SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN III MÙA CHAY
Lm. Nguyệt GIang
CHÚA
NHẬT III MÙA CHAY NĂM B
Xh 20,1-17; 1 Cr 1,22-25; Ga
2,13-25
TÌM HIỂU VÀ SỐNG LỜI CHÚA (Lm Giuse Đinh lập Liễm)
+ Bài
đọc 1 : Xh 20,1-17.
Thiên Chúa đã dùng ông Maisen
giải phóng dân Israel ra khỏi ách nộ lệ của Ai cập. Khi đến núi Sinai, Thiên
Chúa ban bố lề luật cho Maisen và ông đã truyền lại cho dân chúng. Luật ấy được
gọi là “Thập giới” hay “Mười điều răn”. Đối với họ “mười điều răn” là cách đọc
được ý muốn của chính Thiên Chúa ngõ hầu sống hiệp thông với Ngài. Đó chính là
điểm cốt lõi, cho dầu phần lớn các điều răn còn được thấy ở những nơi khác
ngoài Israel.
Thập giới không phải là xiềng
xích nặng nề, kìm hãm tự do con người, nhưng là luật chỉ đạo của Thiên Chúa để
hướng dẫn và bảo đảm bước đường tiến tới tự do và hạnh phúc. Thiên Chúa đòi
Israel phải tuyệt đối trung thành và tuân giữ các điều răn của Ngài. Có như
vậy, Ngài mới là Chúa của Israel và Israel là dân riêng của Ngài.
Ngày nay, chúng ta là dân riêng
của Ngài. Điều mà Ngài đòi hỏi Israel cũng là điều Ngài đòi hỏi
chúng ta ngày nay.
+ Bài
đọc 2 : 1Cr 1,22-25.
Thánh Phaolô rao giảng Đức Kitô
bị đóng đinh. Theo Ngài, nhờ thập giá Đức Kitô, chúng ta đến được với Chúa Cha,
nhưng thập giá lại là điều ô nhục là cớ vấp phạm đối với người Do thái và là sự điên rồ đối với
người Hy lạp. Người Do thái mong đợi Đấng Cứu thế quyền năng chứ không hèn yếu
; người Hy lạp trông một sự can thiệp của Thiên Chúa phù hợp với sự khôn ngoan
của họ, và đối với Đấng ấy, cái chết không được phép chạm đến.
Nhưng thánh Phaolô lại quả quyết
rằng sự khôn ngoan của Thiên Chúa thể hiện rõ nhất nơi thập giá và sự khôn
ngoan của Thiên Chúa trổi vượt hơn sự khôn ngoan của con người. Do đó, Ngài tự
hào về sự khôn ngoan của thập giá bởi vì sức mạnh của Ngài tỏ lộ trong sự yếu
đuối: “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”.
+ Bài
Tin mừng : Ga 2,13-25.
Thánh Gioan thuật lại việc Đức
Giêsu xua đuổi những kẻ buôn bán ở sân đền thở Giêrusalem. Đền thờ là nơi dân
Chúa thập phương tụ họp lại để tỏ lòng tôn thờ và dâng tiến lễ vật cho Thiên
Chúa. Đền thờ phải là nơi trang nghiêm dành cho việc thờ phượng. Nhưng người ta
vì ham lợi lộc đã biến Đền thờ thành nơi buôn bán, ồn ào nhộn
nhịp. Đức Giêsu vì nhiệt thành với Thiên Chúa đã dám chấp nhận nguy
hiểm dẫn đến cái chết khi nghĩ đến câu Thánh vịnh:”Vì nhiệt tâm lo việc nhà
Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”(Tv 68,10).
Để trả lời cho những thách thức
của họ, Đức Giêsu nói:”Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi. Nội ba
ngày tôi sẽ xây dựng lại”(Ga 2,21). Đền thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây
là chính thân thể Ngài. Và “Nhà Cha” thực sự từ nay sẽ là “đền thờ thân thể
Ngài”, và Ngài sẽ là vị tư tế duy nhất muôn đời. Nhưng nhân tính của Ngài sẽ
chỉ giữ vai trò trên sau khi bị phá hủy và trỗi dậy (Ga 2,20).
+ Hãy biến cuộc đời mình thành đền thờ.
Chúng ta là những Kitô hữu, cuộc sống chúng ta đã được dâng hiến cho Thiên
Chúa và đã trờ thành đền thờ cho Chúa ngự. Nỗ lực của chúng ta là phải làm
sao sống xứng đáng là đền thờ của Chúa, đừng bao giờ đuổi Chúa ra khỏi đền thờ
này. Vì thế, chúng ta hãy cố gắng biến cuộc đời của chúng ta thành đền thờ của
Chúa Ba Ngôi.
Charles Singer có một bài thơ ngụ ngôn
nói về đề tài này: hãy biến cuộc đời thành “Ngôi Thánh Đường”. Xin trích một
đôi câu trong bài thơ này :
Lạy Chúa, cuộc đời con là một ngôi Thánh đường,
Từ tro bụi, bao năm trường xây đắp,
Con tự hào với tất cả niềm tin,
Bằng đôi tay, bằng mối tình nghệ sĩ,
Để vươn lên thật cao qúi tôn nghiêm...
Lạy Chúa,
Ngôi thánh đường của đời con,
Không thể xong trong một sớm một
chiều,
Nhưng vun đắp trải qua nhiều năm
tháng...
Lạy Chúa, con chỉ là người thợ
cả,
Chính Ngài, con không quá lời
đâu :
Là Thiên Chúa, là Khởi Đầu,
Chung Cuộc,
Chính Ngài, Nhà Kiến Trúc của
đời con.
(Lm
Trương đình Hiền)
Và để kết thúc, ta hãy đọc lời
nguyện sau đây được viết trên cửa một nhà thờ nọ :
Lạy Chúa, xin làm cho cánh cửa
này đủ rộng để có thể đón tiếp mọi người nào cần đến tình thương của đồng loại,
anh em. Nhưng cũng đủ hẹp để có thể ngăn chận mọi kiêu căng, ganh tị, bất
hoà.
Xin làm cho ngưỡng cửa này đủ
phẳng để buớc chân của trẻ thơ và những người lầm đường lạc lối vào đây mà
không bị vấp ngã.
Xin làm cho nhà này là nhà cầu nguyện
và là cổng dẫn vào Nước Chúa.
(Theo Flor McCarthy)
TÌM HIỂU LỜI CHÚA (Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
1.
Bài đọc I: Xh 20,1-17
Sau
khi dân Israel được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập, họ xuất hành qua sa mạc.
Khi đến núi Sinai, Thiên Chúa gọi Môsê lên với Ngài và Ngài ban cho dân 10 điều
luật.
Thực
ra khi mới ra khỏi Ai cập, họ chỉ là một đám đông chưa biết cách sống chung với
nhau, chưa có tinh thần tập thể, cũng như chưa có một đức tin chung. Nhờ những
điều luật này, họ biết sống với nhau bằng tình thương (phần thứ hai của thập giới:
yêu người) và biết sống với Thiên Chúa bằng lòng kính mến (phần đầu của thập giới:
mến Chúa).
Bài
đọc II: 1 Cr 2,13-25
Thánh
Phaolô so sánh sự khôn ngoan của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của thế gian. Sự
khôn ngoan của Thiên Chúa thể hiện rõ nhất nơi thập giá. Nhưng thập giá là cớ vấp
phạm đối với người Do Thái và là sự điên rồ đối với người Hy Lạp. Tuy nhiên sự
khôn ngoan Thiên Chúa trổi vượt mọi khôn ngoan của con người.
Vì
thế Thánh Phaolô tự hào về sự khôn ngoan của thập giá. Ngài hăng hái rao giảng
sự khôn ngoan ấy và kêu gọi tín hữu hãy tìm kiếm sự khôn ngoan ấy.
Tin
Mừng: Ga 2,13-25
Tường thuật việc Ðức Giêsu đánh đuổi những người buôn bán trong sân Ðền thờ Giêrusalem. Ðối với Thánh Gioan, điều đáng chú ý nhất là sự nguy hiểm của việc làm này: nó sẽ dẫn Ðức Giêsu tới chỗ chết (c 20: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi. Nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại". c 21 "Ðền thờ Ðức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Ngài"). Nhưng vì nhiệt thành với Thiên Chúa nên Ðức Giêsu dám chấp nhận mọi nguy hiểm (c 17 "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân").
Câu
chuyện: Bài học khôn ngoan
Một thiếu niên đi xem đấu bóng với cha sở,
nói với cha rằng anh không thích vâng phục. Anh nói: "Thưa cha, con rất
ghét ai bảo phải thế này, thế nọ. Không có tự do trong việc này".
Cha sở không nói một lời. Liền sau đó, họ gặp
một biển chỉ đường chỉ hướng đi tới sân chơi. Cha sở làm như không thấy. Cậu bé
la lên: "Chúng ta đi sai đường! Thưa cha, cha không thấy dấu đằng kia
à!".
Cha sở bình tĩnh trả lời: "Cha thấy chứ,
nhưng cha nghĩ đường này xem ra tốt hơn, và cha ghét bị chỉ bảo đi đường này đường
kia bởi một biển chỉ đường cũ kỹ. Nó không cho cha tự do hành động".
Cậu bé nhận ra bài học, và họ vòng trở lại đi vào hướng sân chơi.
-
"Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh"
Người
thời nay dị ứng với từ "luật" vì cho rằng luật gò bó tự do. Họ ghét
chủ trương "vị luật".
Chính
Ðức Giêsu cũng đả phá chủ trương vị luật. Ngài kịch liệt công kích những người
Pharisêu vì họ chủ trương như thế.
Thế
nhưng Chúa không phá bỏ lề luật: "Ta
đến không phải để huỷ bỏ lề luật mà để kiện toàn" (Mt 5,17).
Ngài
kiện toàn luật thế nào? Bằng cách chỉ cho thấy "trái tim" của lề luật
là thương yêu. Ngài tóm lược tất cả mọi lề luật vào 2 khoản là mến Chúa và yêu
người. Thánh Augustinô đã hiểu như thế nên đã nói: Ama et fac quod vis, Hãy yêu
đi rồi muốn làm gì thì làm.
Chính
Ðức Giêsu nêu gương giữ luật với tất cả tấm lòng yêu thương. Bài Tin Mừng hôm
nay cho thấy Ngài nổi giận khi thấy người ta làm hại đến sự thánh thiện của Ðền
thờ. Vì yêu mến lề luật và nhiệt thành với Thiên Chúa, Ngài đã đánh đuổi những
người buôn bán ra khỏi đền thờ, một việc làm sẽ dẫn Ngài tới cái chết. "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi
đây sẽ phải thiệt thân".
-
Sự khôn ngoan của Thập giá
Một
vài ý tưởng của Nino Salvaneschi (trong quyển Savoir souffrir):
Không
có tình yêu, ta không thể sống
Không
có đau khổ, ta không thể yêu
Phải
học yêu để sống tốt hơn
Và
phải học chịu khổ để yêu nhiều hơn.
Tình
yêu là nhung nhớ về cõi trời ; đau khổ là giải thoát khỏi cõi đất. Vì thế trong
mọi đau khổ luôn có một cái gì đó của trời, và trong mọi tình yêu luôn có một
cái gì đó của đất.
Vui
sướng làm cho tâm hồn mềm yếu, đau khổ làm cho tâm hồn cứng cáp. Vui sướng làm
thỏa mãn cho riêng mình, đau khổ đi tìm một trái tim khác. Vui sướng làm hư
(déformer), đau khổ huấn luyện (former) nhân cách.
Tình
yêu đến và đi, đôi khi nó đem lại cho ta một cái gì đó, nhưng đôi khi nó cướp
đi tất cả. Tình yêu chỉ cất tiếng hát trong một mùa. Trái lại đau khổ đến thăm
ta vào mọi lứa tuổi. Nó đến thì biến đổi đời ta, và trước lúc ra đi nó luôn để
lại một cái gì đó.
Dĩ
nhiên bạn có thể chấp nhận hoặc từ chối đau khổ. Nhưng nếu chấp nhận thì bạn sẽ
bình an. Còn nếu từ chối thì bạn vẫn còn phải chiến đấu mãi với chính mình.
Chịu
đựng là dấu chỉ kẻ bại trận. Chấp nhận là dấu chỉ của người đang cầm vũ khí để
chiến đấu.
SỐNG KHÔN NGOAN (Hai Lúa)
Khôn ngoan sống theo luật Chúa ban.
Ai mà thấu hiểu, Thập giá mang.
Giê su gương sáng, vâng Ý Chúa.
Mạng sống hy sinh vẫn sẵn sàng.
CHÚA DẠY SỐNG KHÔN NGOAN
Khôn ngoan mà Chúa dạy ta,
Chăng phải luồn lách mà là vững tin.
“Thế gian đựợc cả cho mình,
Linh hồn thiệt mất, thì mình ích chì?
Thế gian khôn lỏi lợi gì?.
Khôn ngoan đích thực, thực thi Ý Trời.
Xưa dân. “Ai Cập” xa rời.
Si nai, “thập giới” dạy đời “khôn ngoan”.
Tôn thờ Thiên Chúa hiển vang,
Yêu người như thể xác mang nơi mình.
Phao lô so sánh tận tình,
Khôn ngoan Thiên Chúa phân minh rỏ ràng.
Đó là Thập Giá ta mang.
Là cớ vấp phạm cho hàng thông minh.
Điên rồ Hy Lạp coi khinh.
Nhưng là trổi vượt trong tình Chúa yêu.
Giê su tỏ rỏ “luật điều”
Thanh tẩy đền thánh với nhiểu hiễm nguy.
Dẫn tới chổ chết một khi.
Khôn ngoan “theo Chúa” sợ chi sự đời.
Là Ki tô hữu ai ơi!
Mùa chay thanh tẩy hồn thời mới an.
Giê su,xin Chúa thương ban,
Cho ơn thống hối, sửa sang xác hồn.
Suy niệm 1: TÍCH CỰC THAM GIA THANH TẨY ĐỀN THỜ
Hành
động đánh đuổi những con buôn và lật tung những bàn đổi tiền ra khỏi đền thờ đã
đụng chạm đến quyền lợi kinh tế của những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ.
Bởi nguồn thu nhập kinh tế của hàng ngũ giới chức tôn giáo chủ yếu nhờ vào việc
buôn bán súc vật và đổi tiền ở đền thờ vào những dịp lễ lớn.
Việc
làm này của Chúa Giêsu như đã đá đổ nồi cơm thơm ngon của họ. Do đó họ rất căm
thù và quyết nhổ cho bằng được “cái gai Giêsu” ra khỏi mắt họ. Và như giọt nước
đã làm tràn ly, khi Chúa Giêsu nói lời thách thức họ: “Cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại.” (Mt
26,61; Mc 14,58) Cũng như chính Ngài tự đặt mình ngang hàng với TC, đã trở
thành lý do hợp pháp, khiến họ giận dữ và đưa đến quyết định lên án tử cho
Ngài.
