Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2025

 SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH

Lm. Nguyệt Giang

CHÚA NHẬT PHỤC SINH-NĂM C

Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9

Suy niệm 1: CHÚA SỐNG LẠI-CHÚNG TA CŨNG SẼ SỐNG LẠI

Hôm nay, cùng với GH hoàn vũ, chúng ta cùng nhau cử hành một lễ ngày trọng đại nhất trong năm phụng vụ: Chúa Nhật Phục Sinh. Đây là ngày kỉ niệm lại biến cố Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, bước ra khỏi ngôi mộ trống, để mang lại cho chúng ta niềm hy vọng vĩnh cửu.

Ngôi mộ trống không chỉ là một sự kiện lịch sử, mà còn là lời tuyên bố mạnh mẽ: Chúa đã sống lại, và chúng ta cũng sẽ cùng sống lại với Ngài!

Trong bài đọc 1: Thánh Phêrô đã mạnh mẽ loan báo rằng Chúa Giêsu, Đấng chịu đóng đinh, đã sống lại và trở thành nguồn ơn cứu độ cho mọi người. Đây là Tin Mừng mà các Tông đồ đã rao giảng khắp nơi, bất chấp mọi hiểm nguy.

Trong bài đọc thứ hai: Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng: nếu chúng ta đã được sống lại với Chúa Kitô, thì chúng ta phải hướng lòng về những sự trên trời, sống một đời sống mới, thánh thiện và đầy yêu thương.

Và trong Tin Mừng: thánh Gioan trình thuật cho ta biết, bà Maria Mađalêna, Phêrô, và Gioan đều đối diện với ngôi mộ trống. Ban đầu, họ còn hoang mang, nhưng dần dần, qua đức tin, họ nhận ra rằng Chúa Giêsu đã sống lại như lời Ngài đã phán.

Như vậy, sự sống lại của Chúa Giêsu chính là nền tảng đức tin của chúng ta. Và với mầu nhiệm phục sinh của Chúa, khẳng định với chúng ta rằng:

- Tình yêu mạnh hơn sự chết: Thập giá tưởng chừng là thất bại, nhưng lại trở thành con đường dẫn đến vinh quang. Và

- Hy vọng không làm chúng ta thất vọng: Cho nên dù cuộc sống có khó khăn, đau khổ, hay mất mát, nhưng với biến cố Phục Sinh, Chúa lại hứa ban cho chúng ta sự sống mới.

- Cho nên, mỗi người chúng ta đều được mời gọi sống lại vì Phục Sinh không chỉ là sự kiện xảy ra cách đây hơn 2.000 năm, mà là lời mời gọi chúng ta hôm nay là hãy để cho Chúa biến đổi tâm hồn, gia đình, và cộng đoàn chúng ta.

Kính thưa ông bà và anh chị em, Chúa Nhật Phục Sinh 2025 đến với chúng ta trong bố cảnh thế giới vẫn còn đó nhiều bóng tối: chiến tranh, hận thù, bất công, chia rẽ, và những khó khăn kinh tế xảy ra trên toàn thế giới. Nhưng ngôi mộ trống lại nhắc nhở chúng ta rằng không có bóng tối nào mà ánh sáng của Chúa Kitô không thể xua tan.

Vậy chúng ta hãy vững tin vào ánh sáng hy vọng phục sinh của Chúa và hãy là chứng nhân của niềm tin và hy vọng ấy:

- Như bà Maria Mađalêna, chúng ta hãy tích cực loan báo Tin Mừng bằng đời sống yêu thương, tha thứ, và hy vọng.

- Theo lời thánh Phaolô dạy, chúng ta hãy tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu, thay vì chỉ chạy theo những thứ mau qua của thế gian này.

- Và trong mọi hoàn cảnh ta hãy luôn  tin tưởng vào tình thương và quyền năng Chúa. Ngay cả khi chúng ta đối diện với "ngôi mộ trống" trong cuộc đời. Những thất bại, mất mát, hay hoang mang, hãy tin rằng Chúa đang hành động để mang lại sự sống mới cho chúng ta.

Anh chị em thân mến, hôm nay, cùng với GH hoàn vũ chúng ta vui mừng hát vang: "Allêluia! Chúa đã sống lại!" thì hãy để cho niềm vui ấy tràn ngập tâm hồn chúng ta. Hãy để ánh sáng của Chúa Kitô phục sinh chiếu soi vào trong cuộc đời chúng ta. Và hãy hăng say ra đi mang Tin Mừng Phục Sinh của Chúa đến cho mọi người, bằng lời nói và hành động của mình.

Nguyện xin Chúa Giêsu Phục Sinh ban cho mỗi người chúng ta sức mạnh và niềm hy vọng vào sự phục sinh của Chúa để ta sống xứng danh là những chứng nhân sáng ngời cho niềm vui Tin Mừng của Chúa, hôm nay và mãi mãi. Amen.

CHÚA SỐNG LẠI – TA SỐNG LẠI

Hôm nay rực rỡ bình minh,
Chúa lên từ cõi tử sinh huy hoàng.
Ngôi mộ trống, ánh vinh quang,
Cất lên hy vọng muôn ngàn thế nhân.

Phêrô rao giảng ân cần,
Giêsu chịu chết – sống gần mọi nơi.
Phaolô nhắn nhủ từng lời,
Sống cùng Thiên Chúa, lòng thời hướng lên.

Maria đến mộ buồn tênh,
Phêrô, Gioan cũng chen chân vào.
Ban đầu hoang vắng dạt dào,
Dần dần nhận biết ngọt ngào phục sinh.

Thập giá tưởng chừng là hình
Của bao thất bại, điêu linh khổ sầu,
Nào hay chính đó nhiệm mầu
Đưa ta đến ánh nhiệm mầu thiên cung.

Phục sinh – tình Chúa vô cùng,
Xua tan bóng tối trong vùng trần gian.
Niềm tin, hy vọng ngập tràn,
Chúa ban sự sống bình an cho đời.

Hỡi ai đang sống chơi vơi,
Khó khăn, thử thách rã rời niềm tin,
Xin đừng sợ hãi ưu phiền,
Chúa đang đổi mới mọi miền tim ta.

Như Mađalêna thiết tha,
Ta mau loan báo Tin Cha rạng ngời.
Tìm điều trên hết cuộc đời,
Đừng say phù vân giữa nơi thế trần.

Tin vào quyền Chúa vô ngần,
Ngay khi gặp lúc gian truân tối mờ.
Allêluia! Chúa đang chờ,
Trao ta sức sống bất ngờ, yêu thương!

Nguyện xin Phục Sinh Chúa ban,

Cho ta chứng tá ngập tràn an vui,

Dẫn người đến với nguồn vui,

Tin Mừng hy vọng – sáng soi muôn đời.

 

Suy niệm 2:

Hôm nay, Giáo hội hân hoan mừng lễ Phục Sinh là lễ trọng nhất trong năm Phụng vụ. Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần, đem lại sự sống mới cho nhân loại.

Ánh sáng Phục Sinh xóa tan bóng tối của đau thương, tuyệt vọng, và mở ra một chân trời hy vọng.

Phục Sinh không chỉ là niềm vui cho một ngày, mà là một biến cố thay đổi vận mệnh của toàn nhân loại. Đó là lý do tại sao, trong Năm Thánh Hy Vọng này, chúng ta được mời gọi “cùng nhau loan báo Tin Mừng hy vọng của Chúa Giêsu.”

Bài Tin Mừng hôm nay kể lại hành trình đến mộ Chúa của Maria Mađalêna, Phêrô và Gioan. Cả ba người đều đối diện với cùng một thực tại: “ngôi mộ trống”. Nhưng mỗi người có một cảm nhận khác nhau:

- Maria Mađalêna hoảng hốt tưởng xác Chúa bị đánh cắp.

- Phêrô ngạc nhiên, chưa hiểu điều gì đang xảy ra.

- Gioan, người môn đệ được Chúa yêu, đã thấy và tin.

Sự khác biệt này phản ánh tình trạng đức tin của mỗi người. Gioan tin không phải vì thấy Chúa hiện ra, mà vì tin vào Lời đã được loan báo trước đây. Gioan đại diện cho người Kitô hữu chúng ta hôm nay: tin vào mầu nhiệm Phục Sinh qua dấu chỉ và Lời Chúa.

Sự sống lại của Chúa Giêsu là bảo chứng rằng:

- Sự dữ, tội lỗi, và cái chết không có tiếng nói sau cùng.

- Hy vọng không phải là mộng tưởng, mà là một sự thật được xây trên biến cố lịch sử: Chúa đã chết và đã sống lại.

- Ai tin vào Ngài, dù có chết, cũng sẽ được sống (Ga 11,25).

Trong một thế giới đầy lo âu, chiến tranh, khủng hoảng môi trường và đức tin bị lung lay, Phục Sinh mời gọi chúng ta không đầu hàng bóng tối, nhưng bước đi trong ánh sáng niềm tin và hy vọng.

- Được Phục Sinh biến đổi, chúng ta không thể giữ niềm vui ấy cho riêng mình. Như các tông đồ xưa, chúng ta được sai đi:

- Loan báo Tin Mừng bằng cuộc sống chân thật, yêu thương, phục vụ.

- Đem hy vọng đến cho người nghèo, người đau khổ, người thất vọng.

- Xây dựng cộng đoàn hiệp thông, nơi niềm vui Phục Sinh được chia sẻ.

Trong Năm Thánh 2025 này, Giáo hội mời gọi mỗi Kitô hữu trở thành người gieo rắc hy vọng, như Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Chúng ta là những người canh giữ bình minh, người loan báo bình minh của Đấng Phục Sinh.”

Anh chị em thân mến,

Niềm tin vào Chúa Phục Sinh không phải là một ký ức của quá khứ, mà là một sức sống hôm nay. Chúa đang sống và hiện diện giữa chúng ta, trong Giáo hội, trong Thánh Thể, trong Lời Chúa, và trong từng người có đức tin.

Ước gì mỗi người chúng ta:

Biết sống niềm tin Phục Sinh trong hy vọng.

- Trở nên chứng nhân cho Tin Mừng sự sống.

- Cùng nhau lan tỏa ánh sáng Phục Sinh đến mọi nơi.

“Alleluia! Chúa đã sống lại thật! Alleluia!”

 

TIN MỪNG PHỤC SINH

Chúa nay đã sống lại rồi,
Mở ra hy vọng cho người trần gian.
Phục Sinh – ánh sáng dịu dàng,
Xua tan tội lỗi, ngập tràn niềm tin.

Ngôi mộ trống, dấu thiêng linh,
Gioan thấy vậy – lòng tin sáng ngời.
Chúa sống – bảo chứng tuyệt vời,
Ai tin vào Chúa, được đời trường sinh.

Giữa bao khủng hoảng tử sinh,
Ta không đầu hàng bóng hình tối tăm.
Nhưng sống hy vọng, âm thầm,
Loan Tin Mừng Chúa đến tâm hồn người.

Phục Sinh thắp sáng nụ cười,
Chia nhau niềm vui, dựng đời hiệp thông.
“Alleluia!” khắp cõi lòng,
Chúa luôn hiện diện, một vòng yêu thương.

 

Suy niệm 3: Thánh Phaolô đã nói: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15,14). Nhưng vì “Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu…” cho nên những ai “liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống lại” (1Cr 15, 20- 22). Đó chính là nền tảng đức tin căn bản của chúng ta.

Xin cho chúng ta luôn biết gắn bó mật thiết với Chúa Kitô phục sinh bằng tất cả niềm tin yêu và phó thác để như lời thánh Phaolô xác quyết: “nếu ta cùng chết với Đức Kitô, thì ta tin rằng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài.” (Rm 6, 8).

Phụng vụ lời Chúa trong ngày lễ phục sinh hôm nay có khá nhiều thông điệp mà Chúa muốn gửi đến chúng ta. Nhưng theo tôi có hai thông điệp quan trọng nhất mà mỗi người chúng ta cần phải lưu tâm trong ngày mừng đại lễ phục sinh hôm nay đó là:

1. Sự sống lại của Đức Kitô phải là nền tảng đức tin của chúng ta.

Bài Tin mừng hôm nay, thánh Gioan đưa ra rất nhiều dấu chứng, nhất là dấu chứng về ngôi mộ trống. Thánh Gioan cũng cho biết nếu nhìn vào ngôi mộ trống với cặp mắt tự nhiên thì cũng chưa đủ để xác tín rằng Chúa Giêsu đã sống lại.

Bằng chứng là bà Maria Mađalêna khi nhìn vào mộ trống nhưng đã cho rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu".

Còn Phêrô khi nhìn “vào trong mộ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ”, nhưng ông cũng không nhận ra sự phục sinh của Chúa.

Cũng thế, những người đã ra tay hãm hại Chúa trước đây vì cố tình không tin vào sự phục sinh của Chúa nên họ đã dùng một số tiền lớn để mua chuộc lính canh mộ phao tin giả rằng: “đang đêm chúng tôi ngủ, thì môn đệ ông đến lấy trộm xác ông, rồi phao tin ông ta sống lại”.

Nhất là đối với những người có đầu óc duy lý thì cho rằng: Ông Giêsu chưa chết chỉ bất tỉnh thôi nên khi chôn trong mồ, đợi đến khi mọi người ra về hết rồi, thì Người đã tỉnh dậy và cố sức lăn tảng đá đậy mồ ra, mà đi mất.

Do đó để có được niềm tin thực sự vào sự phục sinh của Chúa Giêsu sẽ không dễ dàng chút nào, vì người ta có muôn ngàn phương cách để chối bỏ chân lý này.

Riêng với người tín hữu, trong ngày lãnh nhận bì tích rửa tội, chúng ta đã tin nhận vào mầu nhiệm phục sinh, nhưng không phải vì thế mà ai trong chúng ta cũng đều vững vàng với niềm tin ấy. Rất có thể vì chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi chủ nghĩa vô thần và lối sống thực dụng nên lắm khi niềm tin vào sự phục sinh của chúng ta cũng bị lung lay; cũng có thể vì quá đề cao chủ nghĩa tương đối và quyền tự do phóng túng nên ngày càng có nhiều người muốn chối bỏ niềm tin vào sự sống lại để được an tâm sống trong tình trạng tội lỗi của mình. Vì thế hơn lúc nào hết, ngay bây giờ chúng ta cần phải xác định lại niềm tin của mình vào sự phục sinh của Chúa Giêsu.

Nhưng để có được cái nhìn đức tin kiên vững vào sự phục sinh của Đức Kitô trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, chúng ta cần phải có được cái nhìn của thánh Gioan tông đồ, người môn đệ yêu Chúa và được Chúa yêu. Đó là cái nhìn được định hướng bởi tình yêu trong sáng, dưới sự soi dẫn của lời Chúa. Chỉ khi nào có cái nhìn như thế, ta mới tin nhận vững vàng vào mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô và sự sống lại mai sau của chúng ta.

2. Ta phải sống niềm tin phục sinh như thế nào?

Bài đọc 2, trích thư thánh Phaolô gửi cho tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô chỉ dạy các tín hữu Côlôsê cũng như chúng ta phải sống niềm tin phục sinh như sau:

- Cùng chết với Đức Giêsu và sống lại với Ngài. Nghĩa là phải dám chết đi con người cũ với tính hư nết xấu và tội lỗi để sống con người mới trong Chúa Kitô phục sinh; nhất là phải can đảm từ bỏ ý riêng để tuân phục theo thánh ý Chúa.

- Lo tìm kiếm những gì thuộc về thượng giới. Trong khi lo cho đời sống trần gian cơm áo gạo tiền, chúng ta cũng phải biết quan tâm lo tìm kiếm những giá trị cao quý hơn như chân-thiện-mỹ; nhất là luôn tôn trọng giá trị công bằng và sống tình bác ái yêu thương nhau.

