tích, có một câu truyện lý thú
sau đây:
Mặt trăng và Mặt Trời tranh cãi với nhau về Trái Ðất. Mặt Trời nói:
“Lá và cây cối, tất cả đều màu xanh”. Nhưng Mặt Trăng thì lại cho rằng, tất cả
chúng mang một ánh bạc lấp lánh. Mặt Trăng nói rằng, con người trên Trái Ðất thường ngủ.
Còn Mặt Trời lại bảo con người luôn hoạt động đấy chứ.
- Con người hoạt động, vậy tại sao trên Trái Ðất lại
yên ắng đến vậy? Mặt Trăng cãi.
- Ai bảo là trên Trái Ðất yên lặng? – Mặt Trời ngạc
nhiên – Trên Trái Ðất mọi
thứ đều hoạt động, và còn rất ồn ào, náo nhiệt nữa.
Và họ cãi nhau rất lâu, cho đến khi Gió bay ngang qua.
- Tại sao các bạn lại cãi nhau về chuyện này chứ? Tôi
đã ở bên cạnh Mặt Trời khi Mặt Trời nhìn xuống Trái Ðất, và tôi cũng đi
cùng Mặt Trăng khi
Mặt Trăng xuất hiện. Khi Mặt Trời xuất hiện, mọi thứ là ban ngày, cây cối màu
xanh, con người hoạt đông. Còn khi Trăng lên, đêm về, mọi người chìm vào giấc
ngủ.
Nếu chỉ nhìn mọi việc dưới con mắt của mình, thì mọi
thứ chẳng có gì là hoàn hảo, trọn vẹn cả. Không thể đánh giá Trái Ðất chỉ bằng
con mắt của Mặt Trời hoặc
Mặt trăng được.
Cũng
vậy khi đánh giá một con người, một sự việc nào đó, không thể nhìn từ một phía…
Tin
mừng Phục Sinh thuật lại cho thấy ba cái nhìn khác nhau khi chứng kiến cùng một
sự kiện “Ngôi mộ trống”:
-
Ma-ri-a Ma-đa-lê-na cứ đinh ninh rằng xác Chúa Giêsu đã bị đánh cắp (Ga 20,
13-15).
-
Phêrô thì rất đỗi ngạc nhiên vì sự việc đã xảy ra (Lc 24,12).
- Còn
Gioan, người môn đệ Chúa Giê-su thương mến, thì tin chắc rằng Chúa Giêsu đã
sống lại như lời Ngài đã tiên báo (Ga 20,9).
Sở dĩ
có những cái nhìn khác nhau như vậy là vì họ có những tâm trạng khác nhau:
-
Maria Mac-đa-la, với tâm trạng thương nhớ Chúa thiết tha. Có lẽ
cả đêm dài bà không chợp mắt được. Bà ước ao trời mau sáng để ra thăm mộ Chúa.
Nhưng khi chứng kiến tảng đá đậy mộ bị lăn ra và xác Chúa không còn trong mộ,
bà đã hốt hoảng chạy về báo tin cho các môn đệ Chúa. Tình thương của Maria
Mác-đa-la dành cho Chúa Giêsu là một tình thương đáng trân trọng. Nhưng nếu
tình thương ấy chỉ dừng lại ở mức độ cảm tính thường tình thì không có khả năng
nhận ra sự phục sinh của Chúa.
- Tông
đồ Si-mon-Phêrô thì đang mang nặng tâm trạng buồn rầu vì tội lỗi
đè nặng tâm hồn, bởi đã chối Thầy. Cho nên ông cũng không nhận ra gì hơn ngoài
việc rất đổi ngạc nhiên khi chứng kiến những mảnh băng vải và khăn che đầu được
cuốn lại xếp riêng ra rất ngăn nắp; cùng với ngôi mộ trống. Phải chăng lúc đó
tâm trí của ông vẫn còn bị ám ảnh giờ phút chối Chúa. Phải chăng lòng ông vẫn
còn mang nặng nỗi u buồn về tội lỗi mà mình đã nhát đảm gây ra. Ông còn phải có
thời gian như là liều thuốc đặc trị để chữa lành vết thương tâm hồn bất tín ấy
để tiến đến niềm tin trọn vẹn vào Chúa Giêsu phục sinh.
- Cách
riêng tông đồ Gioan, người môn đệ Chúa yêu cũng là môn đệ rất yêu Chúa, nên khi chứng
kiến những băng vải đặt bên trên ngôi mộ trống, lập tức ông đã tin là Thầy mình
sống lại như lời sách thánh đã tiên báo.
Vì
thế, để tin vào sự phục sinh của Chúa Giêsu, Gioan phải vượt lên trên tình cảm
tự nhiên như Maria Mac-đa-la, cũng như phải thắng vượt nỗi đau buồn mặc cảm tội
lỗi của Phêrô, để định hướng cái nhìn của mình vào sự kiện ngôi mộ trống bằng
tình yêu trong sáng dưới sự hướng dẫn của ánh sáng Lời Chúa. Chính cái nhìn này
đã giúp Gioan vững tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu. Như thế, cùng một sự
kiện nhưng lại có những cái nhìn khác nhau, khởi đi từ những tâm trạng khác
nhau.
Trong
cuộc sống hàng ngày, luôn có những biến cố vui buồn, sướng khổ, thành công thất
bại xảy ra…tựa như là dấu chỉ “ngôi mộ trống”. Vậy trước những
dấu chỉ đó ta có cái nhìn như thế nào?
Có thể
giống như Maria Mac-da-la, ta chỉ dừng lại ở cái nhìn do cảm tính tự nhiên thúc
đẩy nên khi đối diện với những biến cố ấy ta không nhận ra gì cả ngoài những
cảm xúc đau buồn khi gặp khó khăn, nghèo khổ, mất mác, thất bại và vui mừng khi
thành công, may mắn trong cuộc sống.
Có thể
chúng ta cũng giống như Phêrô, chẳng nhìn thấy gì hơn trước những biến cố xảy
ra trong đời sống vì quá tự ti mặc cảm bởi những lầm lỗi trong quá khứ của
mình.
Xin
Chúa cho chúng ta có được cái nhìn đức tin, được định hướng dưới ánh sáng lời
Chúa như thánh Gioan. Nhờ đó ta mới có thể nhận ra sự hiện của Chúa Giêsu phục
sinh trong mọi biến cố xảy ra trong cuộc đời chúng ta. Amen
Suy
niệm 2:
Trong một cơ hội tình cờ, có ba người đại diện cho ba
tôn giáo lớn là: Phật giáo, Hồi giáo và Thiên Chúa giáo ngồi lại tranh luận với
nhau, và ai cũng tự hào về đấng sáng lập đạo của mình.