Sự
kiện Chúa Giêsu kiên quyết đánh đuổi những con buôn ra khỏi đền thờ chắc hẳn
Ngài dư biết sẽ đưa đến những hệ lụy nguy hiểm đến tính mạng mình, nhưng vì đây
là cách tốt nhất để Chúa nhắc nhở mọi người chúng ta về hai điều quan trọng
trong đời sống đức tin:
1. Tầm quan trọng
của ngôi Nhà Thờ vật chất: Bởi nơi đây là nơi
hiện diện cách đặc biệt của TC, là nơi quy tụ những người tín hữu tôn thờ Thiên
Chúa, là nơi biểu tỏ đức tin, là nơi gặp gỡ và sống tình huynh đệ bác ái Kitô
giáo, là nơi tụ họp để lắng nghe và được giải thích lời Chúa, là nơi để lãnh
nhận các ơn thiêng cao quý Chúa ban qua các bí tích và lời cầu nguyện… Nơi đây
Đức Tin của người kitô hữu mỗi ngày được nuôi dưỡng và lớn mạnh hơn. Do đó, mỗi
chúng ta cần phải ý thức tầm quan trọng và giá trị thánh thiêng của Nhà Thờ mà
chung tay xây dựng và góp phần gìn giữ Nhà Thờ được sạch đẹp; luôn giữ thái độ
xứng hợp khi bước vào Nhà Thờ; nhất là biết siêng năng kính viếng Chúa nơi Nhà
Thờ.
2. Giá trị cao quý
của đền thờ tâm hồn: Sự kiện Chúa Giêsu
đánh đuổi những con buôn ra khỏi đền thờ còn nhắc nhớ chúng ta về giá trị thánh
thiêng của ngôi đền thờ tâm hồn. Bởi tâm hồn chúng ta chính là nơi Thiên Chúa
Ba Ngôi thích ngự trị nhất. Nhưng rất có thể ngôi đền thờ tâm hồn chúng ta vẫn
còn ngỗn ngang bởi những toan tính lợi danh, những đam mê dục vọng. Nơi ấy vẫn
còn chất chứa nhiều tính hư tật xấu và tội lỗi nên rất cần được Chúa thanh tẩy
cho thanh sạch, hầu xứng đáng là nơi ngự trị của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Xin cho mỗi người
trong chúng ta biết góp phần tham gia tích cực trong việc gìn giữ và bảo vệ
ngôi nhà thờ vật chất của Họ đạo mình sạch đẹp, trang nghiêm, xứng đáng là nơi
thờ phượng Chúa; cũng như biết canh tân ngôi đền thờ tâm hồn của mình sao cho
xứng hợp là nơi Ba Ngôi TC ngự trị. Được như vậy, cuộc đời của chúng ta mới có
thể trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành, mang lại niềm vui, bình an và ơn ích cho
mọi người và cho cuộc đời này.
Suy niệm 2: LỜI HỠI TÌNH ƠI
Lm. Nguyễn Xuân Trường
Tại sao Chúa Giêsu là Đấng hiền lành lại đầy phẫn nộ
khi thanh tẩy đền thờ Giêrusalem? Có người dí dỏm bảo: Chúa Giêsu nổi máu “đánh
ghen”! Nói Chúa đánh ghen mà không sợ phạm thượng bởi vì chính Bài đọc I nói
rõ: Chúa là một vị thần hay ghen. Thế này nếu bị chồng than là hay ghen
thì vợ cứ vui vẻ tuyên bố: Em ghen là trở nên giống Chúa đấy! Hihii. Tại
sao Chúa Giêsu lại hành xử như vậy?
1. Lời. Đền Thờ là nơi con người thờ phượng Chúa, lắng nghe Lời
Chúa. Thế nhưng thay vì quan tâm đến Lời Chúa thì người ta lại quan tâm đến lời
lãi. Người ta đặt lời lãi lên trên Lời Chúa. Người ta biến Nhà Chúa thành chợ
buôn bán lễ vật. Người ta mải mê buôn bán lời lãi mà bỏ bê Lời Chúa. Lời Chúa
thua lời lãi. Tình cảnh đó đã khiến lòng Chúa Giêsu vì yêu Chúa Cha mà bùng
cháy lửa phẫn nộ.
2. Tình. Đền Thờ là nơi con người bày tỏ tình yêu vô vị lợi với
Chúa, thế nhưng người ta lại biến thành nơi kiếm tiền. Đền Thờ là nơi con người
gặp gỡ chia sẻ, nâng đỡ nhau, thế nhưng người ta lại biến thành nơi moi tiền của
nhau. Thiên Chúa là tình yêu bị lấn át bởi tiền bạc. Tiền bạc xé toạc tình
nghĩa. Chúa Giêsu không thể nào chịu được cảnh chướng tai gai mắt ấy, nên Ngài
đã nổi trận lôi đình: Ném tiền bạc, lật nhào bàn ghế, cầm roi xua đuổi những
người bán buôn ra khỏi đền thờ. Chúa Giêsu lật đổ và xua đuổi những thứ đã chiếm
vị trí của Chúa Cha trong Đền Thờ.
Phúc Âm mời gọi chúng ta nhìn vào đời sống của mình và tự hỏi: Tôi đang mải mê tìm kiếm thứ gì: Lời Chúa hay lời lãi? Tình nghĩa và tiền bạc, thứ gì đang lấn át đời tôi? Nếu muốn lòng mình là đền thờ cho Chúa ngự thì hãy mở lòng đón Chúa ngự vào bởi vì: Chúa mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Lời Chúa cho người dại nên khôn, làm hoan hỷ cõi lòng. Amen.
Suy niệm 3: THANH TẨY ĐỀN THỜ
ĐGM. Ngô Quang Kiệt
Một trong những vấn đề lớn của
thế giới hiện nay là nạn ô nhiễm môi sinh. Các giòng sông đang bị ô nhiễm vì
biết bao chất thải dơ bẩn, độc hại. Không khí ta hít thở đang bị đe dọa vì bụi
bặm, vì khói xe, khói nhà máy. Nước biển bị ô nhiễm vì nạn dầu nhớt rò rỉ, vì
chất thải của những lò phản ứng nguyên tử. Tầng khí quyển bị những chất khí độc
chọc thủng đang làm thay đổi khí hậu và gây ra những căn bệnh nguy hiểm. Để con
người có thể sống và phát triển được, thế giới cần phải được thanh tẩy khỏi các
nguồn ô nhiễm.
Sự ô nhiễm không chỉ trong môi
trường vật lý. Nhiều môi trường khác như môi trường văn hóa, môi trường đạo đức
cũng đang bị ô nhiễm trầm trọng. Tôn giáo không tránh khỏi nạn ô nhiễm. Muốn
cho bầu khí đạo đức được trong sạch, muốn cho đời sống tâm linh tồn tại và phát
triển, tôn giáo cũng cần được thanh tẩy. Hôm nay Đức Giêsu vào Đền thờ và đã
thanh tẩy Đền thờ. Người đã làm 3 cuộc thanh tẩy
1. Người đã thanh tẩy Đền thờ
khỏi ô nhiễm vì súc vật.
Trong nghi lễ của đạo Do Thái,
cần có súc vật để dâng cho Thiên Chúa. Khi dâng lễ hy sinh, người ta mổ một con
thú, đặt trên bàn thờ rồi đốt lửa thiêu con vật. Mùi mỡ cháy quyện khói xông
lên nghi ngút. Người giầu thì dâng một con bò hay một con chiên. Người nghèo có
thể dâng một cặp chim bồ câu hoặc một đôi chim gáy. Để đáp ứng nhu cầu của tín
đồ,dịch vụ cung cấp lễ vật mau chóng thành hình ngay trong khuôn viên Đền thờ.
Ta hãy tưởng tượng một chợ trâu bò ngay trong Đền thờ. Thật là dơ bẩn, ồn ào và
chướng tai gai mắt. Nhưng nhu cầu đã biện minh cho sự ô nhiễm. Và dân Do Thái
mặc nhiên chấp nhận để cho súc vật nghễu nghện ngự trị ngay trong khuôn viên
Đền thờ rất nguy nga, rất lộng lẫy, rất cao sang mà họ từng ca tụng là “đền
vàng”, là “nơi thánh”. Thấy nhà Chúa bị xúc phạm, Đức Giêsu không kiềm chế được
cơn giận, đã lấy roi xua đuổi hết súc vật và cả đám con buôn ra khỏi Đền thờ.
2. Khi xua đuổi các con buôn ra
khỏi Đền thờ, Đức Giêsu đã thanh tẩy thói tôn thờ ngẫu tượng.
Theo Đức Giêsu, ngẫu tượng nguy
hiểm nhất là tiền bạc, tức là thần “Mammon”. Đã có lần Người lên tiếng cảnh
báo: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của”, và “Con lạc đà chui
qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào nước Thiên đàng”. Những con buôn đưa
súc vật vào Đền thờ không do lòng yêu mến Thiên Chúa, nhưng vì lợi nhuận. Đưa
súc vật vào nơi tôn nghiêm, họ đã coi trọng tiền bạc hơn Chúa. Để cho súc vật
làm ô uế Đền thờ cao trọng, họ đã dùng Đền thờ làm phương tiện phục vụ túi tiền
của họ. Các tư tế coi sóc Đền thờ có lẽ cũng được chia phần nên đã cho phép con
buôn được tự do họp chợ trong Đền thờ. Họ cũng như con buôn, coi tiền bạc trọng
hơn Thiên Chúa. Họ đã rơi vào thói tôn thờ ngẫu tượng: thờ tiền bạc, dùng Chúa
và Đền thờ để phục vụ tư lợi.
3. Khi đuổi súc vật ra khỏi Đền
thờ, Đức Giêsu muốn thanh tẩy cung cách thờ phượng của ta.
Trước kia người ta dâng súc vật
làm của lễ. Lòng đạo đức được đo lường bằng sức nặng của con vật. Dâng con vật
to sẽ được nhiều ơn phúc. Nay, Đức Giêsu cho thấy Chúa đã chán thịt bò, mỡ dê.
Chúa đã ghê sợ mùi khói mùi khét lẹt, mùi máu tanh tưởi (cf. Is 1,11). Thánh
vương Đavít đã hiểu: “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ
toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” (Tv 50,16). Chúa muốn ta đến với Người
bằng chính bản thân ta. Lễ dâng đẹp lòng Chúa là thái độ khiêm nhường thống hối
như lời Thánh vịnh: “Lễ dâng Chúa là tâm hồn thống hối. Một tấm lòng tan nát
dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Lễ dâng đẹp lòng Chúa là phó thác
trót cả tâm hồn thân xác trong tay Chúa như Đức Giêsu đã làm trên Thánh giá:
“Lạy Cha, con dâng phó hồn con trong tay Cha”. Lễ dâng được Chúa vui lòng chấp
nhận là sát tế chính bản thân mình để làm theo ý Chúa: “Máu chiên bò Chúa không
ưng. Của lễ toàn thiêu Chúa không nhận. Thì này con đến để làm theo ý Chúa
(Tv). Ta sát tế chính bản thân mỗi khi ta từ bỏ ý riêng, chiến đấu chống lại
những cơn cám dỗ của dục vọng, tiền bạc, thói gian tham, tính tự ái kiêu căng,
sự chia rẽ bất hòa.
Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ.
Người muốn ta hãy tiếp tục công việc của Người. Giữ gìn cho nhà thờ luôn sạch
đẹp, có bầu khí tôn nghiêm là điều cần thiết. Nhưng cần hơn vẫn là giữ gìn ngôi
Đền thờ thiêng liêng là chính bản thân ta. Tâm hồn chính là cung thánh nơi Chúa
ngự. Ta phải luôn luôn thanh tẩy tâm hồn để xứng đáng với Chúa. Hãy thanh tẩy
tâm hồn khỏi thói tôn thờ tiền bạc, coi trọng tiền bạc hơn Chúa. hãy thanh tẩy
tâm hồn khỏi những dục vọng đam mê làm ô uế cung thánh của Chúa. Hãy thanh tẩy
tâm hồn khỏi thói gian tham, bất công. Hãy thanh tẩy tâm hồn ta khỏi những kiêu
căng đố kỵ. Thân xác ta là Đền thờ của Chúa. Hãy kính trọng thân xác của mình
và của người khác. Hãy tu bổ những Đền thờ thân xác đã xuống cấp, suy tàn, bị
xúc phạm, bị bán rẻ. Hãy sửa chữa những Đền thờ thân xác đang bị bào mòn vì
bệnh tật, vì đói khát, vì thương tích. Hãy kính trọng thân xác của người khác
vì đó là Đền thờ của Chúa.
Trong mùa Chay này, ta hãy cố gắng thanh tẩy bản thân, để tâm hồn và thân xác ta trở thành một Đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự.
Suy niệm 4:
LM.
Giuse M. Trần Xuân Chiêu
Đoạn Tin
Mừng Thánh Gio-an thuật lại câu truyện Đức Giê-su vào đền thờ Giêrusalem trong
ngày lễ Vượt qua. Người đánh đuổi những người buôn bán trong Đền thờ, giúp nơi
này trở nên nơi thờ đúng nghĩa: là nơi thờ phượng Thiên Chúa.
Nhưng tại sao lại có chuyện buôn
bán trong đền thờ Giê-ru-sa-lem, nơi mà người It-ra-en coi là thiêng thánh? Tại
sao Đức Giê-su nổi giận, một thái độ không giống như tính cách thường ngày của
Người là hiền lành và khiêm nhường? Tại sao các thủ lãnh Đền thờ lại phản ứng
việc làm đúng đắn của Đức Giê-su? Phải chăng Đức Giê-su điên rồ, khi đụng đến
đền thánh Giê-ru-sa-lem, nơi kết tinh mọi tình cảm, đức tin và niềm kiêu hãnh
của Người It-ra-en?
1. Tại Đền thánh Giê-ru-sa-lem
Giê-ru-sa-lem là đền thờ duy nhất
của người It-ra-en. Họ có thói quen lên Đền thờ vào các dịp đại lễ Vượt Qua, lễ
Ngũ Tuần. Đức Giê-su cũng giữ tập tục này như mọi người It-ra-en khác. Thánh
Gioan ghi lại bẩy lần Đức Giê-su lên đền thờ Giê-ru-sa-lem dự lễ. Dịp lễ Vượt
Qua, Đức Giê-su lại tiếp tục hoà nhập đoàn hành hương để cầu nguyện, để chiêm
ngưỡng Đền thờ, tham dự phụng vụ và chỉnh đốn lại thứ tự, Luật lệ đã bị người
It-ra-en làm biến tướng:
Đức Giê-su nổi giận, khi thấy những
người buôn bán biến Đền thờ thành hang trộm cướp: "Người thấy trong đền
thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền. Người
bèn lấy dây làm roi và xua đuổi tất cả bọn họ..."(Ga 2,14-15). Trước sự
phản ứng kịch kiệt của bọn lái buôn và những nhà chức trách It-ra-en, Đức
Giê-su không nhượng bộ, Người thịnh nộ: "Còn tiền bạc của những người đổi
bạc, người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ." Khác hẳn với đức tính
hiền lành thường có nơi Đức Giê-su, Người đã nổi giận vì họ biến nhà Cha Người
thành nơi buôn bán, tôn thờ tiền bạc.