- Biết hướng lòng trí về những gì thuộc về thượng giới. Dầu sống ở trần gian, nhưng chúng ta không thuộc trần gian này. Do đó, đừng quá lệ thuộc vào danh-lợi- thú, trái lại phải biết hướng tâm hồn lên tới Chúa, gắn bó với Người bằng đời sống cầu nguyện và thờ phượng Chúa trong tình con thảo.

- Đặc biệt là biết noi gương thánh Phê-rô mạnh dạn làm chứng cho Chúa phục sinh bằng đời sống chân thành, cởi mở, lạc quan, luôn yêu đời và yêu người. Luôn can đảm rao giảng về Chúa Giêsu phục sinh là Đấng giàu lòng yêu thương con người. Vì yêu thương nên Ngài đã chấp nhận xuống thế làm người, sống như con người ngoại trừ tội lỗi. Vì yêu con người tội lỗi nên Ngài đã sẵn sàng chịu chết đau đớn trên thập giá để gánh lấy tội lỗi nhân loại mà treo vào thập giá. Cuối cùng cũng chính vì tình yêu nên Ngài đã sống lại để khơi lên niềm hy vọng lớn lao vào sự sống mai sau cho chúng ta. Để từ nay ai tin vào Đức Kitô phục sinh sẽ được tha tội và đón nhận ơn cứu độ.(x. bài đọc 1).

Xin Chúa phục sinh củng cố lại đức tin nơi mỗi người chúng ta và xin cho chúng ta nỗ lực sống và loan báo niềm vui phục sinh cách tích cực bằng đời sống yêu thương phục vụ chân thành trong sáng ngỏ hầu niềm vui tin mừng phục sinh của Chúa được lan tỏa đến mọi người và mọi nơi.

 

Suy niệm 4:

Truyện kể: Trong kho tàn truyện cổ tích, có một câu truyện lý thú sau đây: Mặt trăng và Mặt Trời tranh cãi với nhau về Trái Ðất. 

Mặt Trời nói: “Lá và cây cối, tất cả đều màu xanh biêng biếc”. Nhưng Mặt Trăng thì lại cho rằng, "tất cả chúng mang một màu bạc lấp lánh." 

Mặt Trăng nói rằng, con người trên Trái Ðất thường ngủ trong yên tĩnh. Còn Mặt Trời lại bảo con người luôn hoạt động đấy chứ.

- Con người hoạt động, vậy tại sao trên Trái Ðất lại yên ắng đến vậy? Mặt Trăng cãi.

- Ai bảo là trên Trái Ðất yên lặng? - Mặt Trời ngạc nhiên – Trên Trái Ðất mọi thứ đều hoạt động, và còn rất ồn ào náo nhiệt nữa.

Và họ cãi nhau rất lâu, cho đến khi Gió bay ngang qua.

- Tại sao các bạn lại cãi nhau về chuyện này chứ? Tôi đã ở bên cạnh Mặt Trời khi Mặt Trời nhìn xuống Trái Ðất, và tôi cũng đi cùng Mặt Trăng khi Mặt Trăng xuất hiện. Khi Mặt Trời xuất hiện, mọi thứ là ban ngày, cây cối màu xanh, con người hoạt động. Còn khi Mặt Trăng lên thì đêm về, mọi người chìm sâu vào giấc ngủ.

Nếu chỉ nhìn mọi việc dưới con mắt của mình, thì mọi thứ chẳng có gì là hoàn hảo, trọn vẹn cả. Không thể đánh giá Trái Ðất chỉ bằng con mắt của Mặt Trời hoặc Mặt Trăng được.

Cũng vậy khi đánh giá một con người, một sự việc nào đó, không thể nhìn từ một phía…

Tin mừng Phục Sinh thuật lại cho thấy ba cái nhìn khác nhau khi chứng kiến cùng một sự kiện “Ngôi mộ trống”.

- Ma-ri-a Ma-đa-lê-na cứ đinh ninh rằng xác Chúa Giêsu, Thầy mình đã bị đánh cắp (x. Ga 20,13-15).

- Phêrô thì rất đỗi ngạc nhiên vì sự việc đã xảy ra tồi tệ như thế! (x. Lc 24,12).

- Còn Gioan, người môn đệ được Chúa Giê-su thương mến, thì tin chắc rằng Chúa Giêsu đã sống lại như lời Ngài đã tiên báo (x. Ga 20,9).

Sở dĩ có những cái nhìn khác nhau như vậy là vì họ có những tâm trạng khác nhau:

- Maria Mac-đa-la, với tâm trạng thương nhớ Chúa thiết tha. Có lẽ cả đêm dài bà không chợp mắt được. Bà ước ao trời mau sáng để ra thăm mộ Chúa. Nhưng khi chứng kiến tảng đá đậy mộ bị lăn ra và xác Chúa không còn trong mộ, bà đã hốt hoảng chạy về báo tin cho các môn đệ Chúa. Tình thương của Maria Mác-đa-la dành cho Chúa Giêsu là một tình thương đáng trân trọng. Nhưng nếu tình thương ấy chỉ dừng lại ở mức độ cảm tính thường tình thì không có khả năng nhận ra sự phục sinh của Chúa.

- Tông đồ Si-mon Phêrô thì đang mang nặng tâm trạng buồn rầu vì tội lỗi đè nặng tâm hồn, bởi đã chối Thầy. Cho nên ông cũng không nhận ra gì hơn ngoài việc rất đổi ngạc nhiên khi chứng kiến những mảnh băng vải và khăn che đầu được cuốn lại xếp riêng ra rất ngăn nắp; cùng với ngôi mộ trống. Phải chăng lúc đó tâm trí của ông vẫn còn bị ám ảnh giờ phút chối Chúa. Phải chăng lòng ông vẫn còn mang nặng nỗi u buồn về tội lỗi mà mình đã nhát đảm gây ra. Ông còn phải có thời gian như là liều thuốc đặc trị để chữa lành vết thương tâm hồn bất tín ấy, để tiến đến niềm tin trọn vẹn vào Chúa Giêsu phục sinh.

- Cách riêng tông đồ Gioan, người môn đệ Chúa yêu cũng là môn đệ rất yêu Chúa, nên khi chứng kiến những băng vải đặt bên trên ngôi mộ trống, lập tức ông đã nhớ lại những lời Chúa đã từng tiên báo trong những năm Người rao giảng. Và ông đã tin là Thầy mình đã thực sống lại từ trong kẻ chết như lời sách thánh đã tiên báo.

Vì thế, để tin vào sự phục sinh của Chúa Giêsu, Gioan phải vượt lên trên tình cảm tự nhiên như Maria Mac-đa-la, cũng như phải thắng vượt nỗi đau buồn mặc cảm tội lỗi của Phêrô mà định hướng cái nhìn của mình dưới ánh sáng của Lời Chúa. Chính cái nhìn này đã giúp tông đồ Gioan vững tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu. Như vậy, cùng một sự kiện xảy ra, nhưng lại có những cái nhìn khác nhau, khởi đi từ những tâm trạng khác nhau.

Trong cuộc sống hàng ngày, luôn có những biến cố vui buồn, sướng khổ, thành công thất bại xảy ra chung quanh chúng ta…tựa như là dấu chỉ “ngôi mộ trống”.  Vậy trước những dấu chỉ đó ta có cái nhìn như thế nào?

- Có thể giống như Maria Mac-da-la, ta chỉ dừng lại ở cái nhìn do cảm tính tự nhiên thúc đẩy, nên khi đối diện với những biến cố ấy ta không nhận ra gì cả ngoài những cảm xúc đau buồn khi gặp khó khăn, nghèo khổ, mất mác, thất bại và vui mừng khi thành công, may mắn trong cuộc sống.

Có thể chúng ta cũng giống như Phêrô, chẳng nhìn thấy gì hơn trước những biến cố xảy ra trong đời sống vì quá tự ti mặc cảm bởi những lầm lỗi trong quá khứ của mình. 

Xin Chúa cho chúng ta có được cái nhìn đức tin, được định hướng dưới ánh sáng lời Chúa như thánh Gioan. Nhờ đó ta mới có thể nhận ra sự hiện của Chúa Giêsu phục sinh trong mọi biến cố xảy ra trong cuộc đời chúng ta. Amen

 

Suy niệm 5:

Hiệp thông cùng Giáo Hội, hôm nay chúng ta hân hoan mừng trọng thể lễ Chúa Phục sinh, kỉ niệm biến cố Đức Kitô đã chết và sống lại. Đây là mầu nhiệm nền tảng và cao cả nhất của người Kitô hữu chúng ta. Bởi như lời thánh Phao-lô tông đồ đã xác quyết: "Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta là hão huyền và lời rao giàng của chúng ta là vô ích. Chúng ta là những người khờ dại nhất." (x.1Cr 15,12-19). Nhưng Đức Kitô đã sống lại nên đem đến niềm vui, hy vọng cho chúng ta.

Vui vì Đức Giêsu là người nên Ngài cũng đã chết thật nhưng Ngài là Thiên Chúa nên Ngài đã sống lại thật, vì thế từ này sự chết không còn làm chủ được chúng ta nữa.

Hy vọng vì qua mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô, chúng ta tin rằng nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô thì chúng ta cũng sẽ được cùng sống lại với Người.

Vậy xin Chúa thương củng cố đức tin nơi mỗi người chúng ta để chúng ta kiên cường sống và làm chứng cho niềm tin của mình với niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu mai sau. 

Truyện: Trong một cơ hội tình cờ, có ba vị đại diện cho ba tôn giáo lớn là: Phật giáo, Hồi giáo và Thiên Chúa giáo ngồi lại tranh luận với nhau, và ai cũng tự hào về đấng sáng lập của mình.

- Người Phật tử nói: "Khi Đức Phật Thích Ca của chúng tôi chết, chúng tôi đưa đi hỏa táng và hài cốt của Ngài hiện đang để trong chùa Xá Lợi (Xương Phật), điều đó chứng tỏ đức Phật Thích Ca của chúng tôi hiện hữu."

- Tiếp đến, môn đồ Hồi giáo lên tiếng: "Khi Giáo Chủ Mahomét của chúng tôi chết đi, ngài để lại cho chúng tôi nắm tóc và bộ râu, và đã được lưu giữ trong đền thờ bên Árập. Điều đó chứng minh Giáo chủ chúng tôi có mặt trên trần gian này."

Rồi hai vị ấy hỏi người tín hữu Kitô giáo: "Còn Chúa Giêsu của anh chết, Ngài có gì để lại làm bằng chứng không?".

- Người tín hữu trả lời: Khi Chúa chúng tôi chết, Ngài chỉ để lại ngôi mộ trống, vì Ngài không chết luôn như hai vị Giáo Chủ của các anh, Ngài đã sống lại ra khỏi mồ. Do đó, chúng tôi không có mảnh xương, hài cốt như đức Phật Thích Ca; hay nắm tóc, bộ râu như đức Giáo Chủ Mahomét.

Kính thưa công đoàn,

Câu chuyện trên làm tôi suy nghĩ và đặt ra 2 câu hỏi: Nếu Chúa Giêsu chết mà không sống lại thì hệ quả như thế nào? còn nếu Chúa Giêsu chết và sống lại thì Ngài đem lại cho cuộc sống tôi những gì?

- Trước hết, nếu Chúa Giêsu chết mà không sống lại thì hệ quả như thế nào?

1. Các tông đồ và những nhà truyền giáo là những người  điên dại nhất vì đã dấn thân vào những nơi xa xôi và liều mình đổ máu để làm chứng cho Ngài.

2. Toàn bộ giáo lý do Đức Giêsu rao giảng đều sụp đổ, và việc Ngài hiến mình chịu chết chỉ là một hành động điên rồ, cũng như những phép lạ Ngài làm chỉ là phù phép giả tạo.

3. Nếu Đức Kitô chết mà không sống lại, thì Ngài cũng chẳng hơn gì chúng ta, cùng lắm Ngài cũng giống như các vị đạo sư, chết là hết. Và chắc chắn sẽ không có  ai yêu mến và tôn thờ Ngài.

+ Vì thế mà Thánh Phaolô mới nói: "Nếu Đức Kitô chết mà không sống lại, thì đức tin của chúng ta chỉ là hão huyền và lời rao giảng cũng trở nên vô ích…" (1 Cr 15,14-19).

Nhưng, Đức Kitô đã chết và đã sống lại, chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa hằng sống, đúng như lời Ngài đã nói: "Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại” (Ga 10,18); “Ta là sự sống lại và là sự sống." (Ga 10, 25). Cho nên những lời Ngài giảng dạy, những phép lạ Ngài làm và các Bí tích phát sinh từ cạnh sườn Ngài trên đỉnh cao thập giá mới có giá trị mang đến ơn cứu chuộc cho toàn thể nhân loại chúng ta.

- Suy nghĩ thứ hai: Khi tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu thì đem đến cho cuộc sống tôi những gì?

1. Thưa trước hết, Ngài mang lại cho tôi niềm vui:  Niềm vui này được khởi đi từ các tông đồ "các ông vui mừng vì xem thấy Chúa" (Ga 20, 20), sau đó là niềm vui cho toàn thể dân thánh. Vui vì Chúa đã chiến thắng tử thần "Ngài không bao giờ chết nữa" (Rm 6, 9). Vui vì nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa, chúng ta được thông phần vào đời sống mới, với tư cách là con cái Thiên Chúa, được đồng thừa tự với Ngài.

2. Chúa sống lại ban cho chúng ta niềm hy vọng: Hy vọng là sau khi nhắm mắt lìa đời, tôi sẽ được sống lại với Chúa vì “Ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ”. Và khi đó chúng ta sẽ gặp lại những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta.

3. Chúa sống lại ban cho chúng ta nguồn an ủi: Chính Ngài đã vượt qua mọi đau khổ, đã đón nhận cái chết  đau thương trên thập giá vì tình yêu, nên Ngài đã  sống lại trong vinh quang. Điều này đem lại cho chúng ta nguồn an ủi. Vì biết rằng cuộc đời mình dẫu có phải đối mặt với nhiều gian lao thử thách, nhưng nếu chúng ta  biết đón nhận với niềm tin yêu thì chúng ta sẽ được nâng đỡ ủi an.

4. Nhưng trên hết là đem đến cho chúng ta niềm tin: Cái chết và sự phục sinh của Ngài minh chứng cho chúng ta biết Đức Giêsu chính là Thiên Chúa giàu lòng xót thương, nên đã sẵn sàng chết vì tội lỗi chúng ta, để cho chúng ta được sống lại với Ngài.

Vì thế, mỗi năm khi mừng lễ Chúa Phục Sinh, là dịp GH nhắc nhở chúng ta về lời mời gọi của Thánh Phaolô: "Nếu anh em muốn sống lại với Đức Kitô, thì anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời..." (Cl 3,1).

Tìm kiếm những sự trên trời, không phải là bỏ hết công ăn việc làm để rồi suốt ngày đến nhà thờ quỳ gối cầu nguyện. Nhưng tìm kiếm những sự trên trời là chúng ta thực hiện lời dạy của thánh Phaolô, đó là: "Dù anh em ăn, dù anh em uống hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm vì vinh danh Chúa." (1Cr 10,31). Lời này muốn nói với ta rằng: Mỗi sáng khi thức dậy, Người mà chúng ta nhớ đầu tiên phải là Chúa; và những việc mà ta cần phải quan tâm lo lắng trước hết là tìm kiếm Nước trời: "Tiên vàn, các con hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước, còn mọi sự khác Chúa thêm cho sau.” (Mt 6, 33). Rồi cuối ngày sống,  trước khi ngả lưng xuống ngủ, Người chúng ta nhớ đến cuối cùng cũng phải là Chúa.  Để rồi khi xét mình trước Chúa, nếu chúng ta thấy mình có thiếu sót, lầm lỗi trong các mối tương quan thì ta hãy  xin Chúa khoan dung thứ tha và ban cho ta một đêm an bình.