- Người Phật tử nói: "Khi Đức Phật Thích Ca của
chúng tôi chết, chúng tôi đưa đi hỏa táng và hài cốt của Ngài hiện đang để
trong chùa Xá Lợi (Xương Phật), điều đó chứng tỏ đức Phật Thích Ca của chúng
tôi hiện hữu."
- Tiếp đến, Môn đồ Hồi giáo lên tiếng: "Khi Giáo
Chủ Mahomét của chúng tôi chết, ngài để lại cho chúng tôi nắm tóc và bộ râu, và
đã được lưu giữ trong đền thờ bên Árập. Điều đó chứng minh Giáo chủ chúng tôi
có mặt trên trần gian này."
Rồi hai người hỏi tín hữu Kitô giáo: "Còn Chúa
Giêsu của anh chết, Ngài có gì lại làm bằng chứng không?".
- Người tín hữu trả lời: Khi Chúa chúng tôi chết, Ngài
để lại ngôi mộ trống, vì Ngài không chết luôn như Giáo Chủ của các anh, Ngài đã
sống lại ra khỏi mồ. Do đó, chúng tôi không có mảnh xương, hài cốt như đức Phật
Thích Ca; hay nắm tóc, bộ râu như đức Giáo Chủ Mahomét.
Nếu Chúa Giêsu của chúng tôi chết mà không sống lại, thì chúng tôi chẳng tôn thờ Ngài. Các nhà truyền giáo cũng chẳng dại gì mà phải dấn thân vào những nơi xa xôi để rao giảng Tin mừng. Các thánh tử đạo cũng chẳng bao giờ liều mình đổ máu ra để làm chứng cho Đấng đã chết mà không sống lại.
Thánh Phaolô đã nói rằng: "Nếu Đức
Kitô chết mà không sống lại, thì đức tin của chúng ta chỉ là hão huyền và lời
rao giảng cũng trở nên vô ích…" (1Cr 15,14-19).
Nếu Đức Kitô chết mà không sống lại, thì Ngài không
phải là con Thiên Chúa hằng sống; việc Ngài hiến mình chịu chết là một điên rồ.
Những phép lạ Ngài làm chỉ là phù phép giả tạo. Toàn bộ giáo lý Ngài rao giảng
đều sụp đổ.
Nếu Đức Kitô chết mà không sống lại, chắc chắn các
Bí tích phát sinh từ cạnh sườn Ngài đều vô hiệu hoá. Giáo hội Ngài thiết lập sẽ
không tồn tại. Và như vậy, sẽ không có đạo Công Giáo, không có những ngôi thánh
đường trên thế giới.
Nếu Đức Kitô chết mà không sống lại, thì Ngài cũng
chẳng hơn gì chúng ta, cùng lắm thì như các vị đạo sư, chết là hết.
Nhưng, Đức Kitô đã chết và đã sống lại, chứng tỏ
Ngài là Thiên Chúa hằng sống, như lời Ngài nói: "Ta có quyền thí
mạng sống và cũng có quyền lấy lại” (Ga 10,18); “Ta là sự sống
lại và là sự sống." (Ga 10, 25).
- Thế thì, Chúa Kitô sống lại Ngài mang lại cho
chúng ta những gì?
Trước nhất, Ngài mang lại cho chúng ta niềm
vui. Niềm vui này khởi đi từ các tông đồ, "các ông vui
mừng vì xem thấy Chúa" (Ga 20, 20), và cũng là niềm vui cho toàn
thể dân thánh. Vui vì Chúa đã chiến thắng tử thần "Ngài không bao
giờ chết nữa" (Rm 6, 9). Vui vì nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của
Chúa, chúng ta được thông phần vào đời sống mới, với tư cách là con cái Thiên
Chúa, được đồng thừa tự với Đức Kitô.
Chúa sống lại ban cho chúng ta niềm hy vọng.
Hy vọng ngày mai đây khi nhắm mắt lìa đời, chúng ta cũng được sống lại với
Chúa, lúc đó ta sẽ gặp lại những người thân đi trước chúng ta.
Chúa sống lại ban cho chúng ta nguồn an ủi,
vì Chúa đã vượt qua cái chết bởi những đau khổ, đã nếm mùi cay đắng của một
kiếp người rồi mới tiến đến vinh quang.
Như vậy, mọi việc lành chúng ta làm ở đời này đều
sinh công ích. Mọi đau khổ của chúng ta đều có giá trị vĩnh cửu đời sau, nếu
chúng ta biết chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa. Chúa sống lại, Ngài muốn minh
chứng cho chúng ta biết rằng: Ngài là Thiên Chúa giàu lòng thương xót, đã chết
đi để chúng ta được sống.
Chớ gì mỗi năm mừng kỷ niệm Chúa Phục Sinh, là dịp
nhắc nhở chúng ta sống lời mời gọi của Thánh Phaolô: "Nếu anh em
muốn sống lại với Đức Kitô, thì anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời..." (Cl
3,1).
Tìm kiếm những sự trên trời, không phải là bỏ hết
công ăn việc làm để rồi tối ngày chỉ đi nhà thờ quỳ cầu nguyện liên lỉ, nhưng
tìm kiếm những sự trên trời, theo như lời thánh Phaolô khuyên nhủ đó là: "Dù
anh em ăn, dù anh em uống hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm vì vinh danh
Chúa." (1Cr 10,31). Mỗi sáng khi thức dậy, người mà chúng ta nhớ
đầu tiên phải là Chúa. Việc lo lắng tìm kiếm trước tiên phải là Nước trời "Tiên
vàn, các con hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước..." (Mt 6, 33).
Rồi cuối ngày trước khi ngả lưng xuống ngủ, người nhớ cuối cùng cũng phải là
Chúa, nếu có gì lầm lỗi trong ngày xin Chúa thứ tha. Nếu ngày nào chúng ta cũng
sống với tất cả ý thức như thế, là chúng ta đang tìm kiếm những sự trên trời,
đang sống Tin mừng Chúa Phục Sinh.
Anh chị em
thân mến,
Mỗi lần tham dự Thánh lễ, sau khi linh mục truyền
phép chúng ta đồng thanh tung hô: "Lạy Chúa, chúng con loan truyền
việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa
đến" (1Cr 11,26).
- Nhưng để loan
truyền và tuyên xưng việc Chúa sống lại ta phải làm gì?
1. Phải sống chứng nhân lòng thương xót bằng cách đem
yêu thương vào nơi oán thù; đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi
tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
2. Thay đổi lối sống của
mình. Cách tuyên xưng việc Chúa sống lại
không hệ tại ở "đầu môi chót lưỡi" nhưng hệ tại ở lối sống. Như các
tông đồ, họ không còn sống cho chính mình nữa, mà họ sống cho "Đấng đã
chết và sống lại". Vì thế, họ sẵn sàng chịu đau khổ, chịu chết vì danh
Chúa Phục sinh.