Việc làm của Đức Giê-su đụng chạm tới người It-ra-en:
Trước hết, những chức trách It-ra-en cho rằng, chỉ có họ hay những người họ sai
đi, mới có quyền làm công việc liên quan đến Đền thờ như phong tục, tổ chức,
nghi lễ, trật tự... Khi thấy Đức Giê-su tự động làm như vậy, họ thắc mắc:
"Ông hãy tỏ cho chúng tôi dấu gì là Ông có quyền làm như vậy?"(Ga
2,18). Thứ hai, việc Đức Giê-su làm, ảnh hưởng quyền lợi của các Tư tế, chức
sắc; họ đã lợi dụng luật dùng đồng tiền It-ra-en và luật dâng lễ vật thánh,
thành những món lợi nhuận béo bở, khi người dân hành hương từ xa đến mua bán
đổi chác. Thứ ba, người It-ra-en coi Đền thờ là nơi thiêng thánh, là niềm kiêu
hãnh của họ và phải mất 40 năm mới xây dựng xong, vậy mà Đức Giê-su tuyên bố:
"Cứ phá huỷ Đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại"(Ga
2,19). Quả là điên rồ, nếu ai nghĩ rằng Chúa định tấn công thành thánh, đối
tượng tôn sùng của dân Chúa. Đây cũng là lí do họ quyết định kết án tử Đức
Giê-su.
2. Những động cơ thanh tẩy Đền thờ
Trước con mắt người It-ra-en, Đức
Giê-su là kẻ xúc phạm đền thánh Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên, Chúa đã ra tay hành
động để làm sạch lại Đền thờ:
Vì tình yêu Thiên Chúa: Tình yêu Chúa Cha luôn thiêu đốt trong lòng Đức
Giê-su, Người muốn làm mọi sự để làm đẹp lòng Cha Người: "Vì nhiệt tâm lo
việc nhà Chúa, mà Tôi đây sẽ phải thiệt thân"(Ga 2,17). Khi thấy những
việc làm sai trái của người It-ra-en, khác với sự hiền lành thường lệ, Người
nổi nóng, bất chấp nguy hiểm, bất chấp sự trả thù của người It-ra-en, Đức
Giê-su dấn thân để bảo vệ sự trong sạch của Đền thờ. Đền thánh được coi là nơi
Thiên Chúa ngự, nơi mọi người quy tụ để làm nhiệm vụ thờ phượng Thiên Chúa, Đức
Giê-su không thể không làm gì để thể hiện tình yêu của Người đối với nhà Cha
Người.
Để trọn lời các Ngôn sứ: Đức Giê-su làm đúng như chương trình của Thiên Chúa
đã ấn định. Người kiện toàn những lời các Tiên tri nói về Người. Người không
ngần ngại dùng bạo lực để làm tròn sứ vụ như lời tiên tri Giê-rê-mi-a đã nói:
"Ngày ấy sẽ không còn phường lái buôn trong Đền thờ của Gia-vê nữa."
Sự nguy hiểm do sự giận dữ của Người cũng được Kinh Thánh báo trước, Ngôn sứ
Ma-la-ki nói: Đừng biến Nhà Cha Ta thành một cái chợ(Mal. 3, 1-3). Đức Giê-su
đang đi đúng con đường mà Thiên Chúa Cha đã vạch ra.
Để phá "hang trộm cướp" làm ô nhiễm Đền thờ. Thử tưởng tượng xem, một
chợ súc vật, nơi đó có bàn mổ, có lông, da, phân... mùi hôi nồng nặc, người ta
đua hơn bán thiệt, thách giá, cạnh tranh; nơi đó người ta om xòm cãi vã, con
buôn thách giá, đầu cơ; nơi đó đồng tiền và súc vật ngạo nghễ ngự trị. Còn gì
là âm thanh êm dịu của phụng vụ, còn gì là mùi thơm của hương khói, còn gì là
thiêng thánh của Đền thờ? Nơi thờ phượng đã biến thành nơi dơ bẩn ồn ào. Đức
Giê-su thể hiện tình yêu với Chúa Cha, Người không thể ngồi yên hay đứng nhìn
cảnh tượng ghê tởm đó diễn ra.
Để lên án hành động tôn thờ ngẫu tượng: Người It-ra-en đã biến Đền thờ thành nơi trục lợi. Họ
tôn sùng tiền bạc, họ tranh thủ luật dâng lễ vật để thương mại, họ lợi dụng
đồng tiền It-ra-en để ép giá, đổi chác, cứ như là Thiên Chúa chỉ thích tiền của
họ. Họ lợi dụng Đền thờ, lấy danh Chúa làm bình phong để làm giàu. Đức Giê-su
không thể chấp nhận những loại người lợi dụng tôn giáo để làm lợi cá nhân.
3. Đền thờ đích thực
Đền thờ Thân Xác Đức Giê-su: Người It-ra-en cho là phạm thượng, khoác lác khi nghe
Đức Giê-su nói: "Cứ phá Đền thờ này đi, nội trong ba ngày, Ta sẽ xây dựng
lại." Người ta sẽ không hiểu nổi, nếu chỉ hiểu nghĩa đen về đền thờ
Giê-ru-sa-lem, nơi phụng tự chung nhất của It-ra-en, nơi mỗi năm hàng triệu
người đến viếng thăm cầu nguyện. Đức Giê-su muốn loan báo về Thân Xác Người, sẽ
bị hành hạ cho đến chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại. Đức Giê-su quả
quyết, chính Người là nơi Thiên Chúa hiện diện, chính Người là Đền thờ, với
những hình thức phụng tự hoàn toàn mới, mà Ki-tô giáo chỉ được thể hiện qua
Thân Xác này.
Đền thờ là Giáo hội: Đức Ki-tô thiết lập Giáo hội là nhiệm thể của Người.
Giáo hội là Giê-ru-sa-lem mới, không chỉ là của Người It-ra-en thôi, mà cho tất
cả mọi người trên thế gian này, họ thuộc đủ mọi tiếng nói màu da, đến làm việc
phụng tự, tôn vinh Thiên Chúa. Giáo hội là nơi chuyển tải các ơn xuống cho nhân
loại, Giáo hội là nơi con người nối kết với Thiên Chúa. Cũng có nhiều tư tưởng
cho rằng, đạo tại tâm là đủ, cần gì Giáo hội, cần gì nhà thờ. Câu truyện một
chàng thanh niên không đến nhà thờ đi lễ. Để bảo đảm giữ lễ ngày Chúa nhật, anh
ta mượn một cái ti vi và xem lễ trên vô tuyến. Lúc chết, đến trước cửa Thiên
đàng, thánh Phê-rô không cho anh vào, lí do anh không bao giờ dự lễ ngày Chúa
nhật, anh ta cự lại: "Tuần nào con cũng dự lễ qua chiếc tivi." Thánh
Phê-rô trả lời: "Vậy anh về Hoả ngục mà xem tivi về Thiên Đàng."
Đền thờ tâm hồn: Mỗi người sau khi được chịu phép Rửa tội, trở thành Ki-tô hữu, thành
Đền thờ sống động của Thiên Chúa. Điều này được Thánh Phao-lô xác minh với các
tín hữu Cô-rin-tô: "Anh em là thân mình Đức Ki-tô"(1 Cr. 12, 27).
Người ta có ý muốn ấn định "nơi ở cho Thiên Chúa," bằng những ngôi
nhà thờ bóng bẩy bề ngoài, mà quên rằng mỗi người Ki-tô chính là "Đền thờ
Chúa Thánh Thần."
Xin Chúa giúp mỗi người chúng con,
phải luôn biết thanh tẩy tâm hồn, để người khác có thể qua đó, mà nhìn thấy
Chúa vô hình và quy tụ lại để gặp gỡ Thiên Chúa.
Suy niệm 5: BỔN PHẬN THỜ PHƯỢNG
DÀN Ý:
1.
Thờ phượng trong Kitô giáo
- Thờ phượng là hành vi biểu lộ niềm tin, tôn kính, mến yêu và biết ơn
Chúa, Đấng Tạo Hóa quyền năng.
- Thờ phượng là hành vi đáp trả tình yêu Chúa dành cho tạo vật, con
người và tuân phục các Thánh ý Ngài.
- Thờ phượng gồm các hình thức: Cầu nguyện, xin ơn, chúc tụng, ngợi
khen, tôn vinh và tạ ơn.
- Thờ phượng biểu hiện qua Phụng vụ, ngoài phụng vụ, cầu nguyện, Bí tích,
khấn, dự lễ, giữ chay, thời gian.
- Thờ phượng có thể thực hiện bất cứ đâu: Nhà nguyện, nhà thờ, nghĩa trang hay
tại gia đình.
2. Lời Chúa hôm nay nói về bổn phận với Chúa
- Sách
Xuất hành nói về bổn phận với Chúa: “Ta là Chúa của ngươi, đã đưa
người ra khỏi Ai Cập. Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta” (Xh
20,1).
- Phaolô rao giảng về Đức Kitô: “Chúng tôi rao
giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục và dân
ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1,23).
- Các
môn đệ nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh nói về bổn phận với nhà
Chúa: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Ga 2,17).
3. Bổn phận Kitô hữu
- Hãy trung thành với nhà Chúa. Người ta dùng nhà thờ vào lợi ích cá nhân. Có người cho rằng ‘đạo tại
tâm,’ có người đi nhà thờ vì bị bắt buộc hay đi theo người khác. Họ đi xem lễ
chứ không đi dự lễ. Nhưng ‘vải thưa không che được mắt thánh,’ Chúa biết ai thờ
phượng cách đối phó như vậy: “Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán.”
- Hãy thay đổi cách thờ phượng. Đức Giêsu đã đến
thay đổi cách thờ phượng. Lễ vật dùng để tế lễ không
còn là chiên, bò, chim câu như thói quen trước đây, mà Đức Giêsu mong muốn là
chính con người của mình, sau khi họ đã biết loại bỏ ý riêng, đam mê tội lỗi,
tham lam, kiêu ngạo và tất cả những gì đi ngược lại với thánh ý của Thiên Chúa.
- Truyện: Có
người mơ được thiên thần dẫn đi lễ Chúa nhật, thấy nhạc công say mê chơi phong
cầm, nhưng không có tiếng đàn hay lời hát; môi linh mục mấp máy, nhưng không có
lời nói. Hỏi tại sao, thiên thần nói: “Không có tiếng đàn, hát hay lời giảng
nào thực phát ra. Họ dự lễ nhưng trí lại nghĩ chuyện khác. Họ chỉ tôn thờ Chúa
ngoài môi ngoài miệng, còn lòng họ thì ở xa Chuá!(ST)
- Hãy nhiệt thành yêu mến nhà Chúa. Đền thờ bị người ta làm ra hỗn loạn, với
tiếng chiên kêu bò rống, tiếng rao bán, cãi lộn, làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến việc cầu nguyện. Người ta biến nơi cầu nguyện thành ra phố
chợ. Chúa Giêsu giận dữ quát: “Hãy đem những thứ nầy đi khỏi đây.” Noi gương
Ngài, hãy dành trọn tình yêu cho nhà Chúa.
-
Hãy thờ phượng Thiên Chúa trong
sự thật. Thờ phượng là phải thể hiện đúng tâm tư của con người với
thực tế. Thờ Chúa cách giả dối là mâu thuẫn giữa lời cầu xin và thực tế. Khi cầu nguyện mà lòng chia trí, thì họ chỉ là thây ma,
có xác không có hồn. Cầu nguyện như thế sẽ không
mang lại giá trị gì, mà còn mang thêm tội nữa.
- Hãy
thờ phượng Chúa qua tha
nhân. Người ta hay tách rời bổn phận với Chúa và với anh em. Thờ phượng
Chúa là phải có trách nhiệm với người nghèo khổ, cô đơn, bệnh tật. Nhà thờ phải
là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và đồng loại, được xây dựng trên tình liên đới và
yêu thương.
LM. Giuse M. Trần Xuân Chiêu
* Đọc thêm:
Khi
tìm hiểu về lịch sử đất nước Do Thái, ta biết được vào năm 922 TCN, Giêrôbôam,
người không thuộc hoàng tộc Đavid, đã lãnh đạo cuộc nổi loạn cùng với mười bộ
tộc phương Bắc và đã lập nên vương quốc Israel lấy thủ đô là Samaria và thờ
Chúa ở núi Garizim . Còn lại hai bộ tộc là Giuđa và Bengiamin trung thành với
hoàng tộc Đavid lập thành vương quốc Giuđa ở phương Nam, nơi có ngôi đền thờ
Giêrusalem, và lấy thủ đô tên là Giêrusalem. Từ đó có sự mâu thuẩn về tôn giáo.
Năm
720 TCN, vương quốc Israel phương Bắc bị xâm lăng bởi Đế quốc Assyria. Tất cả
10 bộ tộc của vương quốc Israel phương bắc bị giết, và bị bắt đi lưu đày. Nhưng
cũng có một số người ở lại. Quân Assyria đến ở đất Samari, lấy vợ người Do Thái
rồi sinh con đẻ cái. Từ đó người Do Thái thuần chủng ở Giuđê không còn xem
những người Do Thái ở Samari là đồng bào của mình nữa. Trong mắt họ những người
ở phương Bắc là dân ngoại. Đôi bên nuôi mối hiềm khích lẫn nhau mãi đến thời
Đức Giêsu vẫn còn. Nên họ không qua lại nhau vì sự khác biệt về vùng miền và
sắc tộc.
Vương
quốc Giuda phương Nam thì tồn tại lâu hơn trong sự lệ thuộc vào người Assyria
rồi cuối cùng cũng bị các đạo quân xâm lăng Babylon hủy diệt vào năm 586 TCN.
Thành phố Giêrusalem bị tàn phá, Ngôi Đền Giêrusalem bị san thành bình địa, dân
nước Giuđa một số bị giết, một phần bị lưu đầy sang Babylon. Sự kiện này đánh
dấu lần ly tán thứ nhất của dân tộc Do Thái cổ và cũng đánh dấu sự kết thúc
thời kỳ được sách vở gọi là “Ngôi Đền thứ Nhất” (825-586 TCN).
* TÌM HIỂU CÁC BÀI ĐỌC CÁC CHÚA NHẬT MÙA CHAY
Các bài đọc phụng vụ
trong các ngày Chúa Nhật Mùa Chay thường xoay quanh vào bài đọc Cựu ước và bài Tin mừng, còn bài thánh thư
có khi thì soi sáng cho bài Cựu ước, có khi thì khai triển tư tưởng của bài Tin
mừng. Đối với các bài Cựu ước, mỗi năm A, B, C đều nhắc đến các biến cố lớn
trong lịch sử dân Chúa ngày xưa, nhằm hướng đến Mầu Nhiệm Vượt Qua Của Chúa
Kitô.
1. Chẳng hạn chủ đề của từng Chúa nhật như
sau:
+ Giao ước:
sa ngã, giao ước Nô-ê, dân được tuyển chọn tuyên xưng niềm tin
(Chúa nhật I);
+ Abraham: ơn
gọi, hiến tế Isaac, giao ước (Chúa nhật II);
+ Môsê: Nước chảy
từ tảng đá, Chúa ban lề luật, Thiên Chúa mặc khải Danh của Người
(Chúa nhật III);
+ Dân
Chúa sống trong đất hứa-Vua Đavít, lưu đày và trở về, lễ Vượt
qua trong đất hứa (Chúa nhật IV);
+ Các
ngôn sứ-Ezekiel, Giêrêmia, Isaia (Chúa nhật V).
Còn đối với các bài Tin mừng, thì Chúa nhật I
và II cả ba năm đều đọc như nhau trình thuật Chúa Kitô chịu cám dỗ (CN I) và
biến hình (CN II) theo các Phúc âm nhất lãm.