Nều ý thức và sống được như thế, là chúng ta đang tìm kiếm những sự trên trời.

 Anh chị em thân mến, 

Mỗi lần tham dự Thánh lễ, sau khi linh mục truyền phép, tất cả cộng đoàn chúng ta đều đồng thanh tung hô lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến" (1Cr 11,26). Vậy thì chúng ta đã loan truyền và tuyên xưng niềm tin ấy thế nào cho đúng? Thưa chúng ta phải:

1. Loan truyền bằng cách: đem yêu thương vào nơi oán thù; đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm...như lời kinh hòa bình mà thánh Phanxicô Assisi đã dạy.

2. Và phải tuyên xưng bằng chính lối sống của ta, chứ không phải bằng "đầu môi chót lưỡi". Đó là lối sống vị tha:  bao dung, quảng đại, bác ái, yêu thương... tựa như các tông đồ. Sau khi các ngài  đã tin vào việc Chúa sống lại thì các ngài không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho "Đấng đã chết và sống lại", bằng cách chấp nhận chịu mọi gian lao thử thách, và sẵn sàng chịu chết vì danh Chúa Giêsu Kitô Phục sinh.

Hiên nay, chúng ta đang sống trong một thế giới có nhiều biến động và nhiều thách đố bởi: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai, hận thù, bất công, chia rẽ..., nhất là nền kinh tế trên toàn thế giới đang có nhiều bất lợi... những điều đó có khi làm cho đời sống đức tin của chúng ta bị lung lay chao đảo. Khi đối mặt với khủng hoảng đó, chúng ta cần phải bắt chước các tông đồ khi xưa, là mau chạy đến với Mẹ Maria, người Mẹ của lòng thương xót và là nữ vương thiên đàng, Mẹ sẽ yeu thương ra tay nâng đỡ che chở chúng ta  vượt qua mọi gian lao khốn khó, với điều kiện là chúng ta phải đặt trọn niềm tin và hy vọng vào Chúa Kitô phục sinh.

Lạy Nữ Vương thiên đàng, hãy vui mừng Alleluia. Vì Con Mẹ đã sống lại thật. Alleluia. Xin cầu cho chúng con. Amen.  (St)

 

Suy niệm 6: CHÚA Ở ĐÂU RỒI ANH CHỊ EM?

Chuyện kể có vị linh mục đầu lễ thay vì chào cộng đoàn: “Chúa ở cùng anh chị em”, thì không biết là hoa mắt chóng mặt thế nào ngài lại chào: “Chúa ở đâu rồi anh chị em?” khiến cả nhà thờ cười ồ lên. Chuyện có vẻ khôi hài ấy lại nhắc nhở chúng ta ý thức việc mình có thực sự tin Chúa Giêsu phục sinh đang có mặt trong đời hay không? Niềm tin Chúa phục sinh đã thay đổi đời sống mình như thế nào?

1. Thế giới vắng bóng Chúa. Năm xưa sau khi ra viếng mộ Chúa, bà Maria Mácđala đã chạy về nói với các môn đệ: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.” Ngày nay, người ta ở các nước theo chủ nghĩa vô thần cũng như cả các nước theo truyền thống Kitô giáo cũng đã và đang ra sức đem Chúa đi khỏi xã hội, nhà trường và cả gia đình mình. Người ta muốn loại Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống để tự mình làm theo ý mình. Một thế giới vắng bóng Thiên Chúa. Chúa ở đâu rồi?

2. Sống trong Chúa phục sinh. May là vẫn còn nhiều người tin Chúa, thế nhưng niềm tin Chúa phục sinh có ảnh hưởng gì lên cuộc sống của mình? Năm xưa Chúa phục sinh đã thay đổi hoàn toàn tâm trạng, tầm nhìn, lối sống của các môn đệ. Phúc Âm cho thấy các môn đệ khi nghe tin Chúa phục sinh đều “chạy”, diễn tả một sự sống sinh động. Cử động là dấu chỉ nhận biết chết hay sống: bất động là chết, hoạt động là sống. Thế nên, sống trong Chúa phục sinh phải là sống sinh động, tích cực tham gia sứ vụ loan báo Tin Mừng phục sinh.

Hình ảnh “tảng đá lăn ra khỏi mộ” không phải để cho Chúa phục sinh đi ra, nhưng là để cho chúng ta có thể đi vào sự phục sinh của Chúa. Chúa phục sinh không chỉ để cho chúng ta kèn trống ca hát mừng lễ, nhưng là để cho chúng ta sống sinh động, vui tươi trong Chúa đời này và đời đời. Amen.

Lm. Nguyễn Xuân Trường

 

“CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT RỒI

Sống lại! Chúa sống lại rồi,

Phép Rửa: ta chết, tới hồi Phục sinh.

Mộ trống dấu chứng hiển linh,

Chúa đã sống lại hiển vinh huy hoàng.

 

Phê-rô bài giảng đầu tiên,

Kê-ryg-ma đó, ngài truyền cho ta:

Giê-su sống giữa chúng ta;

Ngài đã chịu chết cứu ta đời đời

 

 Sống lại, huyền dịu ai ơi! 

Tin Ngài để được muôn đời hiển vinh. 

Phao-lô cũng gởi lời khuyên:

Người tin Chúa sống hãy liền làm theo,

 

Là chết như Chúa chịu treo.

Tìm kiếm thượng giới noi theo luật Ngài.

Lòng trí suy nghĩ từ nay.

Hãy hướng về Chúa để Ngài ban ơn.

 

Ngôi mồ trống dấu rõ hơn.

Là Chúa đã sống cứu nhơn thế này.

Ma-ri-a  nghĩ cũng hay:

“Là ai đã lấy xác nầy Chúa tôi”.

 

Bà chạy đi báo hỡi ôi! đau buồn.

Phục sinh nên Chúa hiện luôn,

Bà tin Ngài sống, không buồn như xưa.

Phê - rô nhìn thấy “nhưng chưa!”,

 

Vì ông chưa hiểu chuyện vừa xẩy ra.

Gio-an nhớ Chúa dạy là,

Ngài sẽ sống lại, thế là ông tin.

 (Hai Lúa)

 

Thứ hai: Mt 28, 8-15

Suy niệm 1:

Tin mừng hôm nay thuật lại sự kiện Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các phụ nữ. Người chấn an các bà và sai các bà loan báo tin mừng phục sinh cho các tông đồ. Xin cho chúng ta có được niềm vui phục sinh và can đảm minh chứng niềm vui phục sinh cho mọi người.

Để biết được thông tin chính xác, ta cần lắng nghe chính người trong cuộc thông tin lại. Tin mừng hôm nay cho thấy có hai nguồn thông tin trái ngược nhau về sự kiện Chúa Giêsu sống lại.

Nguồn thông tin của các bà phụ nữ.

Đây là những người trong cuộc vì đã trực tiếp gặp gỡ Chúa Giêsu. Đã tận tai nghe lời Chúa nói cũng như đã đụng chạm đến chân Chúa. Các bà còn được Chúa trao nhiệm vụ loan báo cho các môn đệ biết về việc Chúa sống lại và muốn gặp các môn đệ tại Galilêa.

Nguồn tin của lính canh.

Những lính canh, cũng đã chứng kiến sự kiện ấy. Nhưng vì bị các thượng tế và kỳ lão mua chuộc và hù dọa nên họ nghe theo lời hướng dẫn của các thượng tế và kỳ lão phao tin không trung thực rằng: “ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ,các môn đệ hắn đã đến lấy trộm hắn đi”.

Cùng là chứng những sự việc Chúa Giêsu phục sinh hiện ra giống như các phụ nữ, nhưng những người lính canh đã bị khống chế của quyền lực và sự mua chuộc bởi tiền bạc của giới thượng tế và kỳ lão nên các ông đã thông tin sai sự thật.

Trong cuộc sống, chúng ta cũng thường nghe được những luồng thông tin khác nhau về một sự kiện nào đó xảy ra trong xã hội cũng như trong Giáo Hội. Có những thông tin chính thống cần tin theo. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi, phe nhóm và thế lực của mình cũng có không ít những thông tin sai lạc, ta cần phải kiểm chứng và dè chừng.

Hằng ngày trên các phương tiện truyền thông ta bắt gặp rất nhiều thông tin lề trái, lề phải nhằm dẫn dắt dư luận sang một hướng nào đó. Bên cạnh những thông tin thật cũng có nhiều thông tin không thật. Sống trong một xã hội mà phải liên tục đề phòng hàng giả, người giả, thông tin giả quả là một điều bất hạnh. Chắc chắc ai trong chúng ta cũng không muốn điều ấy xảy ra. Nhưng rồi chính cuộc sống chúng ta cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Nhiều lần vì sợ, vì tham vì bị mua chuộc… ta lại chấp nhận im lặng hay từ chối làm chứng cho chân lý. Lắm khi vì ham mê tiền bạc, chức quyền ta cũng sẵn sàng chối bỏ niền tin cách dễ dàng.

Chúa Phục sinh ban bình an cho các bà phụ nữ và sai các bà ra đi làm chứng niềm tin phục sinh. Hôm nay, Chúa phục sinh cũng ban bình an cho chúng ta và cũng mời gọi chúng ta can đảm làm chứng cho tin mừng chân lý và tình thương nhằm đem đến niềm vui và bình an cho tha nhân.

Xin cho chúng ta được trở nên chứng nhân trung thành của Chúa phục sinh trong cuộc sống hôm nay.

 

Suy niệm 2:

Tin mừng hôm nay cho biết: tuy chứng kiến cùng một sự kiện Chúa phục sinh nhưng các bà phụ nữ và những người lính canh mộ lại có những cái nhìn khác nhau:

- Các bà phụ nữ do không bị ảnh hưởng bởi tiền bạc chi phối; cũng không khiếp sợ trước bất kỳ thế lực nào bên ngoài, nên sau khi chứng kiến sự kiện Chúa phục sinh hiện ra với chính mình, các bà đã tin nhận và đã hân hoan loan báo tin mừng ấy cho các môn đệ, như lời Chúa phục sinh căn dặn.

- Còn với những người lính canh mồ, dẫu rằng họ cũng chứng kiến cùng một sự kiện Chúa phục sinh như các bà phụ nữ. Nhưng vì bị lôi cuốn bởi sức mạnh của đồng tiền do các Thượng Tế và Kỳ Lão mua chuộc; cũng như vì sợ hãi trước thế lực to lớn của giới chức lãnh đạo tôn giáo bấy giờ, nên họ đã sẵn sàng chối bỏ chân lý. Tệ hại hơn nữa là họ lại nghe lời của các Thượng Tế và Kỳ Lão để dẫn dắt dư luật theo hướng nhìn dối trá sai lạc, khi phao tin: “Ban đêm khi chúng tôi đang ngủ, thì môn đệ ông đến lấy trộm xác ông”.

Gian dối, lộc lừa ngày hôm nay đã lan tràn trong xã hội chúng ta trong mọi lãnh vực, chỉ vì người ta quá say mê tiền bạc, danh vọng, quyền lực…Thật là hiểm họa! Nên cần lắm sự vào cuộc của các cấp lãnh đạo, các đoàn thể, của hệ thống báo chí, truyền thanh, truyền hình, Internet, của nhà trường và gia đình…nhằm lên án mạnh mẽ sự dối trá, lộc lừa và đề cao lòng trung thực nơi con người và tôn trọng công lý trong xã hội.

Với người Kitô hữu chúng ta Chúa đã dạy: “có thì phải nói có, không thì phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5, 37). Xin cho chúng ta biết tin nhận mạnh mẽ vào mầu nhiệm Chúa phục sinh. Nhờ đó, ta mới có đủ can đảm vượt lên sức hút mãnh liệt của danh-lợi-thú mà sống ngay chính trước Chúa, lương tâm, mọi người.


Suy niệm 3:

Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc gặp gỡ đầy cảm động giữa Chúa Giêsu Phục Sinh và các phụ nữ, những người đã trung thành theo Ngài đến tận chân thập giá và nay ra thăm mộ Người. Khi các bà vừa rời khỏi mộ với tâm trạng lo lắng và vui mừng vì “ngôi mộ trống”, thì Chúa Giêsu hiện ra với họ, cất lên một lời đơn sơ nhưng chan chứa yêu thương: “Chào mừng chị em!”

1. Từ ngôi mộ đến cuộc gặp gỡ sống động

Các phụ nữ ra thăm mộ Chúa mang theo hương liệu để xức xác Thầy mình, nhưng điều họ mang về không phải là xác chết, mà là Tin Mừng của sự sống, là cuộc gặp gỡ Đấng Phục Sinh. Điều này nhắc nhở chúng ta rằng: niềm tin vào Chúa Giêsu không dừng lại ở thập giá và sự chết, nhưng luôn hướng tới sự sống và hy vọng.

Chúa Giêsu đã sống lại! Đó là trung tâm của đức tin Kitô giáo. Ngài không hiện ra như một bóng ma, mà bằng một thân thể vinh hiển, gần gũi và thân tình. Ngài gặp gỡ các bà với sự trìu mến, yêu thương, vì họ là những tâm hồn thành tín và dám bước đi trong bóng tối của đau thương.

2. Niềm vui phục sinh dẫn đến sứ mạng loan báo

Các phụ nữ sau khi gặp Chúa, đã “vội vã ra đi loan báo cho các môn đệ”. Họ trở thành người loan báo đầu tiên của Tin Mừng Phục Sinh. Đây cũng là lời mời gọi cho chúng ta hôm nay: Ai đã gặp Chúa thì không thể giữ Ngài cho riêng mình. Chúng ta phải trở nên sứ giả của Tin Mừng, là chứng nhân cho niềm hy vọng sống động mà Chúa Phục Sinh đem lại.

3. Hai lựa chọn: sự thật hay gian dối?

Bên cạnh niềm vui Phục Sinh, bài Tin Mừng hôm nay cũng đối lập hình ảnh các phụ nữ với thái độ của các lính canh và thượng tế. Họ biết rõ Chúa đã sống lại, nhưng lại chọn sự dối trá, nhận tiền để loan tin giả. Họ đã đánh đổi chân lý để bảo vệ quyền lợi trần gian.

Đây là một cảnh tỉnh cho chúng ta: trước mầu nhiệm sự sống, mỗi người phải chọn lựa, tin vào Chúa Phục Sinh để sống trong ánh sáng, hay chối bỏ sự thật và sống trong bóng tối lừa dối?

Xin cho chúng con biết mở lòng ra gặp gỡ Chúa mỗi ngày, biết vượt qua sợ hãi và nghi ngờ để trở nên những chứng nhân can đảm của niềm tin. Xin cho ánh sáng Phục Sinh soi chiếu mọi bóng tối trong cuộc đời con, và giúp con sống trọn vẹn niềm hy vọng vào Chúa hôm nay và mãi mãi. Amen.


Thứ ba: Ga 20, 11-18

Suy niệm 1:

Tin mừng hôm nay cho ta biết, Chúa phục sinh hiện ra với bà Maria Macđala, ban lại cho bà niềm vui cũng như chỉ cho bà cách thức phải sống niềm vui phục sinh thế nào.

Xin Chúa Giêsu phục sinh cho chúng ta biết siêng năng đến với Chúa, nhất là những lúc đau buồn, chán nản, để nhờ gặp gỡ Chúa chúng ta tìm lại được niềm an vui, hạnh phúc tâm hồn. Xin cho chúng ta cũng biết tích cực chia sẻ niềm vui phục sinh cho mọi người chung quanh, nhất là những người đang gặp đau khổ.

Truyện kể:

Có một phụ nữ vừa mất con trai, bà tìm đến một nhà hiền triết và nói: "Có lời cầu nguyện nào mà ông biết có thể đem con trai tôi sống lại?"