Ngày xưa, trong cuộc thương khó Chúa, các tông
đồ hoảng sợ, đức tin lung lay tận gốc rễ, nhưng nhờ Đức Mẹ củng cố niềm
tin mà các ông được vững mạnh. Thì bây giờ, giữa một thế giới có nhiều biến
động và nhiều thách đố, nhiều khi làm cho đức tin chúng ta bị lung lay chao
đảo, thì hãy bắt chước các tông đồ mau chạy đến với Đức Mẹ, người Mẹ của lòng
thương xót, Mẹ sẽ ra tay nâng đỡ phù trì, giúp chúng ta can đảm sống và làm
chứng cho Tin Mừng Phục Sinh của Chúa.
Lạy Nữ Vương thiên đàng, hãy vui mừng Alleluia.
Vì Con Mẹ đã sống lại thật. Alleluia.
Xin cầu cho chúng con. Amen.
Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Suy niệm 3:
Anh chị em thân mến,
Hôm
nay là ngày hân hoan nhất trong năm phụng vụ: Ngày Chúa Giêsu đã sống lại thật!. Cái chết không còn là tận cùng.
Bóng tối không còn bao phủ con người. Và tuyệt vọng đã nhường chỗ cho Hy vọng. Hy vọng bất diệt từ mồ trống
và từ ánh sáng Phục Sinh.
Trong
Năm Thánh 2025, với chủ đề “Hy vọng”,
Giáo hội mời gọi chúng ta không chỉ đón nhận Tin Mừng ấy cho riêng mình, mà còn
cùng nhau loan báo Tin Mừng Hy Vọng,
loan báo rằng Chúa đã sống lại và đang hiện diện giữa chúng ta!
1. Một ngôi mộ trống, một niềm tin bừng sáng
Bài
Tin Mừng hôm nay thuật lại sự kiện bà
Maria Mađalêna đến mồ lúc trời còn tối, và thấy tảng đá đã lăn ra khỏi
cửa mồ. Thánh Phêrô và Gioan cũng chạy đến. Ngôi mộ trống trở thành chứng từ đầu tiên cho cuộc phục sinh.
Chính
từ mồ trống ấy, niềm hy vọng được thắp
sáng:
- Hy
vọng cho những ai từng đánh mất đức tin,
- Hy
vọng cho người lầm lỡ, từng chối Chúa như Phêrô,
-
Hy vọng cho những tâm hồn tan nát vì đau khổ và mất
mát.
Chúa đã chiến thắng sự chết và chúng ta được mời gọi
sống lại với Ngài.
2. Loan báo Tin Mừng Phục Sinh là sứ mạng của tất cả chúng ta
Tin
Mừng không thể giữ riêng cho mình. Phêrô, Gioan, Maria Mađalêna và các Tông Đồ,
sau khi gặp Chúa sống lại, đã trở nên
những chứng nhân không mỏi mệt.
Hôm
nay, sứ mạng đó tiếp nối nơi mỗi người
chúng ta:
Loan báo Tin Mừng Phục Sinh chính là loan báo Hy
vọng, loan báo rằng Thiên Chúa đang hiện
diện giữa cuộc đời, và sự sống mạnh hơn sự chết.
Chúng
ta loan báo Tin Mừng bằng:
- Một niềm tin sống động, không nao núng
trước thử thách;
- Một đời sống yêu thương, dấn thân và phục
vụ anh chị em mình;
- Một tâm hồn tràn đầy hy vọng, kể cả khi xã
hội còn nhiều tối tăm và chia rẽ.
3. Loan báo Tin Mừng không phải đi một mình mà “cùng nhau”
Chủ đề
của Năm Thánh không chỉ là loan báo, mà là “cùng nhau loan báo”. Giáo hội là một cộng đoàn hy vọng, một Gia đình của Đấng Phục Sinh, được sai
đi không phải như những cá nhân đơn lẻ,
mà là trong sự hiệp nhất của Đức Tin.
- Gia đình là nơi đầu tiên ta làm chứng
về niềm tin và hy vọng.
- Họ
đạo là cộng đoàn loan báo Tin Mừng qua thánh lễ, bác ái, giáo lý, và sứ vụ
truyền giáo.
- Người trẻ, các hội đoàn, giới lao
động, người già yếu, tất
cả đều được mời gọi trở thành chứng
nhân hy vọng, dù là qua những hành động nhỏ nhất, miễn là từ trái tim
sống động bởi Phục Sinh.
Thánh Gioan
Phaolô II từng gọi các tín hữu là “những
người canh giữ buổi sáng sớm”, những người dõi theo ánh sáng Phục Sinh
giữa bóng tối trần gian. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu Phục Sinh cũng đang trao vào tay chúng ta ngọn đuốc của hy vọng:
- Hãy
để ánh sáng ấy sưởi ấm gia đình,
- Soi sáng cộng đoàn họ đạo,
- Và chiếu rọi cả thế giới đang khát khao một hy
vọng vững bền.
Chúa đã sống lại thật! Alleluia!
Chúng ta cũng hãy sống lại thật trong đức tin, để
cùng nhau loan báo Tin Mừng hy vọng của Chúa Giêsu! Amen.
Suy niệm 4:
Phục Sinh không chỉ là một sự kiện, mà là một bước
ngoặt lịch sử. Ngôi mộ trống
hôm ấy không chỉ là dấu chỉ vắng mặt của một xác chết, mà là khởi đầu của một sự hiện diện mới, sự hiện
diện sống động của Đấng Phục Sinh.
Gioan đã thấy và đã tin. Ông không thấy Chúa Giêsu bằng mắt thể lý,
nhưng nhìn thấy các dấu chỉ tấm
khăn liệm xếp lại, ông hiểu: Thầy đã sống lại.
Phêrô,
Gioan, và sau đó là Maria Mađalêna, các tông đồ, và vô số môn đệ đều từng bước
đi từ ngỡ ngàng đến xác tín. Niềm tin phục sinh không đến như một phép màu, mà
là một hành trình đi từ bóng tối của
đau thương đến ánh sáng của hy vọng.
Ngày
nay, chúng ta cũng được mời gọi bước vào hành trình ấy. Ngôi mộ trống của Chúa
là lời mời gọi vượt qua mọi nghi nan,
mọi tổn thương, để tin rằng: tình
yêu mạnh hơn sự chết, ánh sáng mạnh hơn bóng tối.
- Tôi có đang sống như thể Chúa vẫn đang chết,
hay tôi tin rằng Ngài đang sống động giữa cuộc đời tôi?
- Tôi có để ánh sáng Phục Sinh biến đổi góc tối
trong tâm hồn mình, nỗi sợ, tuyệt vọng, ích kỷ thành niềm vui, niềm tin và lòng
bác ái?