Ba Chúa nhật còn lại được gọi là các Chúa
nhật “khảo hạch” dành cho dự tòng, và theo truyền thống GH thì đọc ba trình
thuật sau đây: mặc khải của Chúa cho
người thiếu phụ SaMaria (Ga 4,5-42), Chúa
chữa người mù từ khi mới sinh (Ga 9,1-41) và sự phục sinh của Lazarô (Ga 11,1-45). Hiện nay, ba đoạn Tin mừng
này được đọc trong ba Chúa nhật (III, IV, V) của năm A, nhưng theo luật phụng
vụ vẫn có thể đọc trong năm B và C.
2. Các bài đọc trong tuần: Cũng theo các chủ đề chính yếu của ngày Chúa
nhật, bài đọc I luôn luôn trích từ Cựu ước chứ không lấy từ các thư Tân ước,
các bài Tin mừng nhắc đến tâm tình sám hối và hoán cải. Kể từ tuần IV mùa Chay,
các bài Tin mừng lấy từ Phúc âm Gioan, đặc biệt vào tuần V các trình thuật xoay
quanh những cuộc tranh luận căng thẳng giữa Chúa Giêsu và người Do thái để
chuẩn bị dẫn đến cuộc Thương khó và Phục sinh của Chúa.
Thứ
hai: Lc 4,24-30.
Suy niệm 1: Chúa
Giêsu đến trần gian là để cứu độ hết mọi người, vì ơn cứu độ là ơn phổ quát. Vì
thế, không phải cứ là đồng hương hay đạo dòng là được Chúa ưu ái cứu độ. Trái
lại, để được Chúa yêu thương cứu độ, đòi hỏi con người phải tin và sống niềm
tin của mình. Xin cho chúng ta biết hết lòng tin yêu Chúa và nỗ lực làm theo
lời Chúa dạy để xứng đáng đón nhận ơn cứu độ Chúa ban.
Quen
quá, hóa nhàm. Gần chùa gọi bụt bằng anh. Đó thái độ của những người đồng hương
với Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay.
Đối
với những người Do Thái nói chung và dân làng Nazaret nói riêng, Đấng cứu độ
phải là người siêu quần bạt chúng, thuộc dòng dõi Đa-vít, sinh ở một nơi quyền
quý cao sang và phải là Đấng oai phong lẫn liệt, chứ không phải là một Đấng tầm
thường, sinh ra trong gia đình nghèo nàn chẳng có danh phận gì như Đức Giêsu.
Từ
thành kiến sai lạc, đưa đến thái độ hoài nghi rồi dẫn đến thử thách Chúa. Họ
thử thách bằng cách đòi hỏi Chúa Giêsu làm phép lạ như đã làm ở những nơi khác,
nhằm minh chứng uy quyền của Người, họ mới tin nhận. Trước thái độ hoài nghi,
(bụt nhà không thiêng) của những người đồng hương Nazaret, Chúa Giêsu không thể
làm gì ngoài việc kể lại cho họ nghe hai câu chuyện thời xưa.
-
Vào lúc trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội nhưng
tiên tri Êlia không giúp người nào trong bọn họ cả, mà lại giúp bà góa ngoại
giáo ở Xa-rép-ta.
-
Và trong lúc nhiều người bị phong cùi, nhưng không ai được tiên tri Ê-li-sê
chữa lành, chỉ ngoại trừ ông Na-a-man, người ngoại xứ Xy-ri-a.
Nghe
hai câu chuyện đó dân làng Nazaret hiểu Chúa Giêsu ám chỉ họ, nên họ bực tức,
định đẩy Người lên núi rồi xô Người xuống vực sâu, nhưng Người bỏ họ mà
đi.
Vì
thành kiến nên họ đóng khung Thiên Chúa theo quan niệm sẵn có trong đầu họ.
Chính quan niệm sai lầm đưa đến hậu quả nguy hại là không còn khả năng đón nhận
ơn Chúa. Thành kiến làm cho chúng ta ra mù quáng, không còn nhận định và phê
phán khách quan đúng đắn được. Thành kiến cũng làm cho chúng ta không thể đối
thoại cởi mở với nhau.
Xin
cho chúng ta biết loại bỏ những thành kiến của mình về người khác, để luôn có
cái nhìn ngay thẳng và trong sáng, một nhận xét chân thành và đời sống cởi mở.
Loại bỏ được thành kiến, ta sẽ nhận ra tình thương cứu độ của Chúa dành cho mọi
người không riêng cho ai cả. Chỉ cần mở lòng chấp nhận, tin tưởng Người thì có
thể đón nhận được ơn cứu độ.
Xin
Chúa cho chúng ta đừng bao giờ ỷ lại mình là người có đạo mà lơ là sống niềm
tin. Trái lại xin cho chúng ta luôn giữ vững niềm tin, sống chết cho niềm tin
bằng cách tích cực thi hành Lời Chúa dạy, nhờ thế ta xứng đáng đón nhận được
tình yêu và ơn cứu độ Chúa thương ban.
Suy niệm 2: Dù cuộc sống có sung túc như thế nào nơi đất khách quê người, thì ai trong chúng ta cũng chạnh lòng khi nghĩ về quê nhà và ao ước được trở về thăm quê, nhất là trong những ngày Tết. Bởi quê hương là nơi chôn nhao, cắt rốn, là nơi ta được sinh ra, lớn lên với đầy ắp những kỉ niệm ký ức tuổi thơ. Nơi ấy có cha mẹ anh chị và bà con họ hàng thân thuộc yêu thương ta vô điều kiện…Để diễn tả tâm tình gắn bó và yêu quê hương, xứ sở ca dao có câu: “Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương”. Nhà thơ Chế Lan Viên cũng đã biểu tỏ tâm tình ấy qua những vần thơ: “Khi ta ở đất chỉ là nơi đất ở, khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Còn nhà thơ Đỗ Trung Quân thì thi vị hóa: “Quê hương là chùm khế ngọt, nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”.
Có
lẽ mang trong mình tâm tình ấy, nên sau một thời gian thi hành sứ vụ loan báo
Tin mừng và làm nhiều phép lạ để thi ân giáng phúc đó đây, hôm nay Đức Giêsu
trở về quê hương thăm lại chốn xưa để mang ân sủng đến bà con quê hương mình. Nhưng
dân làng đã không tin và đón nhận Ngài bởi họ đã mang sẵn định kiến trong đầu
về một Đấng Messia theo quan niệm trần tục của họ nên Chúa Giêsu không thể trao
ban cho họ bất cứ điều gì. Ngoại trừ Ngài thốt lên những lời chua chát mang
tính tiên tri: “Không tiên tri nào được
sùng mộ nơi quê hương” và kể cho họ nghe về hai câu chuyện xảy ra thời cựu
ước:
Câu chuyện bà góa ngoại giáo ở Xa-rép-ta được tiên tri Êlia giúp đỡ vượt qua thời
gian đói kém dữ dội thời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, trong khi đó lại không
giúp đỡ người nào trong dân Israel. Và câu chuyện tiên tri Ê-li-sê chữa lành bệnh
cùi cho tướng Na-a-man, người ngoại xứ Xy-ri-a, trong khi ấy có người bị
phong cùi trong dân Israel, nhưng không ai được cứu chữa.
Qua
đó Chúa Giêsu nhằm gửi đến cho ta hai thông điệp quan trọng:
- Tình
yêu và ân sủng của Chúa là phổ quát dành cho hết mọi người, chứ không phải dành
riêng cho bất cứ ai. Tuy nhiên để đón nhận ân ban của Chúa thì chỉ có những ai
biết tin tưởng phó thác vào tình thương và quyền năng Chúa.
-
Cần loại trừ những định kiến ra khỏi đầu óc mình. Luôn có cái nhìn cởi mở và
tích cực về tha nhân. Biết tôn trọng anh chị em mình trong sự thật, đừng vì
ghen ghét, hiềm khích hay sợ người khác trổi vượt hơn mình mà bôi nhọ, nói xấu
hay ra tay làm hãm hại làm ảnh hưởng đến thanh danh tiếng tốt của anh chị em
mình. Làm như thế là chúng ta đang đi vào vết xe đổ của những người đồng hương
với Đức Giêsu nên không xứng đáng đón nhận ơn cứu độ do Chúa trao ban vì đã cố
ý đẩy Đức Giêsu ra xa cuộc đời mình.
Xin Chúa ban thêm niềm tin cho chúng con biết tin
tưởng vững vàng vào ơn ban của Chúa; và xin cho chúng con loại trừ mọi định
kiến về tha nhân để sống chân thành, cởi
mở, tôn trọng và yêu mến mọi người, nhất là những người gần gũi chúng con.
Thứ
ba: Mt 18,21-35.
“Lấy
oán báo oán, oán chồng chất. Ngược lại lấy đức báo oán, oán tiêu tan”. Ai trong
chúng ta lại không lầm lỗi thiếu sót. Ai trong chúng ta lại không hơn một lần
làm xúc phạm đến tha nhân. Chúng ta hãy lấy tình thương hóa giải hận thù, lấy
lòng bao dung mà tha thứ lỗi lầm cho nhau, như chính Chúa bao dung và hằng tha
thứ cho ta. Đó chính là sứ điệp lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta.
Khi
muốn nói một điều khó nói, người ta dùng câu chuyện. Khi muốn diễn tả một điều
gì đó khó diễn tả, người ta lại dùng câu chuyện. Khi diễn đạt một chân lý sâu
sắc mà không ngôn từ nào nào lột tả hết, người ta hay dùng đến câu chuyện. Tin
mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng dùng câu chuyện dụ ngôn để trình bày về tình
thương tha thứ của Chúa và mời gọi con người bao dung tha thứ luôn mãi cho
nhau. Đó là một người mắc nợ vua mười ngàn nén bạc, số nợ rất lớn y không có gì
để trả. Ông van xin và được nhà vua tha hế cho anh. Vừa được tha, khi ra về anh
ta lại gặp người bạn mắc nợ anh ta không bao nhiêu chỉ một trăm quan tiền.
Nhưng ông không tha, mặc cho người ấy hết lời van xin. Ông lại bắt tù bạn mình.
Câu chuyện tới tai nhà vua, vua thịnh nộ bắt giam anh ta cho đến khi trả hết
đồng xu cuối cùng. Nhà vua chính là Thiên Chúa. Dù con người xúc phạm, thiếu nợ
Thiên Chúa rất nhiều và thường xuyên, nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ. Còn
chúng ta dù tha nhân đôi khi vô tình hay hữu ý xúc phạm nhỏ đến ta, ta lại khắc
khe không tha thứ.
Con
người là con vật có xã hội tính. Không ai là một hòn đảo. Chúng ta sống là sống
với, sống cùng, sống cho và sống vì người khác. Cuộc sống chung trong xã hội
giúp ta thăng tiến và phát triển nhiều phương diện. Tuy nhiên đời sống chung
cũng có khi gây nên không ít phiền hà, làm khổ cho nhau. Bởi bá nhân bá tính.
Nhưng trong thẳm sâu lòng mỗi người vẫn là lòng bao dung tha thứ. Sự tha thứ
không chỉ một lần, ba lần nhưng Chúa dạy chúng ta phải tha thứ luôn mãi, tha
thứ không ngừng. Tha thứ cho nhau không là chuyện dễ, rất khó khi phải tha thứ
hoài. Như để thực hiện được sự tha thứ cho nhau theo như ý muốn của Chúa ta cần
ý thức: Trước mặt Chúa ta là con người đầy tội lỗi thường xuyên xúc phạm đến
Chúa, nhưng được Chúa thứ tha luôn. Không ai hoàn hảo, chính ta cũng có nhiều
sai sót, lầm lỗi với anh em. Nên ta cần thông cảm tha thứ lỗi lầm cho anh em.
Đừng bao giờ nhìn vào sức nặng của xúc phạm, nhưng hãy nhìn vào tình thương của
Thiên Chúa và nhìn vào cuốn sổ ghi lỗi của mình. Thù hận, bất hòa chỉ gây đau
khổ và bất an cho chính ta mà thôi. Tha thứ hoà giải chúng ta sẽ cảm nhận niềm
vui và hạnh phúc.
Trong
mùa chay chúng ta hãy duyệt xét lại các mối tương quan của mình với tha nhân.
Nếu thấy có điều bất hòa, chúng ta hãy hòa giải và tha thứ cho nhau để xứng
đáng được Chúa thương tha tội cho ta.
Suy
niệm 2:
Khi
suy nghĩ về lòng thương xót Chúa, nhiều lúc ta tự hỏi: lòng thương
xót của Thiên Chúa đạt đến đỉnh điểm khi nào?
Có
phải khi Chúa Giê-su hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn?
Có
phải khi Chúa Giê-su bôn ba rao giảng Tin mừng?
Hay
khi Chúa Giê-su xua trừ ma quỷ và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền cho dân?
Hoặc
là khi Chúa Giê-su làm cho kẻ chết sống lại?
Câu
trả lời đúng nhất là: Lòng thương xót của Thiên Chúa được thực hiện ở mọi
nơi và mọi lúc, nhưng có lẽ lòng thương xót ấy đạt tới đỉnh điểm trên thập
giá khi Chúa Giêsu khẩn xin lòng tha thứ của Chúa Cha dành cho tất cả
những ai hận thù và nhẫn tâm ra tay giết chết Người: "Lạy Cha, xin
Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23,34).
Đúng
vậy, tha thứ cho những ai hận thù, ghét bỏ và làm hại
mình chưa bao giờ dễ dàng! Nhưng Chúa Giêsu vẫn rộng lòng thứ tha và
mời gọi ta thứ tha.
Ông
cha ta thường nói: “Quá tam 3 bận”. Giới hạn tối đa của việc tha thứ theo
tiêu chuẩn con người được định mức ở con số 3. Nhưng Chúa lại
bảo với Phêrô và tất cả chúng ta không dừng ở con số 3 hay số 7
mà phải là 70 lần 7, nghĩa là tha hoài tha mãi. Đúng là không
tưởng đối với khả năng giới hạn của con người.
Vậy
thì làm thế nào để chúng ta có thể thực hiện được điều mà Chúa
Giêsu đòi buộc?
-
Thưa, trên hết ta cần phải có ơn ban của Chúa, vì Chúa
Giêsu đã phán: “Đối với TC, không gì là không thể làm được” (Lc
1,37).
-
Thứ hai, ta phải ra sức tập luyện. Nếu một khi ta can đảm tha
thứ cho ai đó làm hại chúng ta được một lần, thì hy
vọng ta sẽ có kinh nghiệm tha thứ lần hai, thứ 3... và như vậy trở
thành thói quen giúp ta có thể dễ dàng tha thứ nhiều lần.
-
Thứ ba, hãy luôn nghĩ đến sự tha thứ lớn lao của Thiên Chúa, là Đấng
Tạo Hoá, vậy mà Người luôn yêu thương và sẵn lòng tha thứ mãi cho chúng
ta là thụ tạo bé nhỏ, yếu đuối và đầy tội lỗi. Khi suy nghĩ như
vậy, sẽ giúp ta dễ cảm thông và tha thứ cho nhau trong đời sống.
-
Cuối cùng, ta hãy hiểu rằng: khi tha thứ cho người khác cũng đồng
nghĩa là ta tha thứ cho chính bản thân
mình. Nuôi dưỡng hận thù và trả đũa sẽ làm cho tâm hồn ta bất an
và đau khổ. Còn khi ta biết buông bỏ và tha thứ sẽ làm cho tâm hồn ta được
bình an và cuộc sống ta có được niềm vui.