Nhà hiền triết bảo: "Hãy đem về đây cho ta một hạt giống cây mù tạt được trồng từ gia đình nào chưa từng bao giờ biết đến đau khổ".

Người phụ nữ ngay lập tức lên đường đi tìm hạt giống thần kỳ. Đầu tiên bà đến gõ cửa một ngôi nhà lớn sang trọng và hỏi: "Tôi đang tìm hạt giống cây mù tạt từ gia đình chưa bao giờ biết đến đau khổ, có phải nơi này không?"

Họ trả lời bà đã đến nhầm chỗ và bắt đầu kể những tai họa đã xảy đến với gia đình họ. Bà ngồi lại an ủi họ rối tiếp tục lên đường đi tìm hạt giống thần kỳ.

Nhưng bất cứ nơi nào bà ghé vào, dù ở những ngôi nhà tồi tàn hay sang trọng, bà đều được nghe những chuyện đau buồn này đến chuyện bất hạnh khác. Bà trở nên quan tâm và rất muốn chia sẻ nỗi buồn của người khác đến nỗi bà đã quên đi nỗi buồn của chính bà và quên câu hỏi về hạt giống cây mù tạt thần kỳ mà bà tìm kiếm.

Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Maria Macđala bị mất. Nhưng không phải mất con, mà là mất Chúa, vì thế mà bà đã thốt lên với tâm trạng đau buồn cùng với hai Thiên Thần rằng: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi”.

Giống như người mẹ trên, Maria Macđala cũng đã đau buồn vì lạc mất Chúa nên bà đã hỏi thăm hai Thiên Thần xem có biết Chúa đâu không hãy chỉ cho bà biết.

Nỗi đau buồn khiến cho tâm trí Maria Macđala bấn loạn nên không còn khả năng nhận ra Chúa nữa dẫu Người đang hiện diện bên bà nhưng bà cứ ngỡ là người làm vườn nên bà đã lên tiếng hỏi thăm xem cách nào tìm lại Chúa?

Mãi khi Chúa Giêsu phục sinh gọi đúng tên bà với giọng nói thân quen “Maria!” thì bà mới nhận ra Chúa trong niềm vui mừng khôn tả. Nhưng lúc đó, Chúa phục sinh bảo với bà rằng: “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp gỡ anh em Thầy…” để loan báo cho các môn đệ biết về sự phục sinh của Chúa. Đó chính là bí quyết giúp bà Maria Macđala quên đi những nỗi đau buồn của mình khi biết lên ra đi loan báo tin mừng phục sinh của Chúa.

Giống như Maria Mađala, ai trong chúng ta cũng có những nổi buồn. Buồn vì cuộc sống nghèo khổ, thiếu thốn và bất hạnh. Buồn vì những bệnh tật, tội lỗi mà mình đang mang nặng không thể vượt qua. Buồn vì phải chứng kiến những nổi đau và cái chết của người thân…Để vượt qua những nổi đau buồn đó, Chúa phục sinh cũng mời gọi chúng ta: “Thôi, đừng giữ Thầy lại”, nghĩa là đừng sống theo ý mình mà sống theo ý Chúa; đừng giữ đạo theo cách thế của mình mà theo cách thức Giáo Hội hướng dẫn; đừng ích kỉ giữ Chúa cho riêng mình mà phải đem Chúa đến cho người khác.

Ngày nay, Chúa Giêsu Phục sinh cũng mời gọi chúng ta ra đi “gặp gỡ anh em thầy” để chia sẻ cho họ biết về niềm tin và niềm vui phục sinh mà ta có được khi gặp gỡ Chúa. Đó cũng là cách chúng ta làm cho Chúa phục sinh hiện diện trong đời sống hằng ngày. Được như thế, ta mới cảm thấy cuộc sống này thật có ý nghĩa trước những điều không vừa ý xảy đến, vì bởi ta tin rằng Chúa phục sinh luôn hiện diện với chúng ta qua mọi biến cố trong cuộc đời.

 

Suy niệm 2:

Khởi đầu đoạn tin mừng hôm nay trình bày về tâm trạng đau buồn của bà Maria khi ở bên mộ Chúa: “…Maria đang còn đứng gần bên mồ Chúa mà than khóc…” Lý do bà than khóc vì tưởng rằng: “người ta đã lấy mất xác Chúa và không biết người ta đã để Người ở đâu?”. Như thế đã rõ lý do bà Maria đau buồn khó lóc, đó là vì bà đã lạc mất Chúa.

Cuộc đời của chúng ta cũng có nhiều lúc đau buồn và khóc than khi: Mất tiền của, mất sức khỏe, mất công ăn việc làm và mất chức quyền… Nhưng nỗi đau buồn lớn nhất vẫn là mất đi mạng sống của mình hay phải chứng kiến sự ra đi của người thân. Bởi lẽ mất đi những thứ khác ta có thể bù đắp và tìm lại được, vì còn sống là còn hy vọng, nhưng chết đi được xem là mất tất cả, theo cái nhìn tự nhiên. Vì thế mà người đời thường sánh ví: “mạng sống hơn đống vàng”.

Tuy nhiên đối với người có đức tin thì cái mất lớn nhất không phải là mất đi tiền bạc, của cải, danh vọng và mạng sống thể lý mà là mất đi niềm tin. Niềm tin chính là sức mạnh tinh thần giúp ta vượt thắng mọi gian nan thử thách, đem lại cho ta niềm vui và hy vọng tốt đẹp trong cuộc sống, ngay cả những lúc đau buồn và tuyệt vọng.

Hiểu như thế ta mới cảm nhận được niềm vui khôn tả của bà Maria, khi bà nhận ra Chúa vẫn còn chứ không phải mất, vẫn sống chứ không phải chết. Hơn hết là vì bà đã tìm lại được lý tưởng của đời sống nhờ tin tưởng vào sự phục sinh của Chúa.

Nước mắt và nụ cười, thành công và thất bại, niềm vui và nỗi buồn… luôn đan xen với nhau, kết dệt thành tấm thảm cuộc đời của mỗi con người. Nhưng để tấm thảm cuộc đời ta tươi sáng thì cần lắm nụ cười nhiều hơn nước mắt; thành công lớn hơn thất bại, niềm vui mạnh hơn nỗi buồn. Muốn được vậy ta phải tin nhận vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu. Chỉ khi tin nhận vào Chúa phục sinh thì nước mắt của ta mới ngừng rơi; có đặt hy vọng vào Chúa phục sinh thì nổi buồn của ta mới tan biến và có tích cực dấn thân cho lý tưởng loan báo tin mừng phục sinh thì niềm vui trong lòng ta mới lớn lên và lan tỏa mãi.

Xin cho ánh sáng tin mừng phục sinh của Chúa Kitô tỏa chiếu vào tâm hồn u tối của chúng ta và khơi dậy trong ta tinh thần nhiệt quyết hăng say ra đi loan báo tin mừng phục sinh của Chúa cho mọi người, nhất là những ai đang sống trong cảnh đau buồn, thất vọng vì mất đi niềm tin vào cuộc sống.


Suy niệm 3:

Sau biến cố đau thương của Thứ Sáu Tuần Thánh, Maria Macđala  vẫn nặng lòng yêu mến Chúa. Khi mọi người đã quay về, bà vẫn ở lại bên mộ khóc. Nhưng nước mắt không che mờ được trái tim yêu thương, vì chính tình yêu làm cho bà nhạy bén hơn với sự hiện diện của Đấng Phục Sinh.

Maria không nhận ra Chúa qua hình dáng bên ngoài. Chỉ đến khi Chúa gọi tên bà: “Maria!”, thì tâm hồn bà mới bừng sáng, và bà thốt lên: “Rápbuni!”,  Lạy Thầy!

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu Phục Sinh và Maria Macđala thật cảm động. Không phải là một cuộc hiện ra vinh quang cho muôn dân, mà là một cuộc gặp rất riêng tư, rất nhân bản và đầy yêu thương. Chúa không quở trách Maria vì bà không nhận ra Ngài, nhưng Ngài gọi tên bà, như Người Mục Tử nhân lành quen thuộc với chiên của mình (x. Ga 10,3).

Gọi tên ai là trao ban sự sống cho người đó, là thiết lập một mối tương quan gần gũi và thân tình. Chúa Giêsu đã không quên Maria, và hôm nay Ngài cũng không quên bạn, không quên tôi. Trong từng biến cố, từng giọt nước mắt hay niềm vui, Chúa vẫn âm thầm hiện diện và gọi tên ta, để ta nhận ra Ngài và trở về với tình yêu cứu độ.

- Tôi có đang tìm kiếm Chúa Giêsu như Maria Mađalêna không?

- Tôi có nhận ra tiếng gọi âm thầm của Ngài trong đời sống mỗi ngày?

Lạy Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã gọi tên Maria với tất cả tình yêu và lòng xót thương. Xin cũng gọi tên con, trong những lúc con buồn sầu, thất vọng hay khô khan nguội lạnh. Xin cho con biết quay về với Chúa, nhận ra sự hiện diện của Ngài, và trở nên người loan báo Tin Mừng hy vọng cho anh chị em con. Amen.

 

Thứ tư: Lc 24, 13-35

Suy niệm 1:

Tin mừng hôm nay tiếp tục trình thuật về sự kiện Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau. Chúa đã dùng Lời Chúa và cử chỉ bẻ bánh trong bữa ăn thân tình để giúp hai ông nhận ra Người. Mọi ưu phiền và chán nản tan biến nhường chổ cho niềm vui và hạnh phúc. Hai ông hân hoan trở về Giêrusalem báo tin phục sinh cho các môn đệ khác.

Xin Chúa cho chúng ta ý thức được tầm quan trọng của Lời Chúa và Thánh Thể mà yêu mến gắn kết với Thánh Thể Chúa cũng như siêng năng tìm hiểu, suy niệm và sống theo Lời Chúa hướng dẫn.

Truyện kể: Cô con gái hay than thở với cha sao bất hạnh này cứ vừa đi qua thì bất hạnh khác đã vội ập đến với mình, và cô không biết phải sống thế nào. Có những lúc quá mệt mỏi vì vật lộn với cuộc sống, cô đã muốn chối bỏ cuộc đời đầy trắc trở này.

Cha cô vốn là một đầu bếp. Một lần, nghe con gái than thở, ông dẫn cô xuống bếp. Ông bắc ba nồi nước lên lò và để lửa thật to. Khi ba nồi nước sôi, ông lần lượt cho cà rốt, trứng và hạt cà phê vào từng nồi riêng ra và đun lại để chúng tiếp tục sôi, không nói một lời.

Người con gái sốt ruột không biết cha cô đang định làm gì. Lòng cô đầy phiền muộn mà ông lại thản nhiên nấu. Nửa giờ sau người cha tắt bếp, lần lượt múc cà rốt, trứng và cà phê vào từng tô khác nhau.

Ông bảo con gái dùng thử cà rốt. "Mềm lắm cha ạ", cô gái đáp. Sau đó, ông lại bảo cô bóc trứng và nhấp thử cà phê. Cô gái cau mày vì cà phê đậm và đắng.

- Điều này nghĩa là gì vậy cha - cô gái hỏi.

- Ba loại thức uống này đều gặp phải một nghịch cảnh như nhau, đó là nước sôi 100 độ. Tuy nhiên mỗi thứ lại phản ứng thật khác.

Cà rốt khi chưa chế biến thì cứng và trông rắn chắc, nhưng sau khi luộc sôi, chúng trở nên rất mềm.

Còn trứng lúc chưa luộc rất dễ vỡ, chỉ có một lớp vỏ mỏng bên ngoài bảo vệ chất lỏng bên trong. Sau khi qua nước sôi, chất lỏng bên trong trở nên đặc và chắc hơn.

Hạt cà phê thì thật kỳ lạ. Sau khi sôi, nước của chúng trở nên rất đậm đà.

Người cha quay sang hỏi cô gái: Còn con? Con sẽ phản ứng như loại nào khi gặp phải nghịch cảnh.

Con sẽ như cà rốt, bề ngoài tưởng rất cứng cáp nhưng chỉ với một chút đau đớn, bất hạnh đã trở nên yếu đuối chẳng còn chút nghị lực?

Con sẽ là quả trứng, khởi đầu với trái tim mỏng manh và tinh thần dễ đổi thay. Nhưng sau một lần tan vỡ, ly hôn hay mất việc sẽ chín chắn và cứng cáp hơn.

Hay con sẽ giống hạt cà phê? Loại hạt này không thể có hương vị thơm ngon nhất nếu không sôi ở 100 độ. Khi nước nóng nhất thì cà phê mới ngon.

Cuộc đời này cũng vậy con ạ. Khi sự việc tưởng như tồi tệ nhất thì chính lúc ấy lại giúp con mạnh mẽ hơn cả. Con sẽ đối mặt với những thử thách của cuộc đời như thế nào? Cà rốt, trứng hay hạt cà phê?

Để thay đổi cái nhìn bi quan, chán nản của cô con gái mình, người cha đã dùng hình ảnh rất đổi quen thuộc mà dạy cho con mình bài học vượt qua.

Cũng thế, để thay đổi tâm trạng buồn phiền, chán nản, thất vọng của hai môn đệ trên đường Em-mau, Chúa Giêsu phục sinh cũng dùng những hình ảnh xem ra rất đổi bình thuờng trong cuộc sống.

Bằng cách xuất hiện như một người khách bộ hành để cùng chia sẻ những ưu tư, những quan tâm mà các ông đang gặp phải. Cũng như gợi lại cho hai ông nhớ lại những Lời Chúa đã tiên báo và giải thích như xưa Ngài đã từng làm. Nhờ thế lòng các ông cảm thấy bừng sáng lên bởi nhờ sức nóng của Lời Chúa.

Bằng việc ở lại và ngồi vào bàn dùng bữa với các ông như khi còn sống. Nhất là qua cử chỉ “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ”. Đúng như cử chỉ Chúa làm khi lập bí tích Thánh Thể. Lúc đó mắt họ mới mở ra và nhận ra Chúa phục sinh.

Nhờ sống Lời Chúa và Bí Tích Thánh Thể, ta sẽ nhận ra Chúa phục sinh hiện diện nơi những người anh em mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày, như hai môn đệ Em-mau xưa.

Nhờ Lời Chúa và Bí Tích Thánh Thể, chúng ta sẽ có cái nhìn lạc quan trước những biến cố dưới con mắt người đời bị coi là xui xẻo, mất mác, đau thương, bất hạnh…, bởi chúng ta nhận ra Chúa phục sinh hiện diện qua các biến cố ấy.

Xin cho chúng ta biết gắng bó với Lời Chúa và kết hiệp mật thiết với Bí Tích Thánh Thể. Nhờ đó chúng ta đủ sức mạnh vượt qua mọi thử thách trong cuộc đời.

 

Suy niệm 2:

Hai môn đệ Emmmau ngót 3 năm bám chân theo Thầy Giêsu nhằm xây mộng đời cho ngày mai tươi sáng, nhưng không ngờ mọi dự tính về một tương lai huy hoàng giờ lại tan biến thành mây khói sau cái chết của thầy Giêsu. Thất vọng, chán nãn, ngã lòng, cảm thấy thua cuộc, hai ông quyết định trở về quê cũ, làm lại nghề xưa nhằm kiếm cơm sống qua ngày.

Nhưng không ngờ chính lúc hai ông bước đi trong nỗi buồn tuyệt vọng, thì Chúa Phục sinh lại hiện ra đồng hành cùng hai ông như người khách bộ hành. Ngài đã lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng, vui buồn mà hai ông gặp phải. Ngài đã cũng chia sẻ bằng cách giải thích cho họ hiểu lời Thánh Kinh đã nói về Người phải chết, sống lại mà cứu chuộc muôn dân, nhờ đó họ cảm thấy ấm lòng, nhưng vẫn chưa hiểu hết, mãi cho đến khi hai ông chứng kiến lại nghi thức bẻ bánh trong bữa ăn tối với hai ông sao giống như cử chỉ mà Chúa đã thực hiện trong bữa Tiệc Ly với các môn đệ trước khi chết, thì lúc ấy hai ông mới nhận ra quả thực Thầy mình đã sống lại và hiện ra với mình. Ngay lúc đó niềm vui vỡ oà trong tim, họ liền quay lại Giêrusalem để báo tin cho các môn đệ khác.