- Tôi có trở thành chứng nhân phục sinh bằng
lời nói, bằng hành động yêu thương, bằng lòng tha thứ?
Lạy
Chúa Giêsu Phục Sinh,
Xin
cho con được “thấy và tin” như Gioan,
Dù
nhiều khi Chúa ẩn mình trong thinh lặng,
Con
vẫn tin Chúa đang sống và đang yêu con.
Xin
biến con thành người mang Tin Mừng Phục Sinh,
Đến
với những ai đang khổ đau và thất vọng,
Để từ
nay, không còn bóng tối nào có thể che lấp ánh sáng hy vọng nơi Ngài.
Alleluia! Amen.
SUY NIỆM LỜI CHÚA
TUẦN THÁNH-PHỤC SINH
Lm Minh Anh, Tgp
Huế
CHÚA NHẬT LỄ LÁ
Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Lc 22, 14-23,56
KHÔN NGOAN TOÀN BÍCH
“Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết
trên cây thập tự!”.
“Không có Chúa Nhật Phục Sinh nào mà
không có Thứ Sáu Tuần Thánh. Đó là sự khôn ngoan toàn bích của Thiên Chúa! Đau
khổ và cái chết của Con Một Ngài là một phần không thể thiếu trong tiến trình cứu
độ!” - Susan Howatch.
Kính thưa Anh Chị em,
Bước vào Tuần Thánh, Lời Chúa toát
lên những mâu thuẫn giàu cảm xúc. Con Thiên Chúa vừa được đón tiếp như một vị
vua, vừa bị đối xử như một đại tội nhân chuốc lấy một án tử gớm ghiếc. Vậy mà
đó là điều Chúa Cha muốn và là sự ‘khôn ngoan toàn bích’ của Ngài!
Từ góc độ trần thế, những gì sẽ sớm xảy
ra sau đó chẳng có ý nghĩa gì ngoài thánh ý Chúa Cha! Chúa Giêsu chuốc lấy khổ
đau của Người Tôi Tớ được tiên báo hàng trăm năm trước, “Tôi đã đưa lưng cho
người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu” - bài đọc một; Ngài như bị bỏ
rơi, “Muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?” - Thánh Vịnh đáp ca; và
Phaolô kết luận, “Người hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết
trên cây thập tự!” - bài đọc hai.
Nhưng từ góc độ thần thánh, những gì
Chúa Giêsu chịu là khởi đầu của một hành động vinh quang nhất chưa từng được biết
đến - vinh quang thập giá! Bởi lẽ, thập giá là ngai mới của Ngài và vinh quang
Ngài nhận được khi vào thành thánh sẽ trọn vẹn vào giờ Ngài chịu treo lên trên
nó để chiếm lấy Vương Quyền vĩnh cửu.
Trong sự kế hoạch khôn dò của Chúa
Cha, đau khổ và cái chết có một mục đích lớn hơn! Thiên Chúa đã chọn cách làm
xáo trộn sự khôn ngoan thế gian bằng việc sử dụng việc nhân loại đóng đinh Con
Một Ngài. Ấy thế, điều ác lớn nhất hoá nên điều lành vĩ đại nhất. Giờ đây, bởi
niềm tin vào hành động này, thánh giá được dựng lên ở trung tâm các nhà thờ và
gia đình chúng ta như một lời nhắc nhở thường xuyên rằng, cả những điều xấu xa
nhất vẫn không thể vượt qua quyền năng, khôn ngoan và tình yêu của Thiên Chúa!
Rằng, Vua Giêsu có chiến thắng cuối cùng cả khi tất cả dường như đã mất! Vị Vua
này đã chỉ ra cho những ai đang trên đà hư mất một con đường, một hướng đi; chỉ
ra cho những gì tồn tại vốn đã bị tàn phá bởi nghi ngờ, sợ hãi - kể cả tội lỗi
- có được một luồng sáng mới, một nguồn sống mới và một nguồn ơn tha thứ mới.
Anh Chị em,
“Hãy nhìn lên Chúa Giêsu trên thập
giá và nhận ra rằng chúng ta chưa bao giờ được nhìn bằng ánh mắt dịu dàng và
thương cảm hơn, chưa bao giờ nhận được vòng tay yêu thương hơn. Hãy nói, “Lạy
Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa. Chúa yêu thương con và luôn tha thứ cho con, ngay
cả những lúc con thấy khó yêu thương và tha thứ cho chính mình!”” - Phanxicô.
Hãy để Tuần Thánh mang đến cho bạn niềm hy vọng thiêng liêng! Chúng ta thường bị
cám dỗ chán nản - tệ hơn - tuyệt vọng. Hãy nhớ, tất cả không mất; không thập
giá nào khuất phục được chúng ta nếu bạn và tôi luôn kiên định trong Chúa Kitô,
Đấng còn có tên là ‘Khôn Ngoan Toàn Bích’ của Thiên Chúa. “Hãy liên lỉ ghi nhớ
những nỗi thống khổ của một tình yêu bị đóng đinh vì bạn, tha thứ cho bạn!” -
Phaolô Thánh Giá.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, trong những gì nghiệt ngã
nhất của thánh giá đời con, cho con biết, Chúa đang có mặt ở đó và luôn có kế hoạch
khôn ngoan tuyệt vời nhất cho con!”, Amen.
Thứ hai: Ga 12, 1-11
CHO PHÉP LINH HỒN QUỲ GỐI
“Hãy để cô ấy yên!”.
“Bất kể trạng thái tâm thần bạn làm
sao, hãy luôn cho phép linh hồn quỳ gối! Bởi lẽ, thờ phượng và yêu mến luôn cần
cho sự thánh thiện và hạnh phúc của bạn!” - Anon.
Kính thưa Anh Chị em,
Maria trong Tin Mừng hôm nay là kiểu
mẫu của một người luôn ‘cho phép linh hồn quỳ gối!’. Cô cho thấy Chúa Giêsu
đáng giá hơn bình dầu trị giá 300 ngày công. Và còn hơn thế! Ngài đáng để mỗi
người đánh đổi mọi sự, ngay cả phẩm giá. Bởi lẽ, Ngài là nguồn thánh đức, sự sống
và niềm vui; Đấng cần cho sự thánh thiện và hạnh phúc của bạn!
Vậy mà Giêsu đó đã để Maria, một phụ
nữ, quỳ gối ‘tỏ tình’ giữa phòng tiệc - thậm chí - để cô ấy lấy một cân dầu
thơm hảo hạng đổ lên chân mình và lau nó bằng tóc. Với những gì kín đáo và quý
báu nhất của một phụ nữ, cô ‘tỏ tình’ với người cô yêu. Điều lý thú là, Giuđa bất
bình; nhưng lý thú hơn, Chúa Giêsu trách Giuđa và nói, “Hãy để cô ấy yên!”.