Tha
thứ được ví như liều thuốc mát hay loại kem dưỡng da tuyệt hảo
khi xoa vào tâm hồn sẽ làm cho cơ thể ta mát mẻ, dễ chịu, nhờ đó mà những
vết hằn và nếp nhăn nheo trên khôn mặt ta sẽ trở
nên mịn màn, hồng hào và tươi đẹp rạng ngời.
Xin Chúa
ban cho chúng ta cảm nhận được lòng thương xót của Chúa, cũng như những
ích lợi của việc tha thứ, để ít là trong mùa chay thánh này, ta biết
sẵn sàng tha thứ cho những ai vô tình hay cố ý xúc phạm đến ta, với mong
muốn chúng ta được xứng đáng đón nhận sự tha thứ của Chúa. Amen.
Thứ
tư: Mt 5,17-19.
Chúa
Giêsu đến trần gian không phải để phá hủy lề luật và lời các tiên tri, nhưng là
để kiện toàn. Xin cho chúng ta hết lòng tuân giữ luật Chúa và Giáo huấn Giáo
hội dạy bảo; đồng thời cũng giúp mọi người yêu mến và tuân giữ.
Những
cuộc họp của quốc hội Việt Nam những năm gần đây được đánh giá là có nhiều tiến
bộ và dân chủ. Nhiều dự luật mới được đệ trình để quốc hội và nhân dân bàn
thảo, nhiều luật cũ được đặt lại để chỉnh sửa cho hoàn chỉnh hơn theo hoàn cảnh
xã hội, cũng như theo tinh thần chung của quốc tế. Sở dĩ có những sửa đổi và đệ
trình những luật mới như thế cũng đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích cho con
người (có thể cho một nhóm người nào đó hay cho tất cả mọi người). Nhưng càng phục
vụ lợi ích cho nhiều người bao nhiêu thì giá trị của luật ấy càng có giá trị
cao bấy nhiêu.
Bất
cứ xã hội nào, đất nước nào, tập thể nào, gia đình nào dù lớn hay nhỏ đều có
những quy định và luật lệ của nó. Chính những quy định luật lệ sẽ đem lại tính
ổn định xã hội và bảo vệ quyền lợi cho con người.
Tin
mừng hôm nay Chúa Giêsu khẳng định: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi
bỏ luật Môisê hoặc các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng để kiện
toàn…”. Như thế đã có sai lạc nào đó về quan niệm, cách thế giữ luật của
những người Biệt Phái nên Chúa Giêsu mới kiện toàn. Cần xác định lại những yếu
tố cần thiết của luật:
Mục
đích của luật: là nhằm đem lại lợi ích cho con người. Nếu luật nào không mang
đến lợi ích cho con người thì xem như không cần thiết nữa. Ăn chay, cầu nguyện,
bố thí là những phương tiện nhằm giúp con người nâng cao tâm hồn, liên kết mật
thiết với Chúa và sống tình thân với nhau. Nếu luật ăn chay, cầu nguyện và bố
thí không mang lại những giá trị trên, trái lại chỉ nhằm để lé mắt thiên hạ thì
tốt nhất không nên giữ làm gì. “Ngày Sabbát được tạo nên cho con người,
chứ không phải con người cho ngày Sabbát” (Mc 2,27).
Ưu
tiên của luật: Thiên luật là luật do Thiên Chúa ban thì trên hết và mọi người
đều phải tuân giữ; còn nhân luật là luật do con người làm ra thì có tính tương
đối vì bị điều kiện hoá bởi các hoàn cảnh thời gian, không gian, nền văn hoá…
Luật của con người thì có thể thay đổi và cần được thay đổi, nhưng luật của
Thiên Chúa thì bất biến. Chính vì thế cần phải ưu tiên tuân giữ luật của Thiên
Chúa, khi nhân luật và thiên luật đòi buộc cùng lúc. Khi người ta nói đến
chuyện Môsê cho phép ly dị thì Chúa Giêsu đã khẳng định sự bất cập của nhân
luật và Người tái khẳng định sự bất biến và tính bó buộc của thiên luật về hôn
nhân bất khả phân ly (x.Mt 19,1-9; Mc 10,1-12).
Tinh
thần giữ luật: Rất nhiều lần Chúa Giêsu phê phán thái độ giữ luật bằng hình
thức bên ngoài mà thiếu sự chân thành bên trong tâm hồn. Người đã dùng hình ảnh
“mả tô vôi”, bên ngoài thì đẹp đẽ nhưng bên trong thì tanh hôi, để ví nhiều
người giữ luật theo kiểu này. Người cũng đã dùng lời sứ ngôn Isaia để nhắc nhớ
họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa
Ta” (x. Mt 15,7-8). Loài người chúng ta trong thân phận hữu hình thì
các hành vi bên ngoài luôn có tính cần thiết như tất yếu. Tuy nhiên chính cái
tấm lòng, cái ý hướng bên trong mới quyết định giá trị tốt xấu các hành vi bên
ngoài.
Yêu
thương là trên hết: Chúa Giêsu đã nhiều lần minh định về giới răn: “Kính
mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn, đồng thời yêu
thương tha nhân như chính mình” (x. Mt 22,34-40; Mc 12,28-34; Lc
10,25-28). Trong tình yêu, khi bỏ qua, không làm một điều tích cực trong khả
năng và hoàn cảnh thì đã làm một điều tiêu cực mà thậm chí là xấu xa. Nhiều
người phải trầm luân đời đời vì khi còn sống đã không làm những việc lành, việc
tốt, việc phải làm cho một trong những kẻ bé mọn (x.Mt 25,31-46).
Mùa
chay là dịp tốt để ta duyệt xét lại đời sống đạo qua cách thức giữ luật. Xin
Chúa cho chúng ta không giữ luật bằng những hình thức bên ngoài, mà còn phải
trung thành giữ luật bằng tấm lòng yêu mến.
Suy
niệm 2:
Tin
mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho các môn đệ cũng như chúng ta biết thêm về lý do
quan trọng mà Ngài đến trần gian này là:“không phải hủy bỏ lề luật hay
các tiên tri, nhưng là để kiện toàn”.
Do
tác động thay đổi của xã hội qua dòng thời gian, nhất là vào thời Chúa Giêsu,
các nhà lãnh đạo tôn giáo đã có sự giải thích sai lệch về lề luật Chúa nên cần
phải kiện toàn.
Luật
của Chúa được ban cho nhân loại xuyên qua dân tộc Do Thái, bởi trung gian
là ông Môsê. Luật đó được gìn giữ và bảo tồn qua thời các ngôn sứ. Nhưng
đến thời Chúa Giêsu, luật Chúa được trao quyền cho các kinh sư giải thích và
hướng dẫn cho dân chúng. Thay vì giúp người dân hiểu biết rõ về luật Chúa cũng
như tinh thần đúng đắn phải có khi tuân giữ luật Chúa, thì trái lại các ông lại
thêm thắc vào đó quá nhiều chi tiết từ 10 điều lên đến 613 điều khoản, khiến
cho dân chúng rối ren không còn phân biệt đâu là điều chính đâu là điều phụ nữa.
Hơn
nữa các ông lại quá chú trọng đến hình thức bên ngoài làm cho người dân có cảm
giác luật Chúa quá nặng nề bởi những ràng buộc vượt quá khả năng của họ. Nên
khi rao giảng, Chúa Giêsu đã nhiều lần đả kích lối sống vị luật của người
Pharisêu; cũng như cảnh báo về mối nguy hiểm của những gánh nặng mà dân chúng
phải chịu do các kinh sư chất chồng lên vai họ. Có lẽ vì đó mà nhiều người
tưởng rằng Chúa Giêsu muốn phá bỏ lề luật và các tiên tri.
Để
chỉnh sửa lại ý nghĩ sai lệch ấy, Chúa Giêsu đã khẳng định với các môn đệ về lý
do mà Ngài đến thế gian này đó là nhằm để kiện toàn lề luật. Vậy Chúa muốn
kiện toàn điều gì?
-
Trước hết Chúa Giêsu kiện toàn về nội dung văn bản của luật: Phải giữ nguyên trạng
giới luật của Chúa, dù một chấm, một phẩy cũng không được thay đổi hay bỏ sót.
-
Thứ đến Chúa kiện toàn về hình thức thi hành luật: Nếu các kinh sư và người
Pharisêu quá chú trọng bởi hình thức bên ngoài thì Chúa Giêsu nhấn mạnh đến
trọng tâm giữ luật bên trong. Việc giữ luật chỉ có giá trị đích thực khi nó
xuất phát từ trái tim và tấm lòng.
-
Cuối cùng Chúa Giêsu kiện toàn về tâm tình phải có khi giữ luật: Việc giữ
luật không phải vì lo sợ. Sợ không giữ thì bị Chúa phạt; lo vì nếu không thi
hành luật sẽ bị người đời khinh thường và lên án… nếu mang nặng tâm lý ấy thì
quả thật luật trở nên gánh nặng đáng sợ cho đời sống con người.
Điều
mà Chúa Giêsu mong muốn là mọi người hãy tuân giữ luật với tấm lòng yêu mến.
Chính lòng mến Chúa chân thành sẽ giúp ta cảm thấy vui tươi, thoải mái khi thi
hành luật Chúa; và nhờ động lực tình thúc đẩy mà chúng ta không còn sợ hãi do
những ràn buộc của luật lệ nữa.
Mong
cho mỗi người trong chúng ta hiểu được rằng: vì không muốn nhân loại phải đi
lạc đường nên Chúa mới ban truyền lề luật để hướng dẫn.
Xin
Chúa cho chúng ta cảm nhận được tình thương lớn lao ấy của Chúa mà trung thành
tuân giữ luật Chúa và GH chỉ dạy với tất cả tấm lòng trân quý và yêu mến của
mình.
Suy
niệm 3: Kiện Toàn Lề Luật
Một
thanh niên đi xem bóng đá với cha sở, nói với cha rằng: anh không
thích vâng phục ai hết. Anh nói : “Thưa cha, con rất ghét ai đó bảo phải
thế này, thế nọ. Nghe theo họ là con không có tự do”.
Cha
sở không nói một lời. Liền sau đó, họ gặp một biển chỉ đường đi tới sân bóng,
nhưng cha sở làm như không thấy. Chàng ta mới la lên : “Chúng ta đã đi sai
đường ! Thưa cha, cha không thấy bảng chỉ đường đằng kia à !”.
Cha
sở bình tĩnh trả lời : “Cha thấy chứ, nhưng cha nghĩ đường này xem ra tốt
hơn, và cha cũng ghét bị chỉ bảo phải đi đường này hay đường kia. Nó không cho
cha được tự do hành động”.
Chàng
thanh niên giờ mới nhận ra bài học, rồi lặng thinh và cùng cha sở đi vòng trở
lại để vào sân bóng.
Con người
thời nay, cách riêng giới trẻ hình như không thích nói đến “luật lệ” vì cho
rằng luật lệ gò bó tự do mình. Nên họ cảm thấy dị ứng mỗi khi nói đến luật lệ.
Chính Đức
Giêsu cũng nhiều lần đả phá chủ trương vị luật. Ngài kịch liệt công kích những
người Pharisêu vì họ chủ trương sống “vị luật”.
Tuy đả phá
tinh thần vị luật nhưng Ngài không hề phá bỏ lề luật : “Ta đến
không phải để huỷ bỏ lề luật mà để kiện toàn.” (Mt 5,17).
Ngài kiện
toàn luật thế nào ? Thưa bằng cách chỉ cho chúng ta thấy được
“trái tim” của lề luật chính là thương yêu. Ngài tóm lược tất cả mọi lề luật
vào 2 khoản luật căn bản là “mến Chúa và yêu người.”
Thánh
Augustinô đã hiểu như thế, nên đã nói : “Hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì
làm.”
Chính Đức
Giêsu đã nêu gương giữ luật với tất cả tấm lòng yêu thương ấy.
Vì yêu mến lề luật và “vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà
tôi đây sẽ phải thiệt thân”.
Chúa muốn
chúng ta tuân giữ lề luật không phải vì sợ Chúa phạt, mà vì ta yêu mến Chúa.
Cũng vậy,
chúng ta giữ luật không phải để được Chúa yêu, mà vì biết được Chúa đã yêu ta
trước.
* Đọc
thêm:
Tin
mừng hôm nay, thánh Matthêu cho biết Chúa Giêsu đã kiện toàn khá nhiều luật lệ
như: luật giết người, luật hôn nhân, luật làm chứng…
1.
Kiện toàn luật giết người:
Giết
người thì ở đâu và thời nào cũng là tội nặng, vì Chúa mới là chủ sự sống. Đó là
công lý. Lời Chúa dạy bảo trong bài Tin Mừng hôm nay còn vượt trên công lý nữa.
Công lý hay luật pháp chỉ buộc tội khi một người phạm tội bằng hành vi cụ thể.
Còn Chúa thì đi xa hơn, Chúa ngăn chặng ngay từ nguyên nhân, nguồn gốc đưa đến
tội giết người.
Vì
thế, “Ai giận anh em mình thì đáng bị tòa xét xử, ai mắng chửi anh em
là đồ ngốc thì sẽ bị lên án trước công nghị và ai mắng chửi anh em mình là
khùng thì đáng lửa trầm luân”.
Đúng
như lời Chúa nói: Giận dỗi chính là nguyên nhân đưa đến tội giết người. Vì khi
ta giận ai là ta muốn cho người đó khuất mắt ta; ta không muốn người đó hiện
diện trên cõi đời này nữa. Cho nên giận như vậy thì chẳng khác nào giết người
không dao.
Cũng
thế, khi ta mắng chửi anh em là đồ ngốc là khùng thì chẳng khác nào ta xem
thường anh em mình, để rồi hạ thấp họ xuống hàng con vật, không đáng là người
nữa. Hành vi như thế là chiếm đoạt quyền phán xét của Thiên Chúa, nên đáng bị
lửa hỏa ngục thiêu đốt.
Như
vậy, để khỏi bị Thiên Chúa luận phạt và kết án, Chúng ta phải có lòng quảng đại
tha thứ. Tha thứ là điều kiện để tôn vinh Thiên Chúa một cách xứng đáng:
"Nếu ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ anh em đang có điều bất
bình với ngươi, hãy đặt của lễ trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em
trước, rồi hãy đến mà dâng của lễ.". Tha thứ là cách ta hàn gắn lại
những vết thương lòng của ta và cho tha nhân. Tha thứ cũng là cách chúng ta bắt
đầu lại mối tương quan tốt đẹp với anh em mình.
Xin
Chúa cho chúng con biết giữ tâm hồn và môi miệng cẩn trọng để khỏi sa vào tội
giết người không gươm. Xin Chúa
cũng dạy chúng con biết yêu thương và tha thứ, như Chúa đã từng yêu thương và
tha thứ cho chúng con. Amen.
2.
Kiện toàn luật hôn nhân:
Chúa
Giêsu tiếp tục kiện toàn giới luật một vợ một chồng. Để tránh đi tình trạng đỗ
vỡ trong đời sống hôn nhân, chẳng những Chúa Giêsu cấm không được li dị mà Chúa
còn ngăn chặn ngay cả nguyên nhân sâu xa đưa đến tình trạng bất trung trong đời
sống hôn nhân nữa. “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: chớ ngoại tình,
còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : ai nhìn người phụ nữ mà thèm
muốn thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi…” (Mt 5:
27-28).