Những khó khăn trong cuộc sống, đôi khi làm cho chúng ta tưởng rằng Chúa đâu mất rồi, Ngài không thấy, không nghe những nổi khổ của chúng ta. Thực ra, Chúa Phục sinh vẫn đang hiện diện bên cạnh chúng ta, và cùng đồng hành với chúng ta trong mọi nẻo đường đời, chỉ tại chúng ta không nhận ra sự hiện diện của Người thôi.

Thế giới ngày nay không thiếu những tâm hồn cô đơn tuyệt vọng. Tuyệt vọng vì mất niềm tin, tuyệt vọng vì không thấy ý nghĩa cuộc đời. Giữa những cảnh cô đơn tuyệt vọng ấy, người kitô hữu chúng ta có bổn phận đốt lên những ngọn lửa tin yêu và hy vọng để sưởi ấm tâm hồn họ. Bổn phận này không đòi hỏi những phương tiện lớn lao, những khả năng xuất chúng, mà chỉ cần những nghĩa cử bé nhỏ đầy tình Chúa và tình người. Một hành vi bác ái, một lời an ủi, một giây phút gặp gỡ trong tình Chúa sẽ rất cần thiết cho cuộc đời này.

Xin Chúa cho chúng ta lòng tin đủ mạnh để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời này, nhờ đó mà chúng con mới dễ dàng vượt qua những nỗi buồn và thất vọng xảy ra trong cuộc sống.

 

Suy niệm 3:

Tin mừng hôm nay như giúp chúng ta giải tỏa được 2 thắc mắc lớn trong đời sống đức tin, đó là : Chúa Giêsu phục sinh đang ở đâu? và làm thế nào để nhận ra Người?

1. Qua câu chuyện Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với hai môn đệ trên đường đi Emmau, cho chúng ta hiểu rằng: Chúa Giêsu phục sinh hiện diện mọi nơi và mọi lúc. Ngài hiện diện trên các nẻo đường; Ngài đã hiện diện tại vùng quê Emmau, Người hiện diện tại nơi ở của 2 môn đệ; Người hiện diện ngay trong bàn ăn…; đồng thời cùng lúc ấy, Người cũng hiện diện tại thành đô Giêrusalem nơi 11 tông đồ đang họp nhau cầu nguyện.

2. Chúa Giêsu phục sinh đã tỏ hiện qua người khách bộ hành với dáng vẻ rất đỗi bình thường. Chúa tỏ hiện qua Lời Chúa được ghi trong thánh kinh, đặc biệt là nơi bàn tiệc Thánh Thể…

Như thế, Chúa Giêsu phục sinh không còn lệ thuộc vào không gian và thời gian nữa nên Người hiện diện mọi nơi và mọi lúc, qua nhiều cách thức khác nhau. Chính vì thế mà Chúa luôn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường đời; nhất là trong những lúc chúng ta gặp đau khổ và thất vọng như hai môn đệ Emmau. Do đó để nhận ra Chúa Phục sinh, ta phải liên kết với anh em, phải biết thể hiện tình bác ái với tha nhân; phải biết hiệp thông với cộng đoàn trong những giờ cầu nguyện. Nhất là phải biết để tâm lắng nghe lời Chúa và tích cực tham dự thánh lễ và chầu thánh thể. Bởi chính những cách thế đó ta sẽ dễ dàng gặp gỡ Chúa.


Suy niệm 4: “Dọc đường, chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ.” (Lc 24,15)

Kính thưa cộng đoàn,

Tuần Bát Nhật Phục Sinh là thời gian mà Giáo Hội long trọng mừng kính mầu Phục Sinh của Chúa Kitô, Đấng đã chiến thắng sự chết, mở ra con đường sống lại cho nhân loại.

Trang Tin Mừng Luca hôm nay, mời gọi chúng ta cùng đi với hai môn đệ đến làng Emmau trong niềm tin và hy vọng.

Trong cuộc hành trình này, dường như hai môn đệ muốn bỏ cuộc. Nên họ rời xa Giêrusalem, thành thánh và mang theo trái tim nặng trĩu vì thập giá và nấm mồ. Thế nhưng, chính lúc ấy, Chúa Giêsu phục sinh đã đến gần, đồng hành, lắng nghe họ, và từ từ soi sáng lòng trí họ bằng Thánh Kinh, để rồi trong bữa ăn, qua cử chỉ bẻ bánh, họ đã vui mừng nhận ra Ngài.

Đó cũng chính là hành trình đức tin của nhiều người trong chúng ta:

- Từ thất vọng đến hy vọng,

- Từ mù mịt đến sáng suốt,

- Từ đau buồn đến hân hoan loan báo Tin Mừng phục sinh.

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo hội Việt Nam, chúng ta hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cách đặc biệt cho ĐGH Phanxicô, vị cha kính yêu của GH đã ra đi về với Chúa ở tuổi đời 88. Có thể nói, hành trình Emmau cũng là hành trình cuộc đời của Đức Thánh Cha Phanxicô, người đã bước đi giữa thế giới hôm nay như người môn đệ chân thành của Chúa.

Trong suốt cuộc đời mục tử của ngài,  từ những con đường nghèo khó ở Argentina đến ngai tòa Phêrô, lúc nào ngài cũng tìm kiếm Chúa giữa những người bé mọn, nghèo khổ, bị loại trừ. Ngài là người đã cùng nhân loại “đồng hành” như Chúa Giêsu, mang lại niềm hy vọng sống động giữa thời đại đầy thử thách.

Giờ đây, khi hay tin ngài đã về nhà Cha, lòng chúng ta trĩu nặng nỗi buồn, như hai môn đệ xưa. Nhưng cùng lúc ấy, đức tin cũng nhắc nhở ta: Đấng mà ngài đã rao giảng là Đấng phục sinh. Và niềm hy vọng mà ngài truyền lại sẽ không bao giờ tắt lịm.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh,

Chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho Giáo Hội một vị Mục Tử đầy lòng thương xót là Đức Thánh Cha Phanxicô. Ngài đã sống trọn vẹn cuộc đời như hành trình Emmau,  từ lắng nghe con người đến mở lòng ra với Thánh Kinh và nhận ra Chúa nơi “những anh em bé mọn nhất”.

Xin Chúa đón nhận linh hồn Đức Thánh Cha Phanxicô vào hưởng ánh sáng vinh quang Phục Sinh, nơi Ngài đã hy vọng, đã tin tưởng và đã cống hiến cả cuộc đời.

Xin cho những hạt giống Tin-Cậy-Mến mà ngài đã gieo trong lòng nhân loại tiếp tục sinh hoa trái trong Giáo Hội.

Xin cho chúng con, như hai môn đệ năm xưa, cũng được Chúa đồng hành, được Chúa mở lòng, để không bao giờ tuyệt vọng trước bóng tối trần gian, nhưng luôn vững bước trong ánh sáng Chúa Phục Sinh.

Lạy Chúa, xin cho linh hồn Đức Thánh Cha Phanxicô được nghỉ yên muôn đời. Và ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên ngài. Amen.

 

Thứ năm: Lc 24, 35-48

Suy niệm 1:

Để tin nhận một điều gì đó, thông thường người ta cần phải kiểm chứng rõ ràng. Dẫu tin tức Chúa phục sinh đã được loan báo đến các môn đệ, nhưng các ông vẫn còn sống trong tình trạng bán tin bán nghi. Có lẽ vì thế trong lần hiện ra này, Chúa Giêsu muốn các ông xác quyết mạnh mẽ niềm tin của mình vào Chúa phục sinh. Nên Ngài đã nói “phúc cho những ai không thấy mà tin”. Biết thế, nhưng đức tin chúng ta còn yếu kém. Xin Chúa gia tăng lòng tin nơi chúng ta.

Để thuyết phục các môn đệ tin chắc là Người đã sống lại, Chúa Giêsu cũng đã phải kiên nhẫn đưa ra rất nhiều bằng chứng:

- Trước hết, Chúa bảo các ông hãy nhìn tay chân của Người.

- Tiếp đến, Chúa bảo họ cứ sờ vào thân thể của Người.

- Dù đưa tay chân và thân thể cho các ông xem, nhưng các ông cũng vẫn còn ngỡ ngàng. Nên Chúa tiếp tục đưa thêm bằng chứng là hỏi xem các ông có gì ăn không? Và Chúa đã cầm lấy khúc cá nướng các ông trao mà ăn trước mặt các ông. Qua đó Chúa cho họ thấy rằng chính Người đã phục sinh chứ không phải là ma hiện hình.

- Cuối cùng Chúa còn phải dùng đến bằng chứng của Thánh Kinh tiên báo về Người và Lời Người đã nói khi còn sống, để mở trí cho các ông hiểu, tất cả đều được ứng nghiệm nơi Người.

Với những bằng chứng thuyết phục ấy, Chúa Giêsu đã minh chứng Người đã sống lại và kêu gọi các ông hãy làm chứng về sự phục sinh của Người. Nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, kêu gọi họ ăn năn sám hối để đuợc ơn tha tội.

Chúa đã kiên nhẫn tìm mọi cách để cũng cố lòng tin nơi các môn đệ. Xin Chúa cũng cố và gia tăng lòng tin nơi chúng ta, nhất là những khi bị thử thách về đức tin.

Chúa đã trao cho các môn đệ sứ mạng làm chứng Tin Mừng Phục Sinh sau khi gặp gỡ và tin nhận Chúa. Chúa cũng tiếp tục trao phó sứ mạng làm chứng nhân cho tất cả chúng ta. Xin cho chúng ta biết siêng năng họp nhau cầu nguyện, siêng nhận lãnh các bí tích nhờ thế đức tin chúng ta đủ mạnh để sống và làm chứng cho Tin Mừng Phục Sinh.

 

Suy niệm 2:

Sách CVTĐ, thánh Luca ghi lại những hoạt động chính yếu của các môn đệ thời GH sơ khai. Tất cả những hoạt động ấy đều nhắm đến đích điểm là: “làm chứng nhân” cho Chúa theo lệnh truyền của Người trước khi về trời; khởi đi từ thành Giêrusalem cho đến tận cùng thế giới. Nhưng làm thế nào để lời chứng ấy đáng tin cậy và thuyết phục được người nghe?

Tin Mừng hôm nay cho biết, trước khi sai các tông đồ đi thi hành sứ mạng làm chứng, Chúa Giêsu phục sinh đã dùng mọi cách để minh chứng về sự sống lại của Người. Dẫu trước đó Người đã hiện ra với các bà phụ nữ đạo đức; với bà Maria Macđala, với hai đệ trên đường Emmau và với Phêrô... Nhưng hình như niềm tin của đa số các môn đệ còn chưa vững chắc. Nên lần này trong khi các môn đệ họp nhau đông đủ, Người lại hiện đến với các ông lần nữa ngỏ hầu xóa tan đi những mối ghi ngờ nơi các ông.

Để chứng thật Người đã phục sinh, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ xem tay và cạnh sườn Người, các ông vẫn chưa tin. Người tiếp tục kêu mời các ông đụng chạm đến thân thể Người nhưng các ông vẫn ngỡ là ma. Để xác định không phải là ma, Người tiếp tục cầm lấy mẩu cá nướng và một tảng mật ong mà ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho các ông. Hơn thế nữa, Người còn gợi lại cho các ông nhớ đến những lời được nói “trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh". Sau cùng, Chúa nói đến những lời mà Người đã tuyên báo về cái chết và sự phục sinh của Người khi còn sống. Sau cùng Ngài mời gọi các môn đệ thi hành sứ mạng quan trọng là “phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy".

Như thế để thi hành sứ mạng làm chứng cho Tin Mừng Phục Sinh, đòi hỏi các môn đệ phải xác tín niềm tin cách mạnh mẽ vào sự phục sinh của Chúa. Vì có xác tín mạnh mẽ thì lời chứng của các môn đệ mới có giá trị và mới có sức thuyết phục người nghe.

Xin Chúa củng cố niềm tin vào Chúa phục sinh nơi mỗi chúng ta. Nhờ đó ta mới tích cực dấn thân cho sứ mạng LBTM bằng lời nói và chứng tá đời sống đức tin mạnh mẽ của chúng ta.


Suy niệm 3:

Sau khi hai từ Emmau trở về Giêrusalem và thuật lại cho các môn đệ khác về sự kiện Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với hai ông như thế nào, thì thật bất ngờ Chúa Giêsu lại hiện ra với toàn thể các ông một lần nữa. Nhìn thấy Người, các ông đều kinh hãi, tưởng mình thấy ma. Nhưng Chúa đã trấn an các ông bằng cách cho xem tay chân Người và ăn uống trước mặt các ông để chứng tỏ Người thật sự đã sống lại và mời gọi các ông ra đi làm chứng nhân cho Người. Như vậy Tin Mừng hôm nay nhắm đến những điều quan trọng sau đây:

- Sự hoài nghi và nỗi sợ hãi: Các môn đệ, dù đã nghe lời kể của hai người trên đường Emmau, vẫn không khỏi bàng hoàng và nghi ngờ khi chính Chúa Giêsu hiện ra. Điều này cho thấy sự khó khăn của con người trong việc tin vào điều vượt quá sự hiểu biết thông thường, ngay cả khi đã có những chứng cứ. Chúng ta cũng thường trải qua những hoài nghi và sợ hãi trước những điều mới mẻ, những thử thách trong cuộc sống.

- Sự kiên nhẫn và tình yêu của Chúa: Chúa Giêsu đã không trách mắng sự yếu tin của các môn đệ. Thay vào đó, Người đã kiên nhẫn dùng những hành động cụ thể để củng cố đức tin cho họ. Việc cho xem tay chân và cùng ăn uống là những dấu chỉ rõ ràng về sự phục sinh thật sự của Người. Tình yêu và sự kiên nhẫn của Chúa là nguồn an ủi và động viên lớn lao cho chúng ta trên hành trình đức tin.

- Lời hứa được ứng nghiệm: Chúa Giêsu nhắc lại cho các môn đệ những lời đã nói trước về việc Người phải chịu khổ nạn và sống lại. Điều này khẳng định rằng tất cả những gì đã được tiên báo trong Kinh Thánh đều ứng nghiệm nơi Người. Lời Chúa là chân lý và là nền tảng vững chắc cho niềm tin của chúng ta.

- Lời mời gọi làm chứng: Sau khi đã củng cố đức tin cho các môn đệ, Chúa Giêsu trao cho họ sứ mạng làm chứng về Người cho muôn dân. Họ đã được chứng kiến sự phục sinh, và giờ đây họ có trách nhiệm loan báo Tin Mừng này cho thế giới. Mỗi người chúng ta, những người tin vào Chúa Kitô, cũng được mời gọi trở thành chứng nhân cho tình yêu và sự phục sinh của Người trong cuộc sống hằng ngày.

Xin Chúa Giêsu Phục Sinh củng cố đức tin yếu kém của chúng ta. Xin ban cho chúng ta lòng can đảm để vượt qua những nghi ngờ và sợ hãi, và trở thành những chứng nhân nhiệt thành cho tình yêu và sự sống mới mà Chúa đã mang đến cho chúng ta. Amen.


Suy niệm 4:

Bài đọc 1, trích sách Công Vụ Tông Đồ trình thuật cho ta biết, sau khi Thánh Phê-rô nhân danh Chúa Giêsu Kitô chữa lành cho một người què tại cửa đẹp đền thờ, ngài liền công bố cho dân chúng biết về quyền năng của Chúa Giê-su Phục Sinh. Ngài mời gọi họ sám hối để được tha thứ và đón nhận ơn cứu độ.

Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca tiếp tục trình thuật  về sự kiện Chúa Giê-su phục sinh hiện ra với các môn đệ đang quy tụ ở Giêsusalem. Chúa phục sinh mang lại bình an và củng cố đức tin cho các ông.

Dù các môn đệ ban đầu sợ hãi và nghi ngờ, nhưng Chúa Giêsu phục sinh đã kiên nhẫn mở trí cho họ hiểu rằng Ngài chính là Đấng Cứu Độ đã chịu khổ nạn và phục sinh như lời Kinh Thánh và lời Ngài đã báo trước. Sau đó, Ngài trao cho họ sứ mạng làm chứng nhân cho Ngài trước mặt muôn dân.

Cũng như các môn đệ, đôi khi chúng ta cũng sợ hãi hoặc nghi ngờ trước những thử thách trong đời sống đức tin. Nhưng Chúa Phục Sinh luôn hiện diện, ban bình an và mời gọi chúng ta mở lòng đón nhận Lời Ngài. Qua Bí tích Thánh Thể và Lời Chúa, Ngài tiếp tục đồng hành, soi sáng và thúc đẩy chúng ta trở thành những chứng nhân sống động của tình yêu và sự sống mới.

Xin Chúa Giê-su Phục Sinh, thương ban bình an và củng cố đức tin cho chúng ta. Xin giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời sống và can đảm làm chứng cho Tin Mừng bằng lời nói và hành động. Amen.


Thứ sáu: Ga 21,1-14

Suy niệm 1:

Tin mừng hôm nay tường thuật Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các tông đồ ở biển hồ Tibêria, giúp các ông đánh bắt được một mẻ cá đầy. Xin Chúa ban ơn trợ giúp chúng ta, để những việc hàng ngày của chúng ta đạt được nhiều kết quả tốt đẹp theo ý Chúa.

Khi hiện ra với các bà phụ nữ, Chúa Giêsu bảo các bà về báo tin cho các môn đệ đến Galilê để gặp Người. Nghe theo lời loan báo những người phụ nữ các môn đệ trở về Galilê. Trong tâm trạng buồn bã, các ông rủ nhau đi đánh cá. Tuy Các ông là những những đánh cá chuyên nghiệp, vậy mà đánh bắt cả đêm chẳng được con cá nào. Thất vọng, mệt mỏi cuốn lưới định nghỉ ngơi, thì lúc đó, Chúa Giêsu hiện đến, bảo các ông thả lưới bên phải thuyền, nơi gần bờ. Các ông tin vào Lời ấy mà thả lưới. Kết quả, đánh được một mẻ cá đầy, không sao kéo lên nỗi. Bấy giờ, Gioan nhận ra nói đó là Chúa, Phêrô mặc ngay áo vào, nhảy xuống biển, bơi vào bờ.

Trên bờ, Chúa Giêsu đã chuẩn bị sẵn bữa ăn sáng cho các ông với cá nướng và bánh. Trong bữa ăn Người cầm bánh và cá trao cho các ông, một cử chỉ quen thuộc giúp các ông càng xác tín Chúa đã phục sinh.

Lời Chúa hôm nay xác quyết cho chúng ta hiểu rằng: “không có Ta, các ngươi không làm gì được”. Bằng chứng, Các môn đệ đã vất vã, cực nhọc suốt đêm mà chẳng có gì. Nhưng khi có sự hiện diện của Chúa, các ông bắt được rất nhiều cá.

Xin cho chúng ta đừng bao giờ kiêu căng, tự mãn về những hiểu biết và khả năng của mình, nhưng luôn khiêm tốn tin tưởng vào sự hướng dẫn của Chúa.

 

Suy niệm 2:

Tin mừng hôm nay trình thuật lại kiện Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với 7 môn đệ bên biển hồ Tibêria-miền Galilêa.

Như chúng ta biết, khi Chúa phục sinh hiện ra với các bà phụ nữ đạo đức, sau khi chấn an và ban niềm vui phục sinh cho các bà, Chúa Giêsu nhắn các bà về loan báo cho các môn đệ Người đến Galilêa để gặp Người ở đó.

Nghe theo lời của các bà loan báo, các tông đồ cùng nhau đi về vùng Galilê để chờ đợi gặp gỡ Chúa. Nhưng trong lúc chờ đợi, với tâm trạng buồn chán, ông Simon Phêrô đề nghị các ông khác xuống thuyền để đánh cá. Tuy nhiên suốt đêm ấy các ông không đánh bắt được con nào, cho dẫu các ông là những ngư phủ chuyên nghiệp. Một buổi sáng thất vọng và mệt mỏi cần sự nghỉ ngơi lấy sức sau một đêm dài mệt mỏi. Bổng nhiên tia hy vọng bình minh lé lên, vì một ai đó từ trên bờ thăm hỏi chân tình và rồi đề nghị các ông tiếp tục thả lưới bên phải thuyền. Lời đề nghị ấy như có ma lực thúc đẩy các ông nghe theo. Thật bất ngờ mẻ lưới ấy, các ông đã bắt được rất nhiều cá “hầu không kéo nổi lưới lên”.

Với cái nhìn nhạy bén của con tim, ngay lúc đó Gioan đã nhận ra thầy mình và đã nói với Phêrô: "Chính Chúa đó". Rất đổi vui mừng “Phêrô liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo”.

Trên bờ, Chúa Giêsu đã nướng cá chuẩn bị sẵn sàng buổi ăn sáng cho các ông. Khi ngồi ăn, không ai dám hỏi: "Ông là ai? Vì mọi người đã biết là Chúa”. “Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Đây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại”.

Chúa phục sinh luôn hiện diện bên đời chúng ta, ngài hiện diện nơi làm việc thường ngày của ta. Ngài thấy và thấu hiểu tất cả những gì chúng ta gặp phải và ước muốn. Do đó, chúng ta hãy luôn ý thức sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa trong đời, nhất là những lúc gặp khó khăn thất bại chúng ta tin rằng Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta nên chúng ta hãy chạy đến với Chúa với niềm tin tưởng phó thác vào tình thương và uy quyền của Chúa. Bởi lẽ: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 127,1).


Suy niệm 3:

Sau biến cố Phục Sinh, các môn đệ trở về với công việc quen thuộc trước đây của mình là đánh cá. Dường như họ muốn tìm lại nhịp sống cũ sau những ngày đầy biến động. Nhưng thật lạ lùng, trong chính nơi quen thuộc ấy, giữa hồ nước, lưới chài, con thuyền, họ lại được gặp Chúa Phục Sinh.

Chúa hiện ra không phải giữa vầng hào quang, nhưng trong sự bình dị: một người đứng bên bờ hồ, nhóm lửa, nướng cá, nướng bánh, quá đỗi đời thường. Qua đó, Chúa mạc khải cho chúng ta rằng: Ngài không chỉ là Thiên Chúa của những phép lạ, mà còn là Đấng đồng hành trong những giây phút đời thường nhất.

Cho dẫu các tông đồ là những ngư phủ lành nghề, nhưng suốt đêm lao động hôm ấy lại không đánh bắt được con cá nào, các ông mệt mỏi, thất vọng. Nhưng chỉ một lời của Chúa: “Hãy thả lưới bên phải thuyền”, lưới lại đầy cá đến nỗi không kéo nổi. Họ nhận ra đó là nhờ sự hiện diện và hướng dẫn của Chúa mới làm nên kết quả lạ lùng như thế.

Cuộc sống hôm nay cũng vậy, giữa những tất bật mưu sinh, đôi khi ta mỏi mệt và thất bại. Nhưng nếu biết lắng nghe tiếng Chúa, biết thả lưới theo lời Ngài, chắc chắn sẽ có một phép lạ xảy ra, mang đến bình an và ý nghĩa trong tâm hồn.

Hình ảnh Chúa Giêsu phục sinh nhóm bếp than hồng, chuẩn bị bữa sáng cho các tông đồ là một cử chỉ đầy yêu thương. Ngài không trách móc sự yếu đuối hay bỏ trốn của họ, nhưng lặng lẽ phục vụ, tiếp sức cho những người mỏi mệt. Chính hành động ấy đã đánh động con tim của Gioan và ông đã nhận ra: “Chúa đó!”

 

Khi trái tim ta còn đủ nhạy cảm để nhận ra tình yêu qua những điều nhỏ bé, ta sẽ dễ dàng nhận ra Chúa đang hiện diện trong từng người, từng biến cố đời thường.

Chúa Phục Sinh không chỉ hiện ra trong nhà thờ, nơi bàn thánh, nhưng còn đang hiện diện nơi những bữa cơm gia đình, chỗ làm việc, những buổi họp mặt, và cả trong những đêm dài tưởng chừng vô ích. Mỗi Kitô hữu được mời gọi sống đức tin không chỉ trong thánh lễ, mà cả trong từng bổn phận và tương quan thường nhật.

Xin Chúa Giêsu Phục Sinh mở mắt chúng ta để ta nhận ra Chúa đang hiện diện trong cuộc sống thường ngày.

Xin cho chúng ta đừng bao giờ thất vọng khi vấp ngã, nhưng luôn biết lắng nghe tiếng Chúa và vâng theo lời Ngài mà can đảm đứng lên làm lại cuộc đời.

Xin cho chúng ta biết thắp lửa yêu thương và trở nên dấu chỉ của Chúa Phục Sinh giữa đời thường. Amen.

 

Suy niệm 4:

Trong khung cảnh bên bờ biển Tibêriat, các môn đệ đã trải qua một đêm dài vất vả mà không bắt được gì. Nhưng khi Chúa Giêsu Phục Sinh hiện đến, Ngài đã biến thất bại thành thành công rực rỡ. Lời Ngài: “Hãy thả lưới bên phải” không chỉ là một chỉ dẫn cụ thể, mà còn là lời mời gọi tin tưởng và vâng phục. Chính sự vâng lời ấy đã dẫn các môn đệ đến một mẻ cá lạ lùng, biểu tượng của ơn phúc dồi dào mà Chúa ban.

Câu chuyện này nhắc nhở chúng ta rằng, trong cuộc sống, đôi khi chúng ta cũng đối diện với những “đêm dài” của thất bại, mệt mỏi hay mất phương hướng. Nhưng Chúa Phục Sinh vẫn hiện diện, dù ta chưa nhận ra Ngài. Ngài mời gọi chúng ta lắng nghe, tin tưởng và hành động theo lời Ngài. Khi vâng phục, chúng ta sẽ thấy phép lạ xảy ra, không chỉ là những thành công vật chất, mà còn là sự bình an và niềm vui sâu xa trong tâm hồn.

Hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại: Có “mẻ lưới” nào trong đời sống mà ta đang cố gắng một mình, không có Chúa? Hãy để Ngài hướng dẫn và đồng hành. Ngài sẽ làm cho những nỗ lực của ta sinh hoa trái.

Xin Chúa Giêsu Phục Sinh giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện của Ngài trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Xin Chúa dạy chúng ta  biết lắng nghe và vâng theo thánh ý Ngài, để ta được sống trong niềm vui và ơn phúc của Ngài. Amen.

 

Thứ bảy: Mc 16, 9-15

Suy niệm 1:

Tin mừng hôm nay tóm kết về những lần hiện ra của Chúa phục sinh. Điều đáng ghi nhận là khi hiện ra với ai, Chúa cũng cố lòng tin họ, sai họ đi làm chứng cho Chúa. Xin Chúa cũng cố lòng tin nơi chúng ta, để chúng ta can đảm làm chứng nhân cho Chúa giữa dòng đời đời hôm nay còn lắm gian nan.

Sau khi sống lại, mỗi lần hiện ra, Chúa đều kêu gọi làm chứng cho tin mừng phục sinh.

- Khi hiện ra với bà Maria Macđala, Chúa sai bà đi loan tin cho các môn đệ. Nhưng các ông không tin.

- Chúa phục sinh lại hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau, hai ông về báo tin, nhưng các môn đệ khác cũng không tin.

- Sau cùng Chúa hiện ra với các tông đồ đang ngồi ăn trong nhà tiệc ly, Nguời trách các ông không tin những kẻ đã thấy và làm chứng Nguời sống lại, rồi kêu gọi các ông đi loan báo tin mừng cứu độ.

Như thế, để đón nhận tin mừng phục sinh không phải là dễ, cần phải kiên nhẫn và thời gian.

Trãi qua hơn hai ngàn năm, Giáo Hội không ngừng rao giảng tin mừng cứu độ. Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều người chưa tin nhận Chúa.

Xin cho chúng ta đừng nản lòng, nhưng luôn nổ lực thi hành lệnh truyền của Chúa Phục sinh mà kiên trì rao giảng không ngừng.

Ngày hôm nay, người ta không tin lời thầy dạy cho bằng tin vào những chứng nhân. Xin cho chúng ta ý thức không chỉ rao giảng bằng lời nhưng còn bằng đời sống chứng tá yêu thương. Nhờ thế tin mừng phục sinh có sức thuyết phục mạnh mẽ và đáng tin cậy với mọi người hơn.

 

Suy niệm 2:

Hôm nay là ngày cuối của tuần bát nhật phục sinh, GH như muốn chúng ta cùng với thánh Mác-cô tổng kết lại về những lần hiện ra của Chúa phục sinh. Thánh sử Mác-cô tóm gọn lại những lần hiện ra của Chúa phục sinh như sau:

- Trước hết Người hiện ra với bà Maria Mađalêna, bà đi báo tin vui cho các môn đệ đang buồn thảm khóc lóc, nhưng họ không tin.

- Tiếp đến Người hiện ra với hai môn đệ (Clêophas và Luca), hai ông trở về báo tin mừng cho anh em mình, nhưng họ cũng không tin.

- Sau hết, Chúa hiện ra với 11 tông đồ đang ngồi ăn, Chúa khiển trách các ông cứng lòng. Sau đó sai các ông ra đi khắp thế gian rao giảng Tin mừng cho muôn loài.

Qua đó cho thấy rằng để tin vào Chúa phục sinh không phải là chuyện một sớm một chiều nhưng cần phải có thời gian. Chính Chúa cũng phải kiên nhẫn thuyết phục các môn đệ rất nhiều lần, bằng nhiều cách và ở nhiều nơi khác nhau.

Hiểu được như thế, chúng ta mới không thất vọng trước những thất bại trong việc loan báo tin mừng, bởi vì việc thuyết phục người khác tin vào Tin mừng phục sinh không phải là chuyện dễ dàng chút nào nên đòi buộc chúng ta phải cố gắng thật nhiều.

Trước hết bản thân người rao giảng tin mừng phải có một đức tin kiên vững vào Chúa. Bởi vì có xác tín niềm tin vào Chúa, ta mới dám sống chết cho sứ mạng loan báo tin mừng, như thánh Phêrô và Gioan đã xác quyết trong bài đọc 1: "Trước mặt Chúa, các ngài hãy xét coi: nghe các ngài hơn nghe Chúa, có phải lẽ không? Vì chúng tôi không thể nào không nói lên những điều mắt thấy tai nghe".

Sau nữa là phải kiên nhẫn trong việc loan báo Tin mừng, không nên nóng vội vì “mưa dầm thấm đất”. Đó cũng là kinh nghiệm bản thân của các tông đồ xưa và của GH trãi qua hơn 2000 năm qua.

Chúa đã trao ban cho chúng ta sứ mạng làm chứng cho Chúa trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội. Xin cho chúng ta biết noi gương các thánh tông đồ, vâng nghe lời Chúa biết hy sinh dấn cho công cuộc rao giảng tin mừng, cho dẫu phải đối mặt với những khó khăn, ngay cả nguy hại đến mạng sống.


SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH

Lm. Minh Anh, Tgp Huế

CHÚA NHẬT PHỤC SINH-NĂM C

Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9

 TỘI HỒNG PHÚC

“Halleluia! Chúa đã sống lại!