Với Chúa Giêsu, đây là một hành động
yêu thương, cao quý và khiêm nhường! Dầu này rất đắt. Đúng! Nhưng nếu ai khác
nói điều này, người ấy có vẻ tự tôn; đàng này, chính Chúa Giêsu; với Ngài, hoàn
toàn vô vị lợi! Vậy, hành vi này nói lên điều gì? Nó nói lên cái nhu cầu thiết
thực nhất mà Maria cần, cũng là điều bạn và tôi đang rất cần! Như Maria, chúng
ta cần tôn thờ Ngài, tôn vinh Ngài, để Ngài trở nên trung tâm đời mình. Không
phải vì Ngài cần điều đó, nhưng bởi ‘chính chúng ta’ cần tôn kính Ngài ‘theo
cách đó!’. Tôn kính, yêu mến Chúa Giêsu là điều bạn và tôi cần cho sự thánh thiện
và hạnh phúc! Ngài biết điều này; vì vậy, Ngài thầm khen, tán thành, nếu không
nói là ‘tôn vinh’ Maria. Và tất nhiên, Ngài không ngần ngại bênh vực, “Hãy để
cô ấy yên!”.
Kể lại câu chuyện này, Gioan mời
chúng ta làm như Maria, sẵn sàng “đổ” hết cho Chúa Giêsu! Không gì là quá đắt đối
với Ngài. Không gì đáng giá hơn việc thờ phượng! Thờ phượng và yêu mến sẽ biến
bạn thành con người mà bạn phải trở thành, để tôn vinh Thiên Chúa và yêu mến
Ngài “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực”. Thật ý nghĩa với
xác tín của Thánh Vịnh đáp ca, “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi!”.
Ngài là Ánh Sáng ban ánh sáng; Sự Sống ban nguồn sống, cũng là “Đấng sáng tạo
và căng vòm trời; Đấng ban hơi thở cho dân trên mặt đất” - bài đọc một.
Anh Chị em,
“Hãy để cô ấy yên!”. Chúa Giêsu chấp
nhận sự “quỳ gối” bên ngoài lẫn bên trong trái tim của Maria; vì lẽ, đang khi
các môn đệ dường như không mảy may thấu cảm, không một lời ủi an, không một
chút băn khoăn trong những ngày cuối đời của Thầy, thì Maria lại thực hiện một
hành vi yêu thương sâu sắc nhất. Bằng chứng là Ngài đã đi xa hơn và bóc trần sự
thật về mình, “Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho ngày mai táng Thầy!”.
Trong những ngày hôm nay, Giáo Hội mời chúng ta học nơi Maria, luôn ‘cho phép
linh hồn quỳ gối’, yêu mến Đấng Cứu Độ. Ngài đáng cho chúng ta “đập vỡ” không
chỉ bình dầu, hy sinh mái tóc nhưng cả con người hồn xác trí tri, “đập vỡ” ý định
tăm tối, vạy vò, tội lỗi… để chỉ yêu mến và phụng thờ duy một mình Ngài.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, những ngày Tuần Thánh còn
lại, dạy con biết quỳ gối nhiều hơn. Cho con hiểu được ‘con đầy tội, Chúa đầy
tình!’”, Amen.
Thứ ba: Ga 13,21-33.36-38
PHẢN BỘI
“Sau khi ăn miếng bánh, Giuđa liền đi ra. Lúc đó, trời đã tối!”.
Luôn luôn là đêm khi chúng ta rời xa
Đấng là “Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật!” - Kinh
Tin Kính.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh hồi kết đầy
cảm xúc - cả yêu thương lẫn ‘phản bội’ - ngay tại phòng Tiệc Ly và sẽ kết thúc
bằng cảnh Chúa Giêsu chịu đóng đinh vào thứ Sáu Tuần Thánh; “Sau khi ăn miếng
bánh, Giuđa liền đi ra. Lúc đó, trời đã tối!”.
Chính trong cuộc khổ nạn, khi lòng
thương xót của Chúa Kitô sắp chế ngự nó, thì tội lỗi biểu lộ rõ ràng nhất ‘sự dữ
dội’ và nhiều hình thức của nó: vô tín, xa lánh và chế giễu. Tuy nhiên, vào
đúng giờ đen tối, giờ của hoàng tử thế gian này, sự hy sinh âm thầm của Chúa
Kitô trở nên nguồn mạch mà ơn tha thứ tội lỗi của chúng ta sẽ tuôn đổ vô tận. Kẻ
tội lỗi - ‘phản bội’ - là kẻ quay lưng lại với Chúa để xoay quanh những tạo vật
mà lẽ ra chúng phải được quy chiếu về Ngài; “Tội lỗi là lòng yêu bản thân đến mức
khinh miệt Thiên Chúa!” - Augustinô.
‘Phản bội!’ - một sự quanh co - kết
quả của “sự kiêu ngạo khiến chúng ta muốn được giải thoát khỏi Thiên Chúa và bị
bỏ lại một mình; nó khiến chúng ta nghĩ rằng, tôi không cần tình yêu vĩnh cửu của
Ngài nhưng có thể làm chủ cuộc sống của chính mình!” - Bênêđictô XVI. Chúng ta
có thể hiểu tại sao Chúa Giêsu cảm thấy rất “xao xuyến” tối hôm đó. Ngài xao
xuyến vì Ngài bất lực! Dẫu đã thành công với con chiên lạc Giakêu, Matthêu,
Mađalêna… nhưng Ngài lại thất bại với người môn đệ cận thân - Giuđa!
“Con chiên lạc hoàn hảo nhất trong
Phúc Âm là Giuđa. Thật vậy, ông luôn có một chút cay đắng trong lòng, một chút
chỉ trích người khác; ông luôn ở xa: một người không biết đến sự ngọt ngào của
ân sủng khi sống với người khác. Vì không “thỏa mãn”, con chiên này đã “trốn
thoát”. Giuđa “trốn thoát” vì ông là một tên trộm; những người khác “trốn
thoát” vì bóng tối trong lòng họ khiến họ xa rời đàn chiên. Chúng ta - với nỗi
đau - phải đối mặt với cuộc sống hai mặt tồn tại trong nhiều Kitô hữu - thậm
chí - trong các Linh mục, Giám mục. Giuđa là một trong các Giám mục đầu tiên, một
“chiên lạc” hoàn hảo. Tội nghiệp thay! Cả chúng ta, cũng có thể hiểu được con
chiên lạc. Thật vậy, mỗi chúng ta luôn có một chút gì đó - dù ít hay không quá
ít - của con chiên lạc!” - Phanxicô.
Anh Chị em,
“Giuđa liền đi ra. Lúc đó, trời đã tối!”.