Như
thế là dù chỉ thèm muốn trong lòng vợ hay chồng của người khác thì đã phạm
tội ngoại tình trong tư tưởng rồi; vì trong lòng đã nuôi dưỡng ước muốn sai
trái. Từ đó sẽ dễ dẫn đến hành động phản bội tình nghĩa vợ chồng.
Có
thể nói mọi tội lỗi con người phạm, đều xuất phát từ trong lòng. Do đó, muốn
tránh tội thì phải dứt khoát từ bỏ ước muốn bất chính ngay trong lòng. Nhưng để
tránh được ước muốn bất chính trong lòng, chúng ta cần phải giữ gìn đôi mắt.
Đôi mắt là của sổ tâm hồn nên mọi điều tốt xấu muốn vào được căn nhà tâm hồn
đều phải qua cửa sổ của đôi mắt.
E-va
chính vì đã không gìn giữ được đôi mắt nên đã hướng cái nhìn về trái cấm và đã
nuôi dưỡng trong lòng sự thèm muốn. Từ ước muốn ấy bà đã cả lòng đưa tay
hái trái cấm ăn, dầu biết rằng hành động ấy là phạm tội bất trung với Chúa.
Ða-vít
cũng vì không giữ được đôi mắt nên đắm đuối nhìn người phụ nữ khỏa thân và có
ước muốn khoái lạc. Từ đó đưa đến những hành vi tội ác: ngoại tình và
giết người giấu tay.
Lạy
chúa xin giúp chúng con biết gìn giữ đôi mắt luôn có cái nhìn trong sáng và can
đảm dứt bỏ những nguyên nhân làm cớ chúng con lỗi đức trong sạch, cho dù đó là
một phần của cơ thể như: là mắt, là tay... bởi vì Chúa đã phán: "thà mất
một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hỏa ngục".
3.
Kiện toàn về luật làm chứng:
Trong
cuộc sống, ta thường nghe được những luồng thông tin khác nhau về một sự kiện
nào đó xảy ra trong xã hội, cũng như trong Giáo Hội. Có những thông tin chính
thống cần tin theo. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi, phe nhóm và thế lực của
mình cũng không ít những thông tin sai lạc, ta cần phải dè chừng.
Hằng
ngày trên báo chí, truyền thanh, truyền hình ta bắt gặp rất nhiều thông tin
quảng cáo nhằm thu hút khách hàng và lợi nhuận. Bên cạnh những thông tin
thật cũng có nhiều thông tin không thật. Sống trong một xã hội mà phải liên tục
đề phòng hàng giả, người giả, thông tin giả thật là bất an.
Chắc
chắc ai trong chúng ta cũng không muốn điều ấy xảy ra. Nhưng rồi chính cuộc
sống chúng ta cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Nhiều lần vì sợ, vì tham, vì bị mua
chuộc… ta lại chấp nhận im lặng hay từ chối làm chứng cho chân lý. Lắm khi vì
ham mê tiền bạc, chức quyền… ta cũng sẵn sàng chối bỏ niềm tin cách dễ dàng.
Chúa
Giêsu xác định: “Tôi sinh ra và đến trong thế
gian này là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về
phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37). Do đó để thuộc
về Chúa chúng ta cần phải sống và làm chứng cho sự thật, vì sự thật mới giải
phóng chúng ta khỏi những ràn buột của gian dối và bóng tối của sự dữ. "Sự
thật sẽ giải phóng các ông" (Ga 8, 32). Vì thế, "hể có
thì nói có, không thì phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ".
Xin
cho chúng ta biết vâng nghe lời Chúa, luôn can đảm nói và làm theo sự thật, để
chúng ta khỏi sa vào cạm bẫy của ma quỷ. Nhờ đó cuộc sống mới được an vui, hạnh
phúc.
Thứ
năm: Lc 11,14-23.
Trước
một sự việc, có những phản ứng khác nhau tuỳ theo cái nhìn của mỗi người. Đồng
thuận hay chống đối, tin nhận hay khước từ. Đó cũng là phản ứng lẫn lộn của đám
đông dân chúng khi chứng kiến phép lạ trừ quỷ câm của Chúa Giêsu trong bài Tin
mừng hôm nay.
Xin
cho chúng ta luôn có cái nhìn ngay thẳng và trong sáng để nhận ra giá trị đích
thực của mọi biến cố xảy đến trong đời sống.
Cùng
chứng kiến một phép lạ. Nhưng lại có những phản ứng trái chiều:
1.
Đám đông lấy làm ngạc nhiên.
2.
Một số người cho rằng: "Ông ấy dựa thế quỷ vương Beelzebul mà trừ
quỷ".
3.
Kẻ khác lại muốn thử Người, nên đã đòi Người một dấu lạ từ trời.
Trước
những phản ứng trái chiều, nhất là thái độ chống đối của nhóm Biệt Phái. Chúa
Giêsu lại kiên nhẫn lý giải cho họ hiểu rõ hai điều:
Thứ
nhất: “Đòan kết là sức mạnh và là điều kiện chính để sinh tồn”, nên Satan không
thể chống đối lẫn nhau. "Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nào
tự chia rẽ thì sẽ đổ xuống. Nếu Satan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì
nước nó tồn tại sao được?”. Bởi thế cho rằng Chúa Giêsu dựa thế Beelzebul
mà trừ quỷ câm là không đúng.
Thứ
hai: Để tạo nên sức mạnh chống lại Thiên Chúa và hãm hại con người, ma quỷ
không ngu dại gì mà làm hại thuộc hạ của nó. Bởi thế việc Chúa Giêsu trừ quỷ
không phải là dựa vào thế của quỷ vương. Nếu việc đó không do quỷ vương thì do
đâu? Thưa do một quyền lực mạnh hơn ma quỷ, tức là Thiên Chúa. Như thế phép lạ
này là dấu chỉ rằng Nước Thiên Chúa đã đến gần.
Sở
dĩ những người Biệt Phái không tin nhận phép lạ Chúa Giêsu thực hiện là do
quyền năng đến từ Thiên Chúa là vì họ ganh tị và ghen ghét Chúa Giêsu. Lòng
ganh tỵ, ghen gét làm cho con người trở nên mù quáng, không còn khả năng nhận
ra chân giá trị của sự việc và sự thật về con người. Khi nuôi dưỡng hận thù
trong lòng, người ta có thể tìm mọi cách để hạ bệ hãm hại người khác. Nhưng sự
thật vẫn là sự thật. Cố tình không đón nhận nó chỉ thiệt hại và làm đau khổ cho
chính bản thân mình mà thôi.
*
Câu chuyện:
Có
một con đại bàng ganh tị với một con đại bàng khác vì con này bay cao hơn nó.
Một hôm con đại bàng ganh tị gặp một xạ thủ. Nó xúi anh bắn hạ đối thủ của nó.
Chàng xạ thủ đáp: “Được. Nhưng tôi không có tên.” Con đại bàng nhổ một cọng
lông cánh đưa cho chàng xạ thủ làm tên. Nhưng chàng bắn hụt. Vì quyết tâm hại
đối thủ của mình, con đại bàng ganh tị lại nhổ thêm một cọng nữa, rồi một cọng
nữa... cho tới khi hai cánh nhỏ trụi nhẵn. Nó không bay được nữa. Chàng xạ thủ
không bắn được con kia nên bắt lấy con đại bàng trụi cánh về làm thịt. Nếu
bạn ganh tị muốn hại ai thì rốt cuộc bạn chỉ tổ hại chính bản thân mình.
Xin
Chúa cho chúng con tấm lòng đơn sơ trong trắng để có cái nhìn ngay chính và
trong sáng trước mọi biến cố xảy ra trong cuộc sống. Đừng để con vì ghen tỵ,
thù ghét mà có thái độ tiêu cực, chỉ biết “vạch lá tìm sâu” và luôn nghi ngờ
thiện chí của tha nhân. Xin cho chúng con luôn vững tin vào quyền năng Thiên
Chúa và can đảm loại trừ thái độ làm tôi hai chủ trong cuộc đời này.
Thứ
sáu: Mc 12, 28b-34.
Cốt
lõi của đạo Công giáo là Bác ái. Bác ái là đồng phục và là ngôn ngữ chung của
người kitô hữu. Bác ái là dấu chứng để nhận ra môn đệ của Chúa, là ngôn ngữ cao
trọng của loài người và các thiên thần, là ngôn ngữ độc nhất tồn tại trên thiên
đàng.
Xin
cho chúng ta biết giá trị cao quý của bác ái và nỗ lực thi hành đức ái trong
đời sống để xứng danh là môn đệ Chúa.
Sống
trong xã hội Do Thái thời bấy giờ, với ngổn ngang những luật lệ, làm cho con
người không còn phân biệt đâu là chính, đâu là phụ. Vì thế, một người trong
nhóm Kinh sư tới hỏi Chúa Giêsu xem điều răn nào là quan trọng nhất. Thời bấy
giờ trên đất nước Do Thái cũng có nhiều phe nhóm. Tùy theo quan điểm cá nhân
nên mỗi phe nhóm cũng đề cao một số luật lệ nào đó. Có lẽ vì thế mà nhân cơ hội
này, họ cũng muốn biết Chúa Giêsu đứng về phe nhóm nào? Và cũng qua cách thức
thăm dò đó, họ cũng muốn thử xem trình độ hiểu biết về Thánh kinh và luật lệ của
Chúa Giêsu tới mức độ nào?. Qủa là thâm ý!
Chúa
Giêsu thừa biết thâm ý của họ. Nhưng vì đây là vấn đề rất quan trọng trong đời
sống đức tin nên cần phải xác định cho rõ ràng. Vì thế Chúa Giêsu đã không ngần
ngại trả lời cho họ hiểu đâu là điều luật quan trọng nhất mà TC chỉ dạy. Bằng
cách trích dẫn lại hai câu Thánh kinh, một trong sách Đệ Nhị Luật và một trong
sách Lê-vi: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết
linh hồn và hết sức lực ngươi”. Đó là điều quan trọng thứ nhất. Điều luật thứ
hai cũng quan trọng không kém, đó là:“ Ngươi phải yêu thương người thân cận như
chính mình”, Chúa Giêsu đã tóm lược cho biết điều luật căn bản và quan trọng
nhất trong mọi điều luật đó là luật “tình yêu”. “Yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa
của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực ngươi” và “yêu thương người
thân cận như chính mình”.
-
Nhưng “yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực ngươi” thì phải
làm gì? Thưa, yêu mến Đức Chúa thì phải siêng năng đến với Chúa, sống thân tình
với Chúa, hân hoan vì được lắng nghe lời dạy của Chúa, nhất là vui thích làm
theo điều luật của Người hướng dẫn; còn mến Chúa “hết”…nghĩa là đặt Chúa làm ưu
tiên trong mọi giá trị mà ta chọn lựa và Chúa luôn là trung tâm của đời sống
của ta.
-
Còn việc “yêu người thân cận như chính mình” nghĩa là làm sao? Thưa đó là phải
yêu thương hết mọi người không phân biệt tôn giáo, màu da, chủng tộc, ngôn
ngữ.. bạn hay thù. “Yêu như chính mình” có nghĩa là phải đối xử với mọi người
cùng một “tình yêu” như ta đối xử với chính ta, theo như tinh thần của thánh
Phaolô dạy: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm.12,15). Hơn thế nữa,
Chúa Giêsu còn đòi buộc chúng ta phải “yêu như Chúa yêu”, một tình yêu trao
ban, cho đi nhưng không và sẵn sàng chết đi cho người mình yêu. "Không có
tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của
mình" (Ga 15,13).
Để
cụ thể hóa tình yêu đối với tha nhân, GH mời gọi chúng ta hãy tích cực thực
hiện 14 mối yêu người (thương xác 7 mối; thương linh hồn 7 mối).
Xin
Chúa cho chúng ta mùa chay này biết nỗ lực thực thi điều luật Giêsu Chúa chỉ
dạy là mến Chúa yêu người cách sâu xa hơn, theo tinh thần mà Chúa Giêsu mong
muốn.
Thứ
bảy: Lc 18,9-14.
Thái
độ kiêu căng, phách lối làm cho người đời khinh thường, ghét bỏ và xa lánh.
Khiêm nhường, nhận lỗi là hành động quân tử của bậc anh hùng, khiến mọi người
mến phục và TC yêu mến. Xin cho chúng ta có được lòng khiêm nhường như người
thu thuế trong bài tin mừng hôm nay, để xứng đáng được Chúa yêu thương ban ơn
công chính.
Bài
tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho ta biết thế nào là sức mạnh của lời cầu nguyện
khiêm nhường!
Trái
ngược với hình ảnh của người Pharisêu tự mãn là hình ảnh người thu thuế dễ
thương ở phía cuối đền thờ. Một hình ảnh tuyệt đẹp. Đẹp bởi dáng điệu rất
đổi khiêm nhường, đẹp bởi tính cách hết sức đơn sơ và đẹp bởi tâm tình rất chân
thành trước nhan thánh Chúa. Chính vì thế mà lời cầu nguyện của anh ta đã
vươn lên cao, vượt qua được mọi rào cản và đã chọc thủng các tầng mây, cuối
cùng đã chạm vào tận trái tim của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót. Nên
xứng đáng được Thiên Chúa nhận lời: “Ta bảo các ngươi: người này ra về
được khỏi tội, còn người kia thì không”.
Thứ
bảy cũng là ngày GH hướng lòng về Mẹ Maria để tỏ lòng kính mến Mẹ cách đặc
biệt. Hơn ai hết Đức Maria là mẫu gương về lòng khiêm nhường thẳm sâu cho chúng
ta noi theo. Bởi lúc nào Mẹ cũng ý thức mình chỉ là nữ tỳ của Thiên Chúa: “Phận
nữ tỳ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới…” (Lc 1, 48). Chính lòng
khiêm nhường ấy đã nâng Mẹ lên tận thiên đường với một hình ảnh tuyệt đẹp như
sách khải huyền mô tả: "Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt
trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao..." (Kh 11,9)
Ước mong mùa chay này, chúng ta can đảm loại trừ được thái độ kiêu căng tự mãn hay đề cao mình như người Biệt Phái để yêu thích mặc lấy chiếc áo khiêm nhường của người thu thuế và của Mẹ Maria. Được như thế lời cầu nguyện của chúng ta mới xứng đáng được Chúa nhận lời.
SUY
NIỆM LỜI CHÚA TUẦN III MÙA CHAY
Lm Minh Anh, Tgp Huế
CHÚA
NHẬT III MÙA CHAY NĂM B
Xh 20,1-17; 1 Cr 1,22-25; Ga
2,13-25
NƠI BUÔN BÁN
“Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi
thành nơi buôn bán!”.
Gặp gỡ các Giám mục Armeni
ngày 28/02/2024. Đức Phanxicô cảnh giác về điều mà ngài gọi là “ngoại tình mục
vụ” khi một Giám mục coi Giáo Phận của mình là bước đệm để đạt tới một vị trí
“uy tín” hơn, trong khi quên rằng mình ‘đã kết hôn’ với Giáo Phận. Ngài cũng cảnh
giác việc lãng phí thời gian để đàm phán ‘những điểm đến’ hoặc việc ‘thăng chức
mới’ bởi vì “người ta không mua các Giám mục ở chợ, nhưng chính Chúa Kitô đã chọn
họ làm người kế vị các tông đồ và mục tử cho đàn chiên Ngài!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Tôi e rằng, khi Đức Thánh
Cha nói những lời mạnh mẽ trên - “ngoại tình mục vụ”, “người ta không mua các
Giám mục ở chợ” - hẳn ngài đã liên tưởng đến những gì Chúa Giêsu nói trong Tin
Mừng Chúa Nhật hôm nay, “Đừng biến nhà Cha tôi thành ‘nơi buôn bán!”.