“Ôi cần thiết thay tội Ađam, tội đã được tẩy xoá chính nhờ sự chết của Đức Kitô. Ôi tội hồng phúc đem lại cho chúng con Đấng Cứu Chuộc rất cao sang!” - Exsultet.

Kính thưa Anh Chị em,

Mùa Chay kết thúc và giờ là lúc để ăn mừng niềm vui lớn lao của lễ Phục Sinh! Tối hôm qua, bài ca Exsultet được cất lên khi Thánh Lễ bắt đầu trong bóng tối và chỉ được thắp sáng bằng nến khắp nhà thờ, và chúng ta nghe, “Ôi tội hồng phúc đem lại cho chúng con Đấng Cứu Chuộc rất cao sang!”.

Những lời này nổi bật vì nó gọi tội lỗi của Ađam là “cần thiết” và “hồng phúc”. Thoạt đầu, điều này có vẻ lạ! Tại sao lại gọi tội Ađam, tội tổ tông, là “cần thiết” và “hồng phúc?”. Lễ Phục Sinh chính là câu trả lời! Bởi lẽ, Thiên Chúa, trong sự khôn ngoan và tình yêu hoàn hảo của Ngài, đã lấy tội lỗi và hậu quả của nó - cái chết - như phương tiện để cứu rỗi thế giới. Đó chính là ý nghĩa của lễ Phục Sinh!

Điều này có thể khó hiểu! Nếu không có tội của Ađam, sẽ không có Chúa Giêsu. Ngài sẽ không trở thành một người trong chúng ta. Vì vậy, mặc dù tội lỗi ban đầu của Ađam, cũng như mọi tội lỗi trong tương lai là xấu xa và sai trái, thì Thiên Chúa trong quyền năng và tình yêu trọn hảo của Ngài đã chọn sử dụng nó như phương tiện cứu độ thế giới. Bằng cách nào? Bằng cách cho phép tội lỗi của thế gian ngược đãi Ngài, đóng đinh Ngài; và sau đó, biến đau khổ và cái chết thành phương dược cứu chuộc. Chúa Kitô đã tiêu diệt tội lỗi bằng cách tiêu diệt hậu quả của tội, cái chết. Sự chết thua cuộc trong Sự Phục Sinh! Sự Phục Sinh của Con Thiên Chúa xoá bỏ hậu quả của mọi tội lỗi đối với những ai bám chặt vào Ngài. ‘Tội hồng phúc’ là vậy!

Đây là thời điểm chúng ta phải làm điều đó: “bám chặt” vào Chúa Phục Sinh! Bám chặt vào Ngài, Đấng đang sống và cố gắng thông phần trong đó. Làm thế nào? Có nhiều cách! Đây là một cách. Hãy vui mừng trong mọi thứ! Bắt đầu với bất cứ điều gì làm bạn nặng nề nhất; bất cứ điều gì khiến bạn tức giận, buồn bã hoặc chán nản. Vậy mà bất cứ điều gì đó vẫn có khả năng trở thành một trong những nguồn ân sủng và niềm vui lớn nhất của bạn. Nếu sự đóng đinh tàn bạo Con Thiên Chúa có thể trở thành sự kiện vĩ đại nhất trong toàn bộ lịch sử loài người, thì nỗi đau khổ cá nhân, gánh nặng của bạn, hoặc thậm chí tội lỗi của bạn vẫn có thể trở thành nguồn vui lớn miễn là bạn để Chúa Kitô biến nó thành một phần Sự Phục Sinh của Ngài! Được vậy, gánh nặng của bạn, tội lỗi của bạn vẫn có thể trở nên hồng phúc!

Anh Chị em,

“Halleluia! Chúa đã sống lại!”. Không gì có thể ngăn cản bạn và tôi khỏi niềm vui mà Chúa muốn ban cho chúng ta. Không gì có thể cướp mất niềm vui đó. Chắc chắn, đôi khi chúng ta sẽ đấu tranh như Chúa Giêsu đã làm trong cuộc chiến đấu ở Vườn Dầu, nhưng những đau khổ đó sẽ không chiến thắng. Sự Phục Sinh đã chiến thắng cùng với Chúa Kitô và sẽ chiến thắng cùng chúng ta khi chúng ta bám chặt vào Ngài. Hãy để Ngài lấp đầy bạn bằng hy vọng và niềm vui mà chỉ có Sự Phục Sinh của Ngài mới mang lại!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, giúp con bám chặt vào Chúa. Xin niềm vui phục sinh của Chúa tràn đầy và là sức mạnh của con trong mọi sự - kể cả những yếu hèn tội lỗi của con!”, Amen.

 

Thứ hai: Mt 28, 8-15

RUN RẨY TRƯỚC ÂN SỦNG

“Các phụ nữ vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng”.

Cha William thăm một cô gái sắp mổ mắt. Nỗi sợ phải mù ám ảnh cô! Cô nói với cha, “Ôi, Chúa đang lấy đi thị giác của con!”. Cha xứ nghiêng mình thì thầm, “Đừng để Ngài lấy nó! Hãy dâng nó cho Ngài!”. Khuôn mặt cô gái rạng rỡ, “Con ước ao được như vậy!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Nỗi sợ xen lẫn vui mừng - dẫu ít ỏi - nơi cô gái trẻ đưa chúng ta về câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Các phụ nữ rời mộ Thầy, vừa “sợ hãi” vừa “vui mừng”, hai trạng thái đan xen! Làm sao một người vừa “sợ” lại vừa “mừng?”. Chẳng phải sợ hãi luôn xói mòn niềm vui sao? Chẳng phải niềm vui không triệt tiêu được sợ hãi? Đặt mình vào tâm trạng các cô, bạn sẽ hiểu thế nào là trải nghiệm ‘run rẩy trước ân sủng!’.

Làm sao có thể không sợ khi thi hài một người chết nay sừng sững trước mắt? Làm sao một ‘thây ma’ lại cất tiếng chào? Ấy thế, nỗi sợ tự nhiên được thế chỗ bởi niềm vui của ân sủng! “Chào chị em!” tiếng Latin là “Exsultet!” - “Mừng vui lên!”. Đây cũng là lời Gabriel chào Đức Maria trong ngày truyền tin, “Mừng vui lên, đấng đầy ân sủng!”. Giờ đây, không phải là lời của thiên thần nhưng là lời của ‘Chúa các thiên thần’ - Đấng Phục Sinh - không chỉ nói cho các phụ nữ Galilê nhưng nói cho cả nhân loại biết rằng, nó đang được đầy ân sủng!

Đây không phải là một nỗi sợ thông thường; đúng hơn, một nỗi sợ đầy choáng ngợp, tôn kính, kinh ngạc và gây sốc thánh thiện; cùng lúc, vỡ oà niềm vui. Bỗng một sự hiểu biết chợt đến khiến các cô xác tín rằng, Thầy đã ra khỏi mồ! Trải nghiệm này cho phép họ tin chắc một điều gì đó phi thường - rất phi thường - vừa mới xảy ra.

Đây còn là một trải nghiệm đáng ao ước nơi bạn và tôi! Ngày Phục Sinh, ‘ngày Chúa đã làm ra’, ‘ngày Chúa biến đổi tôi’, ngày mà tôi hoan hỷ mừng kính trong tám ngày liên tiếp và cao điểm là Chúa Nhật Lòng Thương Xót. Vì thế, trong những ngày này, chúng ta sẽ cố gắng cùng ‘trải nghiệm một kinh nghiệm’ mà các phụ nữ thánh thiện ấy đã trải qua. Rằng, Chúa Giêsu không còn trong mồ và tôi cũng đã ‘ra khỏi mồ’ với Ngài. Hãy chìm sâu vào mầu nhiệm Phục Sinh; học biết nó đúng như ý nghĩa tràn đầy của nó! Ngài đã tiêu diệt tội lỗi, huỷ diệt cái chết, sự ác; đồng thời, đang huỷ diệt tội lỗi của tôi, ban cho tôi sự sống mới trong sức mạnh Phục Sinh của Ngài. Không thể tuyệt vời hơn!

Anh Chị em,

“Tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng”. Chúa Phục Sinh ‘đón đường’ từng người chúng ta, nói với chúng ta rằng, “Mừng vui lên, cả vũ trụ đang được đổi mới; và nhất là, con đang được đổi mới!”. Như các phụ nữ, bạn hãy cam kết ‘ra khỏi nhà’, ‘ra khỏi mồ’, ra khỏi những ước muốn thế tục; nhờ đó, có thể nhận ra ‘Đấng đón đường’ đầy yêu thương, quyền năng. Được như thế, bạn và tôi mới thật sự trải nghiệm cái ‘run rẩy trước ân sủng’ đáng ao ước mà Đấng Phục Sinh mang lại. “Với Ngài, mỗi ngày là một bước trong hành trình vĩnh cửu, và mỗi “hôm nay” có thể hy vọng vào “ngày mai”, mỗi kết thúc là một khởi đầu mới. Mỗi khoảnh khắc đều vượt ra ngoài giới hạn của thời gian, hướng tới cõi vĩnh hằng!” - Phanxicô.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, dạy con ‘ra khỏi nhà’, ‘ra khỏi mồ’; nhờ đó, con có thể trải nghiệm nỗi sợ trước ân sủng của Đấng Phục Sinh khi biết rằng, con đã được biến đổi!”, Amen.

 

Thứ ba: Ga 20, 11-18

MUỐN NHIỀU HƠN

“Đừng giữ Thầy lại!”.

“Bạn có thể có được Thiên Chúa bao nhiêu tuỳ thích! Chúa Kitô trao chìa khoá vào tay bạn. Nếu một người được phép vào kho vàng thỏi của ngân hàng, lấy bao nhiêu tuỳ thích; nhưng người ấy chỉ lấy mấy cắc, thì lỗi tại ai mà người ấy nghèo? Hãy muốn thật nhiều! Và đừng quên, Chúa Kitô luôn ‘muốn nhiều hơn’ cho bạn!” - Alexander MacLaren.

Kính thưa Anh Chị em,

Luôn ‘muốn nhiều hơn’, đó cũng là những gì Chúa Giêsu muốn cho Maria trong trình thuật Tin Mừng hôm nay. Sau khi sống lại, Ngài hiện ra cho cô với dáng vẻ một người làm vườn. Cô muốn ôm chân Ngài; Ngài nói, “Đừng giữ Thầy lại!”. Tại sao? Ngài muốn cô thay đổi cách nhìn, lối xử với Ngài một cách hoàn toàn khác! Ngài ‘muốn nhiều hơn’ cho cô!

Maria hết lòng vì Thầy, bằng chứng là cô đã có mặt dưới chân thập giá; hoặc do lòng thương xót, Ngài đã trục xuất bảy quỷ cho cô! Và dẫu sự gắn bó và lòng sùng kính dành cho Chúa Giêsu đẹp đẽ và thanh khiết - tuy chưa hoàn thiện - Maria chỉ muốn Thầy Chí Thánh được trả lại cho cô theo cách cô muốn. Vì lý do đó, Ngài bảo, “Đừng giữ Thầy lại!”.

Khi nói thế, Chúa Giêsu muốn nói với Maria rằng, “Mối quan hệ của con với Ta sẽ sớm thay đổi theo chiều hướng tốt hơn, thiêng liêng hơn, thiên đàng hơn. Nó không còn ở cấp độ con người! Ta sẽ không chỉ là bạn của con; Ta ‘muốn nhiều hơn’ cho con. Ta muốn con yêu Ta “hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực”; Ta sẽ sớm ở trong con và con ở trong Ta; Ta sẽ ở trong tim con, nên một với con, trở thành Lang Quân của con cho đến đời đời!”. Đây là ‘cuộc hôn nhân thiêng liêng giữa trời với đất’, một ‘hiệp thông mầu nhiệm giữa người với Chúa’, một ‘tương quan mới giữa Đấng Cứu Chuộc với các tội nhân’. Họ sẽ cùng Ngài ‘xe duyên’; và điều này chỉ có thể xảy ra một khi Chúa Giêsu đã lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha sau khi hoàn tất sứ mệnh của Ngài trên dương thế!

Sẽ rất bất ngờ khi bạn và tôi đọc lại những lời này - “Đừng giữ Thầy lại!” - với ý thức rằng, Chúa Giêsu ‘muốn được giữ lại’ hơn ai hết và hơn bao giờ hết! Ngài muốn được mỗi người ‘ôm chặt’ với sự hiểu biết rằng, Ngài đã thực sự lên cùng Cha! Ngài muốn chúng ta ‘ôm chặt’ Ngài trong Thánh Thể, trong Lời, trong tha nhân. Ngài muốn chúng ta bám lấy Ngài với từng thớ thịt, từng hơi thở; Ngài muốn ở cùng, trở nên mỗi người để biến đổi từng người theo cách riêng của Ngài. Maria đang tận hưởng hạnh phúc này; và hạnh phúc này cũng được trao cho bạn và tôi ngay hôm nay, không đợi đến mai ngày trên thiên đàng.

Anh Chị em,

“Chúa Kitô luôn ‘muốn nhiều hơn’ cho bạn!”. Ngài muốn chúng ta gói lấy “những vàng thỏi”, chứ không chỉ nhặt “mấy đồng cắc”. Ngài muốn chúng ta yêu Ngài tha thiết hơn từng ngày, từng giờ; từ đó, sống cho Ngài từng phút, từng giây. Ngài không chỉ ‘muốn nhiều hơn’ trái tim yêu thương của chúng ta; nhưng thật bất ngờ, cả những tội lỗi cùng những gì ‘hơi hướng thế tục’ nơi mỗi người. Đó là tất cả những gì Ngài đang chờ và đang muốn nhất. Hãy dâng Ngài thời giờ, sức khoẻ, niềm vui và cả thập giá. Phải, cả thập giá! Thú vị thay, thập giá đó còn là sự ươn hèn, các tính hư nết xấu và tội lỗi!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, dạy con khôn ngoan ôm lấy ‘vàng thỏi’, đừng nhặt ‘tiền cắc!’, để con yêu Chúa hơn từng ngày, sống thánh hơn từng giờ cho Đấng yêu con từng giây!”, Amen.

 

Thứ tư: Lc 24, 13-35

CÂU CHUYỆN LỚN HƠN

“Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông”.

Anh trộm bị đóng đinh thủng cả hai tay để không thể làm gì cho Chúa; một cái đinh xuyên hai bàn chân để anh không thể chạy vặt cho Ngài. Vậy mà Chúa Kitô đã tặng anh món quà cứu rỗi. Ngài ném cho anh tấm hộ chiếu và anh vào thiên đàng! Câu chuyện tuy gãy gọn nhưng nó là một ‘câu chuyện lớn hơn’ câu chuyện một đời bôn tẩu của bạn và tôi!

Kính thưa Anh Chị em,

Cùng với câu chuyện của anh trộm lành, Lời Chúa hôm nay là những câu chuyện thật đẹp! Chuyện anh què ngồi ăn xin bên cửa đền thờ, chuyện hai môn đệ Emmaus nhận ra người khách lạ đồng hành, cũng là người sẽ kể cho họ một ‘câu chuyện lớn hơn!’.

Trước hết câu chuyện anh què, rồi đây sẽ khá rắc rối! “Ngày ngày, họ đặt anh bên cửa Đền Thờ”; ở đó, anh xin bố thí. Phêrô và Gioan “nhân danh Đức Giêsu Kitô”, tặng anh món quà ‘đôi chân mới’ và “anh vào đền thờ, vừa đi vừa nhảy nhót mà ca tụng Thiên Chúa” - bài đọc một. Câu chuyện anh què chứng tỏ một ‘câu chuyện lớn hơn’ về Đấng Phục Sinh, Đấng mà rồi đây, Phêrô rao giảng, khiến “3.000 người trở lại”. Và mọi người ngợi khen Chúa, “Tâm hồn những ai tìm kiếm Chúa, nào hoan hỷ!” - Thánh Vịnh đáp ca.

Câu chuyện thứ hai - Emmaus - hấp dẫn hơn! Emmaus - phía tây, so với Giêrusalem - phía đông. Hai môn đệ đi về phía mặt trời lặn, phía đêm tối, chết chóc và tuyệt vọng. May thay, ở đó, Chúa Phục Sinh kịp có mặt, dù lúc ẩn lúc hiện. Ngài đồng hành và lòng họ cháy lên; Ngài lắng nghe họ, trách họ ‘vô tín’. Đoạn, kể cho họ một ‘câu chuyện lớn hơn’, “Bắt đầu từ Môsê, giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh”. Thật hồi hộp với phần kết! Khi gần tới làng, hai người “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”. Để khi ngồi ăn, “Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người”, Đấng buộc họ quay lại Giêrusalem, phía mặt trời mọc!

Nhân loại cần nghe câu chuyện vĩ đại đó! Ai sẽ kể về Chúa Kitô cho thế giới nếu không phải bạn và tôi? Nhưng trước hết, câu chuyện lớn nhất là bạn và tôi phải được Chúa Phục Sinh biến đổi! Từ đó, chúng ta mới có thể đồng hành với những ai đang trên ‘đường Emmaus’ đời họ, kể cho họ về Giêsu, Đấng Cứu Độ họ, cứu độ thế giới, hầu mắt họ cũng sáng ra mà ‘quay về phía Mặt Trời’.

Anh Chị em,

“Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông”. “Có lẽ toàn bộ lịch sử của Chúa Giêsu nằm trong chuỗi cử chỉ này! Ngài ‘cầm lấy’ chúng ta, ‘chúc lành’ chúng ta, ‘bẻ’ cuộc sống chúng ta - vì không có tình yêu nào mà không có hy sinh - và tặng nó cho người khác, cho mọi người. Cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với hai môn đệ Emmaus cho biết rằng, cộng đồng Kitô hữu không thể bị nhốt trong một thành trì kiên cố, nhưng đúng hơn là một hành trình dọc theo môi trường thiết yếu nhất của mình, đó là con đường - trên đó - Kitô hữu trao tặng Lời Sự Sống, chứng tá của một tình yêu trung thành cho đến cùng. Và như vậy, trái tim của mọi người bừng cháy hy vọng!” - Phanxicô.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xô con trở lại phía mặt trời mọc; con sẽ kéo theo anh chị em con, kể cho họ ‘câu chuyện lớn hơn’ rằng, Chúa đã thương xót con và luôn thương xót họ!”, Amen.

 

Thứ năm: Lc 24, 35-48

NIỀM VUI LẠ THƯỜNG

“Các ông còn chưa tin, vì mừng quá!”.

Một ấn phẩm Anh trao giải cho ai định nghĩa hay nhất về “Một Người Bạn Tốt Nhất”. Trong hàng nghìn câu trả lời, có những câu sau đây: “Một người hiểu được sự im lặng của bạn!”; “Một người đến, khi cả thế giới ra đi!”; “Một người xuất hiện đúng lúc để nhân lên niềm vui, chia sẻ hạnh phúc và nỗi đau; giúp bạn trải nghiệm một niềm vui lạ thường ngay giữa những mất mát!”. Câu trả lời cuối cùng đạt giải.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay chỉ ra “Người Bạn Tốt Nhất!” - Giêsu - Đấng Phục Sinh, người xuất hiện đúng lúc cho các bạn của Ngài. Luca ghi lại một tâm trạng khó tả vì vừa không thể, lại vừa rất thật, “Các ông còn chưa tin, vì mừng quá!”. Họ vui mừng nhưng chưa chuẩn bị đủ để có thể trải nghiệm ‘niềm vui lạ thường’ này.

Bất cứ cuộc gặp nào với Chúa Giêsu đều luôn dẫn đến trải nghiệm một ‘niềm vui lạ thường!’. Nó là một kinh nghiệm rất khác vượt quá sự nhiệt tình, hâm mộ hoặc phấn khích. Các môn đệ vui mừng, nhưng ‘điều này là không thể’. Hãy chụp lại ‘cái khung tâm trí’ đẹp đẽ này! “Chưa tin” có nghĩa là không chắc mình phải tin điều gì. Kìa, một Giêsu bị đóng đinh đang đứng trước họ với những hõm sâu còn chưa khô trên thân mình; nhưng kìa, một Giêsu đang yêu cầu một chút gì đó để ăn. Họ sốc! Nhưng dường như nơi họ, vẫn có một niềm vui đang chực bùng nổ vì những gì đang thấy nhưng có một điều gì đó đang kìm hãm. Tất cả là quá tốt nhưng không biết có đúng như vậy không?

Một đôi khi, được hưởng nếm ân sủng Chúa, nhưng chúng ta vẫn do dự! Một trong những lý do là sự nản lòng! Trước cái chết của Thầy, các môn đệ vô cùng nản lòng; và bây giờ, dù Thầy ở trước mặt, họ vẫn tần ngần để ‘buông bỏ’ nó - điều mà họ đang cố ‘ôm chặt’. Cũng thế, chúng ta dễ dàng để sức nặng của thế giới, sức nặng tội lỗi của mình hoặc của người khác ghì xuống; chúng ta tức giận, khó chịu và ủ rũ. Chúng ta ‘ôm chặt’ chúng; đang khi nhận lấy niềm vui phục sinh giả thiết là phải ‘buông bỏ’ sự nản lòng để chăm chút nhìn vào thực tại Chúa muốn chúng ta tập trung vào. Ngài mời bạn nhìn xa hơn để đạt được một điều gì đó vĩ đại hơn; nhìn vào chiến thắng của Ngài để vui mừng.

Kìa, Phêrô đang hướng niềm vui của đoàn người đang chạy theo ông đến việc trải nghiệm ‘niềm vui lạ thường’ ở Đấng mà nhờ danh Ngài, anh què đi được - bài đọc một. Thánh Vịnh đáp ca bộc lộ nỗi hân hoan, “Lạy Chúa, lẫy lừng thay danh Chúa trên khắp cả địa cầu!”.

Anh Chị em,

“Các ông còn chưa tin, vì mừng quá!”. “Chúa Giêsu không phải là một “bóng ma”, mà là một Người sống; khi đến gần chúng ta, Ngài lấp đầy chúng ta bằng niềm vui đến mức không tin. Trở thành Kitô hữu trước hết, không phải là người của một học thuyết hay một lý tưởng đạo đức; nhưng là sống mối quan hệ sống động với Ngài - Chúa Phục Sinh!” - Phanxicô. Ngài là “Người Bạn đến, khi cả thế giới ra đi”; “Người Bạn Tốt Nhất xuất hiện đúng lúc để nhân lên niềm vui”; “Người Bạn Tốt Nhất” có thể giúp bạn và tôi trải nghiệm ‘niềm vui lạ thường’ ngay giữa những mất mát, đổ vỡ. Hãy sống chết cho tình bạn cao cả này!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, lấy khỏi con những vui thú ‘tầm thường’; giúp con buông bỏ những gì vô nghĩa, hầu có thể hưởng nếm niềm vui ‘khác thường’ mang tên “biến đổi!”, Amen. 

 

Thứ sáu: Ga 21,1-14

VƯỢT QUÁ TƯỞNG TƯỢNG

“Đến mà ăn!”.

“Điểm phân biệt lớn nhất về sự toàn năng của Thiên Chúa, là khi nghĩ về nó, trí tưởng tượng của con người triệt tiêu! Ngài luôn nhiều hơn những gì có thể tưởng tượng, luôn vượt quá tưởng tượng!” - Pascal.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay chứng tỏ rằng, với Chúa Phục Sinh, mọi sự có thể bắt đầu lại, có thể phục hồi - kể cả những đổ vỡ, phản bội. Ngài có khả năng làm mới lại mọi sự, và những gì Ngài làm sẽ ‘vượt quá tưởng tượng!’.

Với tâm trạng thất bại, người ta thường có xu hướng trở lại nếp cũ hầu khôi phục sự tự tin và giá trị bản thân. Với Phêrô, nếp cũ là đánh cá; vì vậy ông ra biển, rủ các bạn cùng đi. Là những người cảm thấy cũng có lỗi với Thầy nên họ dễ dàng nhập cuộc với Phêrô. Vậy mà nhóm bạn chài đáng thương ấy thật may mắn, Thầy Giêsu đi tìm họ, Ngài sẽ băng bó và chữa lành những trái tim thương tổn của họ, dẫu họ không nhận ra Thầy.

Chúa Giêsu hiện ra - nơi lần đầu tiên Ngài gọi họ - bảo họ buông chài ‘bên phải’ mạn thuyền và họ bắt được rất nhiều cá. Mẻ cá mang tính biểu tượng cao! Biểu tượng trọng tâm là Chúa Phục Sinh đang ở với họ giữa những thất bại, ‘nếp cũ’. Và nếu họ tự nỗ lực để làm điều này, họ sẽ trắng tay; nhưng làm theo ‘cách mới’, tức là theo lệnh, theo cách, ‘trong thời gian của Ngài’, nỗ lực của họ sẽ mang lại thành quả ‘vượt quá tưởng tượng!’.

Chưa hết, “Bước lên bờ, các ông thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa”. Với Phêrô, lại là một biểu tượng! Ánh lửa của đêm nào sống lại trong ông, lửa phản bội, lửa chối Thầy; nhưng nay, lửa xót thương, lửa tha thứ! Trong đêm đó, ông đã nói, “Tôi không biết người ấy!”; nhưng giờ đây, cũng bên bếp lửa hồng, ‘Người Ấy’ lại nói “Đến mà ăn!”. Quá đỗi thâm trầm, ‘vượt quá tưởng tượng’; bởi lẽ, nó gợi lên những lời của đêm Tiệc Ly, lời từ các phép lạ bánh cá hoá nhiều, lời của những bữa ăn thắm tình Thầy, đượm tình trò.

Với Chúa Phục Sinh, mọi sự có thể bắt đầu lại, có thể phục hồi - kể cả những đổ vỡ, phản bội. Trước thượng hội đồng, Phêrô - người chối Thầy - chẳng hề sợ hãi, “Đấng quý vị đã đóng đinh vào thập giá, Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị. Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường!” - bài đọc một và Thánh Vịnh đáp ca.

Anh chị em,

“Đến mà ăn!”. “Sự hiện diện của Chúa Phục Sinh biến đổi mọi sự: bóng tối trở thành ánh sáng, công việc phù phiếm trổ sinh hoa trái và đầy hứa hẹn, cảm giác mệt mỏi và bị bỏ rơi nhường chỗ cho một động lực mới và niềm tin chắc rằng, Chúa ở cùng chúng ta!”; “Khi lưới của chúng ta trống rỗng trong cuộc sống, thì đó không phải là lúc để cảm thấy thương hại cho bản thân, để quên đi mọi thứ, để quay lại với những trò tiêu khiển cũ. Nhưng đã đến lúc bắt đầu lại với Chúa Giêsu, đã đến lúc tìm lại lòng can đảm để bắt đầu lại, đã đến lúc ra khơi một lần nữa với Ngài!” - Phanxicô.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con hiểu rằng, ân sủng phục sinh không chỉ kết thúc với việc con được tha thứ; hồi kết của nó ‘vượt quá tưởng tượng’ - con được biến đổi!”, Amen.

 

Thứ bảy: Mc 16, 9-15

GIỮ CHO NÓ NỒNG NÀN

“Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng”.

“Hãy để cuộc sống bạn toả sáng, không phải với những ánh chớp mà là với ngọn lửa nồng nàn! Chúa thích các vì sao hơn sao chổi, Ngài thích ngọn nến giữ cho lửa nồng nàn hơn là một pháo sáng!” - Vance Havner.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay chứng tỏ “Chúa thích ngọn nến nồng nàn hơn là một pháo sáng!”. Tóm tắt các sự kiện phục sinh của Chúa Giêsu, Marcô tiếp tục gay gắt, “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng”. Tất nhiên, không chỉ lửa trong tim các tông đồ, nhưng còn là lửa trong bạn và tôi, làm sao ‘giữ cho nó nồng nàn!’.

Dù được báo trước về cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Thầy, các tông đồ vẫn không tin Chúa Giêsu sống lại; hoặc có tin, cũng chỉ nửa vời! Maria, một nhân chứng rất đáng tin; hai môn đệ Emmaus hầu chắc đã nói tất cả sự thật. Phải chăng những gì xảy ra chiều thứ Sáu đã ‘bỏ tù’ các ông? Chúa Phục Sinh không cho phép điều đó. Ngài không muốn một ai để mình phải co cụm, sợ hãi; không cho phép một ai ‘tập làm quen’ với những giọt nước mắt của mình. Đúng hơn, Ngài muốn chúng ta gạt bỏ những oán hận và đau đớn của quá khứ để nhìn về tương lai - phía mặt trời mọc - tiến thẳng đến đó để nhận ra Ngài là ‘Vầng Dương’ rạng rỡ, xua tan bóng tối và sự chết; bởi lẽ, Ngài đã chiến thắng!

“Trong thời đại ngày nay, việc dạy giáo lý kém hoặc không còn tồn tại, một nền văn hoá thế tục tràn lan, sự thù nghịch đối với Công Giáo, tổn thương, mất mát, tai tiếng do tội lỗi của các tín hữu hoặc tội lỗi của mình… chính những điều đó có thể làm vẩn đục trí tuệ con người và cả chúng ta, khiến chúng ta mất đức tin. Đức tin như ngọn lửa trong tim mà mỗi người cần trau dồi trong cuộc sống bằng cách ‘giữ cho nó nồng nàn!’” - Bonagura.

Quà tặng đức tin chỉ như ngọn lửa nhỏ mà chúng ta thường bất cẩn ‘chường ra trước gió’ khiến nó bị dập tắt trước khi kịp bùng lên. Mục tiêu của việc theo Chúa là để lửa ấy rực cháy. Và nó có thể! Bạn có thể để nó cháy rực đến mức không gì có thể dập tắt. Điều cần nhớ, Chúa Giêsu tiếp tục đi về phía chúng ta cho đến khi chúng ta mở mắt! Các tông đồ - từng từ chối tin - đã ‘mở mắt’, công bố sự Phục Sinh của Thầy với một lòng tin sắt đá, “Những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra!” - bài đọc một.

Anh Chị em,

“Chúa thích ngọn nến nồng nàn hơn là một pháo sáng!”. Cách thức gìn giữ ánh nến bên trong liên quan đến cách thức chúng ta chăm sóc tia lửa vốn đã có ở đó, bắt đầu bằng các việc làm tốt lành. Tại một đại học Ba Lan, một bạn trẻ hỏi Đức Phanxicô, “Trường con có nhiều bạn vô thần, con sẽ nói gì để thuyết phục họ?”. Ngài trả lời, “Con chỉ nói một điều gì đó thôi sao? Không! Con hãy bắt đầu sống và họ sẽ hỏi con, ‘Tại sao bạn sống như vậy?’”. Đừng để mình bị đánh lừa bởi những tia chớp; hãy tập trung cao độ vào ngọn lửa bên trong bằng cầu nguyện, phục vụ. Nó sẽ bùng cháy, rồi bạn và tôi sẽ cảm nhận sự diệu kỳ của ơn thánh, “Lạy Chúa, con xin tạ ơn Ngài vì đã đáp lời con!” - Thánh Vịnh đáp ca.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con sẽ bắt đầu với những hành vi yêu thương cỏn con nhất và lửa tim con sẽ mãi nồng nàn!”, Amen.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XVIII THƯỜNG NIÊN  Lm. Nguyệt Giang CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN-NĂM C Gv 1, 2;2,21-23; Cl 3, 1-5.9-11; Lc 12,...