May mắn thay, bóng tối, tội lỗi - ‘phản bội’ - không phải là tiếng nói cuối
cùng; lời cuối cùng là lòng thương xót của Thiên Chúa! Tuy nhiên, điều này có
nghĩa là một “sự thay đổi” về phía chúng ta; một sự đảo ngược tình huống bao gồm
việc tách khỏi các thụ tạo để gắn bó với Thiên Chúa và tìm lại tự do đích thực.
Và để thay đổi, chúng ta không nên đợi đến khi phát ốm vì sự tự do giả tạo mà
chúng ta đã sử dụng. “Chúng ta muốn quay về khi chúng ta chán ngán thế giới hoặc
đúng hơn, khi thế giới chán ngán chúng ta!” - Louis Bourdaloue. Tuy nhiên,
chúng ta nên biết rõ hơn thế. Hãy quyết định ngay bây giờ. Tuần Thánh là thời
gian thích hợp nhất.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, mọi tên trộm ăn năn đều có
chỗ của mình trên thiên đàng. Giúp con thôi bước đi trong bóng tối nhưng trổi dậy,
bước ra trong ánh sáng Giêsu!”, Amen.
Thứ tư: Mt 26,14-25
CHỌN LỰA NGÀN VÀNG
“Thưa Thầy, chẳng lẽ con sao?”.
“Quả là một sự dữ khi mắc đầy lầm lỗi,
nhưng sẽ là một sự dữ lớn hơn khi đầy lầm lỗi mà không nhận ra!” - Pascal.
Kính thưa Anh Chị em,
Qua Tin Mừng hôm nay, ý tưởng “một sự
dữ lớn hơn” của Pascal lộ rõ nơi con người Giuđa, “Thưa Thầy, chẳng lẽ con
sao?”. Giá mà Giuđa thừa nhận tội mình để ăn năn thống hối, thì quả đây là một
‘chọn lựa ngàn vàng!’.
Vậy mà đến phút này, Giuđa vẫn không
nghĩ mình phản bội! Không ai biết điều gì diễn ra trong tâm trí ông lúc đó;
nhưng rõ ràng, ông đã phản bội! Nhưng xem ra Giuđa không mảy may tự vấn lương
tâm; có lẽ ông đã quá lún sâu trong ý định nộp Thầy nên ông phủ nhận nó, một phủ
nhận chết chóc! “Phủ nhận” có nghĩa là “Tôi thậm chí không biết mình đang nói dối!”.
Phải chăng vì quá tham tiền, phải chăng vì quá hụt hẫng bởi tham danh khi Thầy
mình chọn con đường trị vì bằng khiêm nhu phục vụ… Vì thế, Giuđa đắm chìm trong
tội và sa lầy trong đó đến nỗi không thể thừa nhận với chính mình, chứ đừng nói
thừa nhận với người khác; rằng, ông đang nói dối và chuẩn bị phản Thầy.
Đây là một bài học quan trọng. Tội lỗi
không bao giờ là điều thú vị khi nhìn vào nó; phải hết sức can đảm mới có thể đối
diện nó! Nếu Giuđa thực sự thú nhận những gì ông sắp làm; hoặc nếu ông sấp mình
dưới chân Chúa Giêsu, trước các bạn đồng môn, nói cho Thầy và anh em biết toàn
bộ sự thật, thì có lẽ, hành động lương thiện này đã cứu được linh hồn và mạng sống
ông. Điều này rất khó vì đau đớn và sĩ diện, nhưng nếu vượt qua, thì đó là một
chọn lựa sáng suốt nhất, một ‘chọn lựa ngàn vàng!’.
Có lẽ chúng ta không ở vào thời điểm
mà tội lỗi có thể dẫn đến phản bội Chúa Giêsu như Giuđa; nhưng mỗi người đều có
thể tìm thấy một số loại hình phản bội của mình. Với sự giúp đỡ của Chúa Thánh
Linh, bạn và tôi hãy tìm khám phá một số ‘nếp tội’ hoặc một thói quen xấu vốn
đã hình thành nơi bản thân. Hãy gọi tên nó; và quan trọng hơn đem nó đến cho
Chúa Giêsu! Đây là một khám phá tuyệt vời nếu chúng ta dũng cảm đối mặt với một
tội ‘đầu nậu’ nào đó. Điều này cho phép bạn bóc trần tội mình; chiến thắng nó,
để khám phá sự tự do mà Chúa Phục Sinh muốn bạn trải nghiệm!
Anh Chị em,
“Thưa Thầy, chẳng lẽ con sao?”. Câu hỏi
này hẳn đã làm cho trái tim Chúa Giêsu tan nát. “Và câu chuyện kết thúc thế
nào? Ma quỷ là một người trả lương kém: hắn không phải là một người trả lương
đáng tin cậy. Hắn hứa hẹn mọi thứ, cho bạn thấy mọi thứ và cuối cùng, bỏ bạn lại
một mình trong tuyệt vọng để tự treo cổ mình!” - Phanxicô. Đừng để ma quỷ thắng
bạn. Lòng thương xót Chúa lớn hơn tội chúng ta vạn lần, đến nỗi nếu hiểu được
nó, không ai cần phải tiếp tục chối nhận tội mình. Hãy có cho mình một ‘chọn lựa
ngàn vàng!’. Chúa Giêsu sẵn sàng “nâng đỡ sự nhọc nhằn”, Ngài “biết lựa lời
nâng đỡ ai rã rời kiệt sức” - bài đọc một. An ủi biết bao khi chúng ta hiểu được
điều này! “Lạy Chúa, đây giờ phút thi ân; vì ơn cả nghĩa dày!” - Thánh Vịnh đáp
ca. Tuần Thánh, tuần Thiên Chúa thi ân!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, vẫn còn kịp! Xin giúp con
dám sấp mình trước toà Cáo Giải ngay hôm nay; ở đó, Chúa đang đợi để ôm lấy
con. Và đó là một chọn lựa quý hơn ngàn vàng!”, Amen.
THỨ NĂM TUẦN THÁNH: Ga 13,1-15
MỘT LẦN TẶNG, MUÔN LẦN TRAO
“Này là mình Thầy!”.
“Người khôn ngoan không coi trọng món
quà của người yêu cho bằng tâm tình của người tặng. Chúa Giêsu vừa là người
yêu, vừa là người tặng! Độc đáo hơn, món quà Ngài tặng chính là mình Ngài.
Không chỉ một lần, Ngài tặng trao mỗi ngày! Một lần tặng, muôn lần trao!” -
Anon.