Mùa Chay, mùa xét xem những
không gian thánh của Chúa nơi chúng ta, liệu chúng có biến dạng vì đã trở thành
‘nơi buôn bán?’. Mùa Chay còn là thời gian để tái khám phá khuôn mặt của Thiên
Chúa trong mỗi người, vốn là đền thờ của Ngài, của Chúa Thánh Thần. Như vậy, những
gì ‘chúng ta có’, những gì ‘chúng ta là’ đâu còn thuộc về mình!
Bài đọc Xuất Hành nói đến mười
điều răn. Luật pháp Chúa luôn chuẩn mực, có giá trị cho mọi thế hệ và mọi thời
đại. Bỏ qua chúng, thế giới sẽ sụp đổ, tội lỗi sẽ xảy ra. Mọi hành động tội lỗi
đều bắt nguồn từ việc vi phạm nó. Chính tội lỗi và những gì ô uế đã tràn ngập,
làm nhuốc nhơ linh hồn, đền thờ Chúa Kitô; nhuốc nhơ Giáo Hội, Hiền Thê của
Ngài.
Tin Mừng nói đến việc Chúa
Giêsu trục xuất những kẻ mua bán ra khỏi đền thờ, hành động này nhắc chúng ta rằng,
có lẽ chúng ta đã làm ô uế ‘các đền thờ’ của Ngài. Không chỉ những gì chúng ta
được giao - Giáo Phận, Giáo Xứ, cộng đoàn, gia đình… nhưng có thể là chính thân
xác chúng ta. ‘Đền thờ’ trở thành ‘nơi buôn bán’ là điều bất thường. Việc sử dụng
những ân tứ, địa vị và thân thể Chúa ban vào mục đích thương mại là một tội lỗi.
Hãy bắt đầu cuộc chiến bằng
cách vạch tên chúng tại toà giải tội. Xác định được một vấn đề đã là một thành
công trong việc giải quyết nó. Hãy cầu xin lòng thương xót Chúa và Ngài sẽ thứ
tha. Khi đi xưng tội, chúng ta không chỉ nhận được ơn tha thứ mà còn nhận được
ân sủng để vượt qua những cám dỗ trong tương lai. Nếu muốn giành chiến thắng
trong cuộc chiến, bạn và tôi hãy trang bị vũ khí cho mình tại toà giải tội.
Anh Chị em,
“Đừng biến nhà Cha tôi thành
nơi buôn bán!”. Có lẽ chúng ta đã biến nhiều không gian thánh thành ‘nơi buôn
bán’ khi tích lũy rất nhiều thứ vốn đang đè nặng về mặt tinh thần. Cuộc sống
chúng ta chứa đầy những điều phù phiếm vốn đã chiếm giữ không gian của Chúa. Để
mang vào cái mới, cái cũ phải nhường chỗ! Vì vậy, phải loại bỏ những thói quen,
khuynh hướng và đường lối tội lỗi vốn đã làm tê liệt ân sủng thiêng liêng trong
cuộc sống, khiến chúng ta phá sản về mặt thiêng liêng và chậm lớn trong việc
phát triển tinh thần. Đó có thể là hám danh, tham lam, ngoại tình, thờ ngẫu tượng…
khiến bạn và tôi suy sụp suốt những năm qua và khiến cuộc sống của chúng ta
tràn ngập nhiều điều ô uế. Mùa Chay, mùa tuyên chiến và bày tỏ sự tức giận đối
với những ‘nơi buôn bán’ không đáng có!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, con không là
thiên thần, đừng để con thách thức bản thân! Dọn sạch lòng con, đừng để nó
thành ‘nơi buôn bán’ hay ‘hang trộm cướp’ không hơn không kém!”, Amen.
Thứ hai: BIẾT CÚI MÌNH
“Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ!”.
“Cánh cửa cuộc đời thật mầu
nhiệm; nó trở nên thấp hơn một chút so với người muốn đi qua. Chỉ ai biết cúi
mình, người ấy mới có thể bước qua ngưỡng của nó!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay minh hoạ ý
tưởng của nhà tu đức trên, “Chỉ ai biết cúi mình, người ấy mới có thể bước qua
ngưỡng cửa cuộc đời!”. Thái độ ‘biết cúi mình’ của tướng quân Naaman khác hẳn
thái độ “đầy phẫn nộ” của người Do Thái cùng thời với Chúa Giêsu.
Naaman, một dũng tướng của
vua Aram; tuy nhiên, cùng với danh vọng và quyền lực, ông phải vật lộn với bệnh
phong cùi! Bộ giáp của ông, trên thực tế, chỉ để che đậy một con người yếu ớt,
tổn thương và tật nguyền! Đôi khi, những quà tặng bên ngoài chỉ là những ‘áo
mã’ che chắn bao yếu đuối bên trong. Naaman phải làm theo một đứa trẻ, tìm gặp
người của Chúa; và ông phải khiêm tốn đến hai lần. Nghĩa là ông phải gặp một sứ
giả ‘tầm thường’, làm theo một cách thức ‘lạ thường’, bởi một bé gái ‘khác thường’.
Thế nhưng, nhờ khiêm tốn, ông được một phép lạ ‘phi thường’. Và ông đã bật lên
lời tuyên xưng, “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa,
ngoại trừ ở Israel!”. Rõ ràng, ‘biết cúi mình’, một điều kiện để hứng nhận ân
huệ của Chúa!
Ngược lại, trong bài Tin Mừng,
dân thành Nazareth không thể tin vị Thiên Sai là một thợ mộc nghèo hèn. Họ cay
cú với Chúa Giêsu, nhất là khi Ngài cho biết, trong lịch sử, Thiên Chúa từng tỏ
ra ưu ái người ngoài chứ không chỉ với người Do Thái. Họ bất bình vì đặt sự bảo
đảm của mình vào di sản và lời hứa của Thiên Chúa qua các tổ phụ; họ nghĩ rằng,
vì là Do Thái, nên cách nào đó, Thiên Chúa phải chiếu cố họ hơn những người
khác. Thiếu khiêm tốn, họ đánh mất ân huệ của Ngài; tệ hơn, đầy phẫn nộ, họ những
muốn xô Chúa Giêsu xuống vực thẳm!
Cả chúng ta, chúng ta cũng
có thể mắc sai lầm này khi quên rằng, ‘biết cúi mình’ là điều kiện tiên quyết
trước ơn lành của Chúa! Chúng ta nghĩ, tôi đạo dòng; tôi có chức vụ này, chức vụ
kia… nên cách nào đó, Chúa phải quan tâm đến tôi nhiều hơn, phải ban cho tôi
nhiều đặc ân hơn! Đây chẳng phải là nguyên nhân gây ra sự phẫn nộ trong cuộc sống
tôi sao? Vì thế, tôi cay đắng khi không được ưu đãi; bởi lẽ, tôi nghĩ, tôi xứng
đáng để nhận nhiều hơn thế!
Anh Chị em,
“Mọi người trong hội đường đầy
phẫn nộ!”. Thật trái khoáy, chính qua con đường nghèo hèn, Thiên Chúa cứu độ con
người! Sẽ là một chướng ngại lớn cho những ai “không biết cúi đầu!”. Chúa yêu
thương và cứu độ chúng ta theo cách của Ngài. Vì thế, cần thiết biết bao, để bạn
và tôi nhận thức rằng, khiêm tốn, một điều kiện để múc lấy ơn Chúa! Mùa Chay,
mùa lắng đọng lòng mình để nghe Lời Chúa, ngắm nhìn cách thức hành động của
Ngài nơi Giêsu, Đấng huỷ mình ra không để cứu chúng ta. Mùa Chay, còn là mùa
khát khao Giêsu. Thật ý nghĩa với Thánh Vịnh đáp ca, “Linh hồn con khao khát
Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống!”. Giêsu Hằng Sống đang ước mong chúng ta ‘biết
cúi mình’ như Ngài; qua đó, bạn và tôi cũng trở nên những Giêsu luôn biết cúi
xuống phục vụ tha nhân!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con coi
thường một ai! Cho con ‘biết cúi mình’ trước Chúa và hoạt động của Chúa trong mỗi
anh chị em con!”, Amen.
Thứ ba: KHÔNG BAO GIỜ TRẢ NỔI
“Ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương
xót ngươi sao?”.
Mark Twain mỉa mai, “Chúng
ta mang một món nợ ân tình đối với Ađam, vị đại ân nhân đầu tiên ‘mang cái chết’
xuống trần gian!”. Một nhà tu đức lại an ủi, “Chúng ta mang một món nợ ân tình
khác đối với Giêsu, vị đại ân nhân đầu tiên ‘mang sự sống đời đời’ cho nhân trần.
Ngài đã thế chỗ nhân loại thương tích đó, trả cho Thiên Chúa món nợ không bao
giờ trả nổi!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay đưa chúng
ta về một Đại Thực Thể toàn thánh, toàn tha và toàn thiện; Ngài là Thiên Chúa
toàn trí, toàn trị và toàn tri! Nhân loại nợ Ngài, không ai và không thọ tạo
nào không nợ Ngài, một món nợ ‘không bao giờ trả nổi’. Tuy nhiên, dẫu giàu có
vô song; Ngài vẫn là Thiên Chúa rất mực nhân từ, hằng xót thương và luôn tha thứ!
Bài đọc Đaniel tường thuật
câu chuyện ba người bạn của ông - bị đày từ Giêrusalem về Babylon - những người
bất tuân lệnh bái lạy thần của vua, khiến họ bị ném vào lửa. Giữa hoả hào, họ
kêu cầu Chúa, không chỉ cho mình nhưng cho cả dân tộc, “Xin Ngài đừng rút lại
lòng thương xót đã dành cho chúng con”. Chúa đã cứu họ! Đó là “Nghĩa nặng với
ân sâu của Ngài” mà các bạn của Đaniel và Israel, dân tộc của ông ‘không bao giờ
trả nổi’ - Thánh Vịnh đáp ca.
Với bài Tin Mừng, Phêrô hỏi
Chúa Giêsu, “Nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần?”.
Ngài dứt khoát, “Bảy mươi lần bảy!”. Nghĩa là phải tha theo ‘cấp số nhân, luôn
luôn tha và tha mãi mãi’. Lời dạy này không có nghĩa là làm ngơ trước một người
không ngừng làm tổn thương mình nhưng có ý nói rằng, tôi dám yêu thương người
anh em mãi mãi như Thiên Chúa yêu thương, dẫu họ thế nào! Tha thứ không đơn thuần
là nói ra lời; nó liên quan đến việc khôi phục mối quan hệ đã tan vỡ, liên quan
đến sự hàn gắn cả hai bên. Mối quan tâm chính của chúng ta không phải là bản
thân, nhưng là hạnh phúc của người anh em mà hành động của họ đang thực sự ‘làm
cho chính họ’ tổn thương! Đó là “cách tha thứ” mà Mẹ Têrêxa nói chúng ta phải học.
Từ đó, chúng ta hiểu ý nghĩa
của câu “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Những
lời này chứa đựng một sự thật quyết định: không ai có thể đòi hỏi Thiên Chúa
tha nếu người ấy không tha cho người khác. Đó là một điều kiện! Phaolô nói,
“Lương bổng tội lỗi trả cho người ta là cái chết; còn ân huệ Thiên Chúa ban
không, là sự sống đời đời trong Đức Giêsu Kitô”. Chỉ lòng thương xót và sự tha
thứ của Ngài trong Đức Giêsu mới có thể giải thoát chúng ta khỏi món nợ ‘không
bao giờ trả nổi’ đó.
Anh Chị em,
“Ngươi không phải thương xót
đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?”. Thiên Chúa thương chúng ta vô
ngần, Ngài sai Con Một đến thế gian để trả món nợ khổng lồ thay chúng ta; nhờ
đó, chúng ta được lại sự sống đời đời. Vậy khi yêu thương và tha thứ cho người
khác, bạn và tôi đang nên giống Thiên Chúa. Những ngày Mùa Chay, Giáo Hội muốn
con cái hướng lên Giêsu toàn thánh, toàn tha và toàn thiện; kết hiệp mật thiết
với Ngài, chiêm ngắm Ngài và ra sức bắt chước Ngài. Nhờ tương quan thân tình
đó, chúng ta sống cho Ngài, như Ngài và vì Ngài… bằng cách xót thương anh chị
em mình!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con nợ ai
một điều gì ngoài món nợ yêu thương; cho con biết trả dần ‘từng đồng xu’ mỗi
ngày!”, Amen.
Thứ tư: ĐỈNH CAO TOÀN THIỆN
“Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn!”.
“Khi ngu khờ, bạn muốn chinh
phục thế giới; khi khôn ngoan, bạn muốn chinh phục cái tôi! Cuộc sống không được
đo bằng những gì giành được, nhưng bằng nỗ lực của toàn bộ xác hồn khi bạn biết
yêu như Chúa yêu. Đó là đỉnh cao toàn thiện!” - Anon.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay nói đến lề
luật, khuôn vàng thước ngọc, Thiên Chúa ban cho dân qua Môsê. Với Chúa Giêsu,
‘Môsê mới’, lề luật được kiện toàn nơi chính con người Ngài. Từ đó, Ngài trở
nên mẫu mực cho tất cả những ai muốn mặc lấy ‘linh hồn mới’ của lề luật. Nói
cách khác, ai nên giống Ngài, sẽ đạt đến ‘đỉnh cao toàn thiện!’.
Thừa lệnh Thiên Chúa, Môsê
truyền cho dân các thánh chỉ của Ngài, ai tuân giữ thì “Được sống và được vào
chiếm hữu phần đất Chúa hứa” - bài đọc một. Chúa Giêsu đến, “Không để bãi bỏ
nhưng để kiện toàn”. Với Ngài, lề luật nay không chỉ được khắc trên bia đá hay
da thuộc, nhưng được viết trong tim, chạm trong hồn; được nâng lên một tầm cao
mới từ luân lý cho đến những định hướng phượng thờ. Bấy giờ, còn hơn cả việc
chiếm hữu Đất Hứa, nó trở nên hồng ân giải thoát con người; từ đó, hướng tới một
tầm cao mới. Nói cách khác, ai giữ luật theo tinh thần của Chúa Giêsu, sẽ nên giống
Ngài, nghĩa là nên thánh; và như thế, đạt đến ‘đỉnh cao toàn thiện’.
Với Môsê, luật phát xuất từ
những lý do nhân loại như “Ngươi không được giết người, trộm cắp, tà dâm, nói dối…”.
Với Chúa Giêsu, Ngài đưa nó đi xa hơn, cao hơn; xa tận cõi lòng Thiên Chúa, tận
tầm mức ân sủng. Không chỉ kêu gọi chúng ta tiến sâu hơn trong việc giữ luật,
Ngài ban ân sủng để chúng ta hoàn thành chúng. Từ đó, “Ngươi không được giết
người” chìm sâu vào mệnh lệnh tha thứ triệt để và tiến tới mức “Hãy yêu kẻ thù
và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ mình”. Để đạt được tầm cao đó, tiến trình này phải
là một tiến trình ‘được ân sủng nâng đỡ’. Có lý trí, có ước muốn mà không có ân
sủng, không ai đạt đến tầm cao đó.
Anh Chị em,
“Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn!”. Đức Phanxicô nói, “Chúa
Giêsu kiện toàn lề luật bằng cách yêu thương chúng ta như một người say mê.
Không phải ở mức tối thiểu mà ở mức tối đa! Ngài không nói: “Ta yêu con đến một
mức độ nào đó”. Không, tình yêu đích thực không bao giờ đạt đến một mức độ nhất
định và không bao giờ thoả mãn; nó luôn vượt ra ngoài và không thể làm khác được.
Chúa Giêsu cho chúng ta thấy điều này bằng cách hiến mạng sống trên thập giá và
tha thứ cho những kẻ sát hại mình. Và Ngài đã giao phó cho chúng ta điều răn
quý giá nhất, là chúng ta hãy yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta.
Đây là tình yêu kiện toàn lề luật, mang lại sự viên mãn cho lề luật, cho đức
tin, cho sự sống đích thực bằng việc kiện toàn lề luật, chịu lề luật bức hại đến
nỗi bằng lòng chết trên thập giá!”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con hài
lòng với những gì đạt được ở tầm thấp khi tuân giữ luật Chúa. Cho con biết vươn
tới những ‘đỉnh cao toàn thiện’, đỉnh cao Giêsu!”, Amen.
Thứ năm: LỢI KHÍ CỦA LỜI
“Khi quỷ xuất rồi, thì người câm nói được!”.
McCheyne viết cho Edwards, một
tân linh mục, “Xét về độ tinh khiết và sự hoàn hảo của một dụng cụ, bạn sẽ
thành công! Tuy nhiên, điều đó không đến từ những tài năng Chúa ban cho bằng việc
bạn nên giống Chúa Giêsu mỗi ngày! Giống Ngài, bạn trở thành một vũ khí khủng
khiếp trong tay Thiên Chúa. Bởi lẽ, bạn sẽ là một ‘lợi khí của Lời!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay tiết lộ,
“Việc trở nên một vũ khí khủng khiếp trong tay Thiên Chúa” là điều mà người môn
đệ phải ao ước ở mọi thời! Giêrêmia, thời Cựu Ước; bạn và tôi, thời Tân Ước,
chúng ta cần ‘mở miệng’, trở nên một ‘lợi khí của Lời’, nói cho mọi người thông
điệp của trời, “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa!” - Thánh Vịnh đáp
ca.
Giêrêmia tường thuật những
gì Chúa nói với ông, “Ngươi sẽ nói với chúng tất cả những điều ấy!”; “Hãy bước
theo mọi đường lối Ta truyền dạy!” - bài đọc một. Tin Mừng tường thuật việc
Chúa Giêsu trừ một quỷ câm, khi quỷ ra khỏi, người câm nói được. Với sự kiện
này, chúng ta tự hỏi: Rất nhiều người cần nghe Tin Mừng! Vậy điều gì cản trở
tôi nói Lời của Chúa cách cởi mở, trung thực và rõ ràng? Nhiều người đang rối bời
trong cuộc sống; đang thấy mình đi trên một con đường không lối ra, dẫn đến lầm
lạc và huỷ hoại. Bạn và tôi vẫn thản nhiên nhìn họ đi trên những con đường này
sao?
Trước khi được chữa, người
câm dường như bị chiếm hữu hoàn toàn bởi quỷ, đến nỗi anh mất khả năng nói;
nhưng sau khi được lành, anh nói rành rọt! Phần chúng ta, dẫu không chịu tác động
của quỷ ở mức tương tự, cũng thường bị cản trở bởi những “Quỷ Câm!”. Nó thường
tìm cách tác động theo hướng khiến chúng ta sợ hãi loan báo Lời cách tự do,
chân thành và tức thời; nó luôn áp lực, khiến chúng ta bối rối, do dự, mỗi khi
có cơ hội. Và dù hiếm khi rơi vào quyền lực của nó hoàn toàn, chúng ta vẫn thường
bị nó tác động đến nỗi mất khả năng nói. Đang khi lẽ ra, chúng ta phải có khả
năng nói Lời bất cứ khi nào, với bất cứ ai và bất cứ nơi đâu, thời thuận tiện
cũng như không thuận tiện! Đấng Phục Sinh đã nói về Saolô, “Người này là lợi
khí Ta chọn!”.
Anh Chị em,
“Ngày hôm nay, ước gì anh em
nghe tiếng Chúa!”, đó là sứ điệp chúng ta kêu mời; nhưng trước hết, cũng là sứ
điệp gửi cho chính bạn và tôi! Mỗi ngày Chúa Giêsu ban Lời, Ngài mong chúng ta
trở thành những môn đệ tín trung biết lắng nghe, được Lời biến đổi, hầu trở nên
một ‘Lời Giêsu’ khác; nói đúng hơn, nên ‘lợi khí của Lời’. Bấy giờ, trong tay
Thiên Chúa, bạn và tôi cũng là một vũ khí khủng khiếp, không phải để gieo tai rắc
hoạ nhưng đem lại bình an và yêu thương cho thế giới! Điều này tuỳ thuộc hoàn
toàn vào việc chúng ta có nên giống Chúa Giêsu không! Bị quỷ ám, chúng ta không
có khả năng nói, không muốn nói; thậm chí, không dám nói… vì lẽ, chưa nên giống
Chúa Giêsu. Hãy để Ngài chữa lành, sử dụng bạn như một lợi khí thánh, lợi khí của
sự thật và tình yêu!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa Giêsu, đừng để con
nên giống một cán bộ hay bất cứ ai trừ một mình Chúa. Và như thế con sẽ là một
vũ khí khủng khiếp trong tay Ngài!”, Amen.
Thứ sáu: ĐẾN
MỨC TRÀN ĐẦY
“Chính nhờ Ta mà ngươi
trổ sinh hoa trái”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Sống là sống với, sống cùng, sống các mối tương
quan!”. Thế mà, tương quan giữa người với Chúa, giữa người với người xem ra
luôn nửa vời, đứt đoạn và thiếu cam kết. Vấn đề nằm ở phía con người! Lời Chúa
hôm nay chỉ cho chúng ta con đường tình yêu, con đường Giêsu, con đường ngắn nhất
để có thể hoàn thiện các mối tương quan ‘đến mức tràn đầy!’.
Bài đọc một nói đến một dân nửa vời, thiếu cam kết, đứt
đoạn, nên đã gục ngã trong tội ác. Qua Hôsê, Thiên Chúa mời gọi Israel, “Hãy trở
về với Chúa là Thiên Chúa ngươi!”; “Nhờ Ta mà ngươi trổ sinh hoa trái”, nghĩa
là “Nhờ Ta, ngươi sẽ sống ‘đến mức tràn đầy!”.
Với bài Tin Mừng, nhân một kinh sư hỏi đâu là giới răn
trọng nhất, Chúa Giêsu chỉ ra con đường ngắn nhất, “Hãy yêu mến Chúa hết lòng,
hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực!”. Tại sao phải yêu mến Chúa? Sự thật
là, cách duy nhất để yêu người khác và ngay cả yêu chính mình, là chọn yêu mến
Chúa với tất cả những gì chúng ta ‘có’, chúng ta ‘là!’. Ngài là nguồn cội và là
cùng đích của mọi tình yêu. Ngài phải được yêu trên hết và trước hết vì Ngài là
trọng tâm duy nhất của mọi tình yêu. Điều đáng kinh ngạc là khi càng chọn yêu
Thiên Chúa, chúng ta càng nhận ra rằng, mọi tình yêu trong cuộc đời mình - nếu
có - là tình yêu do chính Ngài tuôn đổ ‘đến mức tràn đầy’.
Trái lại, nếu tìm cách chia cắt tình yêu, yêu nửa vời,
đứt đoạn và thiếu cam kết để chỉ dâng cho Chúa một phần trái tim, một phần linh
hồn, một phần trí khôn, một phần sức lực, thì tình yêu của chúng ta không thể lớn
lên ‘đến mức tràn đầy’. Hạn chế khả năng yêu mến Chúa, con người rơi vào ích kỷ!
Đây là lý do tại sao Chúa Giêsu gọi đây là giới răn trọng nhất; bởi lẽ, tất cả
các giới răn khác bao hàm trong giới răn này. Giới răn trọng nhất định hướng và
mời gọi các giới răn khác. Thiên Chúa là suối nguồn tình yêu, chân trời tình
yêu! Đóng cửa và lấy đi chìa khoá của tình yêu, con người không bao giờ đạt đến
sự cứu rỗi; và như thế, tình yêu của chúng ta đối với Chúa, với nhau, sẽ luôn
nông cạn, hời hợt.
A.W. Tozer viết, “Kitô hữu xét cho cùng, là một con người
kỳ cục nhưng không kém độc đáo! Họ cảm nhận một tình yêu ‘đến mức tràn đầy’
dành cho một Đấng mình chưa từng gặp; trò chuyện hằng ngày với Đấng mình chưa từng
thấy. Họ bỏ mình để có một cuộc sống sung mãn; mạnh mẽ khi nhận mình hèn yếu;
giàu có khi biết mình nghèo; hạnh phúc khi biết mình tồi tệ; và chết đi để sống
một cuộc sống tràn đầy hôm nay và mai ngày!”.
Anh Chị em,
“Nhờ Ta mà ngươi trổ sinh hoa trái”. Thập giá Chúa Kitô
cũng là một cái gì “kỳ cục nhưng không kém độc đáo!”. Thập giá là biểu tượng của
tình yêu, hoa trái của tình yêu, yêu đến cùng. Chúa Giêsu đã yêu Chúa Cha đến nỗi
Ngài chỉ có một giấc mơ duy nhất, làm tất cả để vui lòng Cha; Ngài yêu con người
đến nỗi chấp nhận hiến dâng mạng sống để cứu nó. Chính nhờ tình yêu ‘đến mức
tràn đầy’ Ngài dành cho Cha; từ đó, cho con người, mà “chúng ta nhận được hết
ơn này đến ơn khác”. Đúng, chỉ trong Chúa Kitô, bạn và tôi mới trổ sinh hoa
trái trong các mối tương quan - với Chúa với người - ‘đến mức tràn đầy!’.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con yêu Chúa nửa vời, đứt đoạn và
thiếu cam kết! Dạy con yêu như Chúa yêu; từ đó, con lớn lên trong tình yêu
Chúa, yêu người, đến mức sung mãn!”, Amen.
Thứ bảy: CHÌM VÀO VỰC
BẤT XỨNG
“Ta muốn tình yêu chứ
không cần hy lễ!”.
A. Simpson viết, “Cầu nguyện là sợi dây liên kết con
người với Chúa, là chiếc cầu bắc qua mọi vùng vịnh, đưa bạn vượt mọi thung lũng
hiểm nguy! Chúa không cần những con người vĩ đại, Chúa cần những con người dám
chứng tỏ sự vĩ đại của Ngài. Vì thế, lời cầu mạnh mẽ nhất là lời cầu khởi đi từ
một linh hồn đã ‘chìm vào vực bất xứng’ của nó!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Cao trào của Lời Chúa hôm nay là tính cách trần trụi của
‘một vai phụ’ trong dụ ngôn Tin Mừng, một người thu thuế! Anh đã dâng một “lời
cầu khởi đi từ một linh hồn đã ‘chìm vào vực bất xứng’ của mình. Với những gì
anh bộc lộ, Chúa Giêsu mách cho chúng ta điều Thiên Chúa yêu thích nơi con người
là “tình yêu”, mà không cần bất cứ điều gì khác!
Hôsê cho biết, Thiên Chúa thấu suốt lòng dạ con người,
“Tình yêu của các ngươi khác nào mây buổi sáng, mau tan tựa sương mai”; Ngài chỉ
muốn tình yêu, “Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ” - bài đọc một. Thánh Vịnh
đáp ca cũng lặp lại chỉ ngần ấy!
Trái với điều Thiên Chúa chờ đợi, người biệt phái trong
Tin Mừng dâng Thiên Chúa một điều gì đó hoàn toàn khác! Lời cầu nguyện của ông
bị bóp méo khi ông coi Thiên Chúa như ‘Con Nợ’ và tệ hơn, lấy những ‘kỳ tích’ của
mình để so sánh và khinh dể người khác. Thực ra, đó không phải là cầu nguyện mà
là ‘diễn văn’. Tuy không phải là người xấu, nhưng lòng kiêu hãnh của ông đã khiến
ông mù loà đến độ xúc phạm tình yêu khi ông sống tôn giáo của mình một cách tối
thiểu để không phạm tội; nhưng ông không biết rằng, Thiên Chúa không bao giờ
thoả mãn với một ‘mức tối thiểu trần!’. Lời cầu ông là ‘vô trùng’ khi ông quên
rằng, Thiên Chúa chỉ “muốn tình yêu, chứ không cần hy lễ!”.
Nhân vật thứ hai của dụ ngôn cũng lên đền thờ cầu nguyện!
‘Vai phụ’ này “khi ra về thì được khỏi tội”. Người này “khỏi tội” không phải vì
đã làm những điều đúng đắn, nhưng vì đã khiêm nhường nhận ra tội của mình. Lời
cầu của ông xuất phát từ một tấm lòng tan nát; ông ý thức sự bất xứng của mình
trước một Đấng Toàn Thánh. Và có lẽ, đã nghe thấy những gì người Pharisêu nói
và điều đó càng khiến ông càng đau đớn hơn để ‘chìm vào vực bất xứng’ của mình,
và ông chỉ đủ sức đấm ngực nài van, “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội
lỗi!”. Lạ thay, điều này rất đẹp lòng Chúa và Ngài thích thú!
Đức Phanxicô nói, “Nơi nào có quá nhiều cái “tôi”, nơi
đó rất ít Chúa. Ở nước tôi, chúng tôi gọi những người này là “Tôi, chính tôi và
tôi”, tên của những người đó. Người ta từng nói về một linh mục tự cho mình là
trung tâm và thường bông đùa rằng: “Mỗi khi xông hương, thì ngài xông ngược;
ngài xông chính mình!”; và điều đó khiến bạn buồn cười!”.
Anh Chị em,
“Ta muốn tình yêu, chứ không cần hy lễ!”. Mọi sự trên
trần gian đều thuộc về Chúa, Ngài cần gì hy lễ của ai! Ngài cần tình yêu từ tận
trái tim mỗi người. Đừng quên, “Lời cầu mạnh mẽ nhất là lời cầu khởi đi từ một
linh hồn đã ‘chìm vào vực bất xứng’ của nó!”. Đây là điều làm cho kinh nguyện của
chúng ta có kết quả! Chỉ những ai tự nhận mình ‘không có gì’ mới có thể nhận được
tất cả; những ai biết mình trống rỗng mới có thể được lấp đầy. Mùa Chay, mùa
‘chìm vào vực bất xứng’ để chỉ biết cầu xin lòng Chúa xót thương!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con ‘xông hương ngược!’. Chúa không
cần sự vĩ đại của con, Chúa cần con biết ‘con đáng thương’ ngần nào và dám chứng
tỏ sự vĩ đại của Ngài!”, Amen.