Kính thưa Anh Chị em,
Ý nghĩa Thánh Lễ chiều Thứ Năm Tuần
Thánh có thể được tóm gọn trong hai từ: “Tự Hiến!”. Vì yêu thương đến cùng các
môn đệ và những ai sẽ dõi bước theo Ngài, Chúa Giêsu đã tự hiến đến ‘ba lần’
vào hai buổi chiều cuối đời; nhưng không chỉ ‘ba’, Ngài tự hiến đến ‘n’ lần,
muôn lần! Bởi lẽ, mỗi ngày, trên các bàn thờ, Ngài tiếp tục tự hiến cho đến tận
thế. Ngài quả là một món quà ‘một lần tặng, muôn lần trao!’.
Chính trong bữa tiệc yêu thương mà
người Do Thái phải cử hành hằng năm - bài đọc một - Chúa Giêsu tự hiến khi cúi
xuống rửa chân cho các môn đệ. Cũng trong bữa tối đó, Ngài tự hiến dưới hình thức
của ăn của uống khi cầm lấy bánh rượu thiết lập Bí tích Thánh Thể - thiết lập
chức Linh mục - “Hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Thầy!”, “Hãy nhận lấy mà uống,
này là Máu Thầy!”. Trong thư Côrintô hôm nay, Phaolô viết, “Mỗi lần ăn Bánh và
uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết!”.
Như vậy, khi cúi xuống rửa chân các
môn đệ hay khi cầm bánh rượu là chính Thịt Máu Ngài để trao cho họ, Chúa Giêsu
đã tiên liệu một món quà ít trừu tượng hơn, thiết thực hơn mà Ngài sẽ trao vào
ngày hôm sau: một thân xác rách bươm đỏ một màu máu trên thập giá. Vì thế, chỉ
trong hai ngày Tuần Thánh đầu tiên ấy, Ngài đã tự hiến chính mình đến ba lần.
Và còn hơn thế! “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy!”; với các Linh mục của
Ngài, mầu nhiệm đức tin đó còn được cử hành liên lỉ trên các bàn thờ. Qua Bí
tích này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tự hiến phục vụ lẫn nhau. Khi chúng ta phục
vụ nhau, Ngài tiếp tục phục vụ mỗi người; và qua chúng ta, Ngài phục vụ những
người khác trên toàn thế giới, nhất là những ai đang thiếu thốn. Bởi đó, Món
Quà Giêsu không chỉ được trao một lần, ba lần, nhưng liên lỉ trao đến tận thế!
Anh Chị em,
“Này là mình Thầy!”. “Chúa Giêsu muốn
ở lại với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể và chúng ta trở thành nhà tạm của
Chúa, mang Chúa theo với chúng ta. Rửa chân, cử chỉ này là điều kiện để vào
Vương Quốc. Vâng, để phục vụ mọi người. Nếu tôi không để Chúa là ‘tôi tớ’ của
tôi, không để Chúa rửa sạch tôi, giúp tôi lớn lên, tha thứ cho tôi, thì tôi sẽ
không vào Vương Quốc. Và cả chức Linh mục nữa. Hôm nay tôi muốn gần gũi với tất
cả Linh mục từ những người mới được thụ phong cho đến Giáo hoàng. Tất cả chúng
ta đều là Linh mục. Chúng ta được Chúa xức dầu để cử hành Bí tích Thánh Thể, được
xức dầu để phục vụ” - Phanxicô. Thánh Thể nuôi dưỡng phục vụ; phục vụ, hiện thực
hoá Thánh Thể. Hãy để Thứ Năm Tuần Thánh; hãy để Thánh Thể dạy chúng ta tự hiến
như Ngài mỗi ngày, chết cho mình, khiêm nhường phục vụ tha nhân và yêu như Ngài
đã yêu.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, nhờ việc tham dự vào thần
tính của Đấng đã đoái thương thông phần nhân tính của chúng con, ước chi Thánh
Thể Chúa biến đổi con mỗi ngày nên ‘một Giêsu khác!’”, Amen.
THỨ SÁU TUẦN THÁNH: Ga 18, 1-19, 42
ĐÓNG ĐINH MỘT VỊ THẦN
“Chính tôi đây!”.
“Không ai luôn nói về Chúa cho bằng
những người nói rằng, không có Ngài. Cũng không ai biết Chúa Giêsu là Chúa mà lại
đóng đinh Ngài. Vậy mà mỗi lần phạm tội trọng, họ đóng đinh Ngài, đóng đinh một
vị Thần!” - Heywood Broun.
Kính thưa Anh Chị em,
Ghi lại Cuộc Thương Khó của Chúa
Giêsu, chỉ Gioan có được khẳng định này: “Chính tôi đây!”. Khẳng định đó đưa
chúng ta về một sự thật vô cùng quan trọng. Rằng, Ngài là Con Thiên Chúa, là
Thiên Chúa! Vì thế, đóng đinh Giêsu, nhân loại ‘đóng đinh một vị Thần!’.
“Chính tôi đây!”, “Tôi Là!” hay “Tôi
Hằng Hữu!” - những danh xưng chỉ dành cho Thiên Chúa. Chính Ngài đã sử dụng tước
hiệu này để tự mặc khải cho Môsê; Kitô giáo sử dụng nó để chỉ Đấng tạo dựng
muôn loài. Lạ lùng thay, “Chính tôi đây!” cũng là lời Chúa Giêsu công khai
tuyên bố trước quân dữ. Chẳng vô tình chút nào, Ngài công khai thần tính siêu
việt! Vì lý do đó, Gioan viết, “Nghe thế, họ lùi lại và ngã xuống đất!”. Suy gẫm
cuộc khổ nạn của Chúa, bạn đừng quên; Ngài là một Thiên Chúa bị đóng đinh để cứu
độ thế giới, một thế giới ‘đóng đinh một vị Thần!’.
Cũng trong bối cảnh này - thật thú vị
- Phêrô tuyên bố một lời hoàn toàn ngược lại, rất phàm nhân: “Không phải tôi!”.
Đó là lời nói dối của ông trước một tớ gái, không phải trước một nữ hoàng!
“Không phải tôi” là ‘nội hàm’ cho tất cả yếu đuối và mỏng giòn nhất của con người.
Khi làm vậy, Phêrô xác nhận sự yếu hèn của bản thân cũng như nhu cầu của mình
trước ân sủng và lòng thương xót Chúa. Về điểm này, bạn và tôi nên đồng ý với
Phêrô!
Bối cảnh thương khó của Chúa Giêsu đặt
liền kề việc Phêrô chối Thầy; và dẫu cái chết của Chúa Giêsu vẫn xảy ra nếu
không có sự chối Thầy của Phêrô; nhưng ảnh hưởng của nó vẫn tác động đến ông.
Ngài đã chết thay cho Phêrô, cho mọi người; nhờ đó, cứu chuộc cả nhân loại. Sự
thiếu đức tin và tình yêu của Phêrô không thay đổi được điều đó; nhưng một khi
quay trở lại và tin, Phêrô loan báo chân lý này thật xa và thật rộng! Rằng,
“Anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ mà đóng đinh Ngài vào thập giá. Nhưng Thiên Chúa
đã làm cho Ngài sống lại; đặt Ngài làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô!”. Tác phẩm
“Thập Giá Chiến Thắng” của Janice Alexander đã diễn tả sự vui mừng của Chúa
Kitô với đôi mắt mở to, mặt hớn hở, dang rộng đôi tay trên thập giá như một vị
Vua đang ôm chầm thế giới!
Anh Chị em,
“Chính tôi đây!”. Thứ Sáu Tuần Thánh
là thời điểm đỉnh cao của tình yêu. Cái chết của Chúa Giêsu - Đấng đã phó mình
cho Chúa Cha trên thập giá để ban ơn cứu độ cho toàn thế giới - diễn tả tình
yêu trao ban đến cùng, một tình yêu không có hồi kết. Một tình yêu tìm cách ôm
trọn mọi người, không loại trừ một ai. Một tình yêu trải dài qua thời gian và
không gian: nguồn ơn cứu độ vô tận mà mỗi người chúng ta - những tội nhân - có
thể rút ra. Hãy để mình được bao bọc trong lòng thương xót này, lòng thương xót
đến gặp gỡ chúng ta; và trong những ngày này, khi hướng mắt về cuộc khổ nạn và
cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta hãy đón nhận trong lòng mình tình yêu vô biên
của Ngài. Và như Đức Mẹ, trong thinh lặng, chúng ta chờ đợi Sự Phục Sinh!” -
Phanxicô.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, mỗi lần phạm tội, con đóng
đinh Chúa. Giúp con kiên trì xây dựng lại bản chất thứ hai như Phêrô, đó là khả
năng thống hối và quay trở lại!”, Amen.
THỨ BẢY TUẦN THÁNH
LẶNG THINH VÀ TRẢI NGHIỆM
“Ngài không có ở đây!”.
Tại các Giáo Phận, phần lớn các họ đạo
truyền thống có thói quen ngắm Mười Lăm Sự Thương Khó Đức Chúa Giêsu vào Mùa
Chay. Riêng Huế, kinh nguyện quý báu này được ngắm vào Tuần Thánh; đặc biệt,
sáng thứ Năm, thứ Sáu và thứ Bảy vốn được gọi là Kinh Lễ Đèn, vì có đến 15 ngọn
nến hoặc đèn được đốt lên trên cùng một giá. Cách thức đọc được hướng dẫn đến từng
chi tiết; ngắm một chặng, đọc 1 kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng, tắt một ngọn nến.
Tuy nhiên, ở Lễ Đèn 3, tức sáng thứ Bảy, ngọn nến 15 sẽ không được tắt! Thật
thú vị, nó được đem vào phòng thánh một chốc, đang khi cộng đoàn quỳ gối ngắm
“Thánh Mẫu Thống Khổ Kinh”; sau đó, nến này được đem ra, đặt trên bàn thờ. Nó
tượng trưng cho Chúa Giêsu! Ngài đã chết, nhưng thực ra, cái chết của Ngài chỉ
như một sự nghỉ ngơi trong mồ. Vì thế, thứ Bảy Tuần Thánh được coi như ngày - với
Maria mẹ mình - Kitô hữu lặng thinh và trải nghiệm đợi ngày Con Chúa phục sinh!
Kính thưa Anh Chị em,
Thứ Bảy Tuần Thánh, Giáo Hội không có
một nghi lễ nào, mãi cho đến buổi cử hành cực trọng Đêm Vọng Phục Sinh. Hôm
nay, trầm tư suy gẫm chậm rãi với Mẹ Maria, mỗi tín hữu tìm một ‘nơi vắng vẻ’,
dành cả một ngày để suy ngắm cuộc tử nạn của Chúa Giêsu; và nhất là, cùng Mẹ ‘lặng
thinh và trải nghiệm’ các mầu nhiệm!
Phụng vụ của những ngày qua đầy cảm
xúc với nhiều nghi lễ; nhưng thứ Bảy Tuần Thánh lại trôi qua lặng lẽ, thanh thản.
Đó là một ngày để tận hưởng tất cả những cảm xúc đan xen giữa trầm buồn lẫn hy
vọng! Đừng để thứ Bảy Tuần Thánh trôi qua như bao ngày khác, hay chỉ là một
ngày giữa thứ Sáu Thánh và Chúa Nhật Phục Sinh. Đó là một ngày mà bạn và tôi
cùng Mẹ mình, Mẹ Hội Thánh, tĩnh lặng, chiêm ngắm và tôn thờ.
Chỉ trong sự trầm mặc này, các tông đồ
và cả chúng ta mới có thể nhìn thấy mọi sự đã xảy ra phù hợp và trùng khít với
nhau thế nào. Chỉ trong sự im ắng của ngày thứ Bảy lặng yên với Mẹ của Thầy,
các môn đệ mới có thể hiểu được những gì Chúa Giêsu đã nói, đã làm. Cũng thế, với
chúng ta! Nhiều lần, chúng ta nghĩ, chúng ta biết Ngài! Ngài là ai, dạy chúng
ta điều gì, nhưng thực ra, những điều đó chưa đi vào trái tim; bằng chứng là cuộc
sống của bạn và tôi chưa biến đổi! Phải lắng nghe, cẩn thận suy ngẫm những gì
Chúa Giêsu đã dạy, đã làm, may ra chúng ta mới hiểu sâu sắc để áp dụng vào cuộc
sống mình!
Anh Chị em,
“Ngài không có ở đây!”. Thinh lặng của
ngày hôm nay không phải là thinh lặng của thoái chí, tuyệt vọng, nhưng là
‘thinh lặng thánh’, một sự im ắng của niềm mong đợi lớn lao sẵn sàng bùng lên
trong niềm vui vỡ oà của Đêm Vọng Phục Sinh. Chúng ta sẽ ‘đến mộ’ Chúa cùng các
thánh nữ, không phải để xức dầu cho một xác chết, nhưng để mừng vui với các
thiên thần khi nghe họ tuyên bố, “Ngài không có ở đây. Ngài đã sống lại!”; “Tại
sao các bà lại tìm người sống nơi những kẻ chết?”. Và như thế, nhờ có một ngày
cùng Mẹ ‘lặng thinh và trải nghiệm’, chúng ta mới có thể hân hoan nói với Mẹ,
“Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, hãy vui mừng, Halleluia!”; và cùng Mẹ, hát khúc khải
hoàn, “Chúa Đã Sống Lại, Halleluia!”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Mẹ Maria, dạy con biết chờ đợi Chúa như Mẹ. Không chỉ hôm nay, nhưng từng ngày; không phải ngủ gà ngủ gật, nhưng hỷ hoan với đèn chói sáng trong tay!”, Